Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống


(LTS. Bài này viết trong năm 2006, “về trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa, một thành viên của Mặt trận Giải phóng Miền Nam… để chúng ta cùng suy nghiệm, đặc biệt cho một số trí thức hải ngoại và quốc nội.” Bài này đăng lại nơi đây để cảnh báo về chiến dịch mới thực hiện nghị quyết 36 cuủ CSVN.)

Thân tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương.

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau:”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàn..g không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ:”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố :” Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội :” Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong t ương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

– Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;

– Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;

– GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;

– Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

– Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;

– Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;

– Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);

– Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và

– Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Uùc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng:” Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

@ To Quoc

Nạn mại dâm

Các cô gái tham gia buổi chọn vợ của người nước ngoài tại Q.Tân Phú, TP.HCM – Ảnh: G.Minh

Theo bà Lê Thị Hà – phó cục trưởng Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, năm 2009 tình hình mại dâm, buôn bán người trên cả nước vẫn diễn biến phức tạp.

Ước tính có khoảng 29.300 người bán dâm trên cả nước (TP.HCM chiếm 17%, các tỉnh ĐBSCL gần 17%), theo chiều hướng gia tăng dịch vụ mại dâm trá hình với nhiều phương thức, thủ đoạn mới. Bà Hà cũng thông tin năm 2009 cả nước tiếp nhận 465 nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài trở về. Những nạn nhân này bị dụ dỗ, lừa gạt ra nước ngoài để bán vào các ổ mại dâm.

Ông Nguyễn Ngọc Thạch, chi cục trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội TP.HCM, nói tại TP.HCM nhiều khách sạn hạng sao (4-5 sao) tổ chức các dịch vụ vui chơi, giải trí khép kín đang là nơi tập kết “gái mại dâm cao cấp” phục vụ nhu cầu của người nước ngoài và người VN giàu có.

Trong đó một số gái mại dâm là ca sĩ, người mẫu bán dâm với giá hàng trăm đến nghìn USD

@Tuoi tre

Ngôi nhà của một ông tỉnh ủy…


Toàn cảnh

Sân sau


Cây lộc vừng

Dạo chơi xung quanh nhà


Vào trong nhà, ngường mộ nhất là hầm rượu với 1 vò rượu hơn 1,5m3. Chưa mở cửa hầm mùi rượu thơm lừng làm cho những người không biết uống rượu cũng phải nuốt nước bọt

Cầu thang dẫn lên tầng 2

và căn phòng độc nhất vô nhị, mặc dù ở tầng 2, mọi cửa sổ đều có thể đặt chân xuống đất vườn xung quanh

Việc 10 tỉnh tự ý cho Trung Quốc thuê đất: Vì sao các tỉnh dám làm liều đến như vậy?

Mạc Văn Trang -Warszawa

“…hệ thống tổ chức chính trị và cơ chế hoạt động của nó tạo cho lãnh đạo ở tỉnh không chỉ có những chiếc phao an toàn mà còn có những vũ khí nguy hiểm để trừng trị đối thủ, bảo vệ cá nhân, duy trì quyền lực của họ. Vì thế họ rất lộng quyền, hống hách, phớt lờ cấp trên, coi thường pháp luật, khinh dân, coi thường công luận…”

Đọc thông tin do hai vị tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh nêu việc 10 tỉnh cho người Trung Quốc thuê đất ở đầu nguồn trong 50 năm… (Bauxite Việt Nam), tôi thực sự bị sốc. Vì sao các tỉnh dám tự ý làm liều đến như vậy? Tôi nghĩ đây là một chủ đề lớn, mong các cơ quan hữu trách và những người hiểu sâu, biết rộng phân tích cho rõ, nhằm cải cách việc quản lý đất nước cho có kỷ cương, không thì thậm nguy!
Trong khi chờ đợi, tôi xin thử lý giải việc này.

1. Lãnh đạo các tỉnh đó có biết việc này là sai trái và ẩn chứa nhiều hậu họa khôn lường không? Họ có biết người TQ nhiều mưu sâu, kế hiểm, không từ một thủ đoạn xảo trá và trắng trợn nào để lấn chiếm biên giới, biển đảo của VN không? Tôi tin là họ không thể ngu muội đến mức không biết tâm địa của người TQ và những hậu họa sẽ xảy ra cho dân, cho nước từ việc cho thuê đất 50 năm ở những nơi phên dậu, hiểm yếu của quốc gia. Chắc chắn các cán bộ tỉnh, nhất là các Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh, đủ trình độ, đủ thông tin để biết rõ điều này.

2. Họ biết rõ việc làm đó sai, hậu quả khôn lường, sao họ vẫn dám làm? Theo tôi có ba lý do:

2.1. Họ tin rằng có làm sai cũng không sợ bị trừng phạt. Hoặc có bị trừng phạt cũng chỉ qua loa, không sao hết. Khi tâm lý này được lặp đi lặp lại, và thành bản tính thì người ta càng hành động tùy tiện, trắng trợn.

2.2. Món lợi từ việc làm liều quá lớn, át cả nỗi sợ hãi, giống như những kẻ trong đường dây buôn ma túy.

2.3. Cả hai lý do trên cộng lại. Trường hợp 10 tỉnh này chắc là vậy. Khi không sợ bị trừng phạt mà lại có lợi lớn thì không việc gì họ không dám làm.

3. Nhưng tại sao Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh lại không sợ bị trừng phạt? Đây là câu hỏi chính cần lý giải rõ hơn.

Nhớ lại, nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải có câu nói: “Trên bảo dưới không nghe” , khi ông than phiền về việc các chủ trương, mệnh lệnh của Chính phủ không được các bộ, các ngành và các địa phương thực hiện nghiêm túc. Hệ lụy của tình trạng ”trên bảo dưới không nghe”, trên đe, dưới không hãi đó ngày càng trầm trọng dẫn đến: dưới làm loạn, trên chẳng dám cản!

“Dưới” trực tiếp của Thủ tướng gồm các Bộ trưởng và các Chủ tịch UBND tỉnh (bao gồm cả các thành phố trực thuộc Trung ương).

Các Bộ trưởng dù sao cũng còn thường xuyên họp Chính phủ, còn phải điều trần trước Quốc hội nên có lẽ mức độ “không nghe” có đỡ hơn. Tuy vậy cũng vẫn có hiện tượng các Bộ cấp phép “loạn các dự án sân golf”, “loạn các dự án treo”, “loạn các trường đại học”, rồi “loạn giá đất, giá sữa, giá vàng”, “loạn các cuộc thi hoa hậu”, “loạn các lễ hội, festival”… mà báo chí đã nói nhiều.

Nhưng cái “loạn” ở các tỉnh mới âm thầm và đáng sợ. Khi phát hiện ra “loạn” thì cả một cánh rừng đã bị triệt phá, cả một khu mỏ đã bị khai thác tan hoang, cả một vùng ruộng đất nông nghiệp màu mỡ biến thành các dự án treo, thành sân golf, cả hàng triệu người nông dân mất đất, thất nghiệp và bao nhiêu dòng sông, hồ nước đã bị giết chết! Rồi 10 tỉnh (có thể còn hơn) cho TQ thuê đất như chuyện đã rồi…

Mỗi tỉnh có địa giới, có lãnh thổ như là một “quốc gia riêng”. Nhà nước trung ương có cái gì thì bộ máy tỉnh cũng có cái đó. Cũng có nghị quyết đại hội tỉnh đảng bộ, có hội đồng nhân dân, quân đội, công an, tòa án, đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí… Tóm lại, tỉnh có hệ thống chính trị quyền lực, có công cụ chuyên chính để thực thi quyền lực trong phạm vi lãnh thổ của tỉnh để “giữ vững ổn định chính trị – xã hội trên địa bàn” và “đẩy mạnh phát triển kinh tế phù hợp đặc thù của địa phương”… Cấp trên thấy tỉnh “giữ vững ổn định chính trị – xã hội”, GDP tăng trưởng “khá” và luôn tỏ thái độ ủng hộ tích cực… là yên tâm rồi. Đó là những điều kiện để tỉnh tự tung, tự tác. Bí thư tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh có quyền lực như vua ở địa phương.

Nhưng tại sao Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh lại không sợ bị trừng phạt khi làm sai?
Có một số lý do:

3.1. Vì dựa vào “tập thể lãnh đạo”, “nghị quyết tập thể”… nên có sai lầm, cá nhân không sợ chịu trách nhiệm. Với những việc mà hậu quả của nó 5-10 năm sau mới lộ ra, khi họ đã hết nhiệm kỳ hoặc chuyển đi (chứ nói gì đến 50 năm sau!), thì càng không sợ.

3.2. Nếu có chịu trừng phạt thì cá nhân cũng chỉ bị “phê bình, kiểm điểm nghiêm khắc”, rồi vẫn được tiếp tục tại vị để “quyết tâm khắc phục hậu quả”, hoặc được điều chuyển đến chỗ mới có khi còn bở béo hơn.

3.3. Hãn hữu có bị trừng phạt nặng hơn nữa thì cũng chỉ đến bị khiển trách, cảnh cáo, cho nghỉ công tác; và của cải, bổng lộc đã có không hề bị suy suyển… Ở nhiều nước, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Tỉnh trưởng… tham nhũng bị dư luận lên án, bị lôi ra tòa… Nhiều người xấu hổ phải tự tử. Còn ở ta thì tuyệt đối không! Tuyệt đối an toàn! Văn hóa xấu hổ không có đã đành mà lòng yêu nước tối thiểu trong giáo dục công dân sơ đẳng cũng không có nốt. Họ đã trở thành thứ người gì vậy? Không thể hiểu nữa.

3.4. Cấp trên không thể và không dám trừng phạt họ còn vì nhiều mối quan hệ quyền lực, lợi ích, quan hệ xã hội ràng buộc phức tạp. Rút dây sợ động rừng. Có nhiều thế lực, ô dù đan xen nhau, cài cấy vào nhau… Vì thế nhiều vụ việc cấp trên biết cấp dưới làm bậy mà phải lờ đi, phải đùn đẩy, phải ra sức bênh che, phải cho rơi vào im lặng rồi… “để lâu cứt trâu hóa bùn”! Cứ thế cấp dưới ngày càng có nhiều kinh nghiệm để tạo ra sự an toàn, để không cần sợ cấp trên…

Chả thế mà Thủ tướng đã tự hào tuyên bố “tôi chưa kỷ luật một đồng chí nào!”.

Thế còn pháp luật?

Không sợ! Các cơ quan pháp luật địa phương đều là công cụ chuyên chính dưới sự lãnh đạo toàn diện và triệt để của Tỉnh ủy. Các cơ quan pháp luật cấp trên cũng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng… Vả lại cấp bộ, ngành trung ương không thể đụng đến các Bí thư tỉnh/thành! Đầu gà còn hơn đuôi trâu! Huỳnh Ngọc Sĩ mà không có người Nhật khui ra và không có sức ép của Chính phủ Nhật dọa cắt ODA cho VN thì các cơ quan pháp luật VN có dám đụng đến? Mà có đụng đến cũng đã phải bàn bạc mãi, rất “quyết tâm”, “quyết liệt” mới tìm ra được cái tội: “lợi dụng chức vụ”, cho thuê nhà giá cao nhưng khai ít, để chiếm đoạt mấy trăm triệu đồng chia nhau! Nhìn xem, ông Sĩ mới chỉ là cán bộ “tép riu” so với Bí thư Thành ủy hay Chủ tịch tỉnh! Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang còn gọi điện “khiển trách” vị đại biểu Quốc hội dám nói đụng đến tỉnh của ông!

Họ không sợ dân sao?

Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. “Chính quyền của dân, do dân, vì dân”. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tất cả những điều tốt đẹp, thiêng liêng ấy đều bị họ biến thành những khẩu hiệu suông. Dân có thể và dám làm gì họ ư? Toàn bộ hệ thống chính trị địa phương truyền đạt chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Ủy ban để mọi cán bộ và người dân “quán triệt”. Còn những điều có tính nội bộ thì cấm các báo, đài đưa tin “tùy tiện”, cấm cán bộ phát ngôn “bừa bãi”! Người nào làm trái chủ trương là gây tâm lý “hoang mang” trong dân, đe dọa “sự ổn định chính trị – xã hội” của địa phương, các cơ quan chức năng bằng mọi biện pháp nghiệp vụ phải điều tra, phát hiện kịp thời, giải quyết nhanh gọn, triệt để, thực hiện đúng “quyết tâm của trên”. Đến con cụ Cù Huy Cận, TS luật Cù Huy Hà Vũ, sống ở giữa Thủ đô, giáp Quảng trường Ba Đình, cạnh các cơ quan TƯ Đảng, Chính phủ, cạnh sứ quán nhiều nước, mà Chủ tịch phường còn đến quát nạt “Mày có muốn làm luật sư nữa không?” và cho dân phòng đến đập phá tường rào… Thử hỏi người dân ở làng quê hẻo lánh có dám “biết”, dám “bàn”, dám “kiểm tra”, dám “làm chủ” sai ý chính quyền được không!?

Điều nguy hiểm là những người trực tiếp đập phá ấy không cần biết đúng sai, phải trái, chỉ biết triệt để chấp hành chỉ thị của “trên”! Và cấp trên khôn lắm, những vụ việc “nhạy cảm” thường chỉ thị miệng, để không có bằng chứng, nếu bí quá thì bắt cấp dưới chịu tội thay. Dân bức xúc đi kiện thì đơn kiện gửi lên trên lại được chuyển về cấp cơ sở giải quyết! Nhiều trường hợp “bên nguyên cáo” thành “bên bị cáo”! Dân đi kiện vượt cấp ít người biết đường đi, nước bước, và thường không đủ điều kiện tiền của, thời gian… theo đuổi. Mà giỏi lắm có theo đuổi thắng được kiện thì người dân thắng kiện được đền bù chút ít từ công quỹ – cũng là tiền dân, còn cán bộ chẳng sao cả!

Họ có sợ dư luận, báo chí không?

Có chút e ngại. Vì hầu hết các vụ việc tham nhũng, tiêu cực đều do báo chí phanh phui. Việc chống tham nhũng từ các tổ chức Đảng, đoàn thể cơ sở và cơ quan cấp trên đều rất ít hiệu quả. Nhưng báo chí phải đi theo đúng lề bên phải mà cơ quan quản lý đã vạch sẵn ranh giới, nhất là các báo, đài của tỉnh! Vả lại báo chí chỉ phát hiện, còn điều tra, xét xử lại thuộc về các cơ quan pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó có xử tội được Bí thư, Chủ tịch tỉnh nào đâu. Họ sợ báo chí nhưng không sợ luật pháp! Vả lại những báo “ngoài luồng” được họ coi như luận điệu của “bọn phản động”, âm mưu “bôi nhọ cán bộ”, “gây mất lòng tin của dân vào lãnh đạo”… và… cấm loan truyền những thông tin ngoài luồng!

Tóm lại, hệ thống tổ chức chính trị và cơ chế hoạt động của nó tạo cho lãnh đạo ở tỉnh không chỉ có những chiếc phao an toàn mà còn có những vũ khí nguy hiểm để trừng trị đối thủ, bảo vệ cá nhân, duy trì quyền lực của họ. Vì thế họ rất lộng quyền, hống hách, phớt lờ cấp trên, coi thường pháp luật, khinh dân, coi thường công luận…

Tôi muốn trở lại vụ án Nông trường Sông Hậu (NTSH) để thấy oai quyền của tỉnh ghê gớm thế nào.
Ngày 20/3/2008 Văn phòng Tỉnh ủy Cần Thơ có công văn số 91-TB/VPTU do Phó Chánh VP Đinh Công Út ký, thể hiện ý kiến đồng chí Bí thư Thành ủy và đồng chí Phó Bí thư thường trực…, chuyển sang cơ quan cảnh sát điều tra những nội dung vi phạm… đã rõ… về tội… (xem Google, Vụ án bà Ba Sương, có hơn 2 triệu kết quả).

Khi nghe tin Tỉnh ủy Cần Thơ chỉ đạo xử lý vụ NTSH, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã gửi thư khuyên can, nhắc nhở; cựu Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ cũng có thư góp ý; dư luận xã hội xôn xao không đồng thuận…

Nhưng ngày 14/4/2008 UBND Tỉnh ra quyết định cho bà Ba Sương, Giám đốc NTSH nghỉ hưu; ngày 15/4/2008 khởi tố vụ án; ngày 15/8/2009 đưa ra xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa, các Luật sư đều chứng minh bà Sương vô tội và trình tự điều tra, tố tụng có nhiều sai phạm. Nhưng tòa án cứ tuyên 8 năm tù cho bà Sương…

Trong phiên tòa, hàng trăm người dân đã khóc thương cô Ba Sương. Dư luận rất bất bình, khi so sánh vụ án bà Sương với vụ án ông Sĩ. Hàng trăm tờ báo “trong luồng” lên tiếng, hàng nghìn bài báo và ý kiến bạn đọc phân tích ở mọi khía cạnh, cho đây là vụ án thất nhân tâm. Dư luận xã hội sâu, rộng và gay gắt: “Họ nã đạn vào quá khứ”, “Đòn chí mạng đánh vào chế độ”, “Đạp đổ biểu tượng người anh hùng thời kỳ đổi mới”, “Cú đánh kết liễu nền kinh tế tập thể…”, “Tình người có còn không?”, “Nước mắt cha con người anh hùng”, “Nước mắt của người dân trong phiên tòa”… Không biết bao nhiêu người đã rơi nước mắt khi đọc những bài báo ấy. Không chỉ trên báo, hơn 500 hộ dân ở NTSH đã ký đơn xin cho bà Ba Sương vô tội, vì “quỹ đen” có từ 30 năm nay, thời cha bà làm Giám đốc, quỹ đó chỉ lo cho đời sống nhân viên, bà không lập quỹ để tham ô, vụ lợi… Và 110 người dân ký đơn xin đi tù thay cho “cô Ba”… Bà Sương kiên quyết kháng án và tuyên bố sẽ tự tử, vì bà và các Luật sư đều chứng minh bà không phạm tội. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có đơn kêu oan cho bà Sương, gửi đến các cơ quan và cá nhân có trách nhiệm ở trung ương và địa phương… Nhưng phớt lờ tất cả, ngày 19/11/2009 Tòa phúc thẩm Cần Thơ vẫn y án 8 năm tù cho bà Sương!

Đỉnh điểm của phản ứng xã hội là báo chí, cử tri yêu cầu Chủ tịch nước, Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Viện trưởng Viện KSND tối cao, Bộ trưởng Công an và hàng chục đại biểu Quốc hội lên tiếng. Tất cả đều nói sẽ quan tâm xem xét vụ án. Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Trưởng ban Dân vận Trung ương Hà Thị Khiết tỏ rõ thái độ thương cảm, bênh vực người nữ anh hùng; hàng trăm tờ báo lại đăng hàng loạt bài của các nhà báo tên tuổi, hàng ngàn ý kiến bạn đọc gửi đến các cơ quan truyền thông với phản ứng quyết liệt hơn…

Lúc đó Bí thư Thành ủy Cần Thơ đang họp Quốc hội tại Hà Nội đã được các nhà báo vây lấy để chụp hình, phỏng vấn. Với bộ mặt tươi, thái độ bình thản, ông bảo các cơ quan pháp luật đang làm, ông chưa có ý kiến gì! Ngay sau đó về Cần Thơ, ông họp các cơ quan chịu trách nhiệm về vụ án, tuyên bố trước các nhà báo: vụ án NTSH còn lọt tội, sẽ tiếp tục điều tra, truy tố thêm nhiều tội nữa!…

Qua vụ án NTSH đủ thấy oai quyền của lãnh đạo tỉnh ghê như thế nào!

Vì sao họ dám coi thường tất cả và tự tin đến như vậy? Vì họ đã quen không sợ gì cả, và việc lấy mấy ngàn ha đất của NTSH cho các dự án quá hấp dẫn họ, như một số bài báo đã phân tích.

Đó là những vụ án điều tra xét xử “từ trên chỉ đạo xuống”, được làm rất khẩn trương, rốt ráo, đúng thời hạn là hoàn thành “nhiệm vụ trên giao”. Còn những vụ án “không may cấp trên bị lộ”, cấp dưới điều tra “ngược lên” thì phức tạp, dây dưa, khó khăn, bế tắc và cứ… để lâu…! (Chúng ta hãy đợi xem vụ án quan đầu tỉnh Hà Giang bị tố mua dâm các cháu học sinh, được điều tra, xét xử thế nào).

Cũng phải nói thêm rằng, những người tử tế làm việc dưới trướng các lãnh đạo tỉnh độc đoán, lộng quyền rất khổ. Còn nhớ, năm 2000, tôi được cử đi điều tra việc các Sở Giáo dục thực hiện chỉ thị của Bộ trưởng về quản lý chặt chẽ, nghiêm túc vấn đề miễn thi đại học cho những học sinh giỏi trong 3 năm học trung học phổ thông. Có 3 Giám đốc sở Giáo dục nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị đã bị “tai nạn” giống nhau. Giám đốc 1, bị Phó Chủ tịch tỉnh gọi điện quát: “Con tôi thiếu có 1 điểm mà anh không giải quyết được à? Điểm ở trong tay các anh chứ ở đâu? Các anh có muốn đòi tỉnh đầu tư cho GD nữa không?”… Giám đốc 2, sau khi báo cáo tình hình giáo dục trước HĐND Tỉnh, bị Bí thư tỉnh mắng: ”Năm ngoái có hơn 200 cháu được tuyển thẳng vào đại học, năm nay còn 170 cháu. Thế là thành tích tụt lùi. Nghiêm chỉnh thực hiện cái gì? Ngu thì có!… Giám đốc 3, bị Chủ tịch tỉnh mắng: ”Nhìn sang tỉnh bên xem, năm ngoái nó được 185 học sinh vào thẳng đại học; năm nay nó 220. Còn tỉnh mình, năm ngoái 240, năm nay 180. Nó lãnh đạo khôn khéo, con em được nhờ. Mình đầu óc máy móc, thiển cận, lại thiếu tình thương con em nhân dân, nên gây thiệt thòi cho các cháu, cho phong trào. Như thế còn lãnh đạo cái gì!. Giám đốc này uất ức phát khóc và xin từ chức… Cả ba Giám đốc sở này đều kiến nghị Bộ bỏ việc tuyển thẳng này đi, nó chỉ tạo thêm sự gian dối… Tôi cũng gặp một học sinh cũ, nay là Hiệu trưởng một trường THPT, anh than phiền về một nữ giáo viên vô kỷ luật, làm ảnh hưởng đến xây dựng kỷ cương nhà trường. Tôi thắc mắc, giáo viên quá thể như vậy, sao không đuổi ra khỏi trường? Anh thở dài, thầy ơi, nó sẽ đuổi em trước khi em đuổi nó. Nó là con gái Chủ tịch tỉnh!

4. Vì sao họ lại trở thành con người như vậy?

Họ là con em nhân dân mà ra, được học hành, giáo dục rèn luyện, thử thách từ thực tế nghèo khó đi lên… Vậy sao họ lại trở thành như vậy? Mong mọi người lý giải giùm tôi!

@ Thongluan

tai vạ cho “Khúc ruột yêu thương”

Bùi Tín

Vụ án Nexus Technologies, một công ty kinh doanh xuất khẩu của 3 anh em ruột người Mỹ gốc Việt họ Nguyễn ở Philadelphia, bang Pensylvania, Hoa Kỳ, đang làm xôn xao dư luận ở Mỹ và châu Âu.

Hãng tin Mỹ AP và hãng tin Pháp AFP đều đưa tin này hàng đầu. Toà án Philadelphia đã bắt đầu xử, nghe cáo trạng, lấy khẩu cung và điều tra sâu thêm, dự kiến đến tháng 7 sẽ có thể tuyên án.

Vụ án này rất quan trọng vì vừa là một vụ buôn lậu lớn, vừa là một vụ rửa tiền lớn, còn thêm là một vụ hối lộ các quan chức Hà Nội. Vụ này liên quan đến an ninh và quốc phòng của nước Mỹ, vì hàng xuất khẩu lậu từ Mỹ vào Việt Nam bao gồm những thiết bị kỹ thuật điện tử quân sự hiện đại, lên đến mấy chục triệu đôla Mỹ, như: trang thiết bị để vẽ bản đồ dưới mặt biển, thiết bị dò, tháo gỡ bom mìn, dò tìm các loại hóa chất, phụ tùng trực thăng, thiết bị viễn thông lắp đặt trên vệ tinh…

Luật pháp Mỹ rất nghiêm đối với lọai tội phạm này. Đã có riêng một bộ luật để xử, mang tên Foreign Corrupt Practices Act – Luật trừng phạt tội hối lộ cho người nước ngoài – viết tắt là FCPA.

Bài này bàn thêm về ảnh hưởng của vụ án đối với mối quan hệ giữa chế độ độc đảng cai trị đất nước với bà con ta trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Ðây là một vụ án tiêu biểu cho việc thực hiện Nghị quyết 36 của Ðảng Cộng sản, với nội dung ca ngợi 3 triệu bà con ta là “khúc ruột yêu thương của Tổ quốc”, kêu gọi các nhà kinh doanh Việt kiều mang tiền của về kinh doanh, tham gia xây dựng quê hương.

Chắc hẳn 3 anh em ruột các ông Nam Nguyễn, Kim Nguyễn và An Nguyễn sau khi lập nghiệp phát đạt dựng lên công ty Nexus Technologies đã nghe tin theo lời kêu gọi của Nghị quyết 36 để liều lĩnh lao vào những thương vụ béo bở mang tính mạo hiểm quá cao này.

Nay kết quả ra sao?

Ba anh em họ Nguyễn đã bị truy tố. Công ty Nexus Technologies đã đóng cửa. Tiền bạc tài sản đã bị niêm phong. Công ty phải chuẩn bị nộp phạt 27 triệu đôla.

Cả công ty và gia đình 3 anh em lo buồn, chới với, kinh hoàng, tỉnh ra là đã muộn, hối không kịp, không cái dại nào giống cái dại nào.

Kinh hoàng nhất là khi các chuyên gia luật đối chiếu Luật FCPA với tội trạng nhận định rằng ông Nam Nguyễn (54 tuổi) và ông An Nguyễn (34 tuổi) có thể bị tuyên án mỗi người 35 năm tù giam, còn ông Kim Nguyên (41 tuổi) có thể bị 30 năm tù giam. Thế là mất hết!

Để xem chính quyền Hà Nội sẽ có thái độ ra sao.

Rất nhiều khả năng là họ sẽ bỏ mặc 3 nạn nhân trong tai hoạ kinh khủng này, với cảnh sạt nghiệp và 105 năm tù lơ lửng trên đầu 3 Việt kiều “yêu nước” đã trót dại bùi tai khi nghe Nghị quyết 36 tán tỉnh ngọt ngào như mật.

Âu cũng là một bài học cực kỳ sâu sắc để đời cho bà con ta ở hải ngoại. Cảnh giác bao nhiêu cũng chưa đủ đối với chính quyền độc quyền đảng trị trong cơn khủng hoảng toàn diện triền miên hiện nay.

Khi thì họ gọi bà con ta là “khúc ruột thân thương”, khi thì chỉ là “khúc ruột thừa vô dụng”, cắt bỏ không chút thương tiếc!

@VOA