Rùng mình với loài sên hồng nhầy nhụa khổng lồ ở Australia

Các cá thể sên hồng trưởng thành có thể đạt chiều dài đạt tới 20 cm. Chúng có màu đỏ hồng, thường được ví như một quả ớt hay miếng sashimi cá hồi biết di chuyển.

Sên hồng khổng lồ (Triboniophorus aff. graeffei hay Triboniophorus graeffi) là một loài động vật thân mềm đặc hữu của Australia, gây ấn tượng đặc biệt nhờ kích thước khổng lồ và màu hồng dị thường.

Loài sên trần này chúng chỉ sống trong khu rừng biệt lập ở độ cao hơn 1.500 mét so với mực nước biển ở khu vực đỉnh núi Kaputar, gần thành phố Narrabri thuộc bang New South Wales của Australia.

Các cá thể sên hồng trưởng thành có thể đạt chiều dài đạt tới 20 cm. Chúng có màu đỏ hồng, thường được ví như một quả ớt hay miếng sashimi cá ngừ biết di chuyển.

Khi ngày mới bắt đầu, những con vật nhầy nhụa này ẩn nấp trong rêu, lá khô hoặc khe hở ở gốc cây. Vào ban đêm, chúng ra ngoài kiếm ăn, và chu kỳ này cứ tiếp diễn hàng ngày.

Không chỉ ăn rêu và tảo bám trên thân cây, sên hồng còn là kẻ săn mồi đáng sợ. Con mồi của chúng chính là những con sên trần có kích thước nhỏ hơn.

Loài sên trần ăn thịt này sẽ bò quanh khu vực, tìm kiếm vệt nhớt của những con sên khác và săn từng con để ăn. Chúng là một trong số ít những loài sên trần ăn thịt được biết đến.

Theo các nhà khoa học, những con sên màu hồng này sẽ không xuất hiện nếu một vụ phun trào núi lửa không xảy ra cách đây 17 triệu năm. Vụ phun trào này đã tạo ra một khu vực rộng 10 km2 ở độ cao lớn.

Nơi đây đã vô tình trở thành chốn địa đàng, nơi các loài động vật thân mềm và thực vật sống sót và sống biệt lập trong một thời gian dài sau khi biến đổi khí hậu khiến khu rừng nhiệt đới ẩm ướt ở miền đông Australia biến mất.

Bởi vì sên hồng là loài vật hiếm và đặc trưng của vùng núi Kaputar, ủy ban khoa học bang New South Wales gần đây đã quyết định đưa khu vực này vào danh sách cộng đồng sinh thái bị nguy hiểm.

Theo TRI THỨC & CUỘC SỐNG

Nguồn gốc ngôn ngữ chung của một nửa dân số thế giới

Ngày nay, gần một nửa dân số thế giới nói ngôn ngữ Ấn-Âu như ngôn ngữ thứ nhất. Nguồn gốc của ngôn ngữ được cho là đã xuất hiện ở thảo nguyên Á-Âu, vùng thảo nguyên giữa châu Âu và Trung Quốc.

Đi tìm nguồn gốc ngôn ngữ chung của một nửa dân số thế giới

Các khu vực giáp với Biển Đen lâu nay luôn thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, từ các nhà di truyền học đến các nhà ngôn ngữ học. Dải đất bao kéo dài Balkan hướng về phía đông qua Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia là cầu nối tự nhiên để kết nối các nền văn hóa khác biệt từ châu Âu và châu Á. Nhiều dân tộc có thể lần theo nguồn gốc tổ tiên và ngôn ngữ của họ từ khu vực này, nơi đã có hàng thiên niên kỷ là điểm nóng về hoạt động của nhân loại. Nó tiếp tục là chủ đề nghiên cứu của các nhà sử học nhằm tìm kiếm những sợi chỉ chung ràng buộc các nền văn hóa châu Âu và Tây Á.

Iosif Lazaridis là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm đến khu vực này. Lazaridis làm việc tại Đại học Harvard nhưng lớn lên ở Hy Lạp, quốc gia nổi tiếng với vai trò định hình lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Á-Âu. Lazaridis từ lâu đã băn khoăn về nguồn gốc tổ tiên và sự tiến hóa ngôn ngữ của những dân tộc đầu tiên sinh sống ở Hy Lạp và các vùng lân cận. Ông tự hỏi làm thế nào mà các nền văn minh cổ đại gặp gỡ và ảnh hưởng lẫn nhau ở vùng này để hình thành nền văn hóa và nhân chủng như ngày nay?

Các chuyên gia đã dựa vào các di vật khảo cổ học như đồ gốm hay chữ viết để trả lời những câu hỏi này. Mặc dù được chiếu rọi, tài liệu này có thể không chính xác và khó giải thích một cách khách quan.

DNA cổ đại: Bước đột phá trong di truyền học

Ở một số nơi trên thế giới, các nhà nghiên cứu đã có thể dựa vào nhiều điều hơn là dựa vào khảo cổ họ. Chẳng hạn, họ có thể trích xuất DNA cổ đại từ hóa thạch. Điều này cho phép họ nghiên cứu lịch sử di truyền ở một địa điểm và hiểu tổ tiên tiến hóa như thế nào. Điều này từ lâu đã trở nên khó khăn hơn ở những khu vực có nhiệt độ cực cao, bởi vì DNA bị phân hủy rất nhanh trong điều kiện đó. Tuy nhiên, một bước đột phá đã đến vào năm 2015, khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng DNA trong xương tai trong bị hóa thạch có thể tồn tại hàng thiên niên kỷ, ngay cả ở vùng khí hậu ấm áp.

Trong một nghiên cứu đột phá, Lazaridis đã tận dụng bước đột phá công nghệ này để tiến hành phân tích di truyền quy mô lớn về DNA cổ đại của 777 cá thể. Cuộc khảo sát trải dài ở một khu vực mà các nhà nghiên cứu gọi là Vòng cung phía Nam. Từ ở phía tây Croatia, khu vực này trải dài đến bán đảo Anatolian (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), sang tận Iran. Lazaridis, một nhà di truyền học được đào tạo, đã hợp tác với 206 nhà khảo cổ học, nhà ngôn ngữ học và nhà sử học địa phương từ 30 quốc gia trong một nỗ lực quốc tế. Công việc của họ được báo cáo thành quả trên 3 kỳ đăng trên tạp chí Khoa học. Thành quả của họ là một đóng góp đáng kể cho sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử loài người trong khu vực then chốt này.

Yamnaya và sự trỗi dậy của các ngôn ngữ Ấn-Âu

Trong bài báo đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã truy tìm dữ liệu di truyền để hiểu sự tiến hóa ngôn ngữ của ngôn ngữ Ấn-Âu. Lập bản đồ gien của quá trình di cư có thể giúp các nhà nghiên cứu xác định cơ hội để các ngôn ngữ gặp gỡ và hợp nhất.

Ngày nay, gần một nửa dân số thế giới nói ngôn ngữ Ấn-Âu như ngôn ngữ thứ nhất. Nguồn gốc của ngôn ngữ được cho là đã xuất hiện ở thảo nguyên Á-Âu, vùng thảo nguyên giữa châu Âu và Trung Quốc, trong thời đại đồ đồng hàng ngàn năm trước. Trong phân tích này, Lazaridis và cộng sự đã tận dụng dữ liệu DNA từ trước và trong Thời đại đồ đồng để hình dung sự pha trộn văn hóa theo giả thuyết mà các nhà ngôn ngữ học đưa ra để giải thích truyền bá các ngôn ngữ Ấn-Âu.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng người chăn gia súc trên thảo nguyên đã di chuyển qua Thảo nguyên Á-Âu từ 3.000 đến 5.000 năm trước. Đây là một dân tộc được gọi là Yamnaya (trong tiếng Nga có nghĩa là “văn hóa của những cái hố” còn phiên âm Hán Việt là Nhan Na Á). Được đặt tên theo tục chôn cất đào hố đặc biệt, Yamnaya đại diện cho một hình thức mai táng của người Ấn-Âu nguyên thủy. Khi người Yamnaya di chuyển về phía nam, họ đã ảnh hưởng đến các nền văn hóa đa dạng mà từ đó các ngôn ngữ Hy Lạp, Paleo-Balkan và Albania đã phát sinh.

Người Yamnaya cũng tìm đường về phía đông, di chuyển qua dãy núi Kavkaz và đến Armenia, nơi ngôn ngữ Armenia ra đời. Trên thực tế, một số đàn ông sống ở Armenia ngày nay là hậu duệ trực hệ của người Yamnaya.

Tuy nhiên, DNA của các mẫu vật ở Anatolian (Thổ Nhĩ Kỳ) hầu như không có dấu vết về nguồn gốc Yamnaya. Điều này khiến các tác giả ngạc nhiên vì các ngôn ngữ Anatolia cổ đại, như Hittite cổ đại, giống với các ngôn ngữ Ấn-Âu. Mối liên hệ ngôn ngữ này gợi ý rằng người Anatolia đã tương tác với người Yamnaya khi dân chăn nuôi gia súc trên thảo nguyên di chuyển qua Vòng cung phía Nam. Nhưng bằng chứng di truyền mạnh mẽ bác bỏ lý thuyết này.

Nguồn gốc của ngôn ngữ chung

Thay vì thể hiện sự di chuyển của Yamnaya đến Anatolia, dữ liệu di truyền mới có sẵn được sử dụng bởi Lazaridis và cộng sự tiết lộ hai luồng di chuyển riêng biệt vào khu vực. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu mô tả cách những người nông dân từ Levant – một khu vực ở Trung Đông hiện đại tiếp giáp với Đông Địa Trung Hải – đã định cư ở khu vực này 11.000 năm trước . Sau đó, 5.000 đến 7.000 năm trước, luồng thứ hai những người săn bắn hái lượm có tổ tiên từ vùng Kavkaz đã chuyển đến Anatolia. Hai dòng người này trộn lẫn nhau trong một quá trình tạo ra thứ mà các nhà khoa học gọi là sự đồng nhất phi thường.

Tìm hiểu sâu hơn về các dấu hiệu di truyền của khu vực, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng người Yamnaya có chung một số tổ tiên từ Nam Kavkaz, giống như người Anatolia. Nguồn gốc chung này cho thấy rằng ảnh hưởng ngôn ngữ có thể đã xảy ra sớm, ở vùng cao nguyên Tây Á, rất lâu trước khi người Yamnaya chuyển đến các khu vực khác của Vòng cung phía Nam.

Dữ liệu tổ tiên này cũng tiết lộ rằng các ngôn ngữ Anatolia có thể đã sớm tách khỏi ngữ hệ Ấn-Âu và vẫn bị cô lập về mặt di truyền và ngôn ngữ. Nhóm của Lazaridis cho rằng chúng ta cần khám phá “điểm gãy”, điều đã thúc đẩy sự biến đổi của Thảo nguyên Á-Âu và Anatolia để liên kết các khu vực về mặt ngôn ngữ. Họ viết: “Việc khám phá ra một ‘mối liên kết còn thiếu’ như vậy… sẽ chấm dứt cuộc tìm kiếm kéo dài hàng thế kỷ về một nguồn chung ràng buộc thông qua ngôn ngữ và chủng tộc của nhiều dân tộc ở Châu Á và Châu Âu”.

Các tác giả cũng đưa ra một cảnh báo quan trọng: “Mối liên quan của di truyền học với các cuộc tranh luận về nguồn gốc ngôn ngữ là gián tiếp hơn vì ngôn ngữ có thể được thay đổi mà không cần hoặc có rất ít thay đổi về gien. Và các quần thể có thể di cư mà không hề hoặc có rất ít thay đổi về ngôn ngữ. Nhưng việc phát hiện di cư rất quan trọng vì nó vẽ ra hành trình phát triển ngôn ngữ”.

Cùng với cái nhìn sâu sắc đáng chú ý về sự di chuyển của các dân tộc qua Vòng cung phía Nam trong thời kỳ đồ đá và đồ đồng, các tác giả đã mở rộng phạm vi nghiên cứu của họ để phân tích hoạt động di truyền liên quan đến thời kỳ Mycenaean ở Hy Lạp, Đế chế La Mã và Trung cổ. Kỷ nguyên.

Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu di truyền mới từ thời Mycenaean của Hy Lạp, được thần thoại hóa trong Odyssey. Các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng người Yamnaya có ảnh hưởng nặng nề đến thời đại Mycenaean, bởi vì nhiều người Yamnaya được chôn cất trong những ngôi mộ phức tạp ở phía bắc Hy Lạp. Điều này dường như gợi ý mối liên hệ giữa tổ tiên thảo nguyên và địa vị xã hội. Nhưng các tác giả không tìm thấy mối tương quan như vậy. Trong một phân tích tương tự, các tác giả đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng người Anatolia đã đóng góp phần lớn DNA cho các dân tộc của Đế chế La Mã và thành phố Rome.

Cuối cùng, mặc dù kích thước mẫu của nghiên cứu là lớn nhất trong lịch sử phân tích bộ gien cổ đại, nhưng 777 mẫu trong 10.000 năm vẫn còn nhiều khoảng trống.

Sử dụng DNA để tái tạo lại quá khứ đối mặt đầy thách thức trong việc giải thích và giao tiếp. Bất chấp điều đó, nghiên cứu này đại diện cho một bước đột phá lớn đối với nghiên cứu bộ gien cổ đại và củng cố DNA cổ đại như một công nghệ mới tiên phong, nền tảng sẽ thay đổi đáng kể hiểu biết của chúng ta về lịch sử loài người sơ khai.

Theo MỘT THẾ GIỚI

Khảo sát 100 doanh nhân, ĐH Harvard tiết lộ 6 điểm chung của người giỏi kiếm tiền

Không phải thông minh, để thay đổi số phận, bạn phải sở hữu 6 ‘chìa khoá vàng’ này.

Đại học Harvard từng tiến hành một nghiên cứu nhằm tìm ra mối liên hệ giữa tuổi thơ và thành công. Các nhà khoa học đã khảo sát 100 doanh nhân khởi nghiệp thành công trong độ tuổi 25-45, bao gồm cách nuôi dạy của cha mẹ và quá trình trưởng thành của họ. Kết quả cho thấy, 80% số người được hỏi đều chia sẻ những đặc điểm chung dưới đây.

1. Lòng tự trọng

Trong cuộc khảo sát, phụ huynh của nhiều người thành công cho biết, ngay từ con mình đã có lòng tự trọng rất cao. Chính vì lòng tự trọng này mà trẻ không ngừng phấn đấu và cạnh tranh để vươn lên.

Nhà tâm lý học người Anh William McDougall từng nhận định: “Lòng tự trọng là sự tự tôn đặc biệt của cảm xúc, mà sự tự tôn này chính là chìa khóa cho ý chí hành động, nó cũng bồi dưỡng đức hạnh”.

Lòng tự trọng sẽ giúp trẻ đánh giá được sức mạnh của mình, cũng như ảnh hưởng đến sự tự tin, kỹ năng giao tiếp xã hội, khả năng thể hiện bản thân… Vì vậy, những đứa trẻ có lòng tự trọng cao sẽ dễ dàng cạnh tranh và thể hiện mình trong xã hội.

Khảo sát 100 doanh nhân, ĐH Harvard tiết lộ 6 điểm chung của người giỏi kiếm tiền - Ảnh 1.

2. Tính chủ động

Những người thành công không có một chút nào lười biếng. Ai cũng rất tích cực phấn đấu, chủ động cố gắng ngay cả khi đã rất thành công. Từ thuở ấu thơ, những người này đều tự giác thực hiện phần việc của mình, không cần phải đợi cha mẹ thúc giục.

Tính chủ động sẽ khuyến khích trẻ hình thành tinh thần tự giác, ý thức làm việc và cảm giác gắn kết. Ngoài ra, chúng còn được rèn ba đặc tính quan trọng là kiên nhẫn, can đảm và cẩn thận. Sự kết hợp giữa bên trong và bên ngoài như vậy sẽ giúp cho con trẻ ngày càng thêm ưu tú.

3. Lòng vị tha

Lòng vị tha thường được thể hiện qua những xu hướng hay hành động giúp đỡ người khác, có ích cho xã hội. Hầu hết những người giàu có trên thế giới đều sở hữu phẩm chất này, thông qua các hoạt động thiện nguyện.

Bill Gates đã thành lập “Quỹ Bill & Melinda Gates”, quyên góp hàng chục tỷ USD cho các dự án vì con người và phát triển thế giới. Tỷ phú Charles Chuck Feeney – người được mệnh danh là “James Bond của giới từ thiện” thậm chí đã phân phát hết toàn bộ khối tài sản trị giá 8 tỷ USD của mình để làm từ thiện, còn bản thân thì sống giản dị và tiết kiệm.

Tất nhiên, không phải chỉ từ thiện mới chứng minh được lòng vị tha. Mọi người chỉ cần lấy việc giúp người làm vui, lương tâm tràn đầy thiện ý là đủ. Trong cuốn “Tam tự kinh” – sách học vỡ lòng của con trẻ thời xưa – có viết: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Thiện lương chính là bản tính, giúp trẻ nuôi dưỡng lòng thiện, vừa phù hợp đạo đức, vừa giúp trẻ sau dễ hòa nhập với xã hội.

Khảo sát 100 doanh nhân, ĐH Harvard tiết lộ 6 điểm chung của người giỏi kiếm tiền - Ảnh 2.

Biill Gates khi còn nhỏ (trái) và khi trưởng thành (phải)

4. Ý thức tự kỷ luật

Tự kỷ luật chính là tự biết giới hạn, điều chỉnh lời nói và cử chỉ của mình để khiến cho bản thân ngày càng tốt đẹp hơn. Tự kỷ luật là một năng lực nhân cách không thể thiếu, nếu trẻ được rèn từ bé thì cuộc sống thường ngày sau này sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.

Chẳng hạn, tỷ phú Lý Gia Thành có thói quen xem truyền hình bằng tiếng Anh, xem thôi chưa đủ mà còn học nói theo. Ông kiên trì học tiếng Anh theo cách này vô cùng đều đặn vì sợ rằng nếu không trau dồi thì chính mình sẽ lạc hậu.

5. Kỹ năng giao tiếp

Nghiên cứu của đại học Harvard cũng cho thấy những người thành công thường sở hữu khả năng xã giao ưu việt. Ai cũng có một mạng lưới quan hệ xã hội khổng lồ và những mối quan hệ này đều giúp ích rất nhiều cho quá trình khởi nghiệp của từng người.

“Khi còn trẻ, chẳng có cách nào trau dồi bản thân tốt hơn việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Giao tiếp tốt, thành công, cơ hội sẽ tự tìm tới bạn. Tấm bằng duy nhất tôi treo trong phòng là giấy chứng nhận giao tiếp được chính tay Dale Carnegie trao cho vào năm 1952. Thiếu kỹ năng giao tiếp, bạn sẽ chẳng thể thuyết phục ai dù tài năng tới mức nào đi nữa”, tỷ phú Warren Buffett từng nói.

Thành công không đến trong một sớm một chiều mà là một quá trình tích lũy qua từng ngày. Ai cũng cần phải tích lũy và học dần dần. Cha mẹ nên rèn luyện cho con mình kỹ năng này ngay từ khi còn bé.

6. Năng lực cảm xúc

Cảm xúc là một loại năng lực bẩm sinh; ai mới sinh ra ai cũng đã biết vui biết buồn. Tuy nhiên, không phải người nào cũng có thể kiểm soát được cảm xúc của mình, đặc biệt là trẻ em. Chúng luôn tự do bộc lộ các cảm xúc hỷ nộ ái ố, chẳng hạn như cười khi được khen ngợi hay khóc toáng lên vì không có được thứ mình muốn.

Nếu quan sát kỹ Bill Gates, Jack Ma và những người giàu có khác, mọi người sẽ thấy họ hầu như không bao giờ nổi giận ở nơi công cộng. Bởi lẽ, những người này sở hữu khả năng kiểm soát cảm xúc tới mức hoàn hảo. Điều này cũng mang lại cho họ lợi thế lớn hơn trên con đường phát triển sự nghiệp và cuộc sống.

Theo Trí thức tré

Tổng thống Biden và chuyến công du chớp nhoáng đến Kyiv

Chuyến công du của Biden là lần thứ tám đến nước này và là lần đầu tiên của một nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tại chức kể từ năm 2008…

Tổng thống Joe Biden và Tổng thống Volodymyr Zelensky tại Dinh Tổng thống Ukraine, Kyiv ngày 20 Tháng Hai 2023 (ảnh: Ukrainian Presidential Press Office via Getty Images)

Gần sát ngày đánh dấu cột mốc một năm cuộc chiến xâm lược Ukraine của Nga (24 Tháng Hai 2022), Tổng thống Joe Biden đã bất ngờ thực hiện chuyến công du đến Kyiv…

-Tng thng Biden đến Kiev lúc 8 gi sáng gi đa phương.

-Tng thng Biden gp ngườđng cp Ukraine, Volodymyr Zelensky, ti Đin Mariinsky,  Kyiv.

-Chuyếđi được thực hiện đúng vào tun l đánh dấu mt năm ngày chiến tranh n ra.

-Chuyến thăm trùng vi dp k nim cuc cách mng Ukraine năm 2014.

-Tổng thống Biden tuyên b h tr thêm na t đôla cho Ukraine trong mt gói viện trợ bao gm nhiều hạng mục thiết b quân s.

-Tng thng Hoa Kỳ ri Kiev vàđchiu gi đa phương.

Tổng thống Joe Biden và vợ chồng Tổng thống Volodymyr Zelensky tại Kyiv ngày 20 Tháng Hai 2023 (UKRAINIAN PRESIDENCY/Anadolu Agency via Getty Images)

Tổng thống Biden đã thực hiện chuyến công du bất ngờ được lên lịch một cách tuyệt mật tới Kyiv vào thứ Hai, thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với Ukraine, chỉ bốn ngày trước thời điểm đánh dấu một năm cuộc xâm lược toàn diện của Nga. Chuyến công du là tín hiệu tiếp tục cam kết từ Hoa Kỳ, nhà tài trợ quân sự và tài chính lớn nhất cho nỗ lực của Ukraine nhằm đẩy lùi quân xâm lược Nga khỏi lãnh thổ của họ.

Khi Biden xuất hiện cùng với nhà lãnh đạo Ukraine giữa đường phố trung tâm Kyiv ngay trước buổi trưa theo giờ địa phương, người dân Kyiv bắt đầu hiểu rằng tại sao Kyiv đột ngột bị khóa an ninh nghiêm ngặt nhiều giờ trước đó, nhiều tuyến đường bị chặn và thậm chí vài con phố người đi bộ cũng không được phép vào.

Tổng thống Biden khẳng định Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ Ukraine chống lại cuộc xâm lược của Nga trong “chừng nào còn cần thiết”. Washington đã cung cp khong $30 t viện trợ an ninh cho Kyiv kể từ khi Tổng thống Vladimir Putin quân đội Nga vào Ukraine ngày 24 Tháng Hai 2022, khơi mào cuộc chiến lớn nhất ở châu Âu kể từ Thế chiến thứ hai. Dưới sự lãnh đạo của Mỹ, các đồng minh NATO đã dần mở rộng các hạng mục vũ khí mà họ cam kết cung cấp cho Ukraine, trong đó có xe tăng hạng nặng.

Biden cho biết chuyến thăm của ông nhằm tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, điều mà Nga vi phạm kể từ năm 2014, khi Putin sáp nhập Bán đảo Crimea của Ukraine và phát động ủng hộ chiến dịch ly khai ở khu vực phía Đông Donbas.

Tổng thống Joe Biden cùng các quan chức Ukraine tại Dinh Tổng thống Ukraine, Kyiv ngày 20 Tháng Hai 2023 (ảnh: Ukrainian Presidential Press Office via Getty Images)

Chuyến đi của Biden tới Ukraine diễn ra trong bối cảnh có rất nhiều câu hỏi về thời gian dành cho sự hỗ trợ toàn cầu đối với Ukraine kéo dài đến chừng nào; và sự gắn kết của liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo có tiếp tục duy trì sự ổn định hay không trong tương lai. Nhiều ý kiến đã bày tỏ lo lắng về chi phí kinh tế và chính trị của một cuộc xung đột kéo dài không lối thoát đàm phán, và về việc họ có thể duy trì dòng tiền trợ cấp và đạn dược trong bao lâu.

Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy người Mỹ ngày càng mệt mỏi với nỗ lực viện trợ Ukraine. Một cuộc thăm dò gần đây của Associated Press-NORC cho thấy 48% người Mỹ trưởng thành ủng hộ việc cung cấp vũ khí cho Ukraine, giảm từ 60% vào tháng Năm 2022. Một loạt gói viện trợ khổng lồ của Hoa Kỳ được phê duyệt cho đến nay dành cho Ukraine đã được cụ thể hóa dưới một Quốc hội do đảng Dân chủ kiểm soát. Tính đến nay, Quốc hội đã chuẩn thuận ngân sách hỗ trợ kinh tế và quân sự trị giá $113 tỷ cho Ukraine kể từ khi cuộc xâm lược của Nga bắt đầu.

Khi tái chiếm Hạ viện sau cuộc bầu cử Tháng Mười Một 2022, một nhóm thiểu số Cộng hòa cánh hữu đã tuyên bố việc giảm tài trợ cho Ukraine. Tuy nhiên, phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich vào cuối tuần qua, Lãnh đạo thiểu số Thượng viện Mitch McConnell (Cộng hòa, Kentucky) khẳng định rằng những nhân vật chóp bu của Cộng hòa vẫn cam kết cung cấp tiền và vũ khí cho Ukraine. Ông McConnell nói: “Các nhà lãnh đạo đảng của chúng tôi hoàn toàn ủng hộ một nước Mỹ hùng mạnh, sẵn sàng can dự vào sân khấu chính trị thế giới và hướng đến việc xây dựng một liên minh xuyên Đại Tây Dương vững mạnh”.

Để giữ an ninh tuyệt đối bí mật cho chuyến đi, Washington đã đánh lạc hướng dư luận khi Tòa Bạch Ốc loan tin vào tối thứ Hai 20 Tháng Hai (giờ Washington DC) rằng Tổng thống Biden sẽ thực hiện chuyến thăm Ba Lan. Tuy nhiên, The Washington Post và The New York Times cho biết, theo một nhóm nhỏ phóng viên đi cùng Biden đến Kyiv, Tổng thống Biden thật ra đã ri Washington vào khong 4 gi sáng Ch nht 19 Tháng Hai. Các nhà báo đi cùng Biden cho biết họ phải cam kết giữ bí mật những chi tiết theo thời gian thực về chuyến công du của tổng thống cho đến khi ông ấy rời đi.

Cùng tháp tùng Tổng thống Biden có Jake Sullivan, c vn an ninh quc gia; Jen OMalley Dillon, phó chánh văn phòng; và Annie Tomasini, tr lý tng thng.

Tổng thống Joe Biden đến Giáo đường St. Sophia tại trung tâm Kyiv (ảnh: Kay Nietfeld/picture alliance via Getty Images)

Chuyến công du Kyiv của Biden là lần thứ tám của ông đến nước này và là chuyến đầu tiên của một nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tại chức, kể từ lần công du của Tổng thống George W. Bush tới Ukraine vào năm 2008. Cần nhắc lại, Tổng thống Bush từng hy vọng đưa Ukraine vào Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, nhưng những nỗ lực của ông đã bị cản trở bởi Pháp và Đức. Ông Bush cha, Tổng thống George H.W. Bush, cũng đã đến Ukraine ngay trước khi nước này tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô vào năm 1991.

Boris Johnson đã đến Kyiv ba lần với tư cách thủ tướng Anh trong những tháng sau cuộc xâm lược vào tháng Hai 2022. Không như các nhà lãnh đạo thế giới khác đến Kyiv và được đưa đến những địa điểm đầy vết sẹo chiến tranh trong năm qua, Tổng thống Biden tránh xa tất cả những địa điểm như vậy vì lý do an ninh. Đệ nhất phu nhân Jill Biden đã có chuyến thăm bất ngờ tới miền Tây Ukraine vào Ngày của Mẹ vào tháng Năm 2022. Chuyến công du của Biden được thực hiện chớp nhoáng. Khoảng 2 giờ chiều địa phương cùng ngày, Tổng thống Hoa Kỳ đã rời Kiev.

Việt Bình / Saigon Nhỏ

Trung Quốc đang trỗi dậy hay sắp suy tàn?

Có lẽ đây là một câu hỏi cần thiết mà giới nghiên cứu và hoạch định chính sách đặt ra để giải đáp, vì cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung vẫn là yếu tố quan trọng nhất tác động tới quan hệ quốc tế và trật tự thế giới trong những thập kỷ tới của thế kỷ 21. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khó giải đáp nhưng lại dễ gây tranh cãi, vì trong một thế giới “hậu sự thật”, có nhiều tin vịt và quan niệm trái chiều, người ta rất dễ nhầm lẫn và khó nhất trí.  

Dấu hiệu xuống dốc

Lâu nay, dường như mọi người đã quá quen với cụm từ “Trung Quốc đang trỗi dậy”, nên chắc khó quen với khái niệm “Trung Quốc sắp suy tàn”. Nhưng sự trỗi dậy hay suy tàn của các quốc gia là một quy luật khó tránh, nhất là đối với các nước lớn như Nga, Mỹ, Trung Quốc, mà một số tác giả đã đề cập (The Rise and Fall of Great Powers, Paul Kennedy, Random House, 1987; The Rise and Fall of Nations, Ruchir Sharma, Norton, 2016).   

Nhiều chuyên gia đã cảnh báo về sự suy giảm và tụt hậu của Mỹ, trong khi Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, đã vượt Nhật Bản về kinh tế (năm 2010), và đang cạnh tranh để vượt Mỹ vào năm 2049. Đó không chỉ là những cảnh báo nhằm vận động tăng ngân sách, mà còn là lo ngại thực sự rằng Trung Quốc sẽ vượt Mỹ cả về kinh tế lẫn quốc phòng. Mối lo ngại đó càng tăng lên dưới thời Donald Trump, với vụ bạo động 6/1 làm người Mỹ bị sốc.  

Trong nhiều thập kỷ, Washington đã theo đuổi chính sách “tiếp cận xây dựng” (constructive engagement) một cách quá đà, giúp Trung Quốc trỗi dậy như quái vật Frankenstein (lời cố tổng thống Nixon). Người Mỹ đã ảo tưởng cho rằng nếu Trung Quốc phát triển và giàu có sẽ trở nên “giống chúng ta”. Nhưng họ đã lầm. Đến thời Trump thì Mỹ mới tỉnh ngộ và điều chỉnh chiến lược, coi Trung Quốc là đối thủ. Đó là một bước ngoặt lớn trong cuộc đua đường trường (The Hundred-Year Marathon, Michael Pillsbury, Mcmilan 2015).  

Trong khi những cảnh báo về sự suy giảm về kinh tế và nền dân chủ làm cho người Mỹ lo ngại thì làm cho người Trung Quốc phấn khích và tin tưởng rằng cơ hội đã đến để họ từng bước lấn át và vượt Mỹ trong trật tự thế giới mới. Đó là sự cạnh tranh giữa hai siêu cường và hai hệ thống đối nghịch. Gần đây, cuộc chiến tranh Ukraine đã làm cho Nga có dấu hiệu sớm suy tàn, trong khi sự trỗi dậy của Trung Quốc có dấu hiệu đang xuống dốc.     

Cách đây hơn hai thập kỷ, Gordon Chang đã dự báo “Trung Quốc sắp sụp đổ” (The Coming Collapse of China, Godon Chang, Random House, 2001). Đó là một cảnh báo rất sớm nhưng không chính xác vì sau 10 năm, thậm chí 20 năm, Trung Quốc vẫn chưa sụp đổ. Các học giả khác như Paul Krugman cảnh báo “kinh tế Trung Quốc đã chững lại” (China’s economy has hit its Great Wall, Paul Krugman, New York Times, July 20, 2013), trong khi David Shambaugh cảnh báo Trung Quốc bắt đầu “hồi kết” (endgame) và “sắp đổ vỡ”. (The Coming Chinese CrackupDavid Shambaugh, Wall Street Journal, March 6, 2015).

Về kinh tế, vấn đề là liệu Tập Cận Bình có thể điều chỉnh chính sách để khôi phục tăng trưởng nay đang bị giảm sút đáng kể hay không. Về đối ngoại, lập trường của Trung Quốc không chỉ dựa trên sự tính toán về rủi ro và cơ hội chiến lược mà còn dựa vào lòng tin rằng các thế lực thay đổi lịch sử đang thúc đẩy đất nước tiến lên. Theo Kevin Rudd, Trung Quốc không phải là Liên Xô, vì họ là cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế giới. Tuy Tập không phải là Stalin, nhưng chắc chắn ông cũng không phải Michail Gorbachev. (The World According to Xi Jinping, Kevin Rudd,Foreign Affairs, November/December 2022). 

Hồi chuông báo tử

Theo Robert Kaplan, các đế chế hình thành từ hỗn loạn và cũng suy tàn trong hỗn loạn. Không có cường quốc nào tồn tại mãi mãi. Các chế độ chuyên chế, bên ngoài có vẻ yên bình, nhưng bên trong thường đang mục nát. Mỗi khi xem xét tính dễ bị tổn thương của Nga, Mỹ, và Trung Quốc, ba cường quốc này mong manh hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Nga và Mỹ đều đã từng khởi xướng các cuộc chiến tự hủy diệt: Nga ở Ukraine, còn Mỹ ở Afghanistan và Iraq. Nếu Trung Quốc chinh phục Đài Loan cũng sẽ dẫn đến tự hủy diệt.

Ngày nay, cả ba cường quốc đó đang đối mặt với một tương lai bất định, không thể loại trừ sự sụp đổ hoặc tan rã ở một mức độ nào đó. Nga là nước có nguy cơ cao nhất vì gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine. Theo Kevin Rudd (cựu thủ tướng Úc, chủ tịch Asia Society, nay là đại sứ Úc tại Mỹ), Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang theo đuổi các chính sách cực đoan và hà khắc nên đã từng bước “bóp chết con ngỗng đẻ trứng vàng”. (The Downside of Imperial Collapse, Robert Kaplan, Foreign Affairs, November 4, 2022).

Kaplan nêu ra ba kịch bản: Một là Nga suy yếu nghiêm trọng vì cuộc chiến sai lầm ở Ukraine, trong khi Trung Quốc thấy quá khó để đạt được sức mạnh kinh tế và công nghệ bền vững. Hai là một thế giới lưỡng cực thực sự, trong đó Trung Quốc duy trì động lực kinh tế ngay cả khi trở nên chuyên chế hơn. Ba là sự suy yếu dần dần của cả ba cường quốc. Tương tự như cuộc chiến ở Ukraine, một cuộc xung đột hải quân, trên không gian mạng, hay đấu tên lửa ở Đài Loan, Biển Đông, hoặc Biển Hoa Đông, tuy dễ bắt đầu nhưng khó kết thúc.

Vậy mục tiêu chiến lược của Mỹ là gì nếu xung đột quân sự như vậy thực sự sẽ xảy ra: phải chăng là chấm dứt sự cai trị của Đảng Cộng sản ở Trung Quốc. Chiến tranh, như Washington đã học được bài học ở Afghanistan và Iraq, “là một chiếc hộp Pandora”. Các đế chế có thể đột ngột sụp đổ, và khi điều đó xảy ra thì hỗn loạn và bất ổn sẽ kéo theo sau. Nay có lẽ đã quá muộn để Nga có thể tránh được số phận này, trong khi Trung Quốc có thể tránh được điều đó nếu họ  khôn ngoan điều chỉnh chiến lược kịp thời, nhưng rất khó khăn.

Năm 2022, Trung Quốc tăng trưởng có 3%, báo hiệu “hồi kết” của thời kỳ hoàng kim kéo dài 30 năm của kinh tế nước này. Việc tái cấu trúc tập đoàn khiến Jack Ma chỉ còn 6% quyền biểu quyết tại Ant Group, dù trước đó nắm giữ 50%. Có thể so sánh vụ này với “sự sụp đổ không đổ máu” của Lâu đài Edo ở Nhật năm 1868, kết thúc chế độ Mạc phủ Tokugawa, và mở ra thời kỳ Minh Trị, khi Edo được đổi tên thành Tokyo. (Jack Ma Downfall Spells the End of China’s Golden Age, Katsuji Nakazawa, Nikkei, January 19, 2023.

Nhưng dưới bàn tay sắt của Tập Cận Bình, kỷ nguyên của những ông chủ các đại công ty tư nhân có thể ngẩng cao đầu đã chấm dứt. Những gì xảy ra với Ant Group rõ ràng là sự chuyển hướng khỏi con đường mà Trung Quốc đã theo đuổi từ khi chính sách mở cửa và cải cách được bắt đầu vào cuối những năm 1970. Khi thi hài của Giang Trạch Dân được đưa đến Bắc Kinh từ Thượng Hải là trung tâm kinh tế của đất nước, một bài hát tiễn biệt đã được cất lên như “hồi chuông báo tử” cho kỷ nguyên tự do kinh tế ở Trung Quốc.

Đối với Mỹ, nếu Nga là vấn đề ngắn hạn và cấp bách, thì Trung Quốc là thách thức dài hạn và nghiêm trọng hơn nhiều. Trung Quốc thường lấy trộm và lạm dụng tài sản trí tuệ của người khác. Sức mạnh quân sự thông thường và hạt nhân của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể. Họ đã quân sự hóa Biển Đông, ép buộc các nước láng giềng về kinh tế, gây xung đột biên giới với Ấn Độ, đàn áp dân chủ ở Hong Kong, và tiếp tục gây sức ép với Đài Loan. (The Dangerous Decade, Richard Haass, Foreign Affairs, September/October 2022).

Sau vài thập kỷ phát triển mạnh, kinh tế Trung Quốc bắt đầu chậm lại, pha loãng tính chính danh của chế độ. Chưa biết Đảng CSTQ sẽ làm thế nào để khôi phục đà tăng trưởng mạnh về kinh tế, nhưng chính sách đối ngoại hung hăng của Trung Quốc đã làm mất lòng các nước khu vực. Chắc chắn Trung Quốc sẽ đối mặt với một thập kỷ chuyển giao lãnh đạo khó khăn. Cũng như Putin, Tập đã thâu tóm quyền lực vào tay mình, làm cho việc chuyển giao lãnh đạo trở nên phức tạp, có lẽ sẽ dẫn đến tình trạng tranh giành quyền lực.

Thách thức lớn nhất

Theo các chuyên gia về Trung Quốc, thách thức lớn nhất đối với Tập trong thời gian tới không phải là từ bên ngoài, dù đó là cạnh tranh và đối đầu với Mỹ và đồng minh phương Tây hay các “ý tưởng dân chủ độc hại” của họ mà các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đã cảnh báo. Thật nghịch lý, thách thức lớn nhất là làm sao chấp nhận được thành quả của mấy thập kỷ xây dựng “xã hội khá giả”: đó là “tầng lớp trung lưu lớn nhất thế giới”. (The Power of China’s Blank Sheets of PaperMelinda Liu, Foreign Policy, December 3, 2022).

Theo các chuyên gia như Michael Beckley, Jude Blanchette, Hal Brands, Robert Kaplan, Susan Shirk, Fareed Zakaria, các vấn đề tiềm ẩn của Trung Quốc ngày càng nhiều, làm đất nước suy yếu và dễ đổ vỡ. Trung Quốc không phải người khổng lồ đang trỗi dậy như người ta mô tả, mà “đang đứng chơi vơi bên bờ vực” (teetering on the edge of a cliff). (China’s Dangerous DeclineJonathan Tepperman, Foreign Affairs, December 19, 2022). 

Nhưng đó không phải là tin tốt lành mà là tin xấu cho Trung Quốc và cho thế giới. Một Trung Quốc yếu kém, trì trệ và đang suy sụp, còn nguy hiểm hơn một Trung Quốc đang trỗi dậy. Đối phó với một Trung Quốc đang suy tàn có thể còn khó hơn là với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Vì vậy, nếu muốn thành công và tránh được các hệ lụy của tình trạng đó, thì Washington phải mau chóng điều chỉnh chính sách và các ưu tiên của mình.

Thời Trung Quốc tăng trưởng trên 10% đã qua rồi, năm nay dự kiến chỉ tăng 5,5% hoặc một nửa (như các chuyên gia dự báo). Giá trị đồng Nhân dân tệ thấp nhất trong 14 năm. Lãi suất doanh nghiệp, sản xuất công nghiệp, đầu tư bất động sản đều thấp, trong khi thất nghiêp tăng 20%. Khoảng 4,4 triệu doanh nghiệp nhỏ phải đóng cửa. Dân số Trung Quốc đang già nhanh, nợ quá nhiều và thiếu nguyên liệu. Trung Quốc đang chảy máu chất xám khi các ông chủ công nghệ, các tỷ phú và giới trung lưu có chuyên môn đổ xô xuất ngoại. 

Đại hội Đảng lần thứ 20 là lớp son phấn che đậy cái bánh đầy độc tố. Tập Cận Bình đã lợi dụng Đại hội Đảng để hạ nhục Hồ Cẩm Đào, lãnh đạo tiền nhiệm cuối cùng do Đặng Tiểu Bình chọn. Tập cũng thay Thủ tưởng Lý Khắc Cường và bổ nhiệm những người trung thành với mình (hầu hết có gốc an ninh) vào Bộ Chính trị và Ban thường vụ. Lễ đăng quang hoành tráng đã bộc lộ những sai lầm mới của vị “Hoàng đế Xấu xí” (Bad Emperor).

Sẽ khó có cách mạng ở Trung Quốc vì bộ máy đàn áp rất hiệu quả, nhưng dễ có bất đồng trong giới cầm quyền. Một khi Tập đã bỏ qua lời khuyên của Đặng là “Giấu mình chờ thời” thì ông sẽ lựa chọn đối đầu. Điều đó có nghĩa Trung Quốc sẽ tăng cường lấn chiếm lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, đe dọa Đài Loan, bắt nạt các nước bằng “ngoại giao Chiến lang”, và gần đây nhất là ủng hộ Nga trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine.

Các vấn đề đó càng gia tăng sẽ làm Tập Cận Bình bất ngờ. Trong thể chế độc tài, các quan chức cấp dưới sẽ bị trừng phạt nếu báo tin xấu cho cấp trên. Theo Susan Shirk (cựu phó trợ lý ngoại trưởng), “Không ai dám nói với Tập về những mặt dở và cái giá phải trả cho các vấn đề mà chính sách của ông đã gây ra”. Matt Pottinger (cựu phó chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia), cũng khẳng định “Chúng tôi xác nhận rằng dưới thời Trump, những thông điệp mà chúng tôi chuyển qua đường ngoại giao đã không đến tay Tập Cận Bình”. 

Sau lễ đăng quang

Tại Đại hội Đảng, vào phút chót Tập Cận Bình đã bất ngờ loại bỏ các lãnh đạo không cùng phe cánh như Thủ tướng Lý Khắc Cường, phó Thủ tướng Uông Dương (tuy cả hai chưa đến tuổi 68), và Hồ Xuân Hoa, một ngôi sao đang lên được Hồ Cẩm Đào ủng hộ. Sáu ủy viên thường vụ BCT nhiệm kỳ mới (gồm Lý Cường, Triệu Lạc Tế, Vương Hỗ Ninh, Thái Kỳ, Đinh Tiết Tường, Lý Hy) đều đã từng làm dưới trướng của Tập hoặc là đồng hương. (Xi Jinping and the Paradox of Power, Minxin PeiForeign Affairs, November 21, 2022).

Tuy vậy, thành công về nhân sự của Tập Cận Bình có thể dẫn đến một thời kỳ bất ổn về chính trị do tranh chấp giữa những người trung thành với ông. Quyền lực của Tập không đảm bảo thắng lợi của các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu liên quan đến đòi hỏi của dân chúng và cạnh tranh chiến lược với Mỹ. Tuy Tập đã thâu tóm được quyền lực tối đa, nhưng ông vẫn cảm thấy bất an. Quyền lực đó có giới hạn trong việc phục hồi tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tự lực về công nghệ, và giải quyết những vấn đề bất cập về dân số.

Những thành công của Tập Cận Bình trong ngắn hạn có thể làm tổn hại cho ông và cho Đảng trong dài hạn. Một số yếu tố có thể làm cho việc Tập không chọn được người kế nhiệm trở nên rủi ro hơn. Việc thiếu lòng tin cá nhân trong số những người trung thành với ông có thể dẫn đến bất hòa và tranh chấp quyền lực. Xung đột lợi ích giữa các phe phái sẽ buộc Tập Cận Bình phải chọn phe, và điều này có thể dẫn đến những hậu quả khó lường.

Quyền lực của Tập Cận Bình còn sinh ra các vấn đề khác. Giống như các nhà độc tài, ông sẽ sớm nếm mùi “nghịch lý quyền lực” (paradox of power). Một biểu hiện của nghịch lý này là càng có nhiều quyền lực thì càng cảm thấy bất an. Trong chế độ chuyên chế, nhà độc tài giành quyền lực bằng cách tiêu diệt đối thủ, nên tất yếu sẽ tạo ra thêm kẻ thù. Các nhà độc tài không được hiến pháp bảo vệ. Họ để mất quyền lực vì gặp đối thủ mạnh hơn trong “trò chơi vương quyền”, chứ không thông qua các trình tự chính trị thông thường. 

Vì vậy, quyền lực của Tập Cận Bình luôn giới hạn. Trong một nền chuyên chế, quyền lực đó thường ít khi vượt quá giới hạn của nhóm lãnh đạo hàng đầu. Quyền lực đó không giúp ích khi thực thi các chính sách đại đồng mà ông mong muốn, như “thịnh vượng chung” (common prosperity), tự lực về công nghệ (technological self-sufficiency) an ninh hơn về kinh tế (greater economic security), và tăng trưởng bền vững (sustained growth).

Theo Minxin Pei, nếu các rào cản của hiến pháp mất tác dụng thì nền dân chủ có thể dựa vào tự do báo chí, xã hội dân sự và đảng đối lập để đối phó với độc tài. Nhưng trong chế độ chuyên chế thì luật lệ quá yếu vì không có cơ chế đảm bảo thực thi hiến pháp nên các nhà độc tài dễ dàng thao túng thể chế, biến chúng thành bù nhìn. Hình nộm thể chế mà Đặng Tiểu Bình dựng lên vào thập niên 1980 là “ngôi nhà bằng giấy”. Nay Tập Cận Bình chỉ cần thổi một cái là nó sẽ sụp đổ. (Xi’s house of cards, Minxin Pei, ASPI, 11 October 2022).

Nhưng cũng cần hiểu rằng độc tôn về chính trị (political supremacy) có thể là lời nguyền được ẩn trong cái vỏ đặc ân (a curse disguised as blessing). Nó không giúp ích Tập lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời kỳ trớ trêu này, mà quyền lực vô đối có thể dẫn đến huynh đệ tương tàn (internecine strife) và cản trở việc quản trị có hiệu quả. Vì vậy, thành công quyết định tại Đại hội Đảng 20 không đảm bảo cho thắng lợi trong tương lai.

Đánh giá lại Trung Quốc

Gần đây, sự thất bại trong chính sách Zero-Covid của Tập Cận Bình dẫn đến việc đánh giá lại sức mạnh của Trung Quốc. Tuy nhiều người kỳ vọng GDP của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2030, nhưng Trung Quốc dường như đã vươn lên đến tột đỉnh. Theo Joe Nye, đánh giá quá cao cũng như đánh giá quá thấp sức mạnh của Trung Quốc đều nguy hiểm như nhau. Đánh giá quá thấp tạo ra sự tự mãn, còn đánh giá quá cao sẽ làm người ta lo sợ. Vì vậy, phải rất cẩn trọng. (Peak China? Joseph Nye, Project Syndicate, January 7, 2023).

Ngay cả khi Trung Quốc vượt Mỹ về kinh tế thì GDP cũng không phải là thước đo duy nhất của sức mạnh địa chính trị. Trung Quốc vẫn thua xa Mỹ về quân sự và quyền lực mềm. Tuy Trung Quốc cố gắng tỏ ra hấp dẫn bằng “charm offensive”, nhưng họ không thể loại Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương. Liên minh Mỹ-Nhật ngày nay mạnh hơn so với thời kết thúc Chiến tranh Lạnh. Sẽ là một sai lầm nếu lãnh đạo Trung Quốc cho rằng một cuộc xung đột hải quân tại eo biển Đài Loan hoặc Biển Đông sẽ giới hạn trong khu vực đó.

Đến nay, Mỹ vẫn có ít nhất năm lợi thế trong dài hạn. Một là về địa lý. Hai là về năng lượng. Ba là về tài chính. Bốn là về dân số. Năm là về công nghệ cao (sinh học, nano và thông tin). Đó là trọng tâm tăng trưởng kinh tế trong thế kỷ này. Tất cả các yếu tố đó chứng tỏ Mỹ đang trong thế mạnh hơn. Nhưng nếu Mỹ không đối phó được với sự trỗi dậy của Trung Quốc hoặc tự mãn vì mình đã “đạt đến tột đỉnh” thì Mỹ cũng là bên chơi cờ kém.

Theo ông Lý Quang Diệu, Trung Quốc khó có thể vượt được Mỹ về “quyền lực toàn diện”, bởi Mỹ có thể thu hút và kết nối nhân tài của thế giới một cách đơn giản mà người Trung Quốc khó lòng làm được. Hiện nay, một vấn đề quan trọng cần theo dõi sẽ là tình trạng nhập cư. Người Mỹ có lý do để lạc quan về vị thế của họ hiện nay trên thế giới, nhưng nếu Mỹ từ bỏ các liên minh bên ngoài và sự cởi mở bên trong, thì cán cân có thể thay đổi.

Tuy người dân Trung Quốc bất bình về chính sách zero-Covid hà khắc, nhưng rõ ràng Bắc Kinh không biết biểu tình sẽ nổ ra, và thiếu chỉ đạo thống nhất, nên các địa phương phản ứng khác nhau. Chính quyền vẫn từ chối sử dụng vaccines của phương Tây có hiệu quả hơn. Có lẽ lãnh đạo Trung Quốc cho rằng họ có thể dựa vào lực lượng an ninh để trấn áp người biểu tình. (China’s zero-Covid mess, Minxin Pei, ASPI, December 8, 2022).

Vì vậy, Tập Cận Bình phải hành động nhanh để tránh hệ quả khó lường, ít nhất là bằng cách ra lệnh cho nhập ngay vaccine mRNA. Động thái đó không chỉ chứng tỏ bản lĩnh về chính trị mà còn là cách quản trị rủi ro hiệu quả, góp phần quan trọng để sửa chữa những sai lầm làm tổn thương hình ảnh và uy tín của Tập Cận Bình, trong bối cảnh các cuộc biểu tình chống zero-Covid vào tháng trước làm rung chuyển chính quyền Bắc Kinh.

Nhiều học giả như Rush Doshi và Elizabeth Economy đã lập luận rằng Bắc Kinh có một chiến lược nhằm chia rẽ Mỹ với các đồng minh ở vùng Ấn độ Dương-Thái Bình Dương. Nhưng nỗ lực của Bắc Kinh nhằm làm xói mòn khối đồng minh của Mỹ lại thiếu nhất quán và thiếu nghiêm túc, nên đã làm tăng cường chứ không làm suy yếu các đối tác của Mỹ ở khu vực. Nó đã tạo ra một liên minh mới do Mỹ cầm đầu để ngăn chặn Bắc Kinh. (China’s Indo-Pacific Folly, Andrew Taffer & David Wallsh, Foreign Affairs, January 31, 2023).

Đối sách của Mỹ

Theo các chuyên gia Mỹ, lúc này phải kiềm chế tham vọng của Tập Cận Bình bằng răn đe quân sự có phối hợp và kiểm soát chặt chẽ sự tiếp cận của Trung Quốc với công nghệ, vốn và dữ liệu do Mỹ và đồng minh kiểm soát, chứ không đợi đến khi họ đã tiến hành bước cuối cùng như đánh chiếm Đài Loan, dẫn đến xung đột nước lớn. Cuộc chiến tại Ukraine luôn nhắc nhở chúng ta là răn đe tốt hơn so với “phục hồi”.  (Xi Jinping in His Own Words, Matt Pottinger, Matthew Johnson, David Feith, Foreign Affairs, November 30, 2022). 

Ngoại trưởng Anthony Blinken đã tóm tắt chính sách của Mỹ là: “Chúng ta không thể dựa vào Bắc Kinh để thay đổi kế hoạch của họ. Chúng ta sẽ thiết lập một môi trường chiến lược xung quanh Bắc Kinh để triển khai tầm nhìn về một hệ thống quốc tế cởi mở và hội nhập”. Theo Matt Pottinger, đây không hẳn là “kiềm chế” (Containment) mà là “hạn chế” (Constrainment). Không giống như kiềm chế, chính sách “hạn chế” tính đến thực tế hiện nay về sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế và tìm cách điều chỉnh để nó có lợi cho Washington.

Chính sách “hạn chế” phải làm thui chột lòng tin của Bắc Kinh là họ có thể đạt được các mục tiêu qua chiến chiến tranh và làm cho họ hết lạc quan rằng có thể từng bước xây dựng lợi thế kinh tế để áp đặt cho Mỹ và các đồng minh khác. Vì vậy, chính sách “hạn chế” là cách tốt nhất để ngăn chặn ý đồ của nhà độc tài Tập Cận Bình trong thập niên thứ hai mà ông ta cầm quyền với ý đồ gây sóng gió để thử thách Mỹ (stormy seas of a major test).

Gần đây, Mỹ đã hoãn chuyến thăm Trung Quốc của ngoại trưởng Anthony Blinken, vì phát hiện khinh khí cầu của Trung Quốc bay vào Mỹ để do thám và bị bắn rơi. Vụ “khủng hoảng khinh khí cầu” đã làm tiêu tan hy vọng nối lại đối thoại Mỹ-Trung, sau những căng thẳng vừa qua do Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi đến thăm Đài Loan. Quan hệ Mỹ-Trung vẫn căng thẳng, dù tân chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy có đi thăm Đài Loan hay không.  

Vụ khinh khí cầu phản ánh mâu thuẫn Mỹ-Trung ngày càng tăng, làm cản trở những nỗ lực để tăng cường hiểu biết và góp phần thúc đẩy cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới. Vụ này chủ yếu do Trung Quốc, đã mau chóng leo thang thành khủng hoảng ngoại giao và có thể xung đột quân sự. Lo ngại thái quá và chính trị nội bộ của phía Mỹ, và sự quan liêu, thiếu minh bạch và mánh khóe ngoại giao của phí Trung Quốc là những thực tế đáng lo ngại. 

Có thể đạt được điều đó bằng “đồng cảm chiến lược” (strategic empathy) từ hai phía, nhưng vụ khinh khí cầu đã nhanh chóng leo thang và đặt ra các câu hỏi nghiêm túc rằng liệu hai bên có thể hiểu nhau và nhìn nhận quan điểm của nhau không, và liệu chính trị nội bộ của họ có cho phép họ đủ điều kiện để làm điều đó hay không. (Chinese Spy Balloon Pops Prospects for US-China Rapprochement, Paul Heer, National Interest, February 13, 2023). 

Nguyễn quang Di / Viêt-Studies