Năm mươi năm và sáu mươi bảy năm

Hồ Hải 

Năm mươi năm trước vào ngày 17/12/1963 ông Phát Chánh Huy – Park Chung Hee – tuyên bố là tổng thống của Hàn Quốc, với ngân khố trống rổng, sau cuộc nội chiến Nam Bắc Hàn, vừa mới kết thúc – 1953 – và phân chia ranh giới 2 miền ở vĩ tuyến 38. Khi ấy con gái của ông mới 11 tuổi.

Nữ Tổng Thống Nam Hàn

Nữ Tổng Thống Nam Hàn

Năm mươi năm sau, cô con gái 11 tuổicủa ông khi ấy, bà Phát Cận Huệ – Park Geun Hye – cách đây 2 hôm, 25/02/2013 ngồi vào chiếc ghế nóng của ông ngày ấy, nhưng Hàn Quốc đã là một cường quốc châu Á, có nền kinh tế đứng thứ 12 của thế giới. Năm mươi năm là một quãng thời gian hơn nửa đời người, nó đủ làm cho một đứa trẻ trở nên người bản lĩnh và chín chắn. Năm mươi năm nó cũng đủ làm một con người tham sống, sợ chết lúc trẻ trở thành một con người xem cái chết nhẹ tự lông hồng. Nhưng với lịch sử, nhiều khi chỉ là một dòng ngắn ngủi, để giáo khoa thư lưu lại sử sách cho thế hệ mai sau.

Năm mươi năm, quá ngắn khi nhìn một con người, hay một đất nước biết rũ bùn vươn thành một thế lực của toàn cầu. Nhưng năm mươi năm cũng lại là quá dài cho một dân tộc vẫn còn ngụp lặn trong hố đen của cùng khổ, vì các chính khách lầm đường lạc lối triền miên.

Năm mươi năm, hiến pháp Hàn Quốc chỉ thay đổi 1 lần vào năm 1987 của thời tổng thống Roh Tae Woo từ khi nó ra đời vào ngày 17/7/1948. Sau 39 năm là một nhà nước quân phiệt, nền kinh tế hùng cường bật dậy buộc hiến pháp Hàn Quốc phải thay đổi để phù hợp với tình hình, và biến nó trở thành một quốc gia tự do, dân chủ như hôm nay. Điều thay đổi quan trọng nhất của hiến pháp Hàn Quốc là, “Tất cả công dân đều được đảm bảo giá trị, nhân phẩm con người và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước có nhiệm vụ xác định, đảm bảo quyền cơ bản và không thể xâm phạm của cá nhân” trong điều 10. Từ đó, nhân dân Hàn Quốc được quyền trực tiếp bầu ra tổng thống của mình.

Năm mươi năm đủ để một Hàn Quốc có nền văn hóa trọng nam khinh nữ đến cực đoan – do ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa – có được vị nữ lãnh tụ đầu tiên cho một Hàn Quốc dân chủ và tự do đến mọi nhà.

Cũng Nam Bắc phân tranh, cũng nồi da nấu thịt tương tàn. Đất nước Đại Hàn cùng thảm kịch như Việt Nam, nhưng không “độc lập và thống nhất” như Việt Nam.

Cũng năm mươi năm ấy – mà còn hơn thế nữa, đến 67 năm – nước Việt có đến 5 hiến pháp khác nhau với 4 lần thay đổi, 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.

Thay đổi nhiều, nhưng tập đoàn cầm quyền chưa bao giờ sử dụng nó để điều hành và tuần thủ nó.

Thay đổi nhiều, nhưng người dân ngày càng teo tóp dần quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc như tuyên ngôn độc lập đã được sao chép từ Hoa Kỳ và Pháp.

Thay đổi nhiều, nhưng thay đổi vì tập đoàn cầm quyền cần nó để hợp thức hóa quyền lực của mình.

Thay đổi nhiều, nhưng đất nước cứ thụt lùi, trong khi thế giới đang tiến về phía trước, đến nay, ngay cả Cambodia nước ta cũng không thể sánh bằng.

Và tất cả những điều trên đã được ông đảng trưởng tổng kết rất ngắn gọn, đơn giản và xúc tích theo kiểu mà Mao Trạch Đông đã dùng trong đại cách mạng văn hóa ở Trung Hoa: Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng, để bảo vệ ngai vàng.

Năm mươi năm là khoảng thời gian đủ để khoảng 5% những đứa trẻ sinh ra về với đất, nhưng sáu mươi bảy năm thì đủ thời gian để hơn 50% những đứa trẻ ấy từ giả cõi đời. Không lẽ, để cho một quốc gia mà ở đó dân giàu, nước mạnh, người dân được hưởng quyền tối thiểu làm người khó đến mức đó sao?

577187_147718012057687_592535089_n

Nguồn Blog Hồ Hải

Ông Nguyễn Phú Trọng rất hàm hồ

TS Nguyễn Thanh Giang

Chương trình truyền hình tối 25 tháng 02 vừa qua đã phát đi những ý kiến sau đây của ông Nguyễn Phú Trọng:

“Các đồng chí phải lãnh đạo cái việc góp ý kiến sửa đổi dự thảo hiến pháp. Cái này quan trọng lắm đấy.

Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa.

Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có những quan điểm đấy!

Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng nữa. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa, chỉ ở đâu nữa nào?

Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì nó là cái gì?! Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.

Vừa nghe xong, như một phản xạ vô điều kiện, tôi bỗng buột miệng: “Trời ơi, cái cậu này ăn nói hàm hồ quá nhỉ!”.

Sao lại có thể quy chụp những người yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, yêu cầu đa nguyên đa đảng, yêu cầu “tam quyền phân lập”; những người tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể …” là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.

Nguyễn Phú Trọng có biết những ai đã và đang tích cực tham gia những hoạt động trên không?

Đó là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh 96 tuổi – nguyên Bí thư tỉnh ủy Thanh hóa, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nhà văn kỳ cựu khả kính Nguyên Ngọc, Bộ trưởng, ủy viên TW Đảng Nguyễn Đình Lộc, cố vấn Thủ tướng Nguyễn Trung, phó chủ tịch Quốc hội, giáo sư tiến sỹ Phan Đình Diệu, giáo sư – thứ trưởng Chu Hảo, tiến sỹ-thứ trưởng Trần Nhơn, luật gia – phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận, luật gia – phó chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Lê Hiếu Đằng, viện trưởng – giáo sư Tương Lai, viện trưởng-tiến sỹ Nguyễn Quang A…

Trong số đó, về tuổi tác: có người bậc cha chú, có người bậc đàn anh của ông; về trình độ: bậc thầy của ông; về quá trình cách mạng: bậc tiền bối so với ông.

Vậy mà Nguyễn Phú Trọng dám thóa mạ họ là những kẻ suy thoái mọi mặt. Dưới con mắt Nguyễn Phú Trọng, họ là những kẻ không còn tư tưởng chính trị đúng đắn, lối sống suy đồi, đạo đức kém cỏi…

Thật là nghênh ngang, trâng tráo, và hỗn xược.

Không có tự do trưng cầu dân ý để có thể nói tuyệt đại đa số nhưng chắc chắn nhiều người Việt Nam đồng tình với các vị nêu trên. Bản kiến nghị của 72 vị ký tên gần đây chỉ trong vài ngày đã lấy được hàng ngàn chữ ký. Nếu công khai trên mọi phương tiện thông tấn báo chí thì rất có thể sẽ có sự biểu đồng tình của hàng triệu người.

Vậy là ông Nguyễn Phú Trọng không những xấc xược với bề trên mà còn thất lễ với cả bộ phận lớn dân tôc!

Không kinh qua chiến trường, không được thực tế cuộc sống nhào luyện, vận may cứ thế thổi ông lên tận mây nên ông dễ dàng chơi vơi xa rời thực tế, không còn cảm nhận được hơi thở của nhân dân (tôi từng gọi ông là cậu ấm hiện đại). Có người vì nể cái bằng giáo sư-tiến sỹ của ông nhưng những người từng “lều chõng” thì thừa biết rằng nếu được Đảng giới thiệu sang Liên Xô lúc ấy để bảo vê cái luận án “Bảo vệ Đảng” thì nó “khó khăn” đến mức nào? Chưa đỗ lớp mười cũng có thể bảo vệ được một luận văn như thế.

Ông hãnh tiến, ông quá sung sướng, vậy mà, sao ông nỡ chỉ thị đuổi việc nhà báo Nguyễn Đắc Kiên khỏi báo Gia đình & Xã hội!

Chú ý rằng ngày 28/12/2012, chính ông chỉ thị giao nhiệm vụ cho lực lượng công an và quân đội phải “ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước“. Hôm 25/2/2013, tại Vĩnh Phú, chính ông lại ra lệnh “Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này“.

Thật là dã man, độc ác.

Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên không có lỗi gì. Qua bài viết “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, thấy anh là người có tài, có tâm và rất khảng khái, trung thực.

Một bạn đọc với nick Sinh Viên Cũ của thôn Danlambao đã viết về anh: “Anh không ở trong làng báo nô lệ, nhưng anh mãi mãi ở trong lòng những người dân chân chính, anh là người dám dũng cảm nói lên sự thật, dũng cảm đứng thẳng lưng, anh đã nghe lời mẹ dặn, anh là Phùng Quán thứ 2 của dân tộc này.

Tác giả Trần Quốc Việt thì cho rằng “anh Nguyễn Đắc Kiên đã cứu danh dự chung cho các nhà báo Việt Nam dưới chế độ toàn trị dù cái giá anh trả là bị đuổi việc, là tương lai bấp bênh đang chờ anh và gia đình.

Tôi yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng:

1 – Chỉ thị báo Gia đình & Xã hội thu hồi ngay quyết định đuổi việc nhà báo Nguyễn Đắc Kiên.

2 – Xin lỗi toàn Đảng, toàn dân về lời phát biểu hàm hồ tỏ sự khinh thị, dọa nạt, trấn áp đồng bào.

Tôi kêu gọi:

1 – Hãy cùng lên tiếng phản đối và phân tích rõ sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng, tư cách, đạo đức của ông Nguyễn Phú Trọng.

2 – Hãy vận động các nhà báo trong và ngoài nước cùng Tổ chức Ký Giả Không Biên Giới hỗ trợ nhà báo Nguyễn Đắc Kiên về cả tinh thần và vật chất.

Hà Nội ngày 27 tháng 02 năm 2013

Nguyễn Thanh Giang

Số nhà 6 Tập thể Địa Vật lý Máy bay

Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội

Mobi: 0984 724 165

Ngô Nhân Dụng – Lú nhỏ và lú lớn

Ngô nhân Dụng
Nguồn: Người Việt Online

aaaluÔng Nguyễn Phú Trọng quả là một nhân vật quan trọng. Một câu nói của ông được các công dân trên mạng đem ra bàn tán xôn xao, đâu đâu cũng ào ào phản đối. Có mấy ai trong xóm Ba Ðình được đồng bào chiếu cố như vậy?

Ông Nguyễn Phú Trọng nói thế này: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức…” Và ông mô tả tình trạng “suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức” gồm bốn triệu chứng: (1) muốn bỏ điều 4 Hiến Pháp; (2) phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản, muốn đa nguyên đa đảng; (3) muốn thực hiện tam quyền phân lập; (4) muốn quân đội chỉ phục vụ đất nước, không lệ thuộc đảng Cộng sản.

Trưng ra bằng chứng rồi, ông Nguyễn Phú Trọng nói: “Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy.” Và ông kết luận: “Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa?” Chứ còn gì nữa? Nghe ai cũng phải bật cười. Chứ còn gì nữa? Thảo nào dân Hà Nội vẫn gọi ông là Trọng Lú.

Ngoài những bằng chứng suy thoái tư tưởng, đạo đức trên, ông Trọng còn thấy đạo đức chính trị suy thoái cả trong hành động của dân nữa: “Tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì đó là cái gì (nếu không phải là suy thoái)?” Ông Nguyễn Phú Trọng bảo vệ bốn không: Không bỏ điều 4 độc quyền; không đa nguyên đa đảng; không phân quyền; và không cho quân đội thoát ra ngoài bàn tay kiểm soát của đảng Cộng sản.

Người lên tiếng phản đối đầu tiên là nhà báo Nguyễn Ðắc Kiên. Phát pháo đầu của Nguyễn Ðắc Kiên vừa nổ đã vang động bốn phương. Nhờ bài của ông Kiên mà nhiều người mới biết chủ nghĩa bốn không của ông Trọng. Bình thường thì những người ngồi nghe đều đang mơ màng ngủ gật, hoặc đang nghĩ đến những quả sắp đánh ra tiền; có ai nghe ông Trọng nói gì đâu? Nếu người nào vô tình để mấy lời ông nói lọt vào tai thì chắc họ cũng chỉ chép miệng, lắc đầu: “Lại lú rồi!”

Ông Nguyễn Ðắc Kiên nói thẳng vào mặt: “Ông là tổng bí thư Ðảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ ‘suy thoái’ thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói về (với) những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước.” Ông Kiên nói rõ “đang là đảng viên,” vì biết bây giờ nhiều đảng viên cộng sản trong lòng đã bỏ đảng từ lâu rồi.

Trong số các đảng viên đang nhờ đảng mà trục lợi, ai quên chủ nghĩa bốn không tất nhiên là “suy thoái” – chứ còn gì nữa? Bởi vì lập trường bốn không bảo đảm họ bám chặt quyền hành mà chia sẻ lợi lộc. Còn đảng còn mình. Mất đảng đi về đâu?

Nhưng còn người dân Việt bình thường, có ai muốn kéo dài chế độ tham nhũng, bất công, kinh tế trì trệ và nô lệ ngoại bang như hiện nay hay không? Chắc chắn không ai muốn!

Một ngày sau khi đưa bài lên mạng, ông Nguyễn Ðắc Kiên đã bị báo Gia Ðình & Xã Hội thi hành “kỷ luật, buộc thôi việc.” Nhà thơ Nguyễn Ðắc Kiên thật can đảm. Trước khi lên tiếng, chắc ông phải biết sẽ mất việc. Nước Việt Nam sẽ không bao giờ mất vào tay “Tàu lạ” là vì có những người dân Việt can đảm như vậy. Từ thời Hai Bà Trưng đã như thế: Nhưng hào kiệt đời nào cũng có! (Nguyễn Trãi)

Một người khác nhắc đến chủ trương bốn không của ông Nguyễn Phú Trọng là Nguyễn Hữu Vinh. Ông thẳng thắn bác bỏ “Xin thưa, đó không phải là suy thoái về đạo đức” của người dân Việt Nam, “mà đó là sự suy thoái uy tín, vị trí của (chế độ) độc tài, tham nhũng.”

Nhưng Nguyễn Hữu Vinh còn nhìn thấy đảng Cộng sản gần đây đã giăng một cái bẫy khi cho dân góp ý kiến về sửa đổi Hiến Pháp, nhấn mạnh: “Không có cấm kỵ khi góp ý sửa Hiến Pháp.” Ðây là một thủ thuật, như Mao Trạch Ðông đã dùng khi phát động phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng nói.” Ðể ai nói ý kiến thật đều bị nhận diện rồi bị đày đọa từ đời cha tới đời con.

Nhưng Nguyễn Hữu Vinh thấy cái bẫy đó gây phản ứng ngược. Bao nhiêu người lên tiếng đòi trong Hiến Pháp phải bỏ điều số 4 về độc quyền lãnh đạo của đảng, đòi tam quyền phân lập. Ðảng Cộng sản trông thấy nguy cơ; biết cứ đà này thì phong trào đòi sửa Hiến Pháp sẽ ngày càng mạnh, vận mệnh đảng lâm nguy! Cho nên, ông Nguyễn Phú Trọng phải đứng ra ngăn chặn bằng “bốn điều cấm kỵ,” 4 cái không! Nguyễn Hữu Vinh khen: “Cái ông tổng bí thư này quả là thâm hậu, thế mà dân gian cứ tặng cho ông xú danh là Lú thì quả không hẳn đúng.”

Nhưng khi dân Hà Nội đặt bài ca dao có câu “Lú như Trọng,” chắc họ không nhầm. Nếu ông Trọng không lú thì chẳng lẽ đất Thăng Long ngàn năm văn vật toàn dân lú cả hay sao? Bởi vì trong câu chuyện này, nếu ông Trọng không lú trong chuyện nhỏ, thì vẫn lú trong những chuyện lớn hơn.

Chuyện nhỏ là địa vị ngon lành của đảng, bỏ mất thì rất uổng! Cho nên phải bám chặt, phải đóng chốt, phải bảo vệ đến cùng! Cái này, quả thật ông Nguyễn Phú Trọng không lú.

Ông Trọng lú lẫn trong những chuyện lớn hơn. Cái Lú Lớn thứ nhất là không biết thế nào là tiến bộ, thế nào là suy thoái. Có những tiến bộ loài người mới chỉ đạt được trong vài thế kỷ vừa qua, trong đó có những quy tắc như “Tam quyền phân lập,” hay là quân đội thuộc về toàn dân, phải độc lập với các đảng chính trị. Nhiều dân tộc đã thực hiện được các quy tắc đó, họ đều hãnh diện. Nhũng thứ đó mà ông Nguyễn Phú Trọng lại gọi là suy thoái! Lú đến như thế thì xứng danh là Lú Lớn, dịch sang tiếng Trung Quốc là Ðại Lú!

Cái Lú Lớn thứ nhì là không biết chính cái đảng Cộng sản của ông nên chọn con đường nào để hạ cánh an toàn, cứ bám víu lấy một chủ trương tuyệt vọng sẽ đưa nhau vào chỗ chết. Hiện nay đảng Cộng sản có ba đường để chọn, theo ba mô hình: Ðài Loan, Liên Xô, hay Rumani.

Làm theo lối Quốc Dân Ðảng ở Ðài Loan tức là thi hành ngay các quyền tự do lập hội, lập đảng, quyền tự do phát biểu; khuyến khích tư doanh; chấp nhận có các công đoàn tự do, các đảng chính trị đối lập; tự dưng xã hội công dân sẽ phát triển, họ sẽ giúp chấn dân khí, khai dân trí và vụ dân sinh. Theo mô hình Ðài Loan thì chắc chắn phải đoạn tuyệt với chủ nghĩa bốn không của Nguyễn Phú Trọng!

Mô hình Liên Xô là tạo ra một Boris Yeltsin. Có lẽ Yeltsin hiểu rõ bản chất của đảng Cộng sản hơn chúng ta nhiều, thấy không theo nổi con đường Ðài Loan, nên đã thú nhận: Ðảng Cộng sản chỉ có thể thay thế, không thể thay đổi. Theo lối Yeltsin thì xóa đi làm lại hết; giải tán ngay đảng cộng sản; những đảng viên nào còn quyến luyến cứ đi lập lại đảng với nhau.

Nếu không theo hai đường Ðài Loan và Liên Xô thì chỉ còn Mô hình Rumani, tức là bảo vệ độc quyền lãnh đạo đến cùng, quyết tâm sẽ “về với Marx, Engels, Lenin và Nicolae Ceauescu.” Cái Lú Lớn của ông Nguyễn Phú Trọng là đang dẫn đảng ông theo mô hình Rumani bằng chủ trương bốn không.

Chúng ta có thể hiểu tại sao ông Trọng chọn con đường bốn không. Cả đời ông chỉ được học bấy nhiêu thôi. Giống như một con ngựa đã được hai miếng da che kín hai bên mắt, chỉ còn nhìn thấy địa vị và quyền lợi bày ra trước mặt, khó nhìn thấy đường nào khác.

Ðiều đáng tiếc là ông còn mắc vào một cái Lú Lớn hơn nữa, mà cái này có thể tránh được. Cái Lú Lớn nhất của ông Nguyễn Phú Trọng và những người theo chủ trương bốn không bây giờ, là họ khinh thường dân tộc Việt Nam.

Có lẽ nào người Việt cứ để cho một đám sâu mọt gậm nhấm tài nguyên quốc gia mãi như thế này được? Lẽ nào người Việt cứ chịu mãi cảnh thua kém các nước khác, từ Mã Lai tới Miến Ðiện? Lẽ nào người Việt cứ chịu mãi nỗi nhục bị Tàu lạ tấn công, người lạ đến cướp rừng, cướp biển? Lẽ nào người Việt khi muốn làm lễ tưởng niệm những người lính chết năm 1979 vì chống quân xâm lăng lại bị cấm đoán? Cấm đoán họ tưởng niệm không những là khinh rẻ người đang sống mà còn khinh cả những người đã chết; người dân nước nào chịu mãi như thế được?

Nhiều người Trung Hoa biết kính trọng dân Việt Nam hơn. Trong bài trước, mục này nhắc đến Tiết độ sứ Tăng Cổn cuối đời Ðường, với hai câu thơ “Việt điện sơn xuyên” đối với “Ðường gia nhân vật.” Trong bài thơ đó ông còn so sánh Nước Nam với xứ Thục (Tứ Xuyên bên Tàu) với hai câu: “Hiệu Nam quốc chi giang san – Thắng thần long vu Thục địa” (nghĩa là: Giang sơn nước Nam này hơn hẳn rồng thần đất Thục.)

Nếu như ông Nguyễn Phú Trọng biết đọc thơ thì chắc ông lú đến nỗi không khinh rẻ người Việt như vậy. Nếu đọc thơ, ông sẽ biết thi sĩ Nguyễn Ðắc Kiên viết mấy câu thơ như vầy:

“lũ quỷ ám thừa cơ toàn trị,
khủng bố dã man, gieo rắc những kinh hoàng,
biến lẽ sống thành châm ngôn ‘mày phải sợ’”

Nhà thơ không biết sợ cho nên bật lên lời nói thẳng. Ông bị mất việc làm ngay. Nhưng sau đó viết thư cho mọi người ông lại yêu cầu đừng ai đả kích tờ báo đã cho ông thôi việc, họ không có cách nào khác, tội nghiệp. Ðó là cách cư xử cao thượng theo đạo lý người Việt Nam. Không lẽ một dân tộc sống như vậy mà lại chịu làm tôi mọi cho một đảng bất lực và tham nhũng mãi?

Người Việt Nam sẽ lắng nghe những lời tâm huyết trong thơ Nguyễn Ðắc Kiên:

“còn chần chừ gì mà không tỉnh dậy mau,
sống cho xứng danh xưng con người trên mặt đất!”

Nguyễn Đắc Kiên – bởi vì tôi khao khát Tự do

nhà báo Nguyễn Đắc Kiên

Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên

Bởi vì tôi khao khát tự do

Tặng những người biểu tình ngày 09/12/2012

nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó tôi gặp những người ngay,
ở nơi đó đồng loại tôi đang sống.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó giam giữ Tự do,
giam giữ những trái tim khao khát Sống.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
tôi muốn được vào nhà tù Cộng sản,
ở nơi đó giam giữ những nhà thơ,
giam giữ kẻ ngủ hoang để thức tỉnh muôn đồng bào vô thức.

bắt nhà thơ giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thiên thể Tự do.
bắt Tự do giam vào trong ngục tối,
là mở ra ngàn thơ tứ Con người.

nếu một ngày tôi phải vào tù,
thì chắc chắn là nhà tù Cộng sản,

bởi vì tôi khao khát Tự do.

N.Đ.K, 09/12/12

Nguồn Blog Nguyễn Đắc Kiên

Anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia đình & Xã hội (vì đóng góp ý kiến cho TBT)

Nhiều báo mạng khác đã đăng bài viết của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên, phóng viên báo Gia Đình và Xã Hội, thuộc Tổng cục kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế.  Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên đã bày tỏ chính kiến của mình về việc TBT Nguyễn Phú Trọng gọi những người yêu cầu bỏ điều 4 ra khỏi Hiến pháp mới, đề nghị quân đội trung thành với tổ quốc v.v là “thoái hóa”.

Đáp ứng lại thiện chí và nhiệt tình của anh Kiên trong việc góp ý cho hiến pháp, hôm nay báo Gia đình & Xã hội đã sa thải anh Kiên. Hơn thế nữa, báo đã chính thức thông báo việc sa thải cho toàn xã hội rõ:

Anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia đình & Xã hội

GiadinhNet – Báo Gia đình & Xã hội xin thông báo, do anh Nguyễn Đắc Kiên (nguyên phóng viên) vi phạm Quy chế hoạt động của Báo và Hợp đồng lao động nên Hội đồng Kỷ luật của Báo Gia đình & Xã hội đã họp và ra Quyết định kỷ luật, buộc thôi việc đối với anh Nguyễn Đắc Kiên.

Hiện nay anh Nguyễn Đắc Kiên không còn tư cách là phóng viên Báo Gia đình & Xã hội và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật với các phát ngôn, hành vi của mình. Các đơn vị, cá nhân lưu ý khi liên hệ công việc, đề nghị liên hệ thẳng với Tòa soạn, không qua anh Nguyễn Đắc Kiên. GĐ&XH

Nguồn Giadinhnet

Lê Anh Hùng – 12 NGÀY TRONG ‘THẾ GIỚI TÂM THẦN’ – PHẦN I

aaanhPhần I – Hành trình vào “thế giới tâm thần”
Sáng 24/1/2013, như thường lệ, tôi tiếp tục công việc của mình tại Công ty HVT trong Khu CN Tân Quang, Văn Lâm, Hưng Yên.
Khoảng 10h15, anh giám đốc đột nhiên vào chỗ tôi đang làm và gọi tôi ra ngoài. Tôi đi ra thì gặp 6 người lạ mặt tự xưng là công an huyện Văn Lâm và xã Tân Quang, trong đó chỉ có một người mặc quân phục cảnh sát, mang quân hàm thượng tá. Họ nói là “mời” tôi về trụ sở công an xã để làm việc về vấn đề tạm trú, tạm vắng. Anh giám đốc công ty phản đối với lý do đó là trách nhiệm của công ty và yêu cầu họ muốn làm việc thì phải có giấy mời đàng hoàng, muốn đưa người đi thì phải có biên bản, nhưng họ gạt đi. Họ hỏi tôi giấy tờ tuỳ thân, tôi bảo để tôi đi lấy CMND. Nhưng tôi mới đi được mấy bước thì họ gọi giật lại, bảo không cần nữa, rồi dẫn tôi đi. Tôi đề nghị thay bộ quần áo bảo hộ trên người họ cũng không cho. Viên thượng tá cùng một tay công an khác xách nách tôi như áp giải tội phạm. Trước sự phản đối của tôi, họ buộc phải buông tay để tôi đi tự nhiên. Họ đưa tôi lên một chiếc xe Innova rồi chở đến trụ sở UBND xã Tân Quang, cách chỗ tôi làm hơn 1km.
Đến nơi, họ dẫn tôi vào hội trường UBND xã, không quên bảo nhau lục soát người tôi để xem tôi có “thiết bị” gì ngoài điện thoại không. Họ định mang điện thoại của tôi đi, nhưng do tôi phản đối nên họ phải bỏ lại trên bàn, cạnh chỗ tôi ngồi. Một trong số 6 người trên hỏi tôi về giấy tờ tuỳ thân với thái độ không lấy gì làm nhã nhặn. Tôi đáp: “Tôi chẳng biết anh là ai cả; hơn nữa, lúc ở công ty tôi bảo để tôi đi lấy CMND, các anh không cho. Giờ anh lại còn vặn vẹo gì nữa?” Anh ta nói là anh ta đã tự giới thiệu là Trưởng CA xã khi ở công ty tôi rồi. Nói đoạn, anh ta rút ví và chìa cái thẻ công an trước mặt tôi, nhưng tôi chỉ thấy bên ngoài thẻ chứ không thấy thông tin bên trong thẻ. Một tay xách máy quay phim luôn chỉa máy về phía tôi để ghi hình ngay khi tôi mới bước vào hội trường.

Sau đó, tôi gặp lại viên sỹ quan công an chừng 52 tuổi mà tôi đã chạm trán hôm 27/6/2011, khi tôi bị Cục A67 bắt cóc. Anh ta chắc là người của Công an Hà Nội, vì lúc tôi “làm việc” với Cục A67 thì anh ta không có mặt, mà khi anh ta đến thì tôi đã làm việc xong với họ, và sau đó hồ sơ vụ việc của tôi lại được chuyển cho Công an Hà Nội thụ lý. Anh ta cho tôi biết là muốn “mời” tôi đi làm việc. Tôi phản đối: “Các anh muốn làm việc với tôi thì phải có giấy mời đàng hoàng, bởi việc tôi tố cáo là công khai và đúng pháp luật. Hơn nữa, tôi đã có quá nhiều kinh nghiệm xương máu với công an các anh rồi, các anh luôn đẩy bất lợi về phía những người như chúng tôi thôi.” Anh ta ôn tồn là lần này không phải phía công an mời tôi làm việc mà là phía dân sự. Dù chưa biết là người ta sẽ “làm việc” với mình theo kiểu gì, nhưng tôi vẫn đồng ý đi theo họ, phần vì tò mò, phần vì nghĩ là có muốn cưỡng lại cũng không được.

Sau khoảng mươi phút ở trụ sở UBND xã, họ dẫn tôi ra một chiếc xe du lịch 12 chỗ ngồi, mang biển xanh, và đưa đi. Trên xe có 12 người, trong đó có 2 phụ nữ, một người khoảng 35 tuổi và người còn lại nghe nói là mới ra trường; viên sỹ quan Công an Hà Nội và tay quay phim kia cũng có mặt trong đoàn. Dọc đường đi, viên sỹ quan công an cứ huyên tha huyên thuyên với tôi, anh ta cố ý lái câu chuyện sao cho mọi người trên xe nghĩ là tôi bị “tâm thần”. Tôi buộc phải nhũn nhặn nói với anh ta: “Anh không cần phải hạ thấp mình mà huyên thuyên linh ta linh tinh như vậy. Anh đừng để mọi người phải coi thường mình như thế chứ.” Từ đó anh ta mới bớt nói nhăng nói cuội. Một người đứng tuổi, ngồi phía sau tôi, cất tiếng: “Nghe tiếng Hùng đã lâu, giờ mới gặp.” Tôi quay lại hỏi anh ta có phải là công an không thì anh ta nói không phải, mà là người của ngành LĐ-TB-XH. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Thế quái nào lại xuất hiện người của cái ngành lạ hoắc này ở đây cơ chứ?!” Và cứ nghĩ chắc tay này lại bịp mình thôi.
Tôi chẳng hiểu người ta đưa tôi đi đâu, hỏi viên công an kia thì anh ta cứ quanh co hoặc trả lời nhăng cuội. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi xe đi qua lối rẽ vào Bệnh viện Tâm thần Trung ương (địa điểm toạ lạc của Viện Giám định Pháp y Tâm thần TW, nơi tôi được “giám định tâm thần” năm 2009) mà không rẽ vào. Trong đoàn cũng chẳng ai rõ địa điểm phải đến nằm ở đâu nên lái xe phải vài lần dừng xe hỏi đường. Xe đi đến Trung tâm Nuôi dưỡng và an dưỡng người có công số II (Sở LĐ-TB-XH), nằm bên trái đường, thì rẽ vào. Tôi rất ngạc nhiên và cất câu hỏi bâng quơ: “Người ‘có công’ hay người ‘có tội’ đây?” Vài người nhìn tôi cười. Đến lúc đó, tôi vẫn nghĩ là có thể họ muốn cách ly tôi để điều tra vụ việc do tôi tố cáo.
Vào trung tâm, mọi người xuống xe, vài người đi gặp những người có trách nhiệm của trung tâm. Một lát sau, họ quay ra cho biết là “nhầm địa chỉ”. Mọi người lại lên xe đi tiếp. Cách Trung tâm kia khoảng 2km thì xe rẽ vào một lối đi nằm ở bên phải đường, với tấm biển mang dòng chữ cho thấy đích đến của cuộc hành trình mà tới lúc đó vẫn còn “bí hiểm” đối với tôi: Trung tâm Bảo trợ Xã hội II – Sở LĐ-TB-XH. Lúc này tôi mới ngờ ngợ ra mục đích của họ: người ta muốn nhốt tôi ở cái “trung tâm bảo trợ xã hội” này đây! Khi xe tiến vào sân trung tâm, nhác thấy nhiều người mang bộ dạng khó lẫn vào đâu của người mắc bệnh tâm thần, tôi lại càng nhận ra ý đồ của họ.
Mọi người xuống xe. Viên sỹ quan công an gọi tôi lại, chìa tay ra bắt và nói: “Hùng ở lại đây nhé. Tôi về.” Thế là rõ âm mưu của bọn họ! Lúc đó là khoảng 12h30.
 aa26
Trung tâm Bảo trợ Xã hội II – Hà Nội
Người ta đưa tôi lên phòng hội trường trung tâm, nằm ở tầng ba, tầng cao nhất của toà nhà chính, và lấy nước nôi “tiếp đãi” tôi khá tử tế trong khi chờ đoàn làm việc với lãnh đạo trung tâm ở tầng một. Không hiểu họ làm việc với nhau về những gì mà rất lâu, mất tới cả tiếng đồng hồ. Trong lúc chờ đợi, tôi hỏi mấy người đi theo về mục đích họ đưa đến đây là gì, nhưng không ai trả lời cụ thể, kể cả tay cán bộ LĐ-TB-XH mà tôi đã nói ở trên, người lúc này mới cho biết mình là cán bộ của Phòng LĐ-TB-XH quận Thanh Xuân. Anh ta nói là mới về phòng công tác, bảo đi theo đoàn thì đi chứ cũng không biết đi làm gì cả (?!). Tình cờ, tôi nhác thấy trên xấp tài liệu mà anh ta đang xem có tờ quyết định tiếp nhận đối tượng bảo trợ xã hội, trong đó có dòng chữ “tiếp nhận ông Lê Anh Hùng…”. Thấy tôi sán lại định cầm tờ quyết định lên xem thì anh ta vội chuyển cho người khác. Tôi nói: “Các anh phải cho tôi xem người ta quyết định số phận của tôi như thế nào chứ.” Tuy nhiên, họ chối quanh và không cho tôi xem.
Lúc này thì tôi không còn hồ nghi gì về mục đích của việc người ta dẫn tôi vào cái gọi là “trung tâm bảo trợ xã hội” này nữa. Tôi bèn bảo mọi người muốn tìm hiểu vụ việc của tôi thì hãy vào tiện ích tìm kiếm Google và gõ “Lê Anh Hùng” thì sẽ ra rất nhiều thông tin về tôi, đồng thời sẽ hiểu được nguyên do vì sao tôi bị đưa vào đây. Một tay nhân viên của trung tâm liền lấy chiếc smart phone của mình ra và truy cập vào mạng theo chỉ dẫn của tôi. Vài người cùng xúm lại xem.
Sau một hồi, cảm thấy không khí trong phòng ngột ngạt, tôi đi ra ngoài hành lang. Vài nhân viên trung tâm theo sát tôi, dường như họ sợ tôi phẫn chí rồi nhảy từ tầng 3 xuống. Tôi bảo họ: “Tôi không sợ chết nhưng lại sợ đau. Các anh không cần phải cứ kè kè bên tôi như thế đâu.” Tôi muốn điện thoại ra ngoài để dặn dò mấy người bạn của tôi ở công ty, nhưng biết điện thoại của mình đang bị nghe lén nên thôi. Lường trước việc người ta sẽ thu điện thoại của mình nên tôi mở điện thoại, ghi nhớ số điện thoại của một người trong công ty, để khi có điều kiện thì sẽ mượn điện thoại ai đó gọi về dặn dò mọi người.
Khoảng 13h30, sau khi những người có trách nhiệm trong đoàn làm việc xong với lãnh đạo trung tâm, người ta dẫn tôi xuống tầng 1, vào phòng của Phó Giám đốc Trung tâm Lê Công Vinh, người trước đó đã lên tầng ba “thăm dò” tôi qua mấy câu hỏi xã giao. Trong phòng, ngoài PGĐ Lê Công Vinh còn có GĐ Đỗ Tiến Vượng, vài cán bộ của trung tâm và vài người có trách nhiệm trong đoàn “áp giải” tôi. Tôi ngồi xuống 1 trong bốn chiếc ghế xa-lông nhỏ quanh bàn nước. Những người khác kẻ đứng người ngồi xung quanh. Cô cán bộ của Phòng LĐ-TB-XH quận Thanh Xuân, chừng 35 tuổi,  ngồi đối diện với tôi, bắt đầu trình bày qua sự vụ rồi đọc quyết định của PGĐ Sở LĐ-TB-XH Hà Nội về việc “tiếp nhận đối tượng bảo trợ xã hội vào Trung tâm Bảo trợ Xã hội II Hà Nội”. Tay quay phim gần như liên tục chỉa máy quay về phía tôi.
Tôi lớn tiếng phản đối quyết định của họ, chỉ ra những điểm sai trái và tuỳ tiện trong quyết định kia. Các cán bộ của Phòng LĐ-TB-XH quận Thanh Xuân phân bua rằng họ chỉ là những người thừa hành thôi, và họ sẽ phản ánh lên cấp trên. Trong khi những người này đang bối rối trước phản ứng quyết liệt và lý lẽ của tôi thì một nhân viên của trung tâm hô hào mọi người xông vào áp chế tôi, buộc tôi phải đi vào khu vực nhốt bệnh nhân tâm thần. Bọn họ tước điện thoại của tôi, và cũng chẳng thèm hỏi xem tôi có đói bụng hay không, dù đã quá bữa trưa từ lâu. Lúc này khoảng 2h chiều.
(còn tiếp)

Lưu Trần Sinh- Cuộc chiến Ba – Tư và vận đảng theo Sấm Trạng Trình (III)

II – Cuộc chiến Ba Tư và vận đảng theo Sấm Trạng Trình

2. Khi nào đảng cộng sản Việt Nam mất chính quyền và đi đến tan rã? (tiếp theo)

a/ Một bài thơ khác, cũng được cho là Sấm Trạng Trình, nội dung như sau:

Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam bắc hà thời thiết lộ thông
Hổ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong
Dưới đây, chỉ phân tích hai câu 5 và 6, được cho là gắn với giai đoạn từ nay đến năm 2021.

Hà Thành Tranh Bá – Phim bộ Việt Nam dài tập được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết trinh thám Cuộc Chiến Ba – Tư với nhiều tình tiết ly kỳ, rùng rợn, hấp dẫn! :)

* Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc: Kê tức là gà, minh ở đây hiểu là gáy, tức là phát ra tiếng động đáng chú ý, tiếng gà gáy thường được biết đến như là báo trời sáng, mặt trời mọc đằng đông, ứng với cung bát quái Chấn. Ngọc thụ là tên một vị thuốc bắc, nhục quế, thường dùng bổ thận, ấm cật (lưng), cái lưng ví như núi (cấn), ấm cật như là đốt lửa dưới núi, tức là Sơn Hạ Hỏa. Trong vòng hội 60 năm, cái năm mà ứng với Gà, Chấn, Sơn Hạ Hỏa là năm Đinh Dậu, sắp tới có năm Đinh Dậu 2017.

– Có thể năm Đinh Dậu 2017 sẽ xảy ra nhiều biến động quốc tế và những biến động này kích phát dẫn tới việc đảo chính hoặc nổ ra một cuộc khởi nghĩa lớn ở Miền Bắc Việt Nam. Dù là đảo chính hay một cuộc khởi nghĩa thì cũng làm rung chuyển chế độ hiện hành và khơi nguồn cho hàng loạt các cuộc nổi dậy chống chính quyền vào những năm tiếp theo.

– Trong hoàn cảnh thế giới thời hiện đại luôn có sự liên thông giữa tình hình trong và ngoài nước, câu trên cũng có thể ngầm chỉ một biến động quốc tế, có tác động đến Việt Nam. Ngọc Thụ là tên một địa khu tự trị vùng Tây Tạng (Trung Quốc). Gà trống là biểu tượng của nước Pháp (Gô loa), nơi cách mạng dân chủ tư sản thành công triệt để, là một trung tâm của thế giới văn minh hiện đại tôn trọng nhân quyền, là nơi tạo ra bức tượng nữ thần tự do đặt ở Mỹ. Rất có thể năm 2017 phong trào đòi tự do cho Tây Tạng có những biến chuyển mạnh mẽ khiến Trung Quốc ngả nghiêng choáng váng và cộng sản Việt Nam vì thế mất đi một sự hậu thuẫn quan trọng, gần như là tình trạng mất Liên Xô hồi trước.

* Ngưu xuất Lam Điền nhật chính đông: Ngưu là Trâu, Lam Điền là tên một khu ruộng đất ở phía tây, có nhiều ngọc quý. Năm có biểu tượng là Trâu, thuộc hành Thổ, bát quái Đoài (Tây) chính là năm Tân Sửu, Tân cũng còn có nghĩa là mới, là thò ra (xuất). Sắp tới có năm Tân Sửu 2021. Mặt trời mọc ở hướng Đông (Nhật chính đông) có thể có ba ý nghĩa:

– Một thời đại mới bắt đầu ở Việt Nam như bình minh của một ngày mới. Nay đang thời độc tài toàn trị, sáng sủa hơn, mới mẻ hơn tất phải là tự do dân chủ nhân quyền.

– Nước Nhật không thể nhịn Trung Quốc hơn được nữa, đi đến quyết định tái vũ trang, “tái xuất giang hồ”. Mỹ cũng buộc phải chấp nhận vì không thể ngăn ngừa sự trỗi dậy hung hăng của Tàu mà thiếu sức mạnh quốc phòng từ Nhật Bản. Việc này làm gia tăng khả năng xung đột ở Đông Á và Đông Nam Á, thậm chí dẫn đến hải chiến khá lớn ở Biển Đông (khả năng ít) hoặc ở khu vực Điếu Ngư/Senkaku (khả năng nhiều). Trận hải chiến này, nếu xảy ra vào năm Giáp Thìn 2024 thì Trung Quốc sẽ bị thua. Trận thua này có thể khiến nước Trung Hoa cộng sản toàn trị độc tài sụp đổ vào năm Ât Tị 2025.

– Liên hợp quốc được cải tổ với nhiều quyền lực hơn và các nước lớn trở lên đoàn kết, thống nhất hơn trong các hoạt động gìn giũ hòa bình, nhân quyền, môi trường, chống tham nhũng – buôn lậu – trốn thuế, chống khủng bố, xử lý tranh chấp lãnh thổ.

b/ Một câu hỏi được đặt ra là: Lấy gì để đảm bảo năm Đinh Dậu kể trên đúng là Đinh Dậu 2017 và Tân Sửu đúng là Tân Sửu 2021?

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 và bắt đầu làm sấm ký vào thời Mạc Đăng Doanh, khi ông đã ở tuổi tri thiên mệnh tức là ít nhất là từ 50 tuổi trở lên. Bài sấm 487 câu được cho là ứng với 487 năm sau khi ông bắt đầu viết sấm, bởi vì ông biết rằng, trước ông khoảng 500 năm, có một nhà tiên tri là Lý Vạn Hạnh và sau ông cũng khoảng độ gần 500 năm thì cũng có người có khả năng tiên tri như ông và Lý Quốc Sư.

* Làm phép tính 1491 + 50 + 487 = 2028.

Như vậy, bình minh của thời đại mới được cho là năm 2021 hoàn toàn nằm trong vùng phủ của 22 câu cuối của bài sấm 487 câu.

* Để đích xác hơn, có thể dùng phép thử trực tiếp. Tạm ấn định năm Tân Sửu 2021 với câu 467 “đào viên tán lạc ngô dân thủ thành”, tính ngược lại 10 năm (cơ nhị ngũ) là câu 458 “can qua tranh đấu khởi” – là năm Nhâm Thìn 2012. Kiểm chứng ngay các sự kiện năm vừa qua thì thấy đúng như vậy, mà nguyên nhân cơ bản của “can qua tranh đấu khởi” không gì khác hơn là “bách tính khổ tai ương” do bọn gian tà giả danh cao quý tốt đẹp lừa dối đồng bào, nói một đường làm một nẻo (quần gian đạo danh tự).

c/ Để kiểm tra lại thêm nữa cho ăn chắc, xem xét vấn đề từ nguyên tắc làm sấm ký.

Sấm ký được làm theo qui trình đầy đủ gồm có ba giai đoạn là: Thứ nhất là tính vận số thời cuộc hàng trăm hàng ngàn năm theo Dịch số, Thái Ất, hoặc Tử vi. Thứ hai là tính vận số từng năm theo quẻ Dịch hoặc lối bói chiết tự. Thứ ba là suy luận tương lai từ những gì đã biết ở quá khứ theo nguyên lý vận số xoay vần lặp lại (nhưng mà là nắm lấy cái thần của sự kiện chứ không phải sao chép lặp lại y nguyên).

Ở cuối cùng bài sấm 487 câu có nhắc đến “thiên hạ thái bình”. Khi mà coi như năm Tân Sửu 2021 ứng với câu 467 thì thời điểm ứng với kết thúc bài sấm là năm 2031, cách năm sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm độ 540 năm. Trong lịch sử Việt Nam, trước Nguyễn Bỉnh Khiêm trên dưới 500 năm có vua Đinh Tiên Hoàng là người mở nền đại thống độc lập tự chủ cho Việt Nam và cũng là người đầu tiên dùng niên hiệu Thái Bình (năm 970). Thời điểm ấy cách năm sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm là 521 năm.

Làm phép tính (1491 + 521) được 2012. Tuy nhiên, chúng ta biết chắc là năm 2012 không phải là năm “thiên hạ thái bình”.

Làm phép tính (1491 – 540) được 951. Gần với năm 950, là năm Việt Nam có hai vua cùng tại vị là Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Trước đó 6 năm (944), quan đại thần Dương Tam Kha chiếm ngôi vua của Thiên Sách Vương, xưng là Bình Vương. Năm 950, Nam Tấn Vương được sai đi đàn áp dân hai làng Đường, Nguyễn nhưng ông không đàn áp dân mà cùng quân tướng mang binh về lất đổ Bình Vương, rước Thiên Sách Vương về, hai anh em cùng coi việc nước.

Xét tình hình khoảng thời gian từ 950 đến 970 có nhiều điểm khá gần với tình hình thời nay (2012 – 2031).

– Sáu năm trước năm 2012, tức là năm 2006, anh Nguyễn Tấn Dũng lên ngôi thủ tướng. Tuy chỉ là thủ tướng nhưng anh khéo kết bè kéo cánh nên quyền lực lớn nhất nước. Cậy có quyền to lực lớn, anh băng băng làm tất cả theo ý mình (và bè phái mình), bất chấp mọi lời can gián, khuynh đảo lấn át cả đảng và quốc hội. Nguyễn Tấn Dũng có tên thường gọi là Ba Dũng. Sáu năm trước năm 950, Dương Tam Kha tiếm ngôi vua, cái tên Dương Tam Kha có nghĩa là anh Ba họ Dương.

– Anh Tư Sang, là người từ trong Miền Nam tiến ra Miền Bắc, lên ngôi chủ tịch nước, tên của anh cũng có một chữ Tấn. Theo dư luận chung, anh Sang ít có tâm địa độc quyền, không đồng ý việc đàn áp dân để cướp đất và cũng không có ý triệt hạ những người bất đồng chính kiến. Tính cách ấy phần nào gần với tính cách của Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn. Năm 2012, Tư Sang khởi phát việc chống lại sự lộng hành của Ba Dũng, dân gian thường gọi là cuộc chiến Ba Tư. Sau đó, anh được anh Trọng ủng hộ, hai anh liên thủ cùng nhau, một đứng đầu nhà nước, một đứng đầu đảng duy nhất đang lãnh đạo đất nước. Việc này, có thể coi như tương tự thời Xương Văn, Xương Ngập cùng coi việc nước (năm 950 – 954). Thêm nữa, hai anh Sang và Trọng đều từng là bí thư thành ủy hai thành phố lớn nhất Việt Nam và hình như thời chiến tranh hai thành phố này kết nghĩa ví như anh em.

– Bác Cả Trọng, xuất thân thi thư “đỉnh cao trí tuệ”, tên lại có một chứ Phú, có vẻ rất gần với hai chữ Thiên Sách (sách trời, thiên kinh vạn quyển, hàng nghìn làng xã). Tánh bác Trọng bảo thủ, quan điểm độc đảng, có vẻ rất gần với tính cách tham mọn độc quyền của Ngô Xương Ngập. Trước hội nghị trung ương quyết diệt sâu, nghe đồn bác Cả Trọng chuyển vào Bộ Quốc Phòng làm việc, không dám ở trụ sở TW đảng vì sợ anh Dũng tính chuyện không ngờ. Cái này có vẻ giống với việc Ngô Xương Ngập phải chạy vào núi Hun, nương nhờ tướng quân Phạm Chiêm vì sợ anh Ba họ Dương giết. Năm 954, Thiên Sách Vương đột tử do thượng mã phong. Làm phép tính (2012 + 4 = 2016), là năm bác Cả Trọng 73 tuổi, lại là năm bận rộn bầu cử từ đảng đến quốc hội, chắc chắn đầy căng thẳng đứng tim. Bác Trọng vốn sức khỏe yếu, có đi gặp cụ Hồ thì cũng không có gì lạ.

d/ Lật lại vấn đề một lần nữa: Lấy gì đảm bảo rằng Nguyễn Bình Khiêm có sử dụng thủ pháp “xem việc trước luận việc sau” trong khi làm sấm ký? Cái này có thể thấy rất rõ, như sau:

– Ở 22 câu cuối bài sấm ký 487 câu, có câu “Phá điền thiên tử giáng trần”, nói về bậc chân mệnh thiên tử của thời đại mới. Phá ở đây là Trực Phá, ứng với tháng Bảy âm lịch – tháng Thân. Chữ Điền có tự dạng gần với chữ Giáp (giáp biến vi điền). Trong bài sấm này, ở đoạn giữa, cũng đã có câu “phá điền đầu khỉ …”. Như vậy Phá điền tức là Giáp Thân. Bậc chân mệnh thiên tử xuất hiện sau thời kỳ “quần dương tranh hùng”, “đào viên tán lạc”. Những ghi chép lịch sử đã cho chúng ta thấy rõ, Đinh Bộ Lĩnh sinh năm Giáp Thân, lên ngôi hoàng đế sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, loạn này xảy ra khi triều Ngô tan rã. Một trong những nguyên nhân làm triều Ngô suy yếu và tan rã là do anh Ba (Dương Tam Kha) tiếm đoạt vương quyền. Một nguyên nhân cực quan trọng nữa là do xung đột thường xảy ra giữa triều đình và dân chúng các làng xã (không biết ngày đó có nạn quan chức và chính quyền cướp đất của dân như bây giờ hay không!).

– Sau khi lên ngôi, năm 970, Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đặt niên hiệu là Thái Bình. Ở cuối bài sấm 487, cũng có câu “hiệu xưng thiên hạ thái bình / đông tây vô sự nam thành quốc gia”, ở trên đã tính ra là ứng với năm 2030 – 2031.

– Đinh Bộ Lĩnh được sự phù giúp rất đắc lực của Minh Công Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (cửa biến chính lớn – nay là tỉnh Thái Bình). Nói về sự phù giúp cho bậc chân mệnh thiên tử thời sắp tới đây, sấm cũng có nhắc đến “dũng sĩ nhược hải mưu thần nhược lâm”, “Trần công nãi thị phúc tâm”,

e/ Cũng còn có một số cách lý giải khác với những gì viết ở trên, nhưng vì (tác giả nghĩ rằng) ít có cơ sở thuyết phục nên không ghi ra chi tiết. Tuy nhiên, cũng xin ghi lại vài ý kết quả là: Thời điểm “quần dương tranh hùng” là vào khoảng năm 2020 – 2021. Thời điểm “đào viên tán lạc” là khoảng năm 2030 – 2032.

3. Kết luận: Sau khi tổng hợp nhiều ý kiến và xem xét nghiên cứu một cách nghiêm túc, với sự dè dặt và cẩn trọng cần thiết, có thể tạm kết luận như sau: Theo như đoạn cuối bài sấm ký 487 câu, được cho là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì, chậm nhất là đến năm Tân Sửu 2021 chế độ toàn trị độc tài quan liêu tham nhũng bạo ngược giả dối hành dân sẽ sụp đổ, mở ra một thời kỳ mới tốt đẹp hơn rất nhiều cho dân tộc Việt Nam, và chậm nhất là đến năm 2032, đảng cộng sản Việt Nam sẽ tan rã hoàn toàn, không còn (và không bao giờ) có thể chiếm quyền đè đầu cưỡi cổ dân ta được nữa. (Nói chậm nhất có nghĩa là từ nay cho đến các năm đã kể ở trên, sự sụp đổ và tan rã có thể xảy ra bất cứ lúc nào).

III – Bàn thêm về cuộc chiến Ba – Tư

Nhiều người thường nhìn “cuộc chiến Ba – Tư”, “song anh chiến sâu chúa”, “tam anh chiến đồng chí X” như là sự đấu đá nội bộ tranh giành quyền lực giữa các cá nhân và phe nhóm. Tuy nhiên, bản chất của những trận đấu này sâu xa hơn thế nhiều.

Hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam đã vô cùng mất lòng dân, tình hình kinh tế xã hội ngày càng tụt dốc, môi trường sống tan hoang nát bét đầy ô nhiễm, đạo đức xã hội và giáo dục xuống cấp trầm trọng, tham nhũng hoành hành công khai trắng trợn, ngoại bang không ngừng lấn ép dòm ngó mưu chiếm đoạt lãnh thổ lãnh hải … Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là đảng csVN về cơ bản đã sai từ tư duy lý luận trong định hướng xây dựng đất nước văn minh hiện đại theo con đường chuyên chính vô sản độc tài toàn trị.

Đảng không thể thừa nhận cái sai trên, vì nếu thừa nhận thì không còn tư cách lãnh đạo. Nhưng không thừa nhận thì cũng không ổn vì sự thực nó chình ình trước mắt không thể chối cãi lẩn tránh được. Có một cách rất hữu hiệu là tìm một vài cá nhân nào đó để đổ tội, để chứng minh là sai do cá nhân (hoặc nhóm cá nhân) chứ trị tuệ tập thể của đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn đúng. Ngày xưa, trong cải cách ruộng đất, để lấy lại lòng dân, Trường Chinh, Hồ Việt Thắng và một số người khác đã bị đem ra “tế thần dân”. Ngày nay, đồng chí X và phe nhóm của đồng chí X là lễ vật “tế thần dân” tốt nhất trong tất cả các lễ vật mà đảng cộng sản Việt nam hiện có.


Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ loạn đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
(còn tiếp)

Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng

Nguyễn Đắc Kiên – Nhà báo, báo Gia Đình & Xã Hội

26-02-2013

Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2 đưa phát biểu tại Vĩnh Phúc của TBT ĐCS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như sau: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”(*)

Bằng tất cả sự tôn trọng với người đang đứng đầu một đảng chính trị của VN, tôi xin nói với ông Nguyễn Phú Trọng vài lời như sau:

Đầu tiên, cần phải xác định, ông đang nói với ai? Nếu ông nói với nhân dân cả nước thì xin khẳng định luôn là ông không có tư cách.Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu muốn dùng hai chữ “suy thoái” thì cùng lắm là ông chỉ có thể nói với những người đang là đảng viên cộng sản, ông không đủ tư cách để nói lời đó với nhân dân cả nước. Nếu ông và các đồng chí của ông muốn giữ Điều 4, muốn giữ vai trò lãnh đạo, muốn chính trị hóa quân đội, không muốn đa đảng, không muốn tam quyền phân lập, thì đó chỉ là ý muốn của riêng ông và ĐCS của ông. Ông không thể quy kết rằng đó là ý muốn của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, những ý muốn trên chỉ nên xem là của riêng ông TBT Trọng, chưa chắc đã là tâm nguyện của toàn bộ đảng viên cộng sản hiện nay.

Tiếp theo, xin đi vào nội dung, ông nói suy thoái về đạo đức. Tôi muốn hỏi ông, đạo đức của ông đang muốn nói là đạo đức nào? Đạo đức làm người? Đạo đức công dân? Đạo đức dân tộc VN? … Tôi tạm đoán là ông đang muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản vô đạo đức hết à? Thế ra, những người không theo đảng cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à?

Tiếp theo, xin đi vào nội dung suy thoái chính trị, tư tưởng. Tôi muốn hỏi ông, chính trị, tư tưởng ông đang muốn nói là chính trị, tư tưởng nào? Có phải chính trị, tư tưởng của đảng cộng sản? Vậy ra chỉ có đảng cộng sản của các ông là duy nhất đúng à? Cá nhân tôi cho rằng, không một người có lương tri bình thường nào thừa nhận như thế. Cùng lắm ông chỉ có thể nói với các đảng viên cộng sản như vậy, nhưng ngay cả với các đảng viên cộng sản, ông cũng không thể quy kết tội suy thoái cho họ. Nếu không tin, ông thử đọc lại Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng các ông ban hành xem. Không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái, muốn đa nguyên về chính trị là suy thoái, muốn phi chính trị hóa quân đội là suy thoái, chỉ có tham ô, tham nhũng…  đi ngược lại lợi ích của nhân dân là suy thoái. Ông đương kim tổng bí thư ĐCS VN thử đọc lại và nghĩ lại chỗ này xem.

Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:

1- Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới để Hiến pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành.

2- Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước.

3- Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc.

4- Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào.

5- Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tức đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

—–

(*) Nguồn: Chương trình Thời sự VTV1, 19h, ngày 25/2; phần âm thanh và gỡ băng của Anhbasam.

Basamnews

Hà Sỹ Phu – Góp phần “giải mã” một thế hệ dấn thân

aaahyaa Hà Sĩ Phu

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Sáng 19-2-2013 đọc báo mạng thấy trang Anhbasam có điểm hai bài tương phản: “Tiêu Dao Bảo Cự: Từ Ngô Kha, soi rọi và giải mã một thế hệ dấn thân (Diễn Đàn); Blogger Caubay Thiem có bài phản biện lại bài này bên Facebook”.

Mặc dù tôi mới ở bệnh viện về, tình trạng mắt được bác sĩ yêu cầu hết sức hạn chế đọc và viết, tôi vẫn phải “đánh liều” viết đôi điều ngắn gọn về chuyện “xung đột” âm ỉ từ lâu này (nếu có thể gọi như thế), giữa những người đáng kính, vì mấy lẽ sau đây:

– Thế hệ dấn thân theo con đường cộng sản như nhà văn TDBC bao hàm nhiều người (ở miền Bắc còn nhiều hơn miền Nam), trong đó số đã thức tỉnh ở những mức độ khác nhau, đang cố gắng làm những điều nhằm sửa lại hay chống lại thực tại sai lầm của ĐCS cũng ngày càng nhiều thêm, nhưng việc tự đánh giá giai đoạn quá khứ của mình xem chừng chưa có gì nhất trí, ổn thỏa, thanh thoát, như có những tâm trạng uẩn khúc bên trong nên phải đặt vấn đề “giải mã”.

– Việc “giải mã” cũng liên quan đến cả những người CS hiện nay đang được dư luận ca ngợi, tán thưởng (kể cả dư luận khó tính ở hải ngoại), như nghệ sĩ Kim Chi khước từ sự có mặt trong nhà ở của mình chữ ký của một kẻ cao cấp “hại nước hại dân” – vì chị tự hào mình là một người “Cộng sản chân chính”! Những đảng viên trong 72 vị khởi xướng đợt góp ý Hiến pháp hiện nay cũng vậy, chắc phần đông cũng là những người muốn hành xử như những người “Cộng sản chân chính” để phân biệt mình với loại “CS thoái hóa”. Vậy có thể tồn tại khái niệm “người CS chân chính” hay không, cũng là điều cần xác định cho rõ.

– Trong hàng ngũ những bạn bè thân hữu đang nỗ lực góp phần mình vào công cuộc dân chủ hóa xã hội hiện nay cũng có hai “phe” với hai cách nhìn ngược nhau trong việc đánh giá quá khứ tham gia Cộng sản.

Tóm lại, tình hình khác nhau trong việc nhìn nhận giai đoạn quá khứ tham gia hoặc ủng hộ CS là điều tốt hay không tốt, là công hay tội, nên nhớ đến để tôn vinh hay nhắc đến chỉ thêm ân hận… là một thực tế rộng lớn, tuy không phải mâu thuẫn đến mức nặng nề nhưng vẫn âm ỉ như một chút gợn, một cái gai, hay một cái nhọt trong đội ngũ những người từng có nợ với quá khứ và đang phải băn khoăn về trách nhiệm với hiện tại và tương lai đất nước (còn những kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ hay cố bám sự hủ bại thì không đáng bàn đến ở đây).

Khoảng một hai năm gần đây, khả năng lãnh đạo của đảng cầm quyền ngày càng sút kém, bất lực, những mâu thuẫn đối nội và đối ngoại thúc đẩy phải có những thay đổi, kéo theo đó là sự phân hóa phức tạp trong xã hội về nhân sự, tổ chức, phong trào, phe nhóm… Bên cạnh chủ trương đối xử cứng rắn với giới dân chủ tiên phong là sự nới rộng có kiểm soát với giới trí thức cận thần, có cái mới vừa sáng tạo ra, có cái vốn cũ đang được dùng lại. Trong bối cảnh phân hóa đó, sự khác nhau tiềm ẩn trong quá khứ của giới “pro-Đảng” nay cần phải tách bạch. Việc điểm tin hai bài ngược chiều nói trên của “nhật báo Basam”, mà tránh không bình luận, có lẽ cũng là một biểu hiện nhạy cảm và tế nhị. Những người nhạy cảm thấy đã đến lúc nên có sự trao đổi thẳng thắn với tư cách giữa những người được giả thiết là “chung một chiến hào”. Vướng một cái gai, anh chiến sĩ vẫn có thể chiến đấu, nhưng “giải quyết” được cái gai tất nhiên sức chiến đấu sẽ tốt hơn nhiều.

Suốt trong quá khứ tôi không dính dáng trực tiếp gì đến chính trị, nhưng bạn bè thuộc cả hai “phe” cũng có nhiều thân hữu. Trong điều kiện sức khỏe không thuận lợi, tôi không dám hy vọng có thể đề cập vấn đề một cách thấu đáo, chỉ xin đưa ra một vài ý chung, tản mạn, để góp phần gọi là “giải mã” một thực tiễn khá nhiều tế nhị.

II. MẤY ĐIỀU CƠ BẢN GỢI Ý CÓ THỂ DÙNG TRONG LÝ GIẢI

1/ Phải chăng sự hiểu biết lúc ấy chưa đủ tầm để sàng lọc?

Hiện tượng một chủ nghĩa ảo tưởng, phi lý và phản tiến hóa như chủ nghĩa CS lại rộ lên một thời rộng lớn, thu hút đám đông, trong đó có cả những trí thức lớn, nghịch lý quá lớn ấy khiến thiên hạ phải chiêm nghiệm mà đúc kết thành một quy luật, quy luật liên kết và hoán vị loại trừ lẫn nhau trong 3 thành tố, tạm gọi là luật“Loại trừ một trong ba” hay luật “Hai khử một”.

Ba thành tố ấy là Tâm hồn Lương thiện, Trí tuệ Thông thái và Lập trường Cộng sản, liên kết và loại trừ nhau như sau:

– Đã Thông thái và Cộng sản thì không Lương thiện ( phải mưu mẹo, gian hùng).

– Đã Lương thiện và Cộng sản thì không Thông thái ( phải nhẹ dạ, nông cạn).

– Đã Lương thiện và đủ Thông thái thì không theo Cộng sản [1].

Những ai tự nhận mình luôn lương thiện trong sáng và đã theo CS thì ứng với trường hợp thứ hai, tức là trí tuệ nông cạn, không đủ tầm để sàng lọc trước một vấn đề ở tầm thời đại. Trước mắt mới nhìn bề ngoài tưởng là tốt thì theo thôi.

Xem ra nhiều đảng viên lương thiện không chịu nhận là lúc ấy mình ngu, cứ khẳng định khi ấy chỉ có theo đảng là thông minh nhất. Có vị còn khăng khăng rằng: Nếu bây giờ lịch sử lặp lại thì ông ta cũng lại chọn đúng con đường cũ chứ không thể khác. Sở dĩ có sự tự ái như vậy do chưa hiểu sự “ngu đần” có thể là tầm của cả một dân tộc trong một thời kỳ chứ chẳng riêng ai, người viết những dòng này cũng đâu thoát khỏi mê cung ấy? Phê phán bạn cũng là phê phán mình. Chỉ cần so sánh với một dân tộc văn minh và khôn ngoan hơn sẽ thấy ngay sự kém cỏi, dân trí lạc hậu của cả dân tộc mình thì sẽ tránh được tâm lý tự ái cá nhân.

Hiện tượng có mấy nhà bác học nổi tiếng vẫn say mê CS cũng chẳng biện bạch được gì hơn vì có thể vị bác học ấy giàu lý tưởng, lý thuyết, hiểu biết chuyên môn nhưng rất ngây thơ, ảo tưởng, cũng dốt về chính trị-xã hội. Chấp làm gì những vị trí thức nọ trí thức kia mù quáng thân Cộng, khi “ông trùm CS” của nước mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quyết định theo con đường Cộng sản cũng chưa hiểu Cộng sản là gì kia mà?

Cú “nhích chân” của Nguyễn Ái Quốc  từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của Lenin “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa”, “Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì, thì tôi (tức Nguyễn Ái Quốc) chưa hiểu”. Thậm chí Sơ thảo luận cương về các dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L’humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả chữ nghĩa trong văn bản” ấy Nguyễn Ái Quốc”cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi” [2].

Nhưng cũng không chấp ông HCM làm gì, khi chính ông Mác ông Lê cũng “khái quát vội, khái quát nhầm” ít nhất là 9 điều căn bản [3] tức là cũng hụt hẫng về Trí tuệ khi cả gan nghĩ ra một chủ nghĩa mới toanh hòng cứu rỗi nhân loại nhưng vượt quá tầm Trí tuệ của mình (chủ nghĩa Xã hội khoa học ít nhất cũng có một khuyết điểm cơ bản là phi khoa học!), thì một đảng viên CS nhỏ bé có tự nhận là “Trí tuệ không đủ để sàng lọc” cũng chẳng có gì đáng phải băn khoăn!

Vậy thì thôi, ta cứ yên trí nhận là trước đây ta theo CS vì chưa đủ thông thái để sàng lọc là ổn.

Nhưng mâu thuẫn vẫn chưa hết. Các bạn lại bảo: tôi theo CS không phải là yêu CS gì hết, chỉ vì yêu nước, yêu hòa bình-thống nhất, ghét Mỹ xâm lược. Nếu bạn chỉ mượn CS làm phương tiện như thế thì khi mục đích đã xong, Mỹ đã rút, đã có “hòa bình-thống nhất” thì bạn còn ôm cái “phương tiện” ấy làm gì, bạn phải chủ động rời bỏ nó ngay mới phải, như qua sông rồi thì bỏ con thuyền ở lại chứ?

Nếu bạn lại bảo: tôi chưa hiểu gì về chủ nghĩa CS nên hãy cứ theo xem sao? Vậy đến hôm nay bạn đã hiểu chưa? Với tư cách một đảng viên bạn có tìm hiểu mọi thông tin trên mạng và trên thực tế không, có biết nghị quyết 1481 của Nghị viện châu Âu, biết nhân loại đã vứt một Chủ nghĩa ảo tưởng vào sọt rác lịch sử? Nếu có đủ thông tin thì chắc bạn không còn đủ dũng khí để tự hào là một đảng viên CS, vì tôi tin bạn là người có trí óc bình thường và còn dây “thần kinh xấu hổ”. Theo lô-gich của môn “liêm-sỉ-học” (liemsiology!) thì bạn phải hành xử như Trần Độ, như Phạm Đình Trọng, như Nguyễn Chí Đức… mới phải.

Nhưng chưa, bạn chưa đến chân tường, vì bạn còn một câu trả lời khả dĩ hữu lý: Tôi phải ở lại trong Đảng để “chiến đấu”, với tư cách “người CS chân chính” chống bè lũ “CS thoái hóa”. Vâng, vậy xin chuyển tiếp sang phần sau.

2/ Có hay không khái niệm gọi là “người Cộng sản chân chính”?

Những người tự hào là “CS chân chính” vì nghĩ rằng cái đảng mà mình gia nhập là một đảng chân chính, nay “một số không nhỏ” (tất nhiên nằm trong lãnh đạo tối cao) đã THOÁI HÓA và PHẢN BỘI, nên mình phải đấu tranh chống lại sự tha hóa để phục hồi một ĐCS chân chính, nghĩa là mình đấu tranh (chống những cán bộ lãnh đạo xấu) với tư thế của người “đòi nợ”, đòi cái món nợ mà đảng đã hứa (trong lời tuyên bố) trước nhân dân nhưng bây giờ họ “quỵt nợ, vỗ nợ”!

Phải công nhận, nếu như vậy thì trong 3 yếu tố Lương tâm, Trí tuệ và Cộng sản bạn đáp ứng đầy đủ hai yếu tố Lương tâm và Cộng sản nhưng quá yếu về Trí tuệ (theo đúng quy luật Hai khử một đã nói ở đoạn trên), nên trở thành duy cảm, thiếu duy lý. Sự THOÁI HÓA và PHẢN BỘI đã nằm sẵn trong mớ tín điều của chủ nghĩa, đã được “chương trình hóa” ngay từ khi khởi lập. Những biểu hiện thoái hóa và phản bội mà bạn nhìn thấy bây giờ thực ra đã được tiền định từ đầu (trước khi bạn gia nhập đảng rất lâu): không một ĐCS cầm quyền nào có thể thoát khỏi tình trạng thoái hóa và phản bội!

Về lý thuyết chính Mác đã tự chống lại mình, khi triết học Mác thì duy vật, chống duy tâm-duy ý chí nhưng chính trị Mác thì rất duy tâm, chủ quan, duy ý chí. Một lý thuyết ảo tưởng phi khoa học thì sẽ bị thực tế chống lại nên dần dần phải làm ngược lại hết, CS phải tự làm ngược lại những tín điều của mình mới mong tồn tại. Cuối cùng, ngày nay mỗi đảng viên đều phải chọn cho mình một sự giã từ, một sự “phản bội”: hoặc là trung thành với chủ nghĩa thì phản bội nhân dân, muốn trung thành với nước với dân thì phải phản lại chủ nghĩa [4]!

Khi bạn trung thành với nước với dân, với nhân tâm, với chân lý phổ quát thì bạn là “con người chân chính”, rất chân chính, tôi yêu quý bạn, nhưng bạn không còn là “người CS chân chính” nữa đâu, âu cũng là lối tự hào do cảm tính, xin đừng nhầm lẫn!

Bạn lại bảo: Tôi trung thành với chủ nghĩa CS là trung thành với lý tưởng cao đẹp của nó. Bạn lại nhầm rồi. Nhân tố chủ yếu làm nên một chủ nghĩa, phân biệt chủ nghĩa này với chủ nghĩa khác không phải ở mục đích mà nó tuyên bố, mà ở con đường mà nó vạch ra, vì mục đích sau cùng thì bao giờ chẳng tốt đẹp, căn bản đều phải hướng đến tự do-hạnh phúc cho con người. Nhưng khi con đường sai hoặc ảo tưởng thì không đến đích mong muốn hoặc chỉ đem đến kết quả ngược lại như trường hợp chủ nghĩa Mác-Lênin [5].

Ngoài ra, có cách đi đến đáp án đơn giản hơn nhiều:

Khi một chủ nghĩa ảo tưởng chỉ đem lại kết quả ngược với mong muốn thì chủ nghĩa ấy không thể coi là CHÂN CHÍNH được. Chủ nghĩa đã không CHÂN CHÍNH thì làm sao tín đồ của nó lại CHÂN CHÍNH được? Bạn chỉ có thể là một CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH vì thực ra bạn đã làm ngược tín điều của Chủ nghĩa rồi, chắc bạn là người nặng về duy cảm nên không nỡ hay không dám để cho bộ óc Duy lý được đứng trước gương mà phán xét đó thôi! Xin nói với nhau một lời thông cảm thực lòng như vậy.

III. LẤY ĐÍCH DÂN CHỦ-ĐỘC LẬP-PHÚ CƯỜNG LÀM SỢI DÂY LIÊN KẾT

Chỉ cần nhìn các nước quanh ta với một xuất phát “same-same” như nhau đủ thấy trong cuộc chạy đua thế kỷ, Việt Nam chúng ta là kẻ thua cuộc, là đoàn khách nhỡ tàu.

Chỉ nhìn kinh tế – kỹ thuật đã thấy thua các nước bạn trong khu vực vài chục năm nhưng sự thua kém về độc lập – tự do, về văn hóa – nhân phẩm còn đáng lo hơn nhiều.

Nay muốn đoàn kết để thực hiện dân chủ ắt phải chấp nhận đa dạng đã đành, nhưng ở một nước vừa trải qua mấy cuộc phân ly kinh khủng, lại đang bị ngự trị bởi một Ý thức hệ đoàn kết giả để phân ly thật thì lòng người ly tán là một trở ngại khổng lồ, nếu không biết chấp nhận sự khác biệt thì lấy đâu sức mạnh cho một sứ mệnh cũng khổng lồ tương xứng? (Sứ mệnh lập lại một xã hội đã bị phá nát từ gốc, quay lại một con đường đã đi ngược trên nửa thế kỷ, chống lại một anh hàng xóm khổng lồ chỉ muốn kìm giữ Việt Nam yên vị như một con cừu Ý thức hệ vừa ngoan vừa chậm vừa ngu để hắn có thể ngoạm dần hết cơ thể con mồi trong cái áo choàng hữu nghị đểu).

– Muốn có khối đoàn kết toàn dân tộc, trước hết hãy tìm khả năng đoàn kết giữa các khối người tích cực mà họ đang rất khác nhau như trên đã nói. Hãy quý sự khác nhau ấy vì đó chẳng những là thực tiễn buộc phải chấp nhận, là tất yếu trong tinh thần dân chủ, mà còn là thuận lợi để diễn tiến xã hội đi lên một cách hòa bình. Nếu không có những “trí thức cận thần”, còn rất khác những người có tư duy triệt để (biết phải thay đổi cái cũ tận gốc), đồng thời lại có những người trung gian giữa hai thái cực ấy thì sao có thể nối với nhau thành những nhịp cầu chuyển hóa dần dần? Nối tiếp với nhau được nếu tất cả đều hướng về phía trước, dẫu kẻ trước người sau nhưng phải chống những kẻ ngược chiều hoặc mưu toan cơ hội trụ lại nửa chừng để chia hoa lợi!

Một ví dụ: trong những người đã có thời hăng hái theo đảng làm một cuộc gọi là “chống Mỹ cứu nước” có người không muốn nhắc lại “thành tích đáng buồn” cũ (như anh em Huỳnh Nhật Hải-Huỳnh Nhật Tấn) trong khi rất nhiều người vẫn muốn nhắc lại những kỷ niệm một thời tranh đấu “hào hùng”. Không sao, miễn là khi nhắc lại chuyện cũ phải nhìn dưới lăng kính mới, vượt trên cái cũ với óc phê phán để phục vụ cho cái mới. Chẳng hạn phải hiểu vì sao trong chế độ cũ (mà ta quyết đánh đổ) ta có thể ngang nhiên tranh đấu, tuyên bố hùng dũng, thậm chí lãng mạn bay bổng, thỏa chí tang bồng chống lại giới cầm quyền, còn trong chế độ mới (mà ta mơ ước) ta chỉ dám làm bằng 1 phần trăm thời xưa thôi mà đã phải rụt rè? Chẳng hạn ngày trước dưới cái nhìn bồng bột ta chỉ thấy cái gọi là “Mỹ Ngụy” là thấp hèn, tàn ác, đáng khinh ghét, nay dưới cái nhìn dân chủ và toàn cầu ta lại mong sao bây giờ được bằng cái mà ta đã quyết diệt [6], mong trở lại cơ hội cũ mà ta đánh mất, để rồi từ đó tiếp tục đi lên thì dễ dàng hơn.

Chẳng hạn ta nhận ra sự “hào hùng” cũ thật là “bi tráng” (như nhà văn TDBC nhận thấy), nhưng “bi” không ở chỗ bị kẻ thù tàn sát, thất bại đau đớn như cái bi hùng của phong trào Nguyễn Thái Học, mà ngược đời, “bi” lại ở chỗ muốn thắng cuộc thì nhất thời đã thắng, nhưng nghĩ lại, thà đừng thắng thì hơn! “Bi” ở chỗ cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi thanh niên (nhưng còn bồng bột, cảm tính, bị tuyên truyền), tương tự như cái vốn quý giá mà Dương Thu Hương gọi là “một khối vàng ròng”, nhưng đã bị lợi dụng, bị dùng nhầm, dùng phí phạm, đáng tiếc. Song cái “bi” ở đây cũng không hề “bi lụy” nếu ta quyết hồi sinh cái “tinh hoa phẩm chất” của tuổi trẻ ấy, với sự bổ khuyết rất cần thiết bằng các tri thức hiện đại, trưởng thành, để dùng vào công cuộc hôm nay, như để bù đắp cho điều đáng tiếc cũ, thì sự hồi tưởng như thế thật là hồi tưởng vô cùng tích cực.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc cũng vậy, nghĩ lại thời đã qua để thấy trách nhiệm của mình. “Cả tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt, để đúc nên chính cỗ máy này”, cái cỗ máy của sự “đểu cáng lên ngôi”. Hồi ức chuyện cũ để mà hối tiếc cho nhiệt huyết của mình không đem lại kết quả mong muốn, và thấy trách nhiệm của mình trong hiện tại! Một khi cùng hướng về phía trước và hành động cụ thể là nhất định gặp nhau. (Không biết trong hàng ngũ của các anh có ai muốn ôn chuyện cũ để kể công, để che dấu cái hèn hiện tại, để lập một cái gì đó chung chiêng hay không thì tôi không rõ, tất nhiên không bàn).

– Hãy biết ơn những người tiên phong.

Nếu như trên mặt phẳng nằm ngang ta hình dung đoàn người nối tiếp nhau như cây cầu bắc từ chế độ độc tài toàn trị đến cuối cầu là chân trời Dân chủ-Độc lập-Phú cường, trong đó những tư tưởng tiên phong luôn dẫn đầu đi trước, thì đừng quên một đường dây thẳng đứng, người nọ đứng lên vai người kia, để đưa nhau từ đáy giếng lên bờ. Trên cái “chồng người” thẳng đứng ấy những người tiên phong đứng ở dưới cùng cho đồng đội được đứng lên vai. Những người tiên phong ấy sẽ lên bờ sau cùng hoặc lúc khải hoàn có thể không còn họ nữa.

Về Độc lập dân tộc nếu không có những anh hùng liệt nữ đã hy sinh liệu ngày nay ta có còn quốc gia không để mà tranh đấu? Chúng ta đã đứng trên vai họ để có hôm nay. Về Dân chủ-Tự do cũng vậy. Nếu không có những người dân chủ tiên phong như Nguyễn Mạnh Tường, như Hữu Loan, như Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Lê Hồng Hà, Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hòa thượng Thích Quảng Độ, cha Nguyễn Văn Lý, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức… vân vân và vân vân… mà hầu hết họ đều bị tù đày, và biết bao tiếng nói dân chủ từ bên ngoài hỗ trợ thì làm sao có chút nền dân chủ cỏn con để có thể tồn tại những trang web dân chủ trong nước như trang Bô-xít, trang Basam và các blogger? Rồi đến lượt, nếu không có những trang web và blogger ấy làm chỗ tựa làm sao đoàn trí thức 16 vị có thể được đón tiếp để trao những kiến nghị và dự thảo Hiến pháp quá mạnh dạn kia, cũng như cá nhân tôi lúc này có thể công khai công bố những lời đóng góp thẳng thắn nhường này? Chúng ta đã được đứng trên vai họ, những người dân chủ tiên phong chịu nạn tù đày để giành lấy từng tý chút dân chủ cho ta tiếp tục. Hãy nhớ ơn họ!

Nói đến chuyện đứng trên vai nhau, tôi lại thầm hỏi mình: nếu không có đồng đội lấy vai cho mình đứng, lại không có một điểm tựa nào đó từ môi trường, dù là điểm tựa vô tình hay vô tri thì một cá nhân đơn độc làm sao có thể vượt qua cái vai của mình? Tự mình vượt qua chính mình mới thật là điều khó lắm thay! Làm sao có thể tự thắng cái khối lượng ì ạch của bản thân với tất cả những sức cản nặng nề đã ràng buộc mình vào cuộc đời này?

Đà Lạt ngày 24-2-2013

H.S.P.

———————————————————————————-

[1] “Quy luật” tương tự này tôi đọc thấy đã lâu, gần đây thấy nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh và nhà báo Lê Diễn Đứcnhắc tới. Tôi diễn đạt lại cho rõ hơn (HSP)

[2] Xưa nhích chân đi giờ nhích lại: HCM quyết định theo Quốc tế 3 khi chưa hiểu CS là gì ! Tư liệu trích từ:

-Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nhà xuất bản Văn học, Hànội (in lần thứ tám), 1975, trang 44.

– Hồ Chí Minh:Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000, trang 126.

– Lữ Phương:Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, THƯ NHÀ xuất bản, Australia, 2002, trang 40.

[3] Xem bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (HSP)

[4] Từ vụ Bauxite nghĩ về vận nước (www.hasiphu.com/baivietmoi_40.html)

[5] Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của Trí tuệ

[6] Nguyên Ngọc (S: Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn …). Huy Đức: “bên (cần)được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Tướng Võ Nguyên Giáp [2]

Tướng Võ Nguyên Giáp [1]

vo-nguyen-giap1

Chỉ cần căn cứ vào nội dung bài viết cho thấy tự thân, đây là một tài liệu thiếu trung thực !! Nông dân mà có học thức, lại có thể truyền đạt chữ nghĩa cho con trai thì hẳn có đỗ đạt!! Có ruộng nương, nhưng lại tự cầy cấy lấy cho đúng gốc nông dân !!

Nhưng còn những chi tiết có tính cách gỡ tội cho tướng Giáp, viết nửa kín nửa hở cho tướng Giáp đến ấu trĩ:

“Cuốn sách có những chi tiết rất thú vị về năm sinh của đại tướng, những đoạn viết nói rõ âm mưu hiểm độc của thực dân Pháp nhằm mua chuộc cậu học trò trung học Võ Nguyên Giáp. Tuy nhiên, kết quả ngược lại, ông đã trở thành người học trò suất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh”

[1]Ibid

Viết rõ về năm sinh thì có gì là chi tiết lý thú? Âm mưu thâm độc của Pháp mua chuộc là gì sao không nói rõ ra? Thật ra nội dung cuốn sách được viết như sau:

(Trong một vụ ẩu đả với người Pháp, Võ nguyên Giáp bị bắt, kết án ba năm tù giam tại nhà tù Lao Bảo.

Khi đó quan cai trị Marty cho rằng không nên để Giáp bị giam lâu trong tù, vì ở trong tù chàng thanh niên sôi sục ý chí cách mạng này chắc chắn sẽ trưởng thành hơn do được tiếp xúc với các chính trị phạm khác, sau này có thể trở thành kẻ thù không đội trời chung của chính quyền thực dân, cho nên tốt hơn hết là tạo điều kiện cho anh ta học thành tài và anh ta sẽ khôn ngoan, dễ bảo hơn.

Sau đó, từ thân phận tù khổ sai. (Ở trên viết là ba năm tù giam, nay đổi ra tù khổ sai!!!), Giáp trở thành học sinh trường Trung Học Albert Sarraut, một trường học tốt nhất ở thuộc địa, thực tế là dành riêng cho con em người Pháp, và số ít quan lại hay công chức cao cấp người Việt được ưu đãi đặc biệt.

Marty đã mắc sai lầm lớn nhất trong cuộc đời hành nghề mật thám của mình. Georges Boudarel. “ Giáp”, 1977).

Chia sẻ với người đọc cuốn sách, nhà sử học Dương Trung Quốc cũng cho là một cuốn sách: Sự quan sát và phân tích của Boudarel vô cùng sắc sảo và thuyết phục dựa trên nguồn tư liệu phong phú xác thực, thể hiện cái nhìn của một người trong cuộc”.

Và chúng ta còn biết nói gì khi chính con trai vị đại tướng, ông Võ Hồng Nam, Hiện là Giám đốc công ty CP Máy tính truyền thông Hồng Nam) phát biểu trong buổi tọa đàm ra mắt cuốn sách:

“Cha tôi vẫn dạy, đã biết lịch sử thì phải biết cho đúng. Tác giả thể hiện góc nhìn của một người bạn từng chiến đấu cùng nhân dân Việt Nam về cuộc kháng chiến của dân tộc ta”.

[2] Ibid…

Nhưng theo tôi, cuốn sách của Cecil B. Currey, nhan đề: Victory at any cost: The Genius Of Viet Nam’s Gen. Vo Nguyên Giáp ghi lại đầy đủ chi tiết và trung thực hơn cả. Xin được tóm tắt như sau:

“Võ Nguyên Giáp trở thành một học sinh năng động tham dự vào cuộc để tang  Phan Châu Trinh và tham dự vào cuộc bãi khóa tại trường Quốc Học cùng với một người bạn là Nguyen Chi Dieu. Cha ông là Vo Quang Nghiem từng là một quan chức triều đình thuộc loại thấp nhất thường được gọi là cụ Cửu Nghiêm (Cửu là hàng thứ chín, bậc thấp trong hàng quan lại). Cha ông cũng làm thêm nghề Đông y và làm ruộng. Một phần nhỏ đất đai được cho cấy thuê. Dieu đã rủ Giáp vào đảng Tân Việt Cách Mạng đảng. Sau TVCMĐ bị tách làm đôi, VNG tham gia vào phía đảng cộng sản.

Trùm mật thám Louis Marty lúc đó ở Vinh dĩ nhiên có hồ sơ cá nhân về Giáp, biết Giáp thường gặp Phan Bội Châu.

Vào năm 1930, mật thám Pháp đã bắt một số người tình nghi hoạt động chống Pháp cùng với một số người khác trong đó có anh của Võ Nguyên Giáp là Võ Thuần Nho, Đặng Thái Mai, một giáo sư văn chương tại Quốc Học và một nữ sinh 15 tuổi tên Nguyễn Thị Quang Thái, nữ sinh Đồng Khánh. Người mà sau này là vợ của Võ Nguyên Giáp.

Đặng Thái Mai bị kết án 4 năm tù, Nguyễn Thị Quang Thái, hai năm tù. Riêng Võ Nguyên Giáp vì chứng cớ hoạt động không rõ ràng, nhưng quan tòa cũng xin xử phạt 2 năm tù khổ sai.

Sau 13 tháng bị giam tù ở Lao Bảo, một nơi gần với biên giới Lào Việt, chính quyền ra lệnh giảm án cho bất cứ án tù nào dưới 4 năm tù . Và tù nhân phải về quê nơi gốc gác để tiếp tục án tù còn lại. Giáp trở về Huế, nơi ông bị bắt giữ. Nhưng nhà cầm quyền ơ đây đòi trục xuất ông về lại làng An Xa. Giáp phản đối không tuân lệnh và về Vinh, nơi ở của giáo sư Đặng Thái Mai. Vinh cũng là nới bố của bà Thái- Nguyễn Huy Bình- làm ở sở Hỏa xa.  Về ở Vinh với Đặng Thái Mai mà con gái của ông Mai là Đặng Bích Hà, nhỏ hơn Giáp 19 tuổi thường gọi Giáp bằng chú. Và sau này trở thành vợ tướng Giáp và có với ông 4 người con.

Năm 1933, Đặng Thái Mai ra Hà Nội nhận dạy học ở trường Thăng Long, VNG ra Bắc theo.

Cũng theo tác giả, với một án tù chính trị như thế, con đường học của Võ Nguyên Giáp là không thể có được nếu không có sự giúp đỡ của Louis Marty.

Trong việc tiếp xúc giữa Marty và VNG, Marty đã khuyên giáp quay trở lại việc học và chuẩn bị cho việc thi tú tài 1 và 2. Chắc hẳn Marty đã ngầm giúp đỡ để Giáp có thể vào học ở trường Albert Sarraut.

Từ đó Giáp chỉ còn chuyên chú vào việc học và đọc sách. Giáo sư Đặng Thái Mai cho VNG ở nhờ đỡ tốn kém về tiền ăn ở, yên tâm học hành. Không có sự bảo trợ của Louis Marty, VNG không thể vào học được trường Albert Sarraut.

Sau khi đỗ xong hai bằng tú tài, Giáp ghi tên học luật khoa. Năm 1937, ông tốt nghiệp cử nhân luật. Nhưng để ra làm luật sư, ông phải hoàn tất một chứng chỉ hành chánh luật. Ông đã không hoàn tất.

50 năm sau được hỏi tại sao không học nốt luật để trở thành luật sư, VNG đã trả lời, ông đã không bao giờ mong muốn trở thành luật sư.

Và từ sau đó, người ta không còn hay biết gì về bóng dáng của Marty bao phủ trên cuộc đời của VNG nữa. Phải chăng việc giúp đỡ của con người bí mật Louis chỉ thuần túy có tính cách nhân đạo, hoàn toàn trong sáng vô tội hay ngược lại đòi hỏi cung cấp những thông tin như về đảng Tân Việt, về đảng cộng sản mới được thành hình, về những tên tuổi, về những kế hoạch đảng và những hoạt động bí mật vv..

Cho đến hiện nay, không có bằng cớ gì cụ thể về những nghi ngờ trên. Bao lâu chưa có đủ bằng cớ thì vẫn chỉ là những câu hỏi chưa có câu trả lời.

Những dư luận chung quanh tướng Võ Nguyên Giáp

Trước hết, ông Bùi Tín có nhận xét là VNG có thói quen ham đọc sách và tìm hiểu của một người trí thức.

[3] Bùi Tín, Viet Nam, la face cachée du régime , trang 40.

Có một điều ông Bùi Tín không nói tới một cách đầy đủ là kể từ khi được ông Hồ phong làm bộ trưởng bộ nội vụ, ông Giáp đã đặt ra ngoài vòng pháp luật những đảng phái Quốc Gia. Nói chung những ai không phải Việt Minh thì đều bị coi là “việt gian”, tay sai cho Pháp và bị tàn sát thẳng tay.

Tháng 8,1948, ông Hồ phong ông Giáp lên chức đại tướng.

Và đặc biệt Peter Macdonal, có thể là người duy nhất được dành cho phỏng vấn tướng Giáp đã viết như sau trong cuốn sách của ông, The victor in Viet Nam:

“It is difficult to compare him with other generals because his combination of guerrilla and conventional action on such a scale has not been seen before. In the main aspects of war, Giap was oustanding.”

[4] Giap, The victor in Viet Nam, Peter Mc Donald, trang 341

Sự kính nể ấy có phần đúng. Nhưng tất cả các tướng lãnh Mỹ hay Pháp cũng như các tác giả viết về tướng Giáp, không một ai có chút hiểu biết sâu xa, đầy đủ về mối quan hệ Việt – Trung trong trận chiến ấy. Nếu họ được đọc những tài liệu về phía Trung Quốc thì họ có còn giữ được sự kính nể nữa hay không?

Không nói đầy đủ về mối quan hệ Việt-Trung cũng như Việt-Xô trong vai trò nhiệm vụ Quốc tế cộng sản thì đánh giá về hai cuộc chiến ấy hoàn toàn thiếu cơ sở. Thật vậy, không có sự thống nhất nước Tàu năm 1949, không có Mao Trạch Đông thì diện mạo cuộc chiến tranh Đông Dương đã không diễn ra thuận lợi như vậy. Không phải chỉ một mình tướng Võ Nguyên Giáp lần lượt đánh bại 7 tướng lãnh Pháp. Mà còn Trần Canh, Lã Quý Ba và Mao Trạch Đông.

Người ta biết cả đấy, nhưng cứ tảng lờ đi như thể không biết.

Có lẽ Jean Sainteny là người hiểu rõ tướng Giáp hơn ai hết có nhận xét do trực tiếp quen biết về con người tướng Giáp là: Người nhỏ thó, nhưng rắn rỏi. Võ Nguyên Giáp kết hợp óc thông minh hơn người với một ý chí sắt đá và cá tính can trường.

Phải nói rõ thêm là lúc chưa là đại tướng thì lúc nào ông cũng ăn mặc chỉnh tề, quần tây áo vét, cà vạt, mũ phớt như một ông Tây thuộc địa con. Hình ảnh ông đi bên cạnh tướng Leclerc mà tôi nói ở trên và đoàn quân Pháp thật ấn tượng và đầy kịch tính.

Không biết có ai đó tìm được một bức ảnh tài liệu nào cho thấy tướng Giáp đứng bên cạnh những chiến sĩ kéo pháo trên mặt trận Điện Biên Phủ hay giữa những giao thông hào, tại Mặt trận Vĩnh Phúc Yên hay Chiến dịch biên giới? Theo như tác giả Bùi Tín, ông Giáp thường không có thói quen ra thị sát Mặt trận? Đã có lần nào ông đi thị sát chiến trường miền Nam sau 1955?

Ở trận chiến Điện Biên Phủ, người ta chỉ thấy vài bức hình chụp ông với Hồ Chí Minh, tại Bộ Chỉ huy chiến dịch- bao giờ cũng trải vài tấm bản đồ, tay thì chỉ chỏ- đóng kịch- như thể đánh nhau chỉ cần chỉ chỏ bằng bản đồ- và ông trú ẩn an toàn tại Bộ chỉ huy ĐBP tại hang Thẩm Púa, thuộc  Mường Phăng. Hang Thẩm Púa cách Điện Biên Phủ bao nhiêu cây số, thưa đại tướng?

Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, ông đi thị sát mặt trận, quần áo chỉnh tề, chân đi giầy ủng cao đến đầu gối!

Tôi chưa thấy vị tướng tài giỏi nào nhàn hơn tướng Giáp!!

De Lattre De Tassigny trong trận Vĩnh Phúc Yên dùng phi cơ quan sát trận địa và hạ cánh ngay tại nơi khói lửa mịt mù để trấn an binh sĩ !! De Lattre quả là tướng tồi chăng!!

Nhưng quan trọng hơn cả là tên tuổi ông được gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ. Những tác giả ngoại quốc sau này như Peter Mac Donald đều không thiếu những lời ca tụng và trân trọng. Nhiều tác giả không ngại xếp ông vào thành phần những danh tướng lớn của thế giới.

Ông cũng là tác giả nhiều đầu sách liên quan đến cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất như: Từ Nhân dân mà ra – Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử – Đường tới Điện Biên Phủ. Nhiều tác giả không ngại xếp ông vào thành phần những danh tướng lớn của thế giới. Điều đó nay đã đến lúc cần được nhìn lại một cách công bằng.

Ông cũng là người đứng đầu trong số những tác giả viết về Hồ Chí Minh như: Bác Hồ về Tân Trào – Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Quá trình hình thành và phát triển – Hồ Chủ tịch, nhà chiến lược đại tài – Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi – Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường Cách Mệnh Việt Nam.

Nhưng cuốn được coi là quan trọng là cuốn hồi ức Những năm tháng không thể nào quên.

Có thể không còn lời lẽ nào mà ông không dùng để xưng tụng Hồ Chí Minh trong cuốn sách này. Đây có thể là cuốn sách để lại cho đời như một chúc thư về những năm tháng “không thể nào quên” của một người lính, một vị đại tướng và nhất là người học trò của Hồ Chí Minh như ông.

Ông viết như thể một nhà văn với những phẩm tính đẹp mà ít nội dung, đậm đà tình cảm mà ít dẫn chứng, ít lý luận mà nặng tuyên truyền:

“Bác đã đi giữa những ngày đông ảm đạm, vòm trời Châu Âu, Châu Á bị những đám mây đen chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc che phủ”.

“Từ năm mươi năm trước đây, người yêu nước Việt Nam vĩ đại đã tìm ở chủ nghĩa Mác -Lênin cho đồng bào ta và những người cùng hội cùng thuyền-những dân tộc bị đọa đầy vì chủ nghĩa đế quốc một con đường giải phóng duy nhất: Đường Cách Mệnh (…)

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:

– Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?

Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:

– Co.o.ó!!

Từ giây phút đó, Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một !!

[5] Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên trong vnthuquan.net/truyen.

Nói chung cuốn sách có pha chế nhiều phẩm tính xa sự thực. Nó tóm gọn vào bốn chữ : Hận thù và hy sinh. Hận thù chất ngất đế quốc thực dân Pháp và bè lũ tay sai.  Hy sinh vô bờ bến với nhiều mỹ từ ưu ái dành cho Hồ Chí Minh- chỉ riêng Hồ Chí Minh- và chỉ một mình Hồ Chí Minh mà thôi- mà không một ai khác.

Mặc dầu vậy, tôi vẫn có cảm tưởng ông không được sự tin tưởng của HCM đáp lại một cách tương xứng !! Mặc dầu ông được giao phó nhiệm vụ lớn lao trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.

Ở đây, chỉ xin thưa với vị đại tướng nay đã 101 tuổi là câu chuyện : Đồng bào nghe rõ không ? chỉ là một câu chuyện giả tưởng đã được nhiều người truyền tụng.

Chẳng dám nói là một câu chuyện có tính  bịa đặt. Nhưng cũng xin để người trong cuộc- Ông Nguyễn Hữu Đang- người tổ chức lễ đài nói lại cho rõ.

Nếu cho rằng câu chuyện chỉ nhằm mục đích tuyên truyền thì không nói làm gì. Nhưng viết sách thì lại là chuyện khác.Theo tiết lộ của ông Nguyễn Hữu Đang với Bùi Tín sau này thì câu chuyện đơn giản chỉ là : Ông Hồ trước khi đọc bản Tuyên Ngôn, theo thói quen gõ vào máy mi-crô và hỏi nhỏ anh thợ điện phụ trách âm thanh: Nghe rõ không ? Nếu anh thợ điện trả lời nghe rõ thì ông Hồ sẽ đọc bản tuyên ngôn.

Câu chuyện chỉ có thế- giữa anh thợ điện và người đọc tuyên ngôn !! Bỗng chốc trở thành câu truyện của hàng triệu người hò vang như sấm dậy, cả biển người đã hòa làm một !

Mà thành phố Hà Nôi, lúc bấy giờ lấy đâu ra một triệu người nhỉ !!

Thành phố Hà Nội vào năm 1921 có khoảng 4000 người Âu Châu và dân chúng địa phương có 100.000 ngàn dân.

Giả dụ vào năm 1946, dân số có thể tăng lên gấp đôi, gấp ba thì cũng chỉ có khoảng 500.000 người là cùng.

Mark Philip Bradley trong cuốn sách Viet Nam at war, không biết lấy số liệu ở đâu cho rằng có  khoảng 400.000 tham dự buổi mít tinh.

[6] Mark Philip Bradley Viet Nam at war, trang 09

Nhưng cuộc đi biểu tình ngày hôm đó phần đông là giới công chức và dân thị thành. Con số hẳn là không nhiều.

Cho là 10.000 đến 30.000 người cũng là đông lắm rồi. Đại tướng lấy con số tròn một triệu người là quá đáng !!

[7] Xem thêm Indochina của Pierre Brocheux và Daniel Héméry, phần nói về Geographic distribution of the French in Indochina, 1913-1940, trang 183.

Vì thế, thử hỏi chúng ta đọc được bao nhiêu là sự thật về các trận đánh trong các hồi ký của ông Võ Nguyên Giáp? Biết được sự thật gì về việc thanh trừng, ám sát các cán bộ của các đảng phái Quốc Gia mà ông vốn căm thù?

Chúng ta biết được gì về những lãnh tụ hàng đầu của cộng sản thời kỳ sơ khởi như Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai.

Đối với ông chỉ có một lãnh tụ- một con người, đó là chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bài trả lời cuộc phỏng vấn của Neil Sheehan,  ký giả Mỹ đã hỏi ông: có phải sự thật là ông đã không qua một trường huấn luyện quân sự nào? Ông Võ Nguyên Giáp đã nói quanh co là ông đã vào thư viện Hà Nội, tìm Bách Khoa tự điển để học hỏi những tài liệu quân sự ở trong đó. Một lần khác, tướng Jacques Philippe Leclerc- người đã giải phóng nước Pháp khỏi quân Phát xít Đức- cũng đã hỏi một câu tương tự – tướng Giáp chỉ cười và đã trả lời: Ông chỉ học quân sự trong rừng rậm.

Câu trả lời nửa sự thật này làm tăng giá trị cho cá nhân tướng Giáp.

[8] Neil Sheehan, After the war, Ha Noi and Saigon, trang 13

Ông Giáp vốn ít nói, ngược hẳn với ông Hồ mềm dẻo, khéo léo. Cứ tin vào sách vở ông viết thì ông là học trò số một của ông Hồ? Nhưng khi ông Hồ chọn Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất thì rõ ràng trong mắt ông Hồ không có ông Giáp!!

Nhưng câu hỏi quan trọng nhất khi viết về tướng Giáp là hiện nay với rất nhiều tài liệu của Trung Quốc được tiết lộ và những tranh chấp giữa ông Giáp một bên, Lê Duẩn-Trưởng Chinh, Lê Đức Thọ một bên thì liệu những chiến công hiển hách có còn giữ được không?

Có thể nói tướng Giáp sống còn sau những tranh chấp trên chỉ nhờ một chữ mà thôi: Chữ Nhẫn.

© Nguyễn Văn Lục

© Đàn Chim Việt

quang phan says:

25/02/2013 at 02:18

Hung thần Việt Minh Cộng sản (VMCS) Võ nguyên Giáp ra tay đàn áp, tiêu diệt các đảng phái quốc gia chống Pháp :

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Số: 8
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—– o0o —–
Hà Nội , Ngày 05 tháng 09 năm 1945

SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Xét vì trước tình thế nghiêm trọng hiện thời, toàn thể quốc dân phải đoàn kết để bảo vệ nền độc lập quốc gia,
Xét vì theo các cuộc điều tra của Ty Liêm phóng Bắc bộ, “Đại Việt quốc gia xã hội Đảng” đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam và Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam,
Sau khi Hội đồng Các Bộ trưởng đã thoả hiệp,
SẮC LỆNH:
Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”.
Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị.
Khoản thứ ba : Các ông Bộ trưởng Nội vụ, Quốc phòng và Tư pháp chịu uỷ nhiệm thi hành sắc lệnh này./.

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
BỘ TRƯỞNG
(Đã ký)
Võ Nguyên Giáp

***Theo Ông Philippe Devillers, một sử gia nổi tiếng Pháp, tác giả quyển Histore Contemporaine de l’Indochine và ông Hoàng Văn Đào, tác giả quyển Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDD) cho biết, khi Hồ Chí Minh qua Pháp, đã giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc đó đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ được tạm quyền thay thế chủ tịch Nước. Giáp lợi dụng lúc cụ Kháng đi kinh lý tỉnh Quảng Nam, họ Võ tuy đang giữ Bộ Quốc Phòng, trong mưu đồ có phương tiện và cơ hội ra tay triệt hạ các chiến sĩ quốc gia, Giáp lại đề nghị kiêm luôn chức vụ bộ trưởng Bộ Nội Vụ để tiện hành sử.

Được biết, sau khi Tạm Ước 6-3- 1946 ký kết giữa Marius Moutet và Hồ Chí Minh một cách ám muội và nhục nhả, thì dư luận trong toàn quốc đã dấy lên một phong trào chống lại sự phản bội của Hồ Chí Minh và bọn VMCS (Việt Minh Cộng sản). Họ xách động quần chúng và đặc biệt là các chiến sĩ VNQDĐ phản kháng rất sôi nổi. Vì thế VM tìm cách ngụy tạo ra một vụ án để làm một công đôi việc; vừa áp đảo quần chúng, luôn tiện đàn áp chiến sĩ VNQDĐ.

Ngoài ra, tổng Bộ cộng sản VM có dịp để lấy cớ lập giới nghiêm lùng bắt hết các chiến sĩ quốc gia còn lại trong nước chưa kịp chạy thoát qua Tàu; ngoài ra, còn tìm cách đánh lạc hướng quần chúng nhân dân, không cho họ chú tâm vào Tạm Ước vừa ký kết.

Giáp phịa ra tin, ngày14-7, VNQDĐ sẽ đưa quân cảm tử đến hành thích các nhân viên chính phủ tham dự lể duyệt binh của Pháp, thế là Giáp vịn cớ đó nhắm vào số 9 đường Ôn Như Hầu để tấn công. Biết rằng, Ôn Như Hầu là Trụ sở Ban Tuyên Huấn Đệ Thất Khu Đảng Bộ VNQDĐ từ Quảng Ngãi mới thuyên chuyển ra đóng lầu trên, còn lầu dưới dùng làm nơi huấn luyện cho các cán bộ từ cán nơi đưa về.

Ngày 12-7-46, sở Quân Vụ Thành phố Hà Nội phối hợp với Tư Lệnh Bộ lệnh giới nghiêm toàn thành, rồi lợi dụng giờ giới nghiêm vắng người qua lại ,Sở Công An Bắc Bộ xuống các bệnh viện Bạch Mai và Phủ Doãn chở một số xác chết vô thừa nhận đem vứt trong trụ sở VNQDĐ Ôn Như Hầu đồng thời cho mai phục vũ khí quanh rồi bắt đầu mở cuộc đột kích vào trụ sở bắt tất cả những người có trách nhiệm tại đó và bí mật đưa đi giam, trong số có Phan Kích Nam, , một đảng viên VNQDD lỗi lạc, cùng với tài liệu quan trọng liên quan đến kế hoạch đảo chính Chính phủ Hồ Chí Minh.

Sáng ngày 13-7 VMCS cho khai quật các hầm chôn xác chết mà bọn chúng vừa vứt vào tối hôm trước, rồi mời báo chí, quần chúng và một số người ngoại quốc tới xem, chụp hình quay phim; tuyên truyền và tố cáo trước dư luận, trụ sở VNQDĐ, là một ổ hắc điếm, chuyên cướp của giết người, và bắt cóc thủ tiêu thường dân vô tội, mà đã có “bằng chứng” rõ ràng. Trước bằng cớ ngụy tạo đó, cụ Huỳnh Thúc Kháng – mắc bẫy Giáp – chỉ biết dậm chân than:”Không ngờ bên VQ lại có những hành động tàn ác dã man như vậy”.

Chỉ cần đợi lệnh Bộ Nội Vụ “cương quyết trị tội” những kẻ làm việc phi pháp thì đến ngày 13-7, Võ Nguyên Giáp lệnh cho bộ đội và công an các địa phương được phép tấn công triệt hạ các chiến khu VNQDĐ, trừ trụ sở Trung Ương Hà Nội. Và chỉ trong vòng một tháng thì bàn tay đẫm máu của Giáp đã triệt hạ và tận diệt hết lực lượng quốc gia và chiến sĩ yêu nước liên hệ.

( Trích)

Tướng Võ Nguyên Giáp [1]

vo nguyen giap

Có hai nhân vật lãnh đạo cộng sản được biết đến nhiều nhất là Hồ Chí Minh và tướng Võ Nguyên Giáp. Họ là những người đưa ra những quyết định hàng đầu (decision-makers) vốn làm nên lịch sử chiến tranh ở Việt Nam. Ngoài ông Hồ, tướng Giáp là người được người ngoại quốc biết tới nhiều nhất trên thế giới. Tầm vóc ấy chỉ đứng sau Hồ Chí Minh và trên mọi người – ngay cả Lê Duẩn sau này.

Những người Pháp như Jean Sainteny, Paul Mus, Jean Lacouture, ngay cả các tướng lãnh Pháp như Raoul Salan hay Marcel Bigeard và ngay cả tướng Mỹ Westmoreland sau này thì đều có những nhận xét đầy cảm tình và trân trọng đối với Võ Nguyên Giáp.  Bên cạnh đó là vô số các tác giả như  Robert Fox, Tay Mallin, Cecil B. Currey.

Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng cả hai đều đã được huyền thoại đến độ thực hư không kiểm chứng hết được. Huyền thoại về Hồ Chí Minh một phần mở đầu bởi một số nhà báo và trí thức Pháp, một phần thì do chính ông Hồ dựng lên và phần lớn còn lại do nhu cầu tuyên truyền do đám cán bộ dưới quyền dựng lên.

Sự ca tụng ấy hết mực đến độ trở thành lố bịch.

Phần Võ Nguyên Giáp có thể được thế giới bên ngoài biết đến lần đầu do đi duyệt binh chung với tướng Leclerc của Pháp tại Hà Nội. Bức ảnh gây ấn tượng với tôi không ít. Ông Gíap thì nhỏ thó, trịnh trọng quá mức, thụng thịnh trong áo quân so với khổ người và lúc chào thì giơ nắm đấm vào mang tai mình. Đại diện Pháp và Mỹ (ông Patty) thì xòe bàn tay nghiêng nghiêng để chào cờ. Nhưng có thể kể từ giờ phút lịch sử đó, tên tuổi ông cứ thế mà nổi lên như cồn. Nhất là sau chiến thắng Điện Biên thì tên tuổi ông có thể qua mặt cả Hồ Chí Minh..

Những chiến công của ông chỉ xét riêng về mặt quân sự thôi có lẽ cũng cần được đánh giá lại cho công bằng qua các chiến dịch do ông chỉ huy và điều động.

Bởi vì, tôi đọc ông thì hầu như trận nào ông cũng thắng cả- mà thắng lớn –với những con số rất chính xác, nhưng thua thì không thấy nói tới và không bao giờ có con số rõ ràng cả.

Hình như thua thì nhân dân chịu, còn thắng thì mình ông hưởng hết !! Nhận xét như thế có bất công với ông không hay sự thật nó là như thế.

Về các mặt khác như tiểu sử của ông lúc thiếu thời còn lắm điểm tồn nghi. Điều mà chính bản thân ông cũng cương quyết dấu kín nhẹm. Việc diệt trừ một cách tàn bạo các người  của đảng phái đối lập trước chiến tranh để củng cố quyền lực Đảng cộng sản phải được coi là vết nhơ trong cuộc đời hoạt động chính trị của ông .

Có thể nào chỉ viện cớ các đảng phái dựa vào thế lực của quân đội Tưởng Giới Thạch để tiêu diệt họ không? Rồi sự tiêu diệt các nhóm cộng sản đệ tứ một cách có hệ thống thì dựa trên lý do gì ? Và chẳng lẽ họ quên là chính Việt Minh đã thủ tiêu các lãnh đạo tôn giáo hoặc bắt giam tù ở trại Lý Bá Sơ từ một ông Trùm nhà xứ, một ông Chánh Trương. Hàng vạn người đã chết dưới tay họ phải chăng đều là Việt gian ? Và kẻ chủ xướng những cuộc thanh toán ấy do lệnh của Võ Nguyên Giáp ?

Và sau cùng cũng cần xem xét lại ai là người đã khởi động cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất cũng như cần rà xét lại việc sử dụng thanh niên tự vệ trong việc bảo vệ Thủ Đô Hà Nội – một điều ít ai nói tới- nhưng lại chính là điều khiến người viết bài này thấy được tính chất “sát quân” của vị tướng tài của thế kỷ 20 !! Nay đã trên trăm tuổi, ông vẫn tự hãnh diện về những chiến thắng lịch sử ấy và chưa một lần thấy xót xa thương cảm cho số phận những thanh niên trẻ tuổi đã nằm xuống- không phải vài trăm ngàn người mà cả triệu người.

Đứng về mặt con người nhân bản, tôi thấy không thể chấp nhận được !! Không có thứ chiến thắng nào- dù lẫy lừng- có thể cân bằng được những mất mát lớn lao như thế. Chỉ nghĩ tới chiến thắng (theo tinh thần Victory with any cost như tựa đề một cuốn sách) là một điều bất nhẫn.

Không có chiến thắng nào hay lý tưởng nào ở trên giá trị và sự sống con người.

Nhưng hiện nay có một xu hướng muốn giải trừ chẳng những huyền thoại cá nhân mà cả những huyền thoại chiến thắng-(Như huyền thoại cứu nước, giải phóng) nơi một số các nhà nghiên cứu, các nhà sử học. Về nhân vật Hồ Chí Minh thì có nhiều đầu sách đã cào xới quá khứ của ông HCM một cách trung thực để tìm ra những sự thật chung quanh nhân vật này.

Đặc biệt đáng chú ý nhất là ba tác giả ngoại quốc theo thứ tự quan trọng là William J. Duiker, Pierre Brocheux và bà Sophie Quinn-Judge.

Về phía các tác giả Việt Nam thì không thể bỏ qua công trình nhận định tổng hợp của tác giả Minh Võ đã giới thiệu, nhận định tóm lược về các tác giả trong cũng như ngoài nước viết về Hồ Chí Minh. Đây là một trong những tư liệu giúp người đọc hiểu được một phần nào con người, cuộc đời cũng như sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã có một ảnh hưởng không chối cãi được đến lịch sử Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20.

Phần ông Bùi Tín- người quyết định can đảm đầy cam go đi ra từ trong nước- nhìn nhận tuổi trẻ của ông đã bị tuyên truyền, nhồi sọ quá nhiều về Hồ Chí Minh và nay tuổi đã xế chiều, ông rắp tâm một lần nữa nhìn và đánh giá lại tất cả!!

Đó là những dấu hiệu đáng mừng cho mọi phía.

Nhưng riêng trường hợp tướng Võ Nguyên Giáp thì ít có một công trình nào viết thực sự đầy đủ về ông. Rải rác thì có nhiều như trong các sách của Jean Sainteny, J. Lacouture, Bernard B. Fall.  Georges Fleury, Lucien Bodard,  Stein Tonnesson, Erwan Bergot, Jean Pierre Bernier, Jules Roy, Philippe Devilliers và nhiều người khác ..

Có một vài tác giả như Peter Macdonnald, Georges Boudarel, R. Stetler, R.J. O’Neill và nhất là Cecil B. Currey mà tôi sẽ sử dụng một số tài liệu của họ để viết bài này. Riêng cá nhân tôi  đánh giá cao cuốn sách của Cecil B. Currey: Victory at any cost, The Genius of Viet Nam’s Gen Vo Nguyen Giap.

Phần nhà báo Bùi Tín cũng gửi cho tôi 7 bài viết liên quan đến tướng Giáp mà ông đã biên soạn và chưa đăng báo. Tôi trân trọng những đóng góp của tác giả Bùi Tín vì ông có cái lợi thế là có quan hệ quen biết hàng ngang, hàng dọc với các nhân vật lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam. Lợi thế mà ít ai có được vì tác giả Bùi Tín đã có nhiều dịp trò chuyện trao đổi riêng với tướng VNG. Tuy nhiên cái lợi thế ấy chỉ xảy ra ở giai đoạn chót của cuộc chiến. Còn một số điều ông Bùi Tín lúc đầu còn trẻ, chưa có cơ hội tiếp xúc quen biết nên có giới hạn.

Ngoài ra, ở Hải ngoại có hai bài biên khảo giá trị của nhà bình luận chính trị Trần Bình Nam và của giáo sư sử học Phạm Cao Dương, bước đầu có những đóng góp gợi ý về một số điểm liên quan đến VNG mà tôi xin được tiếp tục khai triển thêm dựa trên tài liệu.

Phần người viết bài này để công đọc và tìm hiểu qua nhiều nguồn tài liệu và thấy rằng còn nhiều điều về tướng Võ Nguyên Giáp đã bị bỏ quên, bỏ qua hoặc cố tình không được đề cập tới ..

Chẳng hạn, tôi tìm đọc những sách vở do chính ông VNG biên soạn, tôi nhận thấy có nhiều điều ông đã không viết lại- và một trong những nguyên tắc làm việc của tôi là những gì không được nói tới thì quan trọng hơn những gì đã được viết ra .. Và đó là những công việc khó khăn nhất khi muốn tìm hiểu về tướng Giáp.

Tướng Giáp- một tiểu sử cần được làm sáng tỏ

Hiện nay, tiểu sử của tướng Võ Nguyên Giáp thường quá vắn tắt, chưa được giải mật đầy đủ. Càng không đầy đủ thì hẳn có những điều được che dấu, không tiện nói ra?

Tôi mở đầu bài viết bằng cách trưng dẫn một tài liệu mà cho đến nay tôi không biết đích xác là thực hư, hay chỉ là trò đấm đá nhau trong Đảng?

Theo ông Trần Quỳnh- một chức sắc lãnh đạo có thẩm quyền, có uy tín cá nhân- viết lại về việc ông Trường Chinh đến thăm ông Đặng Thái Mai như sau:

“Sau khi kết thúc vụ điều tra chống Đảng và âm mưu lật đổ, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu. Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng nguyên tắc các chế độ đãi ngộ. Trường Chinh bổ xung thêm một chi tiết về Võ Nguyên Giáp.

Thời kỳ trước Cách mạng tháng tám, một lần Trường Chinh đến nhà Đặng Thái Mai có việc. Thấy Mai đang cầm đọc một lá thư, Đăng Thái Mai bị bất ngờ, Trường Chinh lướt qua bức thư mới kịp thấy tiêu đề của thư là chánh mật thám, chữ ký là Mạc-Ti  và câu đầu: “Các con thân ái Mai và Giáp” (Mes chers enfants Mai et Giap). Mai ngước lên nhìn thấy Trường Chinh vội vàng nhét thư vào túi áo .. Bộ chính trị nhất trí với mức độ kỷ luật đề nghị : Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ chính trị, Lê Duẩn không đồng ý. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng lại miền Bắc và nhất là trong sự nghiệp giải phóng miền Nam. Giáp là người của Liên Xô, nếu kỷ luật Giáp sẽ đụng đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện trợ của liên Xô. Tôi đề nghị cứ để lại Giáp trong Bộ chính trị. Ta sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp không gây ra những hậu quả có hại.

Chúng ta nhớ rằng vào thời bấy giờ, Bộ chính trị đối với Đảng toàn dân là một tổ chức thiêng liêng được hình thành qua sự sàng lọc của lịch sử bao gồm những con người ưu tú nhất và đáng kính nhất của dân tộc. Kỷ luật đối với một ủy viên Bộ chính trị là một chuyện tầy trời, không phải như ngày nay khai trừ một ủy viên Bộ chính trị như Nguyễn Hà Phan, đối với đảng viên và nhân dân chả là cái gì.

Giáp là con người xảo trá- khi tôi từ miền Nam, khi nói chuyện riêng, Giáp hay nói xấu Bác, nhưng trước mặt Bác, Giáp hay nịnh Bác”.

[1] Hồi ký Trần Quỳnh: Những kỷ niệm về Lê Duẩn, 30-07-1986

Đây là những tiết lộ quan trọng liên quan đến sinh mệnh chính trị của tướng Võ Nguyên Giáp.  Và thái độ của tướng Giáp là giữ im lặng tuyệt đối. Ông thừa cơ hội sau này để chối bỏ những cáo buộc công khai ấy trong đảng. Nhưng ông chọn không hành động.

Lúc ông được 90 tuổi, tác giả C.B Currey cho hay tướng Giáp từ chối một cách cương quyết đến bướng bỉnh không chịu đề cập đến vấn đề này. Và cho rằng tất cả những câu hỏi và những thắc mắc về những năm tháng ấy là thiếu chuyên nghiệp và động cơ thúc đẩy chỉ là những  động cơ chính trị. Cho nên việc giúp đỡ của Louis Marty cho đến nay không thể cắt nghĩa và hiểu được do động lực nào?

Vì thế, theo tôi sự cáo buộc ấy có chứa một phần sự thật. Tôi cũng tìm đọc Hồi Ký Đặng Thái Mai, một người bạn cố tri, một người cha vợ, một người đồng chí, một đàn anh và sau này cùng chịu chung số phận bị tố giác là con nuôi mật thám Pháp.

Tôi thất vọng đến chán nản vì đó là một cuốn Hồi ký vô tích sự, che dấu đến tận cùng chỉ nói về con đường học hành- không một chữ nào liên quan đến những năm hoạt động chính trị-không một chữ nói đến đảng cộng sản- không một chữ nói đến Võ Nguyên Giáp !!

Gớm thay cho những lời tố cáo ở trên. Nhưng cũng sợ thay cho sự im lặng của VNG và ĐTM. Phải chăng đấy là hai bộ mặt thật của guồng máy cộng sản !!

Việc Trường Chinh tố giác tướng Võ Nguyên Giáp ở trên cùng với Đặng Thái Mai là con nuôi trùm mật thám Pháp có vẻ úp mở, nửa là thực, nửa là hư. Người đọc có thể bán tin, bán nghi cho là họ “chơi nhau”. Chữ con nuôi có vẻ là chế thêm vào. Đặng Thái Mai vốn đã là một giáo sư, hơn Võ Nguyên Giáp gần 10 tuổi, nhận được sự giúp đỡ gì để trở thành con nuôi Louis Marty?

Nhưng ông Hoàng Văn Chí trong cuốn Từ thực dân đến cộng sản viết đầy đủ và rõ ràng hơn như sau:

“Mai (Đặng Thái Mai) và Giáp đều là “con  nuôi” của Louis Marty, giám đốc phòng chính trị của Phủ Toàn Quyền. Marty kiếm việc cho Mai dạy học ở trường Gia Long mà giám đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng viên Tân Việt khác bị tù đầy hoặc cầm cố thì hai người ung dung sống ở Hà Nội cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tàu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du kích” do Mỹ mở ở Tỉnh Tây, nhưng không bao giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau như “anh em kết nghĩa”, nhưng sau khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20 tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là chú cháu”.

[2]Hoàng Văn Chí, Từ Thực Dân đến Cộng Sản, 1962, chú thích trang 83.

Một chi tiết khác nữa là khi còn sinh viên, Võ Nguyên Giáp có đi dậy tư gia mà người học trò không ai khác là bà Thụy An- nhà văn phụ nữ duy nhất cũng là người bị kết án tù 15 năm về vụ án Nhân Văn Giai phẩm.

Giữa Giáp và Thụy An đã nẩy nở một mối tình thầm lặng. Mối tình ấy thấm đậm tinh thần cách mạng qua mấy câu thơ của bà Thụy An được trích dẫn sau đây:

Tóc anh hừng trí bốn phương

Tay run nắm hồn dân tộc

..Rồi anh bắt đầu dẫn dắt

Dạy em khui lửa bất bình

Oán hận réo sôi lòng đất..

[3]Trích bài thơ Sao lại mùa thu của bà Thụy An, trích lại trong Nhân Văn Giai Phẩm, Thụy Khuê, trang 181

Vậy mà khi bà Thụy An bị nạn trong vụ NVGP với cái án 15 năm tù, người tình cũ đã không một lời lên tiếng!! Im lặng. Im lặng như cái im lặng của Hồ Chí Minh với vụ án Nguyễn Hữu Đang.

Khi Giáp được Pháp cho sang Tàu năm 1933, ông đã có ý định rủ Thụy An đi theo.

Và sau đây là lời giải thích của bà Bùi Thụy Băng, con gái bà Thụy An giải thích:

“Người thày giáo đề cập ở đây là tướng Võ Nguyên Giáp. Khoảng 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thày giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam. Ông Võ Nguyên Giáp muốn đưa bà cụ tôi sang Trung Hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài Gòn và hai người lấy nhau, sanh ra anh cả tôi là Bùi An Dương, năm 1934. Lúc đó ba má tôi đã xuất bản tuần báo Đàn Bà Mới nên má tôi trở về Hà Nội cho anh tôi làm con nuôi ông bà Trần Trọng Kim, để vô Nam tiếp tục lo tờ tuần báo. Năm 1937, ba má tôi trở ra Hà Nội sanh ra tôi là Bùi Thụy Băng”.

[4]Bùi Thụy Băng, điện thư ngày 15/9/2004. Trích lại Thụy Khuê, Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, trang 182.

Theo tài liệu chính thức, ông Võ Nguyên Giáp đỗ cử nhân luật .. Chương trình ba năm. Nhưng theo nhà thơ Nguyễn Vỹ cho hay :

“VNG là Sinh viên Cao đẳng luật khoa, Hà Nội vừa thi đỗ chứng chỉ hai, cấp bằng cử nhân luật, tháng sáu năm 1937. Nhưng năm sau 1938, anh lại thi rớt cấp bằng cử nhân Luật pháp hành chánh. Số đông sinh viên luật Hà Nội thi đậu chứng chỉ cử nhân luật liền học một năm về “Droit administratif” (Hành chánh luật), thi đậu cấp bằng này được bổ ra làm tri huyện, theo Hành chánh Nam triều, hoặc Commis làm tại phủ toàn quyền, hoặc tại các tòa thống sứ, khâm sứ, thống đốc, nếu phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Võ Nguyên Giáp lúc bấy giờ có ước vọng làm commis, nhưng thi rớt nên bỏ học luôn và tiếp tục làm giáo sư Sử địa trường trung học Thăng Long”.

[5]Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt, trang 381-382

Tên Võ Nguyên Giáp thật ra là bí danh của Võ Giáp hay bí danh khác là Dương Hoài Nam hoặc người ta còn quen gọi ông là Văn. Ông có học luật, sau làm giáo sư trường Thăng Long dạy môn sử.

Ông cũng là người thuyết giảng cho những người trẻ như Bùi Tín những khái niệm sơ khởi về kỹ thuật chiến tranh. Và theo ông Bùi Tín, ông Giáp là người đã đào tạo nên cả một thế hệ những sĩ quan trẻ tuổi.

Về cuộc đời niên thiếu của tướng Giáp, có một cuốn sách do Georges Boudarel- một người Pháp theo cộng sản viết- nhan đề gọi một cách thân mật vỏn vẹn có một chữ: Giáp. Cuốn sách đã được Hà Nội cho dịch ra tiếng Việt.

[6]  Georges Boudare – Biographhie, Wikipedia. Ông theo Việt Minh từ năm 1950, làm cho đài phát thanh bí mật đặt ở tỉnh Sông Bé. Đó là đài La voix de Saigon-cho lon libre. Sau đó, ông được điều động ra Bắc vào năm 1952. Ông phải đi bộ suốt 9 tháng để đi từ Nam ra Bắc. Cộng sản Hà nội đã chỉ định ông làm ủy viên chính trị trại tù 113 . Sau này, do nhiều tù binh Pháp ra làm chứng và tố giác ông trách nhiệm tra tấn các tù binh Pháp. Chính G. Boudarel củng phải nhìn nhận là tỉ lệ tù binh Pháp chết trong trại giam là rất cao, 50%. Ngay những tù binh Pháp còn sống sót cũng cho biết trong số 320 tù binh Pháp bị giam tại trại tù 113 thì có 278 tù binh đã bị chết trên tổng số 320 tù binh bị giam giữ . Cuốn sách của Boudarel vì thế cần phải dè dặt lắm khi đọc ông.

Trong cuốn  sách của Boudarel  khi đề cập đến người bố của tướng Giáp đã viết như sau:

“Sinh ở An Xá tỉnh Quảng Bình năm 1910, (Chỗ khác ghi năm sinh là 25 tháng 8, năm 1911) Giáp lúc nhỏ sống ở một vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven biển miền Trung phía Bắc vĩ tuyến 17. Cụ bà thân sinh những hôm không bận việc đồng áng thì cặm cụi bên khung cửi. Còn cụ ông là một nông dân có học thức tự cầy cấy ruộng nhà.

[7] Tài liệu từ Wikipedia ghi: Bố là Võ Quang Nghiêm, (Võ Nguyên Thân), Võ Quang Nghiêm là một nhà nho, thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù, truyền đạt lại cho cậu bé Giáp chữ nghĩa thánh hiền và vốn trí thức truyền thống theo Khổng giáo cùng với lòng yêu tha thiết quê hương đất nước.

(Cuốn sách được chú thích thêm là: Học giả người Pháp Georges Bouidarel đã viết như vậy về vị đại tướng đầu tiên của Quân Đội nhân dân trong tập sách “Võ Nguyên Giáp”, nguyên bản tiếng Pháp là “Giáp”).

[8] Trích bài Học giả Pháp viết gì về tướng Giáp, trong Viet Nam. Net, 22-12-2012

© Nguyễn Văn Lục