QUẢNG NINH – Chùa Cái Bầu ở huyện Vân Đồn được xây dựng theo thế lưng dựa vào núi, mặt chính hướng ra vịnh Bái Tử Long.
Chùa Cái Bầu nằm trên ngọn đồi xa khu dân cư, thuộc khu vực Bãi Dài, thôn 1, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn.
Chùa được xây dựng trên nền Phúc Linh Tự (ngôi chùa có từ thời nhà Trần). Đây vốn là ngôi đền thờ những vị tướng nhà Trần đã có công chống lại quân Nguyên Mông xâm lực.
Vị trí của chùa cũng được cho là nơi diễn ra trận đánh đầu tiên của chiến dịch Bạch Đằng năm 1288.
Năm 2007, chùa được xây mới trên diện tích 20 ha, với tổng kinh phí 24 tỷ đồng bằng nguồn vốn huy động xã hội hoá.
Năm 2009, chùa hoàn thành. Với thế lưng tựa vào núi, mặt hướng ra biển, ngôi chùa được du khách đánh giá là có vị trí đẹp hàng đầu Việt Nam.
Chùa Cái Bầu có tên chính thức là Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm, một trong hai thiền viện của phái trúc lâm ở tỉnh Quảng Ninh và thiền viện Ni trong tông môn.
Lối vào chùa là một con đường uốn lượn, quanh co gần bờ biển. Hai bên đường còn có hàng cây được cắt tỉa rất đẹp mắt.
Cổng tam quan hai tầng mái, nằm cách mặt biển khoảng 100 m. Đứng từ đây có thể ngắm toàn cảnh vẻ đẹp hùng vĩ của vịnh Bái Tử Long.
Chùa bao gồm chánh điện cao 2 tầng rộng 6.000 m2, nhà tổ, lầu chuông, thất ở hòa thượng, nhà khách chư tăng – chư ni, thất đường trụ trì, thất chuyên tu, thiền đường, nhà trưng bày…
Chính điện chùa là nơi đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni trên phù điêu bằng đồng.
Phía trái và phải là tượng của Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ Tát, tượng trưng cho trí tuệ và từ bi.
Chùa Cía Bầu với mái ngói đỏ, đầu đao cong mang đậm kiến trúc chùa Việt.
Chùa Cái Bầu không đốt vàng mã, không có quán xá, hàng rong nên có không gian tĩnh lặng, thanh bình.
Theo Ban trị sự chùa Cái Bầu, du khách đến tham quan, dùng cơm chay với chùa không bị thu bất cứ một khoản phí nào. Nhà chùa chỉ đặt hòm công đức để cho du khách tùy tâm đóng góp.
Nhiều người, đặc biệt là những người lớn tuổi quan tâm nhiều hơn đến tuổi thọ, dù là thời xưa hay là thời nay, nhiều người vẫn luôn khao khát trường sinh bất tử. Sau khi các chuyên gia khảo sát những người cao tuổi, họ nhận thấy hầu hết họ đều có hai điểm chung, không phải là thể thao, đó là gì? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu nhé.
Với sự cải thiện của nền kinh tế và mức sống, mọi mặt của con người cũng được cải thiện rất nhiều, so với trước đây thì mọi người cũng có thể cảm nhận được sự khác biệt rõ rệt. Vì vậy, chúng ta hãy xem xét, đối với những người cao niên lâu năm, tất cả họ có điểm gì chung?
Đầu tiên là tâm lý
Tinh thần rất quan trọng, con người hiện nay ở trong môi trường hiện tại chắc chắn sẽ có nhiều áp lực, cũng có lúc nóng nảy, lo lắng vì những chuyện vụn vặt trong cuộc sống mà không biết làm sao để trút bỏ đi được. Dù phương pháp nào nêu trên không tốt cho sức khỏe, bạn cũng nên trau dồi thái độ tốt trong cuộc sống hàng ngày, không nên cáu gắt, hãy tìm cách trút giận kịp thời.
Thứ hai là chế độ ăn uống
Không cần phải nói thêm về mối quan hệ giữa chế độ ăn uống và sức khỏe thể chất, ăn uống đầy đủ thì tự nhiên sức khỏe của bạn sẽ tốt, tất nhiên ăn ngon không có nghĩa là ăn đắt mà là ăn phù hợp, có lợi đối với sức khỏe của bạn. Nhiều người chỉ ăn những thứ mình thích vì không chú ý đến chế độ ăn uống của mình, điều này sẽ dẫn đến việc xuất hiện các bệnh lý cơ thể. Ví dụ, thường xuyên ăn một số thực phẩm có hàm lượng chất béo cao hoặc vị ngọt dễ dẫn đến các vấn đề như mỡ máu cao và đường huyết cao, đồng thời cũng đẩy nhanh quá trình lão hóa của con người.
Vì vậy, người ta khuyên bạn nên ăn nhiều ngũ cốc nguyên hạt chứa nhiều chất xơ và các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể con người, bao gồm một số loại rau và hoa quả tươi, bổ sung kịp thời các nguyên tố vi lượng và vitamin. Nếu bạn ăn thịt, nên ăn một ít cá, không nên ăn quá nhiều thịt đỏ, bạn phải trộn thịt và rau, ăn uống đầy đủ dinh dưỡng.
Ngoài ra, việc ăn đều đặn 3 bữa trong ngày cũng rất quan trọng, không nên để đói ăn quá, cũng không ăn nó quá, buổi sáng ăn no, buổi trưa ăn ít, mỗi bữa nên ăn no khoảng bảy hoặc tám phần.
Để thư giãn, hãy giữ một thái độ tốt, đừng ép buộc mọi thứ quá, chỉ cần vui vẻ là được. Nhưng chế độ ăn kiêng thì ngược lại, không thể cứ vui mà phải chú ý cân bằng dinh dưỡng, điều độ hợp lý, cung cấp cho cơ thể những chất dinh dưỡng tốt nhất, đồng thời cũng phải kiểm soát lượng thức ăn.
Chụp lại hình ảnh,Pháp áp đặt chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ sau khi đuổi hết quân Thanh đi
Ở Việt Nam vừa có thêm một sáng kiến nhằm ghi công và vinh danh các vị truyền giáo Pháp, Bồ Đào Nha đã ‘xây dựng, phát triển’ chữ Quốc ngữ.
Nỗ lực tìm lại các nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc hình thành ký tự La Tinh của tiếng Việt luôn là việc cần làm và rất đáng khuyến khích.
Nhìn lại cuộc giao lưu Đông Tây ở Việt Nam, có lẽ ta cần tránh cả mặc cảm bài ngoại, đề cao người Việt quá mức cũng như tâm lý sùng bái các giáo sỹ người Âu.
Có ba lý do:
Một là việc tạo ra bộ mẫu tự La tinh cho tiếng Việt không có gì quá độc đáo, thậm chí xảy ra sau Trung văn khá lâu.
Hai là chính các nỗ lực của trí thức Việt Nam và chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương mới thực sự tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Ba là Đông Kinh Nghĩa Thục không đi tiên phong quảng bá Quốc ngữ mà chỉ xóa nốt rào cản tâm lý đã bị lạc hậu để trí thức bản địa yên tâm dùng Quốc ngữ.
1. La tinh hóa các tiếng ngoài châu Âu
Trong lịch sử ngôn ngữ, việc La tinh hóa (Romanisation) các tiếng ngoài châu Âu đã diễn ra khá nhiều và tiếng Việt không phải là biệt lệ.
Đến Trung Hoa vào cuối thế kỷ 16, nhà truyền giáo Matteo Ricci đã nhanh chóng soạn tự điển tiếng Trung bằng ký tự La tinh đầu tiên.
Sang đầu thế kỷ 17, ông cho xuất bản tại Bắc Kinh cuốn Tây Tự Kỳ Tích (Xizi Qiji – Miracle of Western Letters) bản tiếng Trung theo âm La Tinh.
Sách ra tại Bắc Kinh năm 1605, gần nửa thế kỷ trước khi cha Alexandre de Rhodes xuất bản ở Rome năm 1651 ‘Phép giảng tám ngày‘ tiếng Việt dạng La tinh và cuốn ‘Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum‘.
Cả Matteo Ricci và Michele Ruggieri đều dùng tiếng Bồ Đào Nha để phiên âm Hoa ngữ, như cách các giáo sỹ Bồ Đào Nha đầu tiên ghi ký âm tiếng Việt.
Sang năm 1626, một giáo sỹ dòng Tên khác, Nicolas Trigault (1577-1628) xuất bản cuốn ‘Tây Nho Nhĩ Mục Tư (Xiru Ermu Zi) ở Hàng Châu.
Chụp lại hình ảnh,Hoàng đế Bảo Đại và Bộ trưởng Thuộc địa Albert Sarraut tại Pháp năm 1933. Ông Albert Sarraut sau khi làm Toàn quyền Đông Dương đã về nước và làm Bộ trưởng Thuộc địa trong hai nhiệm kỳ
Đến cuối thế kỷ 19, Thomas Wade và Herbert A. Giles soạn ‘Chinese-English Dictionary’ năm 1892, tạo chuẩn quốc tế cho Hoa ngữ dạng La tinh.
Sau này, Mao Trạch Đông cho tạo ra bộ bính âm (pinyin) ở CHND Trung Hoa nhưng ký âm Wade và Giles đến nay vẫn được dùng ở Hong Kong và Đài Loan.
Tại Ấn Độ, tiếng Hindi dạng Devanagari được học giả, nhà thống kê và quan chức thuộc địa người Scotland, William Hunter chuyển sang hệ La tinh cuối thế kỷ 19.
Hindi hệ Hunterian vẫn được chính phủ Ấn Độ ngày nay sử dụng và từng là chuẩn để các nước Nam Á nghiên cứu khi La tinh hóa tiếng của họ.
Vua Thái Lan hồi đầu thế kỷ 20 cũng cho soạn ra bộ chữ La tinh tiếng Thái, và tham khảo từ hệ Hunterian.
Việc La tinh hóa như thế không phải là quá khó khăn mà quan trọng hơn cả là môi trường chính trị, xã hội có thuận tiện để phể biến alphabet mới.
Ví dụ tiếng Ả Rập được người Pháp chuyển sang hệ La tinh nhưng bị phái dân tộc chủ nghĩa Ả Rập bác bỏ vì coi đó là một ‘âm mưu Do Thái’.
Nay, giới trẻ Trung Đông lại dùng không chính thức tiếng Ả Rập hệ La tinh cho mạng xã hội vì giản tiện khi viết trên smartphone .
Còn tại Thổ Nhĩ Kỳ, cải cách ký tự thời Ataturk năm 1932 đã nhanh chóng ‘Âu hóa’ văn tự hệ giống tiếng Ả Rập để chuyển sang La tinh toàn bộ như ngày nay.
Các tiếng Trung Á từng đổi hai lần, từ ký tự Ả Rập sang Cyrillic thời Liên Xô để gần đây lại chuyển sang hệ La tinh, với Kazachstan là muộn nhất, sẽ xong năm 2025.
Các vị truyền giáo đã có công đầu tạo ra bộ chữ Việt hệ La tinh nhưng giả sử không có họ thì việc đó cũng hoàn toàn có thể được làm sau này.
Theo Britannica, Alexandre de Rhodes muốn dùng chữ Quốc ngữ để “cải đạo Ky Tô cho toàn thể dân chúng” ở Đàng Trong và Đàng Ngoài nhưng chỉ cải đạo được cho chừng 6500 người Việt, con số không đáng kể.
Người Pháp sau khi chiếm Đông Dương đã không ủng hộ việc biến người Việt thành dân tộc Thiên Chúa Giáo.
Chụp lại hình ảnh,Thủ tướng Jules Ferry của Pháp thời kỳ đánh Bắc Kỳ
Ngược lại, các lãnh đạo nền Cộng hòa Pháp khi đó nổi tiếng là chống tăng lữ (anti-clerical) và theo tinh thần giáo dục thế tục.
Họ đã đem Quốc ngữ dạy trong các trường dòng ra trường công lập cho toàn thể dân Việt, mở đường cho cách viết mới này trở thành phổ biến.
2. Vai trò của Jules Ferry và các quan chức Pháp
Hồi năm 2012, BBC News có bài nói về hai người khổng lồ của văn hóa Pháp, Jules Ferry và Marie Curie (Giants of French history: Jules Ferry and Marie Curie).
Bà Marie Sklodowska-Curie (1867-1934)) nhà khoa học Pháp gốc Ba Lan được hai giải Nobel, thì nhiều người ở Việt Nam đã biết đến.
Tên của bà được đặt cho trường học tại Đông Dương trước đây và Việt Nam hiện nay.
Còn Jules Ferry (1832-1893), thủ tướng Pháp, nhà cải cách giáo dục nổi tiếng, cũng từng có tên đặt cho đường phố ở Việt Nam nhưng sau bị xóa.
Người Việt Nam có thể chỉ coi ông là Pháp thực dân nhưng Ferry là nhân vật rất quan trọng đối với Đông Dương cuối thế kỷ 19.
Năm 1881, Jules Ferry đề ra cải cách giáo dục cho Cộng hòa Pháp, dựa trên bốn nguyên tắc: Phổ cập tiểu học; Miễn phí, Bình đẳng giới tính và Phi tôn giáo.
Cùng thời gian, chính quyền Pháp cho giải tán dòng Tên (Jesuits) và cấm mọi dòng tu và việc dạy tôn giáo nằm ngoài thỏa thuận Concordat với Vatican.
Luật Ferry trở thành tiêu chuẩn của giáo dục hiện đại ở Cộng hòa Pháp, đi trước Anh và Đức, rồi thành chuẩn cho toàn châu Âu sau này.
Là người nhiệt thành ủng hộ việc xâm chiếm thuộc địa ở Việt Nam, ông bị chính giới Pháp đặt cho cái tên ‘Người Bắc Kỳ’.
Năm 1885, Jules Ferry mất chức thủ tướng sau khi quân Pháp thua lính nhà Thanh ở trận Lạng Sơn.
Nhưng hệ thống giáo dục kiểu Pháp theo cải cách Jules Ferry được đem vào Việt Nam đã thay đổi diện mạo xứ sở này.
Tính phổ cập, không phân biệt giới tính trong giáo dục là những tư tưởng quá mới lạ ở nơi đa số người dân mù chữ, phụ nữ trong cả nghìn năm không được đi học.
Các trường thuộc địa đã đưa hàng vạn em trai và em gái người Việt đến lớp, học với thầy giáo và cô giáo Pháp theo hệ giáo dục văn minh nhất châu Âu.
Trong giáo trình này, Việt văn và Quốc ngữ đóng vai trò quan trọng nhờ vào cả chính sách của Pháp và sức thuyết phục của trí thức Việt.
3. Vì sao Pháp ủng hộ Quốc ngữ?
Chụp lại hình ảnh,Thầy giáo và học sinh trường trung học bảo hộ Albert Sarraut, Hà Nội – ảnh tư liệu của C.A.O.M
Thời kỳ người Âu xâm chiếm, khai thác và khai hóa các thuộc địa kéo dài hàng trăm năm nên khó có một đánh giá chung đen trắng rõ rệt.
Nhìn chung thì các thuộc địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là lạc hậu nhất, của Anh Pháp tốt hơn, và của Hà Lan, Bỉ thì kém cỏi, ít được đầu tư.
Ngoài việc truyền đạo, khai hóa và kiến thiết, các chế độ thực dân cũng tàn phá văn hóa bản địa, bóc lột nô lệ và còn gây tội ác diệt chủng như ở Brazil.
Nhưng khi Pháp sang Việt Nam vào thế kỷ 19, văn minh tại châu Âu và ý thức về dân quyền cũng đã được nâng cao.
Paris cho sang Đông Dương không ít nhà cai trị có uy tín về văn hóa, khoa học.
GS Trịnh Văn Thảo trong ‘L’ecole francaise en Indochine’ nói Gustave Domoutier, Paul Bert đều là những nhà cải cách theo trường phái Jules Ferry.
Ông Domoutier, giám đốc Viện Viễn đông Bác Cổ, không chỉ nghiên cứu về núi Ba Vì, về Cổ Loa, Hoa Lư bằng tiếng Pháp mà còn soạn ‘Bài tập tiếng Annam’.
Cùng thời, Paul Bert trước khi sang làm Thống sứ Trung kỳ và Bắc Kỳ đã là nhà khoa học lỗi lạc, cha đẻ của y học không gian (aviation medicine).
Ngày nay, các công trình mang tính tiên phong của ông về ảnh hưởng về mặt sinh lý của áp suất không khí và dưới nước vẫn được áp dụng cho hàng không vũ trụ.
Sau đó, toàn quyền Paul Doumer sang Đông Dương từ 1897 đến 1902 tiếp tục các công trình xây dựng Hà Nội và cải tổ hệ thống giáo dục.
Nhưng phải đến khi Albert Sarraut sang làm toàn quyền Đông Dương hai lần (1911-14, 1916-19) thì chữ Quốc ngữ mới thực sự khởi sắc.
Theo Keith Taylor, nhờ ‘Kỷ nguyên Albert Sarraut’ mà tiếng Việt, văn hóa và sách báo Quốc ngữ được nâng cao chưa từng có.
“Ông mời các trí thức Việt Nam đến để cùng khai thác, định nghĩa thế nào là văn hóa Việt Nam ở thể thức có thể cùng tồn tại hài hòa với văn hóa Pháp….Cùng việc bỏ hệ thống khoa cử và chữ tượng hình, chữ Quốc ngữ được đẩy lên để đóng vai trò phương tiện chuyển tải và quảng bá văn hóa.”
Chụp lại hình ảnh,Cô giáo Pháp dạy các nữ học sinh Việt – ảnh tư liệu của C.A.O.M
Ý tưởng ban đầu muốn xóa toàn bộ tiếng Việt và áp dụng tiếng Pháp cho toàn Đông Dương như đã làm ở châu Phi bị bác bỏ.
Mặt khác, các trí thức như Trương Vĩnh Ký và Phạm Quỳnh đã thuyết phục được người Pháp rằng tiếng Việt không phải là một thứ thổ ngữ (Patois) mà chuyển tải được các tư tưởng văn minh, tiến bộ.
Để người Việt dùng Quốc ngữ, chính quyền Pháp cũng đạt mục tiêu là phá bỏ quá khứ Hán hóa và xóa dần ảnh hưởng Trung Hoa ở Việt Nam.
Từ thời Albert Sarraut, Quốc ngữ thành ngôn ngữ hành chính bên cạnh tiếng Pháp và Hán văn.
Mô hình ba ngôn ngữ này được ông Hà Ngại, một vị quan triều Nguyễn kể lại trong cuốn ‘Tiếng Tơ Đồng’:
“Đến Tòa sứ Quy Nhơn, tôi được Công sứ Pháp Fries phái đến dịch án với các ông Phán toà. Án hình và án hộ do tỉnh đệ đến Tòa, bằng chữ Hán và Quốc ngữ, phải dịch ra chữ Pháp cho Công sứ duyệt. Các bản án nào cũng có một bản chữ Hán và một bản Quốc ngữ…”
Đây mới là điều độc đáo bậc nhất trong lịch sử thế giới: ba ngôn ngữ cùng tồn tại và được sử dụng tại Việt Nam cho cả mục đích hành chính và truyền thông.
Chụp lại hình ảnh,Tạp chí Nam Phong đã đóng vai trò quan trọng để quảng bá Quốc ngữ
Hệ thống trường Pháp không chỉ dạy lịch sử Việt Nam ‘từ Hồng Bàng đến nhà Nguyễn’, và ‘Chuyện đời xưa’ (Trương Vĩnh Ký) mà còn dạy Việt văn gồm cả Chinh phụ ngâm khúc, Truyện Thuý Kiều (Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim)…
Sách Quốc văn Giáo khoa thư đã thành nền tảng giáo dục cho nhiều thế hệ học sinh.
4. Đông Kinh Nghĩa Thục và sự tự ý thức
Nhưng sự phổ biến văn hóa Âu và chữ Quốc ngữ chưa lan ra cả nước vì phản ứng chống Pháp vẫn còn trong giới Nho học.
Phải đợi đến phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1917) thì Quốc ngữ mới được chấp nhận “toàn tâm toàn ý” để quảng bá tư tưởng dân tộc.
Nhưng ở Nam Kỳ, chữ Quốc ngữ, và cả sách báo đã có từ trước nhiều năm, với các tên tuổi như Diệp Văn Kỳ, Trương Vĩnh Ký… và cụ thể là Gia Định Báo có từ 1865.
Từ những năm 1880, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) và người Pháp trong Cơ quan Học chánh Nam kỳ đã soạn sách giáo khoa dạy Quốc ngữ ở cấp tiểu học.
Bởi thế Đông Kinh Nghĩa Thục ở miền Trung và miền Bắc là phong trào tự thức tỉnh của các nhà Nho để không bị thời cuộc bỏ rơi chứ họ không đi tiên phong.
Tuy nhiên, ý nghĩa chính trị của phong trào là xóa mặc cảm cuối cùng để giành lấy một phương tiện ngôn ngữ nhằm tự nâng mình lên.
Đông Kinh Nghĩa Thục cũng thúc đẩy tạo ra một thế hệ tư sản dân tộc là dùng Quốc ngữ, những người sẽ có đóng góp to lớn cho công cuộc độc lập sau này.
Cùng lúc, đây là thời kỳ thoái trào của Hán học.
Năm 1919, vua Khải Định cho bỏ khoa cử, coi chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của quốc gia.
Nhưng sự kiện quan trọng nhất cho sự phát triển của Quốc ngữ phải kể đến là sự ra đời của Nam Phong tạp chí năm 1917.
Chụp lại hình ảnh,Trích báo Nam Phong
Lần đầu tiên, các tư tưởng Đông Tây, kim cổ, lịch sử Việt Nam, Trung Hoa, cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, hệ thống chính trị Mỹ, Pháp, vấn đề triết học Đức, nữ quyền ở Đông Dương… được Nam Phong chuyển tải hoàn toàn bằng Quốc ngữ đến người Việt Nam.
Nhà báo, học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) có viễn kiến coi Quốc ngữ là phương tiện để nâng dân tộc lên hàng văn minh và Nam Phong tạp chí đóng vai trò đó hết sức xuất sắc.
Chụp lại hình ảnh,Các thầy giáo Pháp và học sinh Việt trường Petrus Ký, Sài Gòn – ảnh tư liệu C.A.O.M
Sau khi Pháp thua Nhật, vào tháng 4/1945, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ Trần Trọng Kim soạn các sách giáo khoa, gồm cả sách toán, kỹ thuật lần đầu bằng tiếng Việt.
Bộ Quốc văn Giáo khoa thư vào áp dụng ngay trong niên học 1945-46 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Sau đó, Chính phủ VNDCCH từ tháng 9/1945 tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch xóa nạn mù chữ ở nông thôn bằng sắc lệnh ‘Bình dân học vụ’ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam dù phụ thuộc người Pháp vẫn lấy tiếng Việt Quốc ngữ làm ngôn ngữ số một.
Tổng quan mà nói, chữ Quốc ngữ tuy không quá đặc biệt về mặt kỹ thuật La tinh hóa, nhưng qua thăng trầm lịch sử, nhờ nỗ lực của nhiều nhân vật độc đáo, cùng chính sách Đông-Tây hội tụ đúng lúc nên đã bén rễ và còn có sức sống vượt qua chiến tranh để kết nối cả một quốc gia như ngày nay.
Thật ra chuyện ông Phúc, chính xác hơn, theo dư luận từ một thời gian dài đến nay, là câu chuyện gia đình ông Phúc.
Cũng theo học giả Lê Hồng Hiệp, Thủ tướng Phạm Minh Chính trong tương lai có thể sẽ gặp rắc rối do liên quan đến bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn…
Có thể gia đình ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ là một “chùm cuối”, còn ai mới thực sự là “đệ nhất trùm cuối” trong cả cái “chùm” ấy thì có lẽ phải chờ kết luận từ các cơ quan nghiệp vụ. Đến nay, chắc chắn họ đã biết rõ “cái tổ con chuồn chuồn” nhưng vẫn chưa công khai hết mọi chuyện. Rồi đây, có còn ai là “đệ nhị trùm cuối” nữa không? Công bố cả bà trùm lẫn ông trùm thì liệu có “vỡ bình” hay không? Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang đau đầu…
Thế là chấm dứt mọi đồn đoán. Hệ thống truyền thông lề phải đã loan tin: Ngày 17/1/2023, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (BCHTƯ13) đã họp xem xét và cho ý kiến về nguyện vọng thôi giữ các chức vụ, nghỉ công tác và nghỉ hưu của ông Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên BCHTƯ13, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng, an ninh nhiệm kỳ 2021 – 2026. Rút kinh nghiệm những lần trước “hành tung” tù mù bị dư luận chất vấn, lần này Đảng đã cho công bố nguyên nhân “trảm” ông Phúc là do, trên cương vị Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2016 – 2021, ông Phúc phải “chịu trách nhiệm chính trị của người đứng đầu khi để nhiều cán bộ, trong đó có 2 đồng chí Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng có vi phạm, khuyết điểm, gây hậu quả rất nghiêm trọng; 2 đồng chí Phó Thủ tướng đã xin thôi giữ các chức vụ, 2 Bộ trưởng và nhiều cán bộ bị xử lý hình sự”.
Thật ra chuyện ông Phúc, chính xác hơn, theo dư luận từ một thời gian dài đến nay, là câu chuyện gia đình ông Phúc, mà, vẫn theo dư luận, chủ yếu liên quan đến bà vợ ông và một lô họ hàng phía bà ta, bị cho là dính quá sâu vào vụ Test Kit Việt Á, đã lùm xùm từ giữa năm ngoái. Thậm chí các mạng xã hội từ lâu đã đưa khá chi tiết về lộ trình “tìm và diệt” trùm cuối của vụ đại án này. Chiều mai, Quốc hội sẽ “tuân thủ” nghị quyết của Đảng, nhiều khả năng 100% sẽ chấp nhận “nguyện vọng cá nhân” của Chủ tịch Phúc.
“Tiên hạ thủ vi cường”
Cho đến trưa hôm 14/1/2023, khi blogger “cô gái Đồ Long”, tức nhà báo Lê Nguyễn Hương Trà, viết trên FB cá nhân từng có hàng triệu người theo dõi: “Căng thẳng và kịch tính đến tận những phút cuối cùng, ngôi sao CLB (câu lạc bộ) bóng đá Quảng Nam, cầu thủ số 7 (tức Bảy Phúc) đã bị rút thẻ đỏ truất quyền thi đấu. Anh chuẩn bị rời sân, chấm dứt sự nghiệp cầu thủ nhà nghề”, thì mọi chuyện coi như đã an bài. Bà Trà đã dùng ngôn ngữ bóng đá để diễn tả kịch tính trong quá trình nhân sự cấp cao chuyển động mạnh trong tuần trước Tết Con Mèo. Tại cuộc họp Ban Bí thư trước đấy một ngày, 13/7, ông Phúc đã chính thức nộp đơn xin trở về “làm người lương thiện”. Chỉ dấu rõ nhất cho việc ông Nguyễn Xuân Phúc mất ghế là vụ bắt, khởi tố bà Nguyễn Bạch Thùy Linh, 45 tuổi, giám đốc công ty SNB Holdings, với cáo buộc “Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” từ hôm 4/1. Công ty SNB Holdings liên quan một loạt doanh nghiệp “họ” SNB, trong đó có công ty Thế Giới Tuổi Thơ (Soc&Brothers) và công ty Phân Phối SNB (SNB Distribution). Đáng nói, theo mạng xã hội, doanh nghiệp này được cho là do bà Nguyễn Thị Xuân Trang, con gái ông Nguyễn Xuân Phúc, đứng sau và nắm quyền sở hữu. Việc Bộ Công An “sờ gáy” đến tận doanh nghiệp thuộc sở hữu của con gái đương kim Chủ tịch nước cho thấy người nhà ông Phúc đã không còn thuộc diện “kim bài miễn tử” từ ngày ấy.
Trong lịch sử ĐCSVN chưa bao giờ xảy ra chuyện chỉ trong vòng chưa đầy một tháng mà có đến hai cuộc họp trung ương bất thường chỉ để xử lý vấn đề nhân sự, trong đó, có việc xử lý một thành viên thuộc “Tứ trụ”. Theo luật bất thành văn xưa nay, những chuyện đấu đá trên thượng tầng Bộ Chính trị, đặc biệt trong “Tứ trụ”, rất hiếm khi được công bố ra bên ngoài. Kể cả trong thời internet và số hóa thì cũng phải chậm mất mấy “pha”, công luận mới biết được cuộc chiến Ba – Tư khốc liệt đến nhường nào, mới rõ ngọn ngành của việc TBT Nguyễn Phú Trọng tại sao phải gạt nước mắt trước màn hình vô tuyến, vì đã không hạ bệ nổi Nguyên Tấn Dũng… Và cho đến bây giờ, người dân cũng chỉ thấy hiện tượng, mà vẫn chưa hiểu sự thật đằng sau thực tế là ông Nguyễn Phú Trọng nhắm ai “bồi dưỡng” để truyền ngôi thì người đấy không những không được tập thể trung ương chấp nhận, mà họ còn rơi vào cảnh thân bại danh liệt. Hãy nhìn Phạm Quang Nghị, Đinh Thế Huynh, Trần Quốc Vượng… tất cả đều “treo ấn từ quan”. Vì vậy mà lần này, những Vương Đình Huệ và Tô Lâm, những Võ Văn Thưởng… và chúng ta không biết hết còn những ai nữa đang lọt mắt xanh của đảng trưởng và hứa sẽ được “truyền ngôi”, đã không còn mấy tin tưởng vào “chiếc bánh thánh” ấy của TBT. Và ai ai cũng thấy thời gian gấp gáp lắm rồi.
“Tiên hạ thủ vi cường” – Ra tay trước sẽ dành được lợi thế, trở thành kẻ mạnh; ra tay sau sẽ chịu phần thua thiệt, bất lợi. Phải chăng đấy là chỗ gặp gỡ nhau giữa ông Trọng và “các lãnh chúa” quyết xuống tay với Phúc? Từ phía ông TBT, nhờ vào sự năng nổ của Tô Đại tướng, ông Trọng thấy giờ là thời cơ để dẹp bớt các thế lực đang bủa vây ông. Ông bực mình khi nghe Phúc và Phạm Minh Chính cứ hát mãi “bè” cải cách thể chế trong “dàn đồng ca” khá nguy hiểm cho sự độc tôn của Đảng. Phải dẹp sớm các ảo tưởng về cải cách chính trị ở xứ Đông Lào. Chủ tịch Tập Cận Bình dặn thế và đồng chí không vui khi trong nội các của Phạm Minh Chính có những thành viên như Minh và Đam đại biểu cho giới kỹ trị thân Mỹ và phương Tây. Vì vậy, ông Tổng tính cho “đi tàu suốt” một thể. Ông Tổng quyết định “bứng” Phúc sớm, vì “hậu thủ vi tai ương” (ra tay sau sẽ thua thiệt). Sách Trung Quốc xưa vẫn dạy vậy! Còn từ phía các đồng chí được ông hứa sẽ “cân nhắc” cũng khá bồn chồn, vì trong vòng hơn hai năm nữa cho tới ngày Đại hội 14, ai mà biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra! Vẫn còn “treo đây” nhiều vụ lắm: AVG cho Tô Lâm, Tập đoàn AIC dính Phạm Minh Chính, Thưởng thì liên quan đến việc chuyển nhượng mấy thửa đất vàng cho các đại gia hiện vừa xộ khám cách đây chưa lâu…
Họa phúc phải đâu một buổi…
Đảng vẫn dành cho Phúc “củ cà-rốt” trước khi về vườn thế này: “Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc là cán bộ lãnh đạo chủ chốt… sinh ra trong gia đình giàu truyền thống cách mạng; được đào tạo cơ bản, trưởng thành từ cơ sở và được BCHTƯ, BCT các khóa tín nhiệm phân công giữ nhiều chức vụ lãnh đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trên cương vị Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2016 – 2021, đồng chí đã có nhiều nỗ lực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống dịch COVID-19 đạt kết quả quan trọng”. Nhưng phần ân oán đằng sau vụ “trảm” Phúc thì phải nói giới giang hồ còn thua. Được biết, năm 2019, Nguyễn Xuân Phúc đã “bật đèn xanh” cho Trần Văn Vệ, Phó thủ trưởng Thường trực Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát sờ gáy đại tá Nguyễn Duy Linh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo và Hồ Hữu Hoà, tức “cậu” Hòa, về tội “nhận hối lộ” và “môi giới hối lộ”. Linh là con trai duy nhất của tướng ba sao Nguyễn Văn Hưởng, một “bố già” khét tiếng toàn cõi Đông Dương. Hồ Hữu Hòa là cháu ruột của Hồ Mẫu Ngoạt, mà Ngoạt lại là Trợ lý TBT Nguyễn Phú Trọng. Nhận hối lộ từ Vũ “nhôm” 5 tỷ đồng, Linh bị tuyên án 14 năm tù. Nói ở tù, thực tế Linh chỉ đi nằm viện dưỡng bệnh, nhưng mất tương lai Uỷ viên Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an mà Tô Lâm quy hoạch cho Linh vào khoá Đại hội 14 tới. Nhục và cay cú, Hưởng thề sẽ bắt Phúc có ngày phải trả giá.
Cựu nhà báo Võ Văn Tạo từ Khánh Hóa bình luận về việc “thôi chức vụ” của Chủ tịch Phúc: “Đột nhiên ông Nguyễn Xuân Phúc được ‘thôi chức’, thực chất đó là sự phế chức… nói nôm na đó là sự bãi chức. Đó là một sự đặc ân của giới chóp bu của ĐCSVN khi anh phạm sai lầm, mắc khuyết điểm và thậm chí khi có tội, nhưng vì cương vị, vai vế của anh trong đảng rất lớn, chẳng hạn như “Tứ trụ” triều đình hay BCT, cho nên khi người ta xử lý anh, người làm một cách nhẹ nhàng hơn để giữ bộ mặt cho đảng thôi”. Văn phòng Chủ tịch nước của ông Phúc không thể đưa ra bình luận ngay lập tức và không rõ liệu khi đảng chấp nhận đơn từ chức của ông Phúc, họ có xác định được ứng cử viên thay thế ông là ai hay không, theo Reuters. Trong một bài viết mang tựa đề “Thẻ đỏ” cho Chủ tịch nước? Màn kịch chính trị lớn nhất của Việt Nam trong nhiều thập kỷ (nguyên văn “Red Card” for the President? Vietnam’s Biggest Political Drama in Decades) đăng trên Fulcrum ngày 17/1/2023, Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, một nhà quan sát chính trị Việt Nam đang làm việc tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á tại Singapore, nhận xét: “Trong trường hợp để thay ông Phúc, ứng cử viên hàng đầu có thể là Bộ trưởng Công an Tô Lâm. Ông Tô Lâm dường như đã giành được sự tin tưởng từ ông Trọng vì sự trung thành và vai trò quan trọng trong việc điều hành các điều tra chống tham nhũng. Là ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ thứ hai, ông Tô Lâm cũng có phần mạnh hơn so với các ứng viên cạnh tranh khác”. Tuy nhiên, theo một nguồn tin riêng, ông Tô Lâm, vì những lý do khác nhau đã chưa chấp nhận “phần thưởng cao quý” ấy.
Cũng theo học giả Lê Hồng Hiệp, Thủ tướng Phạm Minh Chính trong tương lai có thể sẽ gặp rắc rối do liên quan đến bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC), người mới bị kết án 30 năm tù giam vắng mặt về hai tội danh “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” và “đưa hối lộ” trong vụ án tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. Hồi tháng 8 năm ngoái, Cơ quan Điều tra thuộc Bộ Công an Việt Nam thông báo diễn tiến mới của vụ việc đó là ra quyết định khởi tố vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế AIC và Bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh hồi năm 2012. Thời gian đó ông Phạm Minh Chính là Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh. Vậy sau “đệ nhất” trùm cuối, sẽ có “đệ nhị” trùm cuối nữa hay không? Và nếu liên tục công bố cả bà trùm lẫn ông trùm thì liệu có bị “vỡ bình” hay không? Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang thực sự đau đầu…
Việc từ chức của ông Nguyễn Xuân Phúc, chủ tịch nước Việt Nam cộng sản, có thể là sự kiện gây nhiều sự chú ý cho giới quan sát trong và ngoài nước nhất từ sau năm 1975 đến nay. Hầu như tất cả các tờ báo lớn ở ngoại quốc đều có bài về ông Phúc.
Điều làm cho các nhà quan sát ấy ngạc nhiên là sự kiện ông Phúc “bất ngờ” từ chức, và “bất ngờ” được chấp nhận, trái với thói quen kín kẽ của chính trị cộng sản nói chung, Việt Nam cộng sản nói riêng. Theo cái thói quen ấy thì tất cả các chuyện dàn xếp đều diễn ra trong phòng kín, rồi kết quả được đem ra công khai với sự “đồng thuận” tuyệt đối. Thời điểm cũng “bất ngờ”, dù rằng theo phong tục cộng sản thì đôi khi họ cũng triệu tập những cuộc họp “đặc biệt”, nhưng thường thì những hội nghị trung ương đảng (quốc hộ de facto của thể chế cộng sản), đại hội toàn quốc của đảng sẽ là nơi họ công bố các dàn xếp trong phòng kín.
Đảo qua các bình luận của hàng chục nhà bỉnh bút về chính trị Việt Nam, ta sẽ thấy có hai giả thuyết chính.
Thứ nhất là đấu đá phe phái căng thẳng quá, trong đó ông Phúc là cùng phe với hai “đàn em” bị mất chức trước đó là ông Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam. Cũng theo giả thuyết này thì nhóm Phúc-Minh-Đam là kỹ trị, thân phương Tây, đang bị tấn công bởi phe thủ cựu do ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc dẫn đầu.
Nếu thuyết này có chút màu thuyết âm mưu, thì giả thuyết thứ hai có vẻ lạc quan hơn, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra một công thức mới cho việc cách chức các quan chức cao cấp, đó là “công khai” thú tội, và thế là “công khai hạ cánh an toàn”. Tạm gọi công thức này là công thức… bán công khai.
Theo tôi thì giả thuyết thứ nhất (về bộ ba Phúc-Minh-Đam) là không thuyết phục. Tôi ủng hộ quan sát của ông Vũ Hồng Lâm (Hawaii, Mỹ) đưa ra khá lâu, là các phe phái chính trị Việt Nam không bền, mà các phần tử thuộc các phe khác nhau có thể chuyển phe dễ dàng.
Tôi cũng không đồng ý hoàn toàn việc chia ra các phe của Đảng cộng sản Việt Nam rạch ròi thành hai nhóm, thân phương Tây và thân Trung Quốc. Một giáo sư người Việt ở Mỹ, có khá nhiều quan hệ với các viên chức đảng cao cấp trong nước, có nói với tôi rằng (nguyên văn): “Anh nào cũng bảo thủ, và anh nào cũng cấp tiến cả”. Tôi ủng hộ quan điểm này hơn. Các nhà chính trị Việt Nam có khuynh hướng giống như khuynh hướng chung của đảng cầm quyền là di dây giữa hai thế giới, phương Tây và Trung Quốc. Hơn nữa, các cán bộ cao cấp về sau này đa số được đào tạo ở phương Tây, và khuynh hướng này sẽ tiếp tục kéo dài, khi mà quan hệ đối ngoại của Việt Nam sẽ này càng nhiều với phương Tây hơn.
Nếu ta nói các cán bộ đào tạo ở phương Tây như ông Đam, ông Minh, đối lập với phe “lãnh chúa”, tức là các cán bộ đi lên từ hậu thuẫn địa phương, thì có lý hơn. Điều đó không có nghĩa là các “lãnh chúa” thân Trung Quốc, mà điều khác nhau giữa họ với các quan chức từ phương Tây về, là họ có hậu thuẫn rộng rãi nên lúc nào cũng thắng thế, nhưng họ không có kỹ năng để đảm nhiệm những hoạt động kinh tế, đối ngoại,… ngày càng dính dáng với phương Tây.
Sự khác biệt giữa hai nhóm này, suy cho cùng là một sự khác biệt văn hóa lớn lao, giữa xã hội cộng sản khổng giáo và dân chủ mở của phương Tây.
Bây giờ ta trở lại với sự ra đi bất thường của ông Phúc.
Thực ra những đồn đoán về nguy cơ rớt đài của ông Phúc đã được râm ran từ lâu, cả nửa năm trời nay, từ những cụ già không có quyền lực chính trị gì trên đường phố Sài Gòn, cho đến những người thạo tin trong giới ngoại giao. Người ta đồn rằng các đối thủ chính trị của ông Phúc bắt lấy cơ hội vụ bê bối Việt Á có liên quan đến gia đình ông để bắt ông phải gãy gánh giữa chừng.
Nhưng đa số các quan chức cao cấp cộng sản thời hậu cộng sản này thường có các doanh nghiệp sân sau đằng sau lưng họ, và các doanh nghiệp sân sau này thường rất nhũng lạm dựa trên ưu thế độc quyền chính trị của người thân trong tầng lớp chóp bu. Vì thế nếu điều tra cho thấu đáo thì có lẽ quan chức nào cũng sẽ dính chàm. Trường hợp khá hiếm hoi là tới giờ này ta chưa nghe nói đến những công ty sân sau, hay những người thân ỷ thế của ông Nguyễn Phú Trọng, và vì thế cho nên ông có thể làm nhân vật đứng giữa các phe phái, và nương vào phe nào đang mạnh để diệt phe kia. Mỗi lần diệt như vậy ông và đảng nói chung lại được tiếng thơm đốt lò, mặc dầu nếu đốt cho đàng hoàng thì chắc toàn đảng cũng cháy sạch.
Ta cũng phải tính đến ảnh hưởng của dư luận trong dân chúng. Mặc dù trong chế độ toàn trị thì dân chúng không có quyền đi bầu thực sự, nhưng sự tức giận của họ cũng làm cho các quan chức dè chừng, nhất là ở những thời điểm được cho là điểm “bước ngoặc”, dự báo có khó khăn sắp tới, như là thời điểm hiện nay.
Theo ý chủ quan của tôi thì vụ “bất ngờ” của ông Phúc chính là ông xui xẻo rơi vào thời điểm mà nền kinh tế phụ thuộc quá lớn của Việt Nam vào ngoại thương đang đứng trước một tương lai bất định, thế cho nên ông Phúc biến thành một con dê tế thần. Sự ra đi của ông Phúc có thể làm những nhà nhận định duy lý của Việt Nam thấy là bất công cho ông, vì trong thời ông cai trị, kinh tế Việt Nam có khởi sắc mạnh, nhưng đối với dân chúng thì có thể đem lại sự hỉ hả, qua đó củng cố thêm một chút uy tín của Đảng.
Nhưng một lý do nữa mà theo tôi là quan trọng hơn là phe phái đang tranh giành với ông Phúc, mà thiên hạ đồn là ông Tô Lâm trùm công an, đang rất mạnh lên. Sự mạnh lên này có sự tiếp tay của ông Nguyễn Phú Trọng, đề cao thanh gươm và lá chắn (lực lượng công an) của chế độ, vì ông Trọng rất lo ngại tương lai Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ bị nuốt chửng bởi ảnh hưởng phương Tây. Các viên tướng công an xung quanh ông Tô Lâm muốn tranh đoạt quyền lực, quyền lợi, của phe “Quảng Nam” của ông Phúc ngay lập tức. Để lâu “cứt trâu hóa mùn” không tiện, mà biết đâu lại có vụ bê bối nào khác của “phe ta” nổ ra mà ông Phúc phản công thì rất không hay. Vụ ông Lâm ăn bò dát vàng còn sờ sờ ra đó, người ta có thể kết tội ông là không kiên định lập trường đạo đức trong sạch của chủ tịch Hồ Chí Minh, chẳng hạn!
Trong một chế độ mà bất cứ quan chức nào cũng có thể dính tới tham nhũng, và không có một nền tư pháp độc lập, thì Việt Nam cộng sản của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn theo công thức cũ từ thời mồ ma Mao Trạch Đông, quyền lực trên đầu súng. Có thể họ đã đưa ra được công thức bán minh bạch, bán công khai trong vụ ông Phúc, theo một số nhà quan sát, nhưng theo tôi thì chưa, những người có cái nhãn cộng sản Việt Nam vẫn thích lối giành giật nhau trong phòng kín, rồi đồng thuận chỗ công khai hơn.
Nguyễn Khoa /Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-1-22