HỌA SỸ Adolf-William Bouguereau

TRANH CỦA HỌA SỸ ADOLF-WILLIAM BOUGUE




William-Adolphe Bouguereau had been born in La Rochelle, France in 1825, to a family in the wine and olive oil business. He appeared bound to join the family line of work, but avoided this through an intercession by his uncle Eugene, a parson, who tutored him on classical as well as scriptural topics and made arrangements for the young Bouguereau to attend high school. Bouguereau demonstrated artistic skill early in life and his father had been won over by a customer to place his talented son in the Ecole des Beaux-Arts of Bordeaux, where he was awarded a first prize in figure painting with a portrayal of Saint Roch. To bring in additional money, Bouguereau designed labels for a jam and preserves line.

With the connections of his uncle, Bouguereau had been granted a commission to create portraits of parishioners, and his aunt equaled the amount of funds he brought in, allowing Bouguereau to travel to Paris where he would become a pupil in the Ecole des Beaux-Arts. To add to his formal studies in drawing, he went to anatomy dissections as well as took lessons on historic costumes and archaeology. He had been accepted in the studio of Francois-Edouard Picot where he would learn art techniques of academic methods. He created academic paintings of historical as well as mythical themes. Bouguereau was awarded the sought after Prix de Rome during 1850, with the painting titled Zenobia Found by Shepherds on the Banks of the Araxes. Bouguereau’s reward had been a visit to the Villa Medici in Rome, Italy, which afforded him the chance to not only follow traditional studies, but be allowed to analyze first-hand the Renaissance painters and the great masterpieces.

While in Rome Bouguereau accomplished one of the requirements necessary for the Prix de Rome by finishing a old master replicate. For this he chose Raphael’s piece The Triumph of Galatea. In several of his paintings, Bouguereau adopted a corresponding classic view of to composition, form, as well as theme content.

During 1856, he wed Marie-Nelly Monchablon and the couple bore 5 children. With the late 1850’s, Bouguereau had buiilt a network of firm associations with art dealers, in particular Paul Durand-Ruel, an art dealer who would later become a supporter of the Impressionists art movement, and who aided customers to purchase art works from painters who exhibited with the Paris Salons. The Salons each year attracted more than 300,000 people, thus allowing for important exposure to displayed painters. Bouguereau’s popularity reached England by the 1860’s which allowed him to purchase a large home with studio in Montparnasse using his developing salary.

William-Adolphe Bouguereau had been a unswerving traditionalist. His realistic genre paintings and mythological subjects were contemporary renderings of Classical topics, they are both pagan as well as Christian, with a strong absorption with the female human form. While he painted a perfect world, his nearly photo-realistic manner brought to life the beautiful women and girls of his art in a manner that had been quite attractive to moneyed art supporters of his era. The reality that his peasants forever bore clean feet, clean clothes, as well as exquisite faces and bore no signs of dirt or poverty was completely satisfactory to his supporters. A few critics, all the same, favored the truthfulness of artists Jean Francois Millet’s truer-to-life portrayal of common hard working farmers and real life renderings of day laborers.

Bouguereau utilized the traditional techniques of building up to the actual painting of a piece, which included careful pencil as well as oil studies, and his deliberate technique led to a satisfying and correct depicting of the human figure. His art work of skin, hands, and feet was especially respected. He as well applied a few of the religious and erotic symbolism in the manner of the Old Masters, as can be seen in the painting titled the Broken Pitcher that implied the loss of innocence.

Among the advantages of remaining inside the Academic style as well as success with the Salons had been picking up commissions to adorn private homes, public buildings, along with church buildings. As was characteristic of such commissions, occasionally Bouguereau could paint in his personal style, while other occasions he was required to follow a group fashion already in place. Early in his career Bouguereau had been authorized in all three venues, which contributed tremendously to his prestige and renown. He likewise produced smaller versions of his public art works for sale to clients. The Annunciation is an illustration of one of these small editions. At the same time he was a flourishing portrait artist. Several of his portraits of affluent patrons today still reside in private ownership.

Bouguereau steadily attained accolades from the Royal Academy, achieving Life Member during 1876, along with Commander of the Legion of Honor as well as Grand Medal of Honor during the year 1885. He started as an instructor of drawing with the Academie Julian during 1875, as well as a co-ed art foundation independent from the École des Beaux-Arts. The co-ed institute required no entrance exams and requested only minimal entry fees.

During 1877, both Bouguereau’s wife and infant son passed away. At an advanced age, he had been married for the 2nd time during 1896, to colleague painter Elizabeth Jane Gardner Bouguereau, who had been among his students. Bouguereau utilized his prestige to open up numerous French art establishments to women for the first time during this period.

Bouguereau, adhered to the traditional Academic manner, and participated in exhibits of the Paris Salon each year for his total working lifetime. He painted an amazing eight hundred and twenty-six art works. Bouguereau was 80 years old when he died at La Rochelle 80 from heart disease.

Mấy suy nghĩ từ cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng

Cố nhà văn Vũ Trọng Phụng lúc sinh thời

NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 – 2009)


Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.


Nhưng một cây bút khi đã tạo ra được những kiệt tác, thì cuộc đời ông ta, tác phẩm của ông ta, tự chúng sẽ đặt ra biết bao vấn đề khiến ta phải suy nghĩ để khai thác những bài học kinh nghiệm, để rút ra những chân lý này khác về sáng tạo nghệ thuật. Vũ Trọng Phụng là trường hợp như vậy. Ngày nay người ta không còn phải dè dặt khi gọi ông là một thiên tài: hai mươi bảy tuổi đời mà để lại một sự nghiệp đồ sộ, trong đó có những tác phẩm có thể gọi là không tiền khoáng hậu.

Từ cuộc đời và sự nghiệp ấy, có thể ngẫm ra nhiều điều bổ ích và thú vị.

1. Văn chương đã có giá thì không thể chôn vùi được

Chân lý này chẳng có gì mới lạ. Từ nghìn năm trước người ta đã nói rồi: Lập ngôn cùng với lập đức, lập công là ba sự nghiệp bất hủ của người đời. “Khuất Bình tứ phú huyền nhật nguyệt, Sở Vương đài tạ không sơn khâu” – Lý Bạch đã viết như thế. Điều đáng nói ở đây là, cuộc đời và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã cung cấp cho ta một bằng chứng thật quý hiếm, đầy sức thuyết phục về chân lý ấy.

Nhớ lại không khí căng thẳng của đời sống văn học những năm 60, 70 của thế kỷ trước, sau vụ Nhân văn – Giai phẩm, mà chưa hết ghê sợ. Người ta đổ lên đầu Vũ Trọng Phụng đủ mọi tội lỗi ghê gớm nhất: trốt-kít, chống cộng, đạo văn, đầu cơ chính trị, mật thám cho Tây, lưu manh, truỵ lạc, chỉ có độc cái tài xỏ xiên, văn chương thì dâm uế, tự nhiên chủ nghĩa, thuộc dòng văn học phục vụ giai cấp tư sản mục nát(1) v.v… Người ta đã vùi Vũ Trọng Phụng xuống tận bùn đen, lại còn đổ lên trên hàng tấn rác rưởi bẩn thỉu nhất. Ấy vậy mà chỉ mươi năm sau, tác phẩm Vũ Trọng Phụng, như những mầm cây đầy nhựa sống, lại tiếp tục vươn lên, chọc thủng lớp lớp bùn đất, nẩy nở tốt tươi, đơm hoa, kết trái dưới ánh sáng mặt trời.

2. Nhà văn và thực tế

Hỏi chuyện mấy nhà văn quen biết Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Tuân, Vũ Đình Liên, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Như Phong, Nguyên Hồng…), tôi mới rõ, Vũ Trọng Phụng không biết đánh bạc, sống rất đứng đắn, mực thước. Đối với mẹ, là một người con chí hiếu, đối với vợ, là một người chồng mẫu mực, đối với bạn bè, đồng nghiệp, tuy nghèo túng thật, nhưng ứng xử rất đàng hoàng, đầy tự trọng… Thế mà đọc tác phẩm của ông, thấy ông viết về các mánh khoé cờ bạc như một tay sành sỏi (Cạm bẫy người). Và thế giới nhân vật của ông thì đầy rẫy những thằng cha đểu giả, xỏ xiên, bịp bợm, dâm ô, độc ác… Vậy là sao? Giải thích thế nào đây về quan hệ nhà văn với thực tế mà ông phản ánh? Đọc Kỹ nghệ lấy Tây, thấy có nhân vật xưng “tôi” – người kể truyện – đích thân lên tận Thị Cầu (Bắc Ninh), vào hẳn cái làng me Tây bên trại lính lê dương để điều tra sự thật. Cơm thầy cơm cô cũng vậy. Vẫn cái nhân vật xưng “tôi” ấy đóng vai một anh cơm thầy cơm cô, thâm nhập vào thế giới những con sen, thằng nhỏ, chị vú, anh bồi để tìm hiểu thực tế. Nhưng sự thật có phải thế đâu! Vũ Trọng Phụng bịa đặt, hư cấu ra thế thôi. Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang cũng có một nhân vật xưng “tôi” như thế đóng vai phu xe. Cũng là bịa đặt ra cả. Làm gì có chuyện đi thực tế như thế của các nhà văn thời bấy giờ. Nhà thơ Vũ Đình Liên biết rất rõ điều đó. Ông ở cùng phố Hàng Bạc với Vũ Trọng Phụng, quen biết cả nhà Vũ Trọng Phụng, cùng học trường tiểu học Hàng Vôi với Vũ Trọng Phụng. Không có chuyện ấy đâu! Bịa ra hết! – Vũ Đình Liên nói thế mà! Vậy thì giải thích như thế nào về những bức tranh hiện thực rất chân thật, rất sinh động trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng?(2).

Tôi cho rằng, trong sáng tao nghệ thuật, điều quyết định là tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) của nhà văn. Đó là một hình thái tư tưởng tổng hợp, bao gồm cả lý trí, tình cảm, cảm xúc, cả tiềm thức, vô thức, được huy động triệt để trong giờ phút cảm hứng vào việc nhận thức và diễn tả thế giới. Nó tạo ra ở tâm hồn nhà văn một chất dính riêng, một thứ nam châm riêng, có khả năng bắt lấy, hút lấy rất nhậy và làm sống dậy, trong trí tưởng tượng của người viết, tất cả những gì đáp ứng yêu cầu của nó, kể cả những tư liệu gián tiếp thu lượm từ sách vở báo chí hay nghe ai đó thuật kể lại. Vũ Trọng Phụng là người rất ham đọc, ham học. Ông là một nhà báo, nên phải đọc đủ thứ sách vở, báo chí, tiếng Tây, tiếng ta để nhặt tin tức. Ông lại có một người bà con tên là Trưởng Tạo cùng ở một căn hộ, người tầng trên, người tầng dưới. Trưởng Tạo là tay ăn chơi lõi đời, rất thạo các ngón cờ bạc. Ông ta là một kho tư liệu sống, thường xuyên cung cấp “thực tế” cho Vũ Trọng Phụng.

Tất nhiên tư tưởng nghệ thuật cũng có nguồn gốc từ đời sống thực tế. Nó được hình thành ở nhà văn từ tuổi ấu thơ, do tác động của môi trường sống của ông ta, bao gồm môi trường gia đình, môi trường xã hội, môi trường thiên nhiên, môi trường văn hoá. Vũ Trọng Phụng xuất thân trong một gia đình dân nghèo thành thị, mồ côi cha từ nhỏ, nhà có bệnh lao gia truyền (ông nội, ông thân sinh và bản thân Vũ Trọng Phụng đều mất sớm vì bệnh lao. Khi Vũ Trọng Phụng qua đời, cảnh nhà rất bi thảm: ba người đàn bà goá trong một gia đình). Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học đã phải đi làm để kiếm sống. Chạy được chân thư ký quèn cho một nhà in, rồi một hãng buôn, thì cả hai lần đều bị sa thải vì nạn kinh tế khủng hoảng. Một thiếu niên vừa bước chân vào đời thì mọi con đường lập thân, lập chí đều tắc nghẽn hết. Hoàn cảnh ấy đã tạo ra ở Vũ một tâm trạng phẫn uất mãnh liệt đối với cái xã hội mà ông gọi là “chó đểu” – một xã hội mà kẻ có quyền, có tiền làm chủ tất cả, chi phối tất cả. Tư tưởng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được tạo nên từ đó. Ông lại sống chủ yếu ở phố Hàng Bạc, trong một căn gác xép. Vùng phố này là một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi của Hà Nội. Kề chung quanh là Hàng Đường, Hàng Đao, Hàng Buồm, Đồng Xuân, Mã Mây, Sầm Công, Tạ Hiền, nhan nhản những tiệm ăn, tiệm hút, rạp tuồng, rạp hát… Cạnh nhà Vũ Trọng Phụng lại sừng sững dinh cơ của bà Bé Tý, một mụ me Tây cao cấp nổi tiếng một thời (người ta gọi là “Bà chúa Hàng Bạc”). Vậy là hàng ngày giễu qua giễu lại trước mắt Vũ Trọng Phụng là một thế giới nhân vật, như muốn trêu ghẹo, chọc tức ông: giàu là con buôn, me Tây, bọn công tử bột ăn chơi, nghèo là bồi săm, bồi tiêm, ma cô, lưu manh, gái điếm… Tất nhiên ở đâu chẳng có những người dân lương thiện. Nhưng với tâm trạng phẫn uất, thái độ bi quan, cái nhìn của Vũ dễ bị hút nhiều hơn về phía đen tối của “nhân loại”, dễ bắt lấy nhiều hơn những mặt trái của cuộc đời.

Vâng, tạo ra thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng, vẽ ra những bức tranh hiện thực của Vũ Trọng Phụng, là cái tư tưởng nghệ thuật ấy. Một số kiếp đầy bất hạnh, một cuộc đời “Tài cao, phận thấp, Chí khí uất” (Tản Đà), một tâm trạng căm thù không bao giờ nguôi đối với cái xã hội “chó đểu” ngày trước, đó là nguồn gốc tài năng của Vũ Trọng Phụng, là linh hồn của chủ nghĩa hiện thực có sức công phá ghê gớm của Vũ Trọng Phụng.

3. Nhà văn và sức mạnh tưởng tượng tổng hợp

Viết văn, nhất là viết tiểu thuyết, phải có khả năng khái quát tổng hợp. Không phải khái quát bằng những khái niệm trừu tượng thuộc lý trí mà bằng sức mạnh tưởng tượng: tạo ra một thế giới nghệ thuật có khả năng phản ánh một cách tổng hợp những mảng hiện thực rộng lớn của xã hội trong một thời kỳ lịch sử.

Nam Cao và Vũ Trọng Phụng đều có khả năng ấy, nhưng họ thực hiện ngược chiều nhau. Tôi nhất trí với Chu Văn Sơn: Nam Cao thường đi từ những cái nhỏ nhặt đời thường, từ một điểm vi mô mà nâng lên, khái quát lên bằng suy tưởng triết lý, đến những vấn đề ở bình diện vĩ mô, có khi liên quan đến vận mệnh của cả đất nước, của cả nhân loại. Vũ Trọng Phụng thì ngược lại: thâu tóm, dồn nén cả một xã hội, cả một thời đại vào trong vài trăm trang sách. Như Giông tố chẳng hạn, biết bao nhân vật sinh sống trên nhiều vùng đất khác nhau, thành phần xã hội và số phận khác nhau, cứ đan chéo vào nhau, đâm sầm vào nhau, huých đạp lẫn nhau, tạo nên bao cảnh lên voi xuống chó, xuống chó lại lên voi, đay tính bi hài…

Không nên hiểu khái quát tổng hợp ở đây là cứ theo dòng tự sự đơn tuyến, lần lượt miêu tả, thuật kể vùng đất này rồi vùng đất khác, cảnh ngộ này rồi cảnh ngộ khác, loại người này rồi hạng người khác một cách rời rạc. Đầu thế kỷ XX, ông Trọng Khiêm đã viết một cuốn tiểu thuyết dày dặn theo lối ấy (Kim Anh lệ sử). Tác phẩm cũng có đủ cả miền xuôi, miền ngược, nông thôn, thành thị, cũng có đủ mọi hạng người trong xã hội thời bấy giờ. Tất cả được lần lượt ngoắc nối vào nhau, xâu chuỗi vào nhau một cách thiếu tự nhiên bằng cuộc đời phiêu lưu, chìm nổi của một cô gái tên là Kim Anh.

Vũ Trọng Phụng không làm như thế. Ông sáng tao ra một xã hội hẳn hoi, vận hành theo qui luật nội tại của nó. Những số phận cá nhân có vẻ rất ngẫu nhiên, như là do vận may vận rủi bầy ra như vậy, kỳ thực đều bị chi phối bởi những qui luật tất yếu và nghiệt ngã của xã hội một thời. Khái niệm “Sức mạnh tưởng tượng tổng hợp” (puissance d’imagination synthétique) tôi mượn của Lanson, một nhà nghiên cứu văn học Pháp, khi ông đánh giá tiểu thuyết của H. Balzac. Balzac và Vũ Trọng Phụng quả là hai cây bút có sức mạnh tưởng tượng tổng hợp phi thường.

4. Số đỏ và nghệ thuật trào phúng

Trong lịch sử văn học nước ta (và của thế giới có lẽ cũng vậy), xem ra những tài năng trào phúng tầm cỡ lớn không nhiều. Nói riêng về thơ, có thể điểm danh hàng chục nhà thơ trữ tình lớn không khó khăn gì. Nhưng nhà thơ trào phúng cỡ Hồ Xuân Hương, Tú Xương có được bao nhiêu? Nhà tiểu thuyết trào phúng lớn cũng rất hiếm, có lẽ không đếm đủ trên năm đầu ngón tay.

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, về tài năng trào phúng, phải thừa nhận Vũ Trọng Phụng là cây bút số một, một bậc thầy về nghệ thuật châm biếm hài hước. Cho nên Số đỏ là tác phẩm thật quý hiếm. Nguyễn Khải bái phục là phải: Số đỏ là “một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”(3).

Từ Số đỏ, có thể rút ra được những bài học gì về nghệ thuật trào phúng?

a. Tôi có được đọc một bài tiểu luận bàn về tiếng cười (Le Rire) của một nhà triết học Pháp (H. Bergson). Luận điểm của ông có thể tóm tắt như sau: Ai là người biết cười? Trả lời: Chỉ có con người. Con người có trí tuệ nên mới biết cười (người trí tuệ kém phát triển, đầu óc trì độn, nói chung, không biết đùa, không biết cười) và Ai là đối tượng đáng cười? Trả lời: Cũng chỉ có con người. Thiên nhiên, loài vật sống rất tự nhiên, chẳng có gì đáng cười ca. Chỉ con người mới hay có những hành vi vô nghĩa lý, thiếu tự nhiên làm bật cười. Bergson gọi là bị đồ vật hoá, máy móc hoá, như con rối. Số đỏ đã khai thác triệt để thủ pháp này. Cứ xem những con vật, như con chó, con mèo, chúng hoạt động rất tự nhiên: đói thì ăn, khát thì uống, thấy chuột thì vồ, buồn ngủ thì ngủ… Làm gì cũng có mục đích, có lý cả. Còn nhân vật Số đỏ thì ăn nói, cử động rất vô nghĩa lý, cứ như những cái máy vô hồn vặn sẵn dây cót: Thằng Xuân gặp ai cũng cúi đầu rất thấp: “Chúng tôi rất hân hạnh”, rồi xổ ra một tràng những câu thuộc lòng như con vẹt: “Hạnh phúc có gì khác nếu không phải là hạnh phúc vợ chồng?” “Cái gì hủ lau ta đào thải đi!” “Thể thao… nòi giống…”. Cụ cố Hồng thì tuy chẳng biết gì cả, nhưng động mở miệng là “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!”. Những nhân vật khác, từ mụ Phó Đoan, Minđơ, Mintoa, đến Cậu Phước “em chã” đều được xây dựng theo lối ấy…

b. Nói chung truyện cười cho phép sử dụng thủ pháp phóng đại một cách thoải mái. Thường ngày, đùa vui với nhau, ta cũng phải phóng đại mới có thể gây cười. Nhưng phóng đại đến đâu, đến mức độ nào thì vừa gây được tiếng cười, vừa đảm bảo được tính chân thực của chủ nghĩa hiện thực? Cảm nhận được chính xác cái độ thoả đáng, cái độ tối ưu ấy, là tài năng của những nhà trào phúng lớn. Phóng đại chưa đến cái độ ấy thì chưa đủ gây cười. Nhưng phóng đại quá cái ngưỡng ấy thì tác phẩm mất tính chân thật, người đọc không tin là có thật, và như thế là nguyên tắc phản ánh của chủ nghĩa hiện thực bị vi phạm.

Nguyễn Công Hoan cũng là một cây bút trào phúng tài năng. Nhưng trong nhiều trường hợp, ông đã phóng đại quá mức. Tác phẩm mất tính chân thật, mất sức thuyết phục.

Lấy một ví dụ: Truyện “Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn”. Chủ đề: phê phán sự hư hỏng của phụ nữ. Một bà phán nọ, chồng vừa chết, đã bồ bịch luôn với một ông phán khác bạn của chồng.

– Bước phóng đại thứ nhất: Họ tình tự với nhau ngay cạnh bàn thờ ông Phán quá cố (thiếu gì nơi tình tự mà phải ngồi với bồ ngay cạnh bàn thờ của chồng! Sự phóng đại đã bắt đầu vượt ngưỡng).

– Bước phóng đại thứ hai: Bỗng ông Phán nhân tình cảm thấy nóng bức quá. Bà vợ goá bèn gỡ luôn cái ảnh của chồng trên bàn thờ cho ông bồ quạt (sự phóng đại hết sức vô lý, thiếu gì cái có thể dùng thay quạt tốt hơn mà phải lấy đến cái ảnh của chồng!)

– Bước phóng đại thứ ba: quạt chán, ông Phán nhân tình quăng cái ảnh lên bàn nước, khiến mặt chồng bà Phán trong ảnh phồng rộp lên…

Nguyễn Công Hoan mắc rất nặng tư tưởng bảo thủ phong kiến, nhất là chung quanh vấn đề hôn nhân, gia đình, vấn đề phụ nữ. Viết về đề tài này, ông không kiềm chế được thái độ ác cảm với những phụ nữ muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của lễ giáo phong kiến. Trong những trường hợp như thế, Nguyễn Công Hoan không còn là một văn sĩ xã hội tiến bộ, không còn là cây bút hiện thực chủ nghĩa nữa.

Số đỏ của Vũ Trọng Phụng không mắc khuyết điểm đó. Thoạt xem tác phẩm này, ta tưởng như sự phóng đại của tác giả còn tuỳ tiện, phóng túng hơn cả Nguyễn Công Hoan: một thằng ma cà bong vô học mà trở thành đốc tờ bác sĩ, triết gia, thi sĩ, anh hùng cứu quốc; một mụ me Tây đại dâm ô mà được sắc ban Tiết hạnh khả phong v.v… Nhưng hãy gấp quyển sách lại và nhìn ra cuộc đời thực mà xem: té ra không thiếu gì những thằng Xuân tóc đỏ có thực, không thiếu gì những mụ Phó đoan bằng xương bằng thịt… Hoá ra, Vũ Trọng Phụng chẳng nói oan nói ức cho thằng nào, con nào cả. Thiên tài của tác giả Số đỏ là ở chỗ ấy: cảm nhận được và dừng lại đúng cái ngưỡng tối ưu của sự phóng đại, để tạo ra những nhân vật rất chân thật, những điển hình hiện thực chủ nghĩa bất hủ.

c. Về nghệ thuật trào phóng, trong một bài viết về thơ Tú Mỡ, Xuân Diệu phân biệt hai khái niệm “chửi địch” và “đánh địch”. Tất nhiên chỉ là cách diễn đạt có tính ước lệ mà thôi. “Chửi địch” là trực tiếp thoá mạ đối tượng bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu và các thủ pháp này khác. “Đánh địch” là dựng đối tượng lên thành nhân vật sống động, có tính cách, cá tính thật sự, để tự nó dở những trò lố bịch mà chuốc lấy tiếng cười của thiên hạ. Nghệ thuật “đánh địch” tất nhiên là cao cường hơn. Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan thiên về “chửi địch”. Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Vũ Trọng Phụng thiên về “đánh địch”.

5. Tiểu thuyết và thời sự. Nguyên mẫu và nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng

Đọc Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, thấy Vũ Trọng Phụng có khả năng đưa thẳng không khí thời sự và các sư kiện chính trị, xã hội, văn hoá còn nóng hổi tính thời sự vào tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết mà cứ muốn chạy đua với bút ký, phóng sự và thông tin báo chí. Tôi có đọc một số báo hàng ngày xuất bản cùng thời với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, thấy có những tin tức tương tự như trong tiểu thuyết của Vũ. Chẳng hạn tờ báo nọ đưa tin bà Bé Tý (một me Tây cao cấp) đến sở cẩm xin tha cho một thanh niên phạm một tội gì đó. Trong tiểu thuyết Số đỏ, bà Phó Đoan cũng đến bóp cảnh sát xin tha cho thằng Xuân phạm tội nhòm trộm một cô đầm thay váy. Lại có báo đăng tin một du học sinh mới ở Pháp về, không kiếm được một bằng cấp gì, nên rất khinh bỉ văn bằng. Thì trong Số đỏ, nhân vật Văn Minh cũng đúng như thế. “Anh ta dõng dạc giảng cho ông bố ngu si, chậm hiểu của mình: “Học thức không ở văn bằng. Những người như Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh, mà khảo đến bằng, thì thành ra vô học hay sao?” v.v…

Nhiều người sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng, nói rằng, đọc Giông tố, Số đỏ, có thể chỉ ra được những người thật trong xã hội đương thời mà Vũ muốn ám chỉ. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, có hai cây bút rất hay dùng nguyên mẫu để xây dựng nhân vật của mình: Nam Cao và Vũ Trọng Phụng. Tôi đã từng hướng dẫn một sinh viên cao học làm luận văn, đề tài: “Từ nguyên mẫu đến nhân vật truyện của Nam Cao”. Chúng tôi đã về làng Đại Hoàng của nhà văn để tìm tư liệu. Hầu hết nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn đều có nguyên mẫu. Cụ Nguyễn Lương Ngọc, nhà lý luận, phê bình văn học sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng cũng nói như vậy về các nhân vật trong Giông tố, Số đỏ. Tôi nghĩ giá có ai đó chịu khó tìm tòi để biết được những nguyên mẫu các nhân vật của Vũ Trọng Phụng thì hẳn là rất thú vị. Từ đó, có thể xây dựng được một luận văn vừa có giá trị khoa học vừa hết sức hấp dẫn. So sánh nguyên mẫu với nhân vật truyện, có thể phát hiện ra những phương thức chế biến, hư cấu đầy sáng tạo của nhà văn. Từ gã Chí Phèo – nguyên mẫu (chỉ là một anh đồ te say rượu bét nhè, chửi trời chửi đất lung tung), Nam Cao đã sáng tạo ra một Chí Phèo – nhân vật văn học bất hủ.

Nhưng tìm hiểu nguyên mẫu của các nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng hẳn là không dễ chút nào. Vì khác vơi nguyên mẫu các nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn, chủ yếu tập trung ở một làng Đại Hoàng, nguyên mẫu nhân vật trong Giông tố, Số đỏ quá đông đúc và phức tạp, gồm đủ các hạng người, lại có mặt ở nhiều môi trường xã hội, ở nhiều vùng đất khác nhau, hầu như trên cả nước.

Người ta đã viết nhiều, nghiên cứu nhiều, khám phá nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Mấy năm gần đây, có hàng chục luận văn thạc sĩ, tiến sĩ viết về nhà văn này. Vậy mà cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn chưa thôi đặt ra những câu hỏi chưa được giải đáp thấu đáo để tiếp tục làm cho các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học phải động não.

Mới biết, những cây bút lớn, những tác phẩm đỉnh cao, chẳng những là những đóng góp làm vẻ vang cho truyền thống nghệ thuật dân tộc, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng phong phú của khoa học văn chương.

Láng Hạ, 3/11/2009
N.Đ.M
(250/12-09)

————————–
(1) Xem “Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta”. Trần Hữu Tá biên soạn – Nxb TP Hồ Chí Minh. 1999. Đọc các bài của Nguyễn Đình Thi (Nhà văn với quần chúng lao động); Hoàng Văn Hoan (Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam); Vũ Đức Phúc (Vũ Trọng Phụng – nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu)
(2) Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải cũng có khả năng tương tự. Nguyễn Tuân chưa lên Tản Viên Ba Vì bao giờ mà viết “Trên đỉnh non Tản” rất đúng. Trong kháng chiến, ông mới có dịp tới ngọn núi ấy và thấy “Sao mình giỏi quá vậy?”. Nguyễn Khải ở ngoài Bắc mà tả “Hòa Vang” chiến đấu chống Mỹ nguỵ như thật. Anh chỉ nghe một nhà tình báo cao cấp thuật kể mà viết về những bộ trưởng, thượng nghị sĩ… thuộc chính quyền Sài Gòn cũ như là thông thạo lắm (kịch Cách mạng và tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm)
(3) Tham luận tại Đại hội nhà văn lần thứ 3 (9-1983

@Tạp chí Sông Hương

SỨC MẠNH KINH TẾ Á CHÂU – HUYỀN THOẠI VÀ THỰC TẾ

(TBKTSG) – Sức mạnh kinh tế của châu Á đã tăng lên, nhưng không nhiều như vẫn tưởng.

Ý tưởng cho rằng trung tâm của kinh tế thế giới đang chuyển về phương Đông không phải là mới. Nhưng theo nhiều người, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tiếp thêm sức đẩy cho sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế từ Mỹ và Tây Âu sang châu Á.

Các nền kinh tế đang phát triển của châu Á đã từ suy thoái bật dậy nhanh hơn thế giới đã phát triển; hệ thống ngân hàng và tình trạng nợ nần của châu Á cũng lành mạnh hơn.

Năm 2009, Trung Quốc vượt qua Đức trở thành nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới. Theo một dự báo, Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trong vòng 10 năm nữa. Nhưng vấn đề là sức mạnh kinh tế thực sự đã nghiêng về châu Á đến mức độ nào?

Huyền thoại?

Chắc chắn rằng khu vực châu Á đã trở nên quan trọng hơn đối với các doanh nhân, các nhà ngân hàng, đóng góp một tỷ lệ kỷ lục vào lợi nhuận của nhiều công ty trong năm ngoái. Một số nhà quản trị cấp cao đã chuyển công tác tới châu Á, mới nhất là Giám đốc điều hành của Ngân hàng HSBC, ông Michael Geoghehan, chính thức được điều động từ London đến Hồng Kông ngày 1-2 vừa qua.

Từ năm 1995, tổng sản lượng GDP thực của châu Á (kể cả Nhật Bản) đã tăng trưởng nhanh gấp hai lần so với GDP của Mỹ hoặc Tây Âu. Ngân hàng Morgan Stanley dự báo châu Á sẽ tăng trưởng bình quân 7% trong năm nay và năm tới, so với chỉ 3% của Mỹ và 1,2% của châu Âu.

Nhưng nếu xem xét cẩn thận, các số liệu này cho thấy sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế từ Tây sang Đông có thể đã bị cường điệu. Một phần do các đồng tiền đang giảm giá, phần đóng góp của châu Á vào GDP thế giới (tính theo giá trị danh nghĩa căn cứ vào tỷ giá hối đoái của thị trường) đã thực sự giảm xuống, từ mức 29% năm 1995 xuống còn 27% năm ngoái (xem bảng).

Năm 2009, tổng sản lượng của châu Á vượt qua Mỹ nhưng vẫn còn ít hơn một chút so với Tây Âu dù năm nay họ có thể vượt qua Tây Âu. Nói cách khác, sản lượng của phương Tây giàu có vẫn còn lớn gấp đôi so với phương Đông.

So với niềm tin phổ biến rằng các nhà sản xuất châu Á đang giành được phần ngày càng lớn trong thị trường xuất khẩu, tỷ lệ đóng góp 31% vào xuất khẩu thế giới của khu vực này năm ngoái thực tế không cao hơn nhiều so với tỷ lệ 28% của năm 1995 và vẫn còn thấp so với tỷ lệ xuất khẩu của Tây Âu.

Thực vậy, sự chuyển dịch sang châu Á có vẻ như chậm lại chứ không phải nhanh thêm. Tỷ lệ của châu Á trong sản lượng và xuất khẩu của thế giới chỉ tăng vọt trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Mặc dù từ đó đến nay thị phần của Trung Quốc đã tăng lên, nhưng cũng chỉ đủ bù lại sự sút giảm do suy thoái của Nhật Bản – tỷ lệ đóng góp của Nhật Bản cả về sản lượng lẫn xuất khẩu đã giảm còn một nửa.

Sức mạnh tài chính của châu Á như thế nào? Các thị trường chứng khoán châu Á chiếm khoảng 34% mức vốn hóa thị trường toàn cầu, nhiều hơn Mỹ (33%) và châu Âu (27%). Các ngân hàng trung ương châu Á cũng nắm giữ hai phần ba quỹ dự trữ ngoại tệ toàn thế giới.

Những con số này nghe thật ấn tượng, nhưng ảnh hưởng của chúng lên thị trường tài chính toàn cầu lại hết sức khiêm tốn bởi vì các quỹ dự trữ chính thức chỉ chiếm khoảng 5% tổng dự trữ các tài sản tài chính toàn cầu. Khối tài sản tư nhân chủ yếu vẫn nằm ở phương Tây. Sự kiện các đồng tiền châu Á chỉ góp khoảng 3% tổng số dự trữ ngoại tệ cho thấy châu Á vẫn tụt hậu rất xa trong các vấn đề tài chính.

Thực tế

Tuy nhiên, “sự trỗi dậy của châu Á” không phải là một huyền thoại. Số liệu GDP, nếu quy đổi theo tỷ giá thị trường, sẽ không nói hết được sự tăng trưởng thực sự của châu Á. Nhiều đồng tiền châu lục này bị sụp đổ trong thời kỳ khủng hoảng tài chính châu Á cuối thập niên 1990, làm giảm giá trị tính bằng đô la Mỹ của các nền kinh tế khu vực. GDP danh nghĩa của Nhật Bản bị co lại vì thiểu phát. Quan trọng hơn, giá của nhiều mặt hàng nội địa, từ nhà cửa đến cắt tóc, ở các nước có mức thu nhập thấp luôn luôn rẻ hơn nhiều, nghĩa là sức mua thực sự của các hộ gia đình cao hơn.

Nếu đo lường GDP theo sức mua tương đối (purchasing-power parity, PPP) để tính tới các mặt hàng giá thấp thì phần đóng góp của châu Á trong kinh tế thế giới đã tăng trưởng đều đặn, từ 18% năm 1980 đến 27% năm 1995 và 34% năm 2009. Theo cách đo này, kinh tế châu Á có thể sẽ vượt qua cả Mỹ và châu Âu cộng lại trong vòng bốn năm tới. Tính theo sức mua tương đối PPP, ba trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nằm ở châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ) và châu Á đã chiếm một nửa mức tăng trưởng GDP của thế giới trong suốt thập niên qua.

Một số nhà kinh tế học cho rằng cách đo lường theo PPP cường điệu ảnh hưởng kinh tế của châu Á. Điều làm các doanh nghiệp phương Tây quan tâm thật sự là tiêu dùng của người dân tính theo đô la Mỹ. Mặc dù ba phần năm dân số thế giới sống ở châu Á, họ chỉ chiếm khoảng một phần năm giá trị tiêu thụ của tư nhân toàn cầu, ít hơn tỷ lệ 30% của người Mỹ. Nhưng các con số thống kê chính thức chắc chắn đã không nói hết mức chi tiêu của người tiêu dùng ở các nền kinh tế đang phát triển châu Á bởi vì công tác thống kê không bao quát hết việc chi tiêu cho các dịch vụ.

Số liệu của Trung tâm Thông tin kinh tế thuộc tuần báo The Economist cho thấy rằng châu Á chiếm khoảng một phần ba doanh số bán lẻ toàn cầu. Giờ đây châu Á là thị trường tiêu thụ nhiều nhất nhiều sản phẩm tiêu dùng, năm ngoái châu Á tiêu thụ khoảng 35% tổng số xe hơi, 43% điện thoại di động, 35% năng lượng của thế giới, tăng từ mức 26% năm 1995. Từ năm 2000 đến nay châu Á chiếm hơn hai phần ba mức tăng nhu cầu năng lượng của thế giới.

Nhiều doanh nghiệp phương Tây quan tâm nhiều hơn tới chi tiêu đồng vốn của châu Á hơn là sức tiêu thụ hàng hóa, và trong lĩnh vực này chắc chắn châu Á là một người khổng lồ. Năm 2009, 40% tổng vốn đầu tư toàn cầu (tính theo tỷ giá thị trường) được thực hiện ở châu Á, bằng cả Mỹ và châu Âu cộng lại. Trong lĩnh vực tài chính, năm ngoái các doanh nghiệp châu Á tiến hành tám trong mười cuộc IPO (phát hành cổ phiếu ra công chúng) lớn nhất thế giới và các cuộc IPO ở Hồng Kông và Trung Quốc năm 2009 đã huy động được khoản vốn lớn gấp đôi so với ở Mỹ.

Dự báo cho những năm sắp tới

Nguyên Thủ tướng Anh Winston Churchill từng nói: “Nhìn lại quá khứ càng xa xưa, càng có thể nhìn xa hơn vào tương lai”. Trật tự kinh tế thế giới mới thực ra là sự trỗi dậy trở lại của những trật tự xưa cũ. Trong 20 thế kỷ qua, có tới 18 thế kỷ mà châu Á đóng góp hơn một nửa sản lượng của thế giới. Và tầm quan trọng của châu lục này sẽ gia tăng trong những năm tháng sắp tới.

Mức tăng trưởng của các nước giàu có thể sẽ bị co lại trong thập niên kế tiếp vì khoản nợ nần to lớn của các hộ gia đình làm giảm sút sức chi tiêu, nợ công của các chính phủ tăng tới mức nguy hiểm, sự gia tăng thuế khóa làm cùn nhụt động lực làm việc và đầu tư.

Trái lại, tăng trưởng ở các nền kinh tế đang phát triển châu Á có thể tiếp tục vững mạnh. Tăng trưởng mạnh cũng sẽ khiến cho các chính phủ các nước châu Á đang phát triển thêm tự tin để cho phép đồng tiền của họ tăng giá trị, từ đó sẽ thúc đẩy hơn nữa quy mô tương đối của nền kinh tế của họ, tính theo đô la Mỹ.

Vào năm 2020, châu Á có thể sản xuất ra một nửa doanh số và lợi nhuận của các tập đoàn đa quốc gia phương Tây cỡ lớn, gấp đôi mức bình quân 20-25% hiện nay. Các nhân viên châu Á của các tập đoàn này đang nóng lòng chờ tới ngày họ có thể quyết định thời gian tổ chức các cuộc hội họp quốc tế qua truyền hình; khi ấy các nhà quản lý châu Âu và Mỹ phải chờ tới nửa đêm để thảo luận công việc với văn phòng ở Bắc Kinh chẳng hạn. Và đó mới là phép thử tốt nhất ý niệm cho rằng sức mạnh kinh tế có thực sự chuyển về phương Đông hay không.

(Theo The Economist)

World’s Billionaires 2010

Wednesday, March 10, 2010provided byForbes

Introduction by Matthew Miller and Luisa Kroll

Carlos Slim Helu takes No. 1 spot on Forbes World’s Billionaires list as a record 164 10-figure titans return to the ranking amid the global economic recovery.

For the third time in three years, the world has a new richest man.

Riding surging prices of his various telecom holdings, including giant mobile outfit America Movil (AMX), Mexican tycoon Carlos Slim Helu has beaten out Americans Bill Gates and Warren Buffett to become the wealthiest person on earth and nab the top spot on the 2010 Forbes list of the World’s Billionaires.

Slim’s fortune has swelled to an estimated $53.5 billion, up $18.5 billion in 12 months. Shares of America Movil, of which Slim owns a $23 billion stake, were up 35% in a year.

That massive hoard of scratch puts him ahead of Microsoft (MSFT) cofounder Bill Gates, who had held the title of world’s richest 14 of the past 15 years.

Gates, now worth $53 billion, is ranked second in the world. He is up $13 billion from a year ago as shares of Microsoft rose 50% in 12 months. Gates’ holdings in his personal investment vehicle Cascade (CAE) also soared with the rest of the markets.

Buffett’s fortune jumped $10 billion to $47 billion on rising shares of Berkshire Hathaway (BRK). He ranks third.

The Oracle of Omaha shrewdly invested $5 billion in Goldman Sachs (GS) and $3 billion in General Electric (GE) amid the 2008 market collapse. He also recently acquired railroad giant Burlington Northern Santa Fe (BNI) for $26 billion.

In his annual shareholder letter Buffett wrote, “We’ve put a lot of money to work during the chaos of the last two years. When it’s raining gold, reach for a bucket, not a thimble.”

Many plutocrats did just that. Indeed, last year’s wealth wasteland has become a billionaire bonanza. Most of the richest people on the planet have seen their fortunes soar in the past year.

This year the World’s Billionaires have an average net worth of $3.5 billion, up $500 million in 12 months. The world has 1,011 10-figure titans, up from 793 a year ago but still shy of the record 1,125 in 2008. Of those billionaires on last year’s list, only 12% saw their fortunes decline.

U.S. billionaires still dominate the ranks — but their grip is slipping. Americans account for 40% of the world’s billionaires, down from 45% a year ago.

The U.S. commands 38% of the collective $3.6 trillion net worth of the world’s richest, down from 44% a year ago.

Of the 97 new members of the list, only 16% are from the U.S. By contrast, Asia made big gains. The region added 104 moguls and now has just 14 fewer than Europe, thanks to several large public offerings and swelling stock markets.

The new billionaires include American Isaac Perlmutter, who flipped Marvel Entertainment (MVL) to Disney (DIS) for $4 billion last December. The Spider-Man mogul netted nearly $900 million in cash and 20 million shares of Disney in the transaction.

Also new to the ranking: 27 billionaires from China, including Li Shufu, whose automaker, Geely, announced plans to buy Swedish brand Volvo from Ford in December. The deal is expected to close in March 2010.

Finland and Pakistan both welcomed their first billionaires.

For the first time China (including Hong Kong) has the most billionaires outside the U.S. with 89.

Russia has 62 billionaires, 28 of them returnees who had fallen off last year’s list amid a meltdown in commodities. Total returnees to the list this year: 164.

Eleven countries have at least double the number of billionaires they had a year ago, including China, India, Turkey and South Korea.

Thirty members of last year’s list fell out of the billionaire’s club. Moguls who couldn’t make the cut: Iceland’s Thor Bjorgolfsson, Russia’s Boris Berezovsky and Saudi Arabia’s Maan Al-Sanea.

Another 13 members of last year’s list died. Among the deceased: real estate developer Melvin Simon and glass tycoon William Davidson.

The Top 20 Billionaires in the World

Helu
AP Photo

1) Carlos Slim Helu

Net Worth: $53.5 billion

Source: Telecom

Residence: Mexico

• Telecom tycoon who pounced on privatization of Mexico’s national telephone company in the 1990s becomes world’s richest person for first time after coming in third place last year. Net worth up $18.5 billion in a year.

• Recently received regulatory approval to merge his fixed-line assets into American Movil, Latin America’s biggest mobile phone company.

• His construction conglomerate, Impulsora del Desarrollo y el Empleo, builds roads and energy infrastructure.

• Son of a Lebanese immigrant also owns stakes in financial group Inbursa, Bronco Drilling, Independent News & Media, Saks and New York Times Co.

• Newspaper outfit’s stock popped in early March on talk he might buy a controlling stake; he denies the rumor.

• Donating $65 million to fund a research project in genomic medicine with American billionaire philanthropist Eli Broad.

Gates
AP Photo

2) Bill Gates

Net Worth: $53 billion

Source: Microsoft

Residence: U.S.

• Software visionary is now the world’s second-richest man. Net worth still up $13 billion in a year as Microsoft shares rose 50% in 12 months, value of investment vehicle Cascade swelled.

• More than 60% of fortune held outside Microsoft; investments include Four Seasons hotels, Televisa, Auto Nation.

• Stepped down from day-to-day duties at Microsoft in 2008 to focus on philanthropy.

• Bill & Melinda Gates Foundation dedicated to fighting hunger, improving education in America’s high schools, developing vaccines against malaria, tuberculosis and AIDS.

Xin mời đọc tiếp ở đây:

http://finance.yahoo.com/career-work/article/109029/worlds-billionaires-2010