Bộ ảnh kỳ công, lạ mắt về xe thồ, ‘ninja siêu đẳng’

Chị em phụ nữ trong bộ đồ chống nắng, cánh xe thồ, dân buôn bán trên đường phố Hà Nội được nhiếp ảnh gia Phạm Thành Long chụp và ghép thành những tác phẩm ảnh độc đáo, gần gũi mà rất lạ lẫm.

Tháng 7/2021, một bức ảnh ghép có gần 60 người chạy xe ôm và giao hàng công nghệ (shipper) trong một khung hình đã được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội. Bởi trong bối cảnh giãn cách xã hội do đại dịch Covid-19 khi đó, những người giao hàng này là lực lượng có đóng góp rất lớn trong việc cung ứng hàng thiết yếu. Chỉ tiếc là có nhiều người tham gia giao thông chưa tuân thủ đúng luật.

Tác giả của các bức ảnh độc đáo này là Phạm Thành Long – một người chụp ảnh có nhiều năm theo đuổi các đề tài liên quan tới giao thông, đặc biệt là người đi xe máy ở Hà Nội.

Tiếp nối ý tưởng đó, sau gần 2 tháng biên tập, đầu năm 2023, nam nhiếp ảnh gia lại giới thiệu 5 tác phẩm đồ họa về chủ đề giao thông. Điểm chung của các tác phẩm này đều là ghép từ những bức ảnh tư liệu chụp từ 3 đến 4 năm trước và thể hiện tên tác phẩm ở dạng ký tự pháp (typography).

Với ảnh tư liệu, điều hấp dẫn không chỉ ở ấn tượng thị giác mà còn là câu chuyện kể. Theo anh Long, để gây được sự chú ý thì ảnh tư liệu thường phải đi theo bộ. “Vì thế khả năng tiếp cận người xem của ảnh tư liệu sẽ kém hơn các thể loại khác”, anh nói.

Tác phẩm này được ghép từ khoảng 50 bức ảnh khác nhau. Phạm Thành Long cho biết, tất cả ảnh anh chụp tại cùng một địa điểm là hầm chui Thanh Xuân (đường Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Nội). Thời gian bấm máy là từ 14h đến 15h. Đây là khoảng thời gian lý tưởng bởi mật độ giao thông lúc này khá thấp (dù vẫn có rất nhiều phương tiện di chuyển). Lúc này ánh nắng chiếu gần như thẳng hướng các phương tiện. 

Để tác phẩm thành hình, anh Long dành khoảng 5 tiếng liên tục để chọn, tách nền và sắp xếp. Mặc dù phần mềm chỉnh sửa ảnh đã giúp tách nền khá chính xác, tác giả vẫn phải tốn thêm khoảng nửa ngày nữa để tinh chỉnh các chi tiết.

Các ảnh tư liệu được chụp vào cuối tháng 10/2019, cạnh công trình dự án xây dựng tại Hà Đông, một lối đi tắt tương đối hẹp. Trời mưa nhẹ và tạnh dần nhưng nhờ chụp vào giờ đi làm buổi sáng, mật độ giao thông vừa đủ, tác giả đã có được gần 200 bức ảnh trong khoảng 20 phút.

Do màu sắc và hoạ tiết của áo mưa khá đa dạng, tác giả mất khoảng nửa ngày để chọn ra cách phối màu hợp lý nhất từ nguồn tư liệu sẵn có.

Đây là các bức ảnh tư liệu được chọn ra từ gần 500 tác phẩm chụp trong hơn 1 giờ buổi sáng tại chân cầu vượt Ngã Tư Sở của Phạm Thành Long. Quãng thời gian trước khi dịch Covid-19 tấn công, bụi mịn và ô nhiễm không khí là một trong những chủ đề thường xuyên được nhắc tới. Những tác phẩm này được anh Long chụp cho bộ sưu tập “Phố đông vắng mặt người”. Ý tưởng của nhiếp ảnh gia tại thời điểm đó là chụp những người đi xe máy đeo khẩu trang, mặc áo chống nắng, đeo kính râm.

Đây là tác phẩm được làm lại từ bộ ảnh tư liệu “Những bộ tứ siêu đẳng” được công bố cuối năm 2018, đầu năm 2019. 4 bức ảnh được chụp vào nhiều ngày khác nhau tại nhiều điểm khác nhau trên đường Nguyễn Trãi (Hà Nội).

Đây cũng là một tác phẩm thuộc “Những bộ tứ siêu đẳng”, nhưng phiên bản mới đã bớt đi một nhân vật. Trong lần này, tác giả đã sắp xếp lại thứ tự các nhân vật và không ngại điều chỉnh một chút về màu sắc để đảm bảo sự đồng điệu.

Theo Vietnam Net

Những giai thoại ít người biết về Thái sư Trần Thủ Độ

Hậu thế mãi mãi ghi nhớ câu nói khí phách ngất trời của Trần Thủ Độ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, Bệ hạ chớ có lo gì”, nhưng ít ai chú ý đến những chuyện rất độc đáo khác về vị Thái sư này.

Những giai thoại ít người biết về Thái sư Trần Thủ Độ

Tượng hổ ở lăng Thái sư Trần Thủ Độ.

Có thể nói, cuộc “đảo chính” cung đình êm ả và hữu hiệu vào cuối năm 1225 đầu 1226 đã chấm dứt 215 năm trị vì của Vương triều Lý để chuyển ngôi vị sang một triều đại mới do dòng họ Trần nắm giữ. Đạo diễn và thực hiện cuộc đảo chính này là Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (1194 – 1264).

Sách Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài trí hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ vào mưu sức của ông cả, vì thế, ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: “Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?”. Thái Tông lập tức ra lệnh cho xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và kể hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời rằng: “Quả có đúng như những lời hắn nói thật. Xong, đem tiền lụa mà thưởng cho”.

Theo sách Việt sử giai thoại, Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị quân hiệu ngăn lại, về dinh khóc kể với Thủ Độ rằng: “Mụ này làm vợ ông mà bị bọn quân hiệu khinh nhờn đến thế ư ?”. Trần Thủ Độ tức giận liền sai người đi bắt người quân hiệu kia. Người quân hiệu ấy nghĩ rằng mình chắc là phải chết. Đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt Linh Từ, người quân hiệu ấy cứ theo sự thực mà trả lời. Thủ Độ nói: “Ngươi ở chức thấp mà giữ được luật pháp, ta còn trách gì được nữa”. Nói xong, đem vàng lụa thưởng cho.

Có lần Trần Thủ Độ đi duyệt định hộ khẩu, bà Quốc mẫu xin riêng cho một người được làm chức Câu đương, Thủ Độ gật đầu rồi ghi rõ họ tên quê quán người đó. Khi xét duyệt đến xã ấy, liền hỏi tên nọ ở đâu, người đó mừng rỡ chạy đến. Thủ Độ bảo hắn: “Ngươi vì có công chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác!”. Người đó van xin mãi mới tha cho. Từ đó, không ai dám đến thăm Thủ Độ vì việc riêng nữa.

Thái Tông có lần muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng, Thủ Độ tâu: “An Quốc là anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, còn nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm Tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra sao?”. Vua bèn thôi.

Về con người Trần Thủ Độ, hầu hết các nhà sử học phong kiến và hiện đại luôn nhận xét hai mặt: vừa khen lại vừa phê phán. Khen vì những công trạng, những việc ông làm cho nhà Trần, nhưng lại phê phán vì những việc ông làm với nhà Lý. Nhưng chẳng phải đợi đến một nghìn năm, mà chỉ hơn 600 năm sau, năm 1905, tại thôn Thái Bình, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, chính tại nơi mà sử chép Trần Thủ Độ đặt bẫy giết hại họ Lý, nhân dân đã dựng một ngôi đình Thái Bình để thờ Lý Chiêu Hoàng ngồi giữa, Trần Cảnh và Trần Thủ Độ ngồi hai bên.

Bà Ngô Vũ Hải Hằng, Viện Sử học, từng cho rằng: “Dưới con mắt của nhân dân, Trần Thủ Độ hoàn toàn khác với những nhận định của các sử quan phong kiến. Nhân dân biết ơn ông đã cứu đất nước thoát khỏi cảnh loạn lạc, và nhờ có tài thao lược, khí phách hiên ngang, tinh thần kiên quyết của ông mà Đại Việt mới thoát khỏi cảnh nô lệ ở nửa sau thế kỷ 13”.

Theo ĐẤT VIỆT ONLINE

7 phẩm chất của người thành công và 7 thói xấu của kẻ thất bại

Chúng ta luôn tin rằng mình có đủ khả năng để thành công trong công việc và sự nghiệp, thế nhưng đáng buồn là không ít người phải đối mặt với sự thất bại. Vì sao vậy? Sự thật là khi chúng ta thất bại, chúng ta mới nhận ra rằng mình chưa đủ năng lực, phẩm chất của những người thành công.

7 phẩm chất của người thành công và 7 thói xấu của kẻ thất bại

Những người thành công luôn có những tố chất “vàng” để nâng bước và chắp cách cho họ, ngược lại những người thất bại luôn mắc vào những “thói xấu” khiến con đường thành công của họ luôn xa tầm với.

NGƯỜI THÀNH CÔNG

1. Biết tạo dựng các mối quan hệ

Những người thành công thường có rất nhiều các mối quan hệ. Họ tự tạo cho mình một hệ thống những người cùng hợp tác, giúp đỡ nhau và cạnh tranh với nhau. Họ cũng có chiến thuật riêng để tạo dựng các mối quan hệ, kết thúc chúng và điều khiển chúng theo cách họ muốn.

2. Là người tham vọng

Thành công là đích đến sau một chặng đường dài. Người thành công sau khi đã đi hết chặng đường này rồi, họ sẽ tiếp tục đi tiếp hoặc tìm một hướng đi khác. Đây là cách nói ẩn dụ cho biết người thành công là những tham vọng. Họ không bao giờ “ngủ quên trong chiến thắng” và dậm chân tại chỗ. Nếu họ chưa thành công, họ sẽ cố gắng để đạt được. Nếu họ đã thành công, họ sẽ tiếp tục đầu tư hay chuyển hướng sang một lĩnh vực khác để thành công hơn.

3. Dám đối mặt với khó khăn

Cái khí chất của những ông chủ là họ dám nghĩ dám làm. Họ dám mạo hiểm, không sợ khó khăn để đánh cược với tương lai của mình. Ngoài ra, những người thành công cũng là những người giỏi chịu đựng áp lực công việc. Khởi điểm của họ có thể là con số không, nhưng kỹ năng làm việc và khả năng chịu đựng áp lực công việc giỏi sẽ giúp họ “đánh bại” các đối thủ khác và được đề bạt ở vị trí cao hơn. Nói theo cách khác, thử thách và kinh nghiệm giúp họ trưởng thành và hình thành tư chất của người quản lý giỏi.

4. Ấp ủ ý tưởng

Những người thành công không phải lúc nào cũng là những người nhiều tiền và chỉ cần “vung” tiền ra hoặc sử dụng thời gian để đầu tư. Thực tế đã chỉ ra rằng, những người thành công thực sự đều có một điểm chung là họ biết ấp ủ giấc mơ riêng của họ. Ý tưởng của họ có thể có từ rất lâu, và khi hội tụ đủ các điều kiện và cơ hội, họ sẽ biến giấc mơ của mình trở thành hiện thực.

5. Khiêm tốn

Khiêm tốn là đức tính tốt mà không phải ai cũng có được, nhưng những người thành công làm được điều này. Lý do là vì những người không bao giờ nhận mình là “nhất” sẽ luôn cố gắng hoàn thiện bản thân, đồng thời họ biết coi trọng người khác khi so sánh với bản thân mình.

6. Quản lý người làm tốt

Những người thành công không những có những người giúp việc giỏi mà còn có những người luôn trung thành và sát cánh bên họ trong mọi hoàn cảnh. Làm thế nào để làm được điều này? Những cuốn sách “đắc nhân tâm” có phải là công cụ để họ tìm được người làm tốt? Thực ra, cái cốt lõi thuộc về phần “tâm” của con người. Ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào, nếu bạn làm việc với chứ “tâm”, đối xử người với người bằng chữ “tâm”, bạn sẽ thành công lâu bền.

7. Biết đầu tư

Kinh doanh không thể không bàn đến chuyện đầu tư, vấn đề chủ yếu là đầu tư lớn hay nhỏ, ít hay nhiều. Người thành công luôn hiểu được quy luật này và đó là cách họ quản lý đồng tiền để làm chủ đầu tư.

KẺ THẤT BẠI

1. Khôn lỏi

Khôn “lỏi” mà một thói xấu cản trở bạn đến thành công nhanh nhất. Bạn có tố chất của một người thông minh, nhưng bạn lại sử dụng sai mục đích, mang những tư lợi rất nhỏ nhặt cho bản thân mà không nghĩ đến đại cuộc. Khôn “lỏi” là những người luôn cố làm đẹp lòng người khác để mang lại lợi ích cho chính mình, luôn giả tạo và chỉ chờ cơ hội là lợi dụng người khác. Để có được điều mình muốn, những người có thói khôn lỏi không ngại sống hai mặt và dối trá.

Những người sở hữu “phẩm chất” này sẽ khó có thể bước lên nấc thang danh vọng, nếu có thì cũng không nhận được sự tôn trọng từ cấp dưới và đồng nghiệp.

2. Ưa nịnh

Người thành công luôn biết nhìn nhận và dành lời khen cho người khác, kẻ thất bại thì luôn thích người khác khen mình, mà không cần biết là lời khen đó chân thành hay giả dối. Người thành công nhìn nhận lời khen như một sự động viên, vì họ biết bản thân mình có gì, kẻ thất bại thì xem nó như một sự ghi nhận lớn lao và thèm khát được người khác tâng lên mây xanh.

3. Ảo tưởng sức mạnh

Luôn nghĩ mình là một “vĩ nhân” là “cái rốn của vũ trụ” là một trong những thói xấu của người thất bại. Nhóm người sở hữu “năng lực” này luôn có niềm tin chắc chắn về việc không ai có thể thay thế mình, cho đến khi họ bị đá văng ra khỏi vị trí đó và họ rơi xuống vực sâu, nơi có những kẻ thất bại khác đang chờ sẵn.

4. Nhỏ nhen

Đây là một trong những “đặc sản” của nhóm người thất bại. Nhỏ nhen thường đi kèm với thói ích kỉ và ganh tị, luôn cho rằng bản thân mình mới là người xứng đáng có được thành công chứ không phải một ai đó vừa lên chức. Khi đồng nghiệp cùng vị trí được cất nhắc, thì thay vì chúc mừng họ quay sang nói xấu, dìm hàng đồng nghiệp vì trong suy nghĩ của họ, không ai xứng đáng ngồi lên chiếc ghế đó ngoài mình.

5. Không biết đặt niềm tin

Luôn nghi ngờ tất cả mọi người, mọi vấn đề trong công việc và giao tiếp cuộc sống. Nhóm người ngày có thể có chức vị cao trong môi trường công sở nhưng sẽ không thể “đắc nhân tâm” với nhân viên hoặc đồng nghiệp vì thói đa nghi quá đà. Họ thường đọc quá nhiều sách quản trị người kiểu xưa, tập nghi ngờ còn hơn bỏ sót, sử dụng quá nhiều lý trí, tính toán và thích thú trong việc chơi “cờ người”.  Chính vì sử dụng “sai sách” vì không chú tâm đến niềm tin,trực giác của bản thân, những người này rơi vào nhóm thất bại trong việc xây dựng niềm tin của chính bản thân mình với người khác và gặp khó khăn trong việc tin tưởng cộng sự.

6. Giao tiếp kém

“Ăn không nên đọi, nói không nên lời” là câu thành ngữ chỉ típ người giao tiếp kém. Giao tiếp kém ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thành công của một người. Điều gì sẽ xảy ra khi bạn đi phỏng vấn, bạn không thể nói ra một câu chốt ý với nhà tuyển dụng? Điều gì sẽ xảy ra khi bạn đi đàm phán, thương lượng với đối tác? Điều gì sẽ xảy ra khi bạn làm việc nhóm? Bạn biết rồi chứ, nếu bạn không thể giao tiếp, thì bạn sẽ không thể tiến lên!

7. Tầm nhìn hạn hẹp

Kinh doanh không bao giờ là một con đường bằng phẳng, trong khi bạn đã tiên liệu đủ thứ những vẫn có những tác nhân gây cản trở đến công việc của mình, điều một người biết nhìn xa là gì? Tìm đến những lời khuyên chân thành từ những người đáng tin cậy, đừng làm theo trực giác mách bảo, hãy vẽ ra những kịch bản tồi tệ nhất mà bạn có thể gặp phải và tìm cách xử lý chúng triệt để. Những người thành công luôn nghĩ đến việc ngày mai mình thất bại để dự liệu mọi thứ thật tốt, còn kẻ thất bại thì luôn hỏi “Tại sao mình không thành công?”.

Theo CÔNG LUẬN

Ngày Tết, nhớ về thầy Đông Hồ   

Thi sĩ Đông Hồ (file photo)

Trong bài nầy, tôi muốn viết những kỷ niệm về thầy Đông Hồ nhân khi tìm được tấm ảnh cũ thầy tặng tôi 54 năm về trước. Đồng thời làm sáng tỏ một vài chi tiết về hành trạng cũng như cái chết đầy huyền thoại của thầy Đông Hồ. Đó cũng là cách để trả phần nào món nợ tinh thần đối với thầy của mình.

Từ một tấm ảnh cũ…

Cuộc đời và sự nghiệp thầy Đông Hồ (1906-1969) đã làm hao tốn nhiều giấy mực của biết bao nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình văn học từ Nam chí Bắc, cũng như của phần đông môn sinh của thầy từ Trí Đức Học Xá (TĐHX) Hà Tiên đến Đại học Văn Khoa (ĐHVK) Sài Gòn.

Nói đến Đông Hồ, người ta nghĩ ngay tới nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học. Nói đến Đông Hồ, người ta nghĩ ngay tới “một người có công với Quốc văn” (Nam Phong số 173), đã “tự nguyện làm một người tri kỷ với Quốc văn, (…) cùng với Quốc văn ước nguyền sông núi” (Trọng Toàn, Nam Phong số 175). Có người còn cho rằng Đông Hồ là một trong những tiền bối có công đầu khai phá cho bộ môn Thư pháp chữ Quốc ngữ. Võ Phiến còn tán tụng: “Đông Hồ văn hay chữ đẹp, làm thơ xướng họa, viết câu đối mừng đám cướikhóc đám ma, viết những cánh thiệp đón xuân chúc Tết v.v… thì tuyệt” (Văn học miền Nam – Thơ, NXB Văn Nghệ, 1999).

Nhớ lại lúc còn theo học chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm tại ĐHVK Sài Gòn, tôi có phước duyên được dự những buổi giảng của thầy Đông Hồ vào mỗi sáng thứ Ba hằng tuần (khoảng tháng Ba đến tháng Sáu năm 1968). Năm ấy, thầy giảng về Văn học Miền Nam – Văn học Hà Tiên. Sau khi điểm qua bối cảnh lịch sử hình thành miền Nam theo đà Nam tiến của tổ tiên người Việt, thầy dừng lại khá lâu để giới thiệu, phân tích Văn học Hà Tiên – đặc biệt Truyện Song Tinh và Tao đàn Chiêu Anh Các.

______________

Vốn là một “thi sĩ phong lưu” nên lối dạy của thầy Đông Hồ không bị gò bó trong chương trình quy định, không khác Đông Kinh Nghĩa Thục, như nhận xét của Nguyễn Hiến Lê: “Lựa một bài thơ, một áng văn hoặc một thời sự, một truyện cổ làm đầu đề giảng của mỗi buổi, rồi liên miên bàn về cách xử thế tu thân, về lòng yêu nước, về cách đặt câu, dùng chữ v.v…”. Giảng về truyện Song Tinh, đôi lúc ngẫu hứng thầy cất cao giọng sang sảng ngâm mấy bài thơ luật và các cặp lục bát tiêu biểu trong truyện. Thầy đắc ý nhứt là các từ hoa – lối trùng điệp chơi chữ:

            Khách tiên từ tận mặt tiên / Một mình tưởng lại một mình / Vốn quê nên giữ lòng quê

Song le cách trở đó đây / Mặt nhìn tận mặt, phiền tây thêm phiền… 

Một buổi sáng thứ Ba hôm ấy, trời trong xanh, nắng vàng chói lọi. Vài cơn gió nhẹ thoảng qua ngập ngừng mơn man từng cánh hoa phượng đỏ thắm trong sân trường Đại học. Thay vì giảng bài tiếp, thầy cao hứng ngâm mấy câu thơ do thầy sáng tác:

            Mùa son hoa phượng nở son / Vàng son hoa nở hai mùa…

Mùa son hoa phượng nở hồng (?) / Hồng gieo đỏ thắm tám nẻo đường Văn khoa.

Có lần, tôi đặt câu hỏi: – Thưa thầy, những câu thơ thầy vừa ngâm phải chăng chịu ảnh hưởng lối trùng điệp chơi chữ trong truyện Song Tinh?

Thầy đáp: – Câu hỏi của anh rất hay. Thầy chịu ảnh hưởng cách sử dụng điệp ngữ, trước hết ở truyện Song Tinh rồi Lục Vân Tiên và Truyện Kiều.

Sau khi thi đậu chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, tôi tình cờ gặp lại thầy Đông Hồ ở ĐHVK Sài Gòn. Nụ cười, ánh mắt tình sư đệ trao nhau đượm nồng tình cảm. Thầy kêu tôi vô phòng học rồi rút từ trong cặp ra hai tấm ảnh:

Tấm thứ nhứt thầy mặc quốc phục (áo dài khăn đóng) chụp bán thân năm thầy khoảng hai mươi tuổi, lúc bắt đầu dạy học ở TĐHX Hà Tiên; tấm thứ hai thầy mặc com-lê màu xám, áo sơ-mi trắng, thắt cà-vạt màu sậm và đeo cặp kính lão.

Tấm ảnh thứ hai nầy thầy vừa chụp để kỷ niệm lúc dạy học tại ĐHVK Sài Gòn, được thầy ký tên sẵn dành tặng một số môn sinh. Điều cần nói rõ là mỗi lần lên bục giảng, thầy Đông Hồ luôn vận Âu phục như đã mô tả trong tấm ảnh thứ hai. Sau khi hỏi tên họ tôi, thầy hí hoáy viết mấy chữ đề tặng tôi trên tấm ảnh thứ nhứt. Xin được đọc ở mặt trước, phía dưới theo thứ tự: (chữ ký) Đông Hồ, 22.VIII.68 để cho…; và mặt sau:… môn sinh Nguyễn Kiến Thiết giữ làm lưu niệm. Đ.h. [Để ý cách ghi của thầy: ngày và năm bằng số Arab; tháng bằng số La Mã].

Rồi thầy tặng tôi cả hai tấm ảnh đánh dấu hai giai đoạn trong đời dạy học của thầy.

Tôi bồi hồi xúc cảm nhận hai tấm ảnh từ tay vị thầy khả kính và nguyện sẽ giữ gìn cẩn thận, coi như đó là những kỷ vật thiêng liêng. Nhứt là tấm ảnh thầy mặc quốc phục, có thể nói “độc nhứt vô nhị” – mà trong đời thường tôi chưa bao giờ được thấy – có dáng vẻ một nhà nho tiên phong đạo cốt, còn ghi đậm trong lòng tôi cho mãi đến ngày nay. Tôi nhớ lời khuyên dạy của thầy còn văng vẳng bên tai: “Thầy mong đào tạo những anh tài, trong đó có Kiến Thiết, sẽ nối gót thầy phát huy Văn học Miền Nam!” (Thầy thường gọi đám môn sinh chúng tôi là “thế hệ anh hoa tuấn tú”).

Sau những cuộc bể dâu, tôi những tưởng là tấm ảnh ấy cùng chung số phận với các tập thơ của thầy Đông Hồ: không còn trong “Tủ Sách Gia Đình Nguyễn Kiến Thiết” nữa. Không ngờ, một cái “phước duyên” lạ lùng đã đưa châu về hợp phố: Người anh họ của tôi đã nâng niu cất giữ và gởi trả cho tôi tấm ảnh ấy trước khi anh qua định cư ở Hoa Kỳ theo diện H.O. Đó cũng là lý do, là nguồn cảm hứng để tôi viết bài nầy coi như cách để trả ơn thầy Đông Hồ.

Nhớ về thầy Đông Hồ

Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là một thầy Đông Hồ với “dáng gầy tuấn nhã nét văn nhân”, mũi cao thanh tú. Mái tóc bạc không dài lắm cũng đủ bồng bềnh quấn hai bên vành tai. Mỗi lần chấp bút, “những ngón tay búp măng trắng trẻo” của thầy “đưa thoăn thoắt trên tờ giấy điều”. Thầy luôn có cái nhìn tríu mến, thân thương. Nụ cười hiền hậu, rất tươi. Giọng nói trong và ấm, ngâm vịnh thơ văn rất tuyệt.

Về cách trang phục, nhiều người không theo học trực tiếp với thầy Đông Hồ, chỉ nhìn thấy hình thầy rồi tha hồ “hư cấu”, nên càng “tam sao” càng “thất bổn”! Phần đông đều mô tả thầy Đông Hồ lên bục giảng đều mặc quốc phục! Đầu tiên, từ Tháng Năm 1969 (tức hai tháng sau ngày thầy mất), Đỗ Châu Huyền và Trần Đình Lập đã viết trên báo Cấp Tiến: “Nhà giáo Đông Hồ lúc nào đến giảng đường cũng vui tươi với tấm lòng yêu quê hương, phát huy tinh hoa của tiếng nói dân tộc và trang trọng trong bộ quốc phục như nhà mô phạm thời xa xưa”. Lê Hồng Thiện trong bài “Nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ giảng bài đến chết”, có viết: “Ông [tức Đông Hồ-NKT] vẫn mặc áo dài, khăn xếp lên bục giảng…” . Nguyễn Triệu Nam (trưởng nam nhà văn Nguyễn Triệu Luật) trong bài “Kỷ niệm về thi sĩ Đông Hồ”, có viết: “… Lễ lạc hay tiếp tân đều vận quốc phục, khăn đóng, áo dài, giầy Gia Định”.

Là môn sinh đã theo học với thầy Đông Hồ ít nhứt sáu buổi giảng, và có vài lần gặp thầy tại trường, tôi xin xác nhận: Mỗi lần lên bục giảng ở ĐHVK Sài Gòn, thầy Đông Hồ thường vận âu phục tươm tất: com-lê màu xám, áo sơ-mi trắng, thắt cà-vạt màu sậm, chân mang giầy đen Gia Định. Chỉ những dịp lễ lạc, tiếp tân, thầy mới mặc quốc phục.

Cách xưng hô của thầy cũng có người ngộ nhận. Chẳng hạn, Lê Hồng Thiện đã viết: “Ông (…) xưng thầy và gọi học trò trai là con trai của thầy, coi con gái là con gái của thầy” (Tài liệu đã dẫn). Trong Đặc San Gia Đình Cựu Giáo Chức Việt Nam Tại Québec 2011 (NSGĐCGCVN), tr.130, Nguyễn Bá Hoa có trích lại đoạn thầy Đông Hồ “giảng” về bài thơ “Trưng Nữ Vương” của nữ sĩ Ngân Giang: “Dù chiến thắng vẻ vang đuổi được quân Tàu, dù quân thù khiếp hãi, Bà Trưng vẫn là người đàn bà đang có tang chồng. Phần trên bài thơ tả chiến thắng của Hai Bà; đến bốn câu kết thì tuyệt. Thầy đọc cho các con nghe, ai thích thì chép”. Vì bạn Nguyễn Bá Hoa không ghi rõ xuất xứ, mặc dầu in chữ nghiêng trong ngoặc kép, chúng tôi ngỡ là văn phong của nữ sĩ Mộng Tuyết hơn là lời giảng – trong đó có cách xưng hô – của thầy Đông Hồ!

Mặc dầu cách xưng hô không phải là vấn đề lớn; nhưng đã viết thì phải đúng hoặc gần đúng sự thật. Tôi nhớ không lầm thì các thầy ở ĐHVK Sài Gòn, như GS Nguyễn Khắc Hoạch, GS Thanh Lãng, GS Bửu Cầm v.v… trên bục giảng thường xưng “tôi” và gọi sinh viên là “các anh chị” hoặc “các bạn”. Riêng GS Nghiêm Toản thường gọi đùa chúng tôi là “Tiên sinh” hoặc “ông Cử/bà Cử”. Bởi lẽ sinh viên thuộc nhiều lớp tuổi (từ 20 đến 60), thành phần, địa vị xã hội khác nhau. Ngoại trừ sinh viên thuần túy, phần đông học “hàm thụ”: một số đã đi dạy học; một số phụ trách phòng ban ở các Sở, Bộ; còn có một số sĩ quan các cấp trong quân lực VNCH- trong đó có mấy ông tướng.

Thầy Đông Hồ thường xưng “thầy” và gọi sinh viên là “các anh chị” hoặc “các bạn”. Những lúc chuyện trò thân mật, thầy chỉ nói đùa và gọi “học trò trai là con trai của thầy, học trò gái là con gái của thầy”! Càng không có chuyện thầy xưng hô trên bục giảng: “Thầy đọc cho các con nghe”.

Một người thầy tuyệt vời

Cuộc đời nhà giáo Đông Hồ, như mọi người đều biết, gồm hai giai đoạn: khởi đầu từ TĐHX ở Hà Tiên (1926-1934) và kết thúc ở ĐHVK Sài Gòn (1964-1969). Riêng giai đoạn hai, chỉ vỏn vẹn có năm năm, để nối lại cái “tình duyên lỡ làng” với TĐHX 30 năm trước, nhưng hình ảnh và phong độ của thầy Đông Hồ đã in đậm vào tâm khảm chúng tôi. Đám môn đệ chúng tôi đều tán thành nhận xét của Võ Phiến: “Đối với sinh viên theo học ông, Đông Hồ là một người thầy tuyệt vời”.

Thật vậy, Đông Hồ là một nhà giáo yêu nghề, một người thầy tuyệt vời. Thầy là tấm gương sáng cho môn đệ noi theo: từ sự cẩn trọng trong cách ăn mặc đến sự mềm mỏng, lịch thiệp trong giao tiếp với bạn bè, đồng nghiệp, văn thi hữu. Đỗ Hân có kể rằng:

Mỗi lần đến thăm Nguyễn Hiến Lê, ông đều tới thắp nhang ở bàn thờ cha mẹ bạn rồi mới ngồi xuống trò chuyện”.

Có người còn thuật lại, một lần nọ, lúc đang giảng bài, thầy vui vẻ nói với các môn đệ (đại ý):  Các bạn đừng quá chú trọng đến việc học với thầy, vì GS Thanh Lãng đã cho các bạn kiến thức bao la, GS Nguyễn Khắc Hoạch và GS Nghiêm Toản đã dạy các bạn những suy tư thâm trầm, trang nhã; riêng thầy như cành hoa, cánh bướm chỉ để làm công việc tô điểm mà thôi!

Ngoài sự tao nhã dễ thấy, đôi khi thầy còn tỏ ra nghiêm khắc trong cách đặt câu, dùng chữ, hun đúc cho đám môn sinh tình-yêu-tiếng-Việt, yêu cái quốc hồn quốc túy như thầy đã từng chịu ảnh hưởng thi hào Ấn Độ, Rabindranath Tagore: “Có học tiếng mẹ đẻ thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra”. Thật lòng thầy thương mến học trò như con cái trong nhà. Ngược lại, môn sinh yêu quý, kính trọng thầy như con đối với cha:

Tưới nước vun phân: người giáo hóa  /  Đầm thấm dồi dào, ân móc mưa

Ba xuân tấc cỏ tình sư đệ  /  Một hội trăm năm cảnh học đường!

(Cảnh học đường)

Mỗi buổi dạy vào sáng thứ Ba hằng tuần, thầy đến giảng đường rất sớm, trước giờ vào lớp học. Mục đích là để gần gũi, chuyện trò với môn đệ nhiều hơn. Thầy thường thân mật hỏi quê quán, gia cảnh, hoài bão mỗi người. Nếu có dịp, thầy thường kể chuyện về quê hương Hà Tiên, về Trí Đức Học Xá, về sự tích Tao Đàn Chiêu Anh Các ngày xưa, cũng như cái duyên được hiệu đính và xuất bản Truyện Song Tinh.

Nhà giáo Đông Hồ đến giảng đường ĐHVK Sài Gòn còn có “dáng dấp một nhà thơ, một văn nhân nên lớp học lúc nào cũng chan hòa ý thơ, là nguồn thơ bất tận, ý thơ tuôn trào”! Nhân ngày đầu một năm học, nhìn bình hoa cúc màu vàng tươi do các môn sinh trang trí, đặt sẵn trên bàn, thầy cảm hứng đọc mấy câu thơ:

            Hoa nào mới nở mùa khai giảng  /  Nô nức mùa khai hội gấm hoa

            Gấm trải tưng bừng vườn Đại học  /  Hoa phô rực rỡ ngõ Văn Khoa.

Tôi hoàn toàn đồng ý với Nguyễn Hiến Lê qua nhận xét sắc sảo về người thầy tuyệt vời Đông Hồ:

Tôi chắc chắn không có một giáo sư Đại học nào ở Việt Nam hiện nay [1970-NKT] có thái độ và tấm lòng đó đối với sinh viên. Có thể rằng giờ này đây, môn sinh ông quên gần hết những điều ông giảng về văn học miền Nam, về nhóm Chiêu Anh Các, nhưng suốt đời họ, họ sẽ không bao giờ quên được cái phong độ, cái chân tình nho gia của ông”. Cuối cùng ông khẳng định: “Nhiều người có thể thay Đông Hồ về môn Văn học miền Nam, nhưng cái không khí của giáo sư Đông Hồ, của “thầy đồ” Đông Hồ thì không ai tạo nên nổi”.

Cái chết của thầy Đông Hồ     

Đầu năm 1969, nghe tin thầy Đông Hồ có ý muốn nghỉ dạy vì tuổi già sức yếu, GS Thanh Lãng, Trưởng ban Văn chương Việt Nam ĐHVK Sài Gòn, gặp nhà thơ và nói: “Thưa tiên sinh, sinh viên nó quý tiên sinh lắm. Tiên sinh cố gắng trở lại với học trò, nếu lỡ tiên sinh có ra đi giữa đám học trò thì âu đó cũng là nghiệp dĩ”. Nghe lời khuyên chí nghĩa, chí tình, thi sĩ Đông Hồ đã vui vẻ trở lại trường lớp. Và những gì phải xảy ra, đã xảy ra sau đó đúng như tiên đoán của vị Trưởng ban Việt văn ĐHVKSG.

Trong một bài báo đăng trên Thời Báo số Xuân Tân Mão (2011), tôi có viết về nguyên nhân cái chết của thầy Đông Hồ là do cố gắng quá sức để nhập vai một cách xuất thần trích đoạn tuồng hát bội Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa tại ĐHVK Sài Gòn. Với sự dè dặt thường lệ, tôi có ghi ở phần chú thích: “Người viết – vốn là môn sinh cũ của thầy Đông Hồ – biết được tin nầy qua một sinh viên đang theo học môn Văn Chương Quốc  m với thầy Đông Hồ thời ấy. Về nguyên nhân cái chết của thầy Đông Hồ cũng có người nói khác đôi chút… Rất mong được thân nhân của thầy Đông Hồ và bạn đọc soi sáng vấn đề trên” (Thời Báo số 1001, ngày 04/02/2011 tr.13-19).

Nhớ lại hôm dự tang lễ thầy Đông Hồ, tôi có hỏi một số sinh viên về nguyên do cái chết của thầy và được trả lời như sau:

-Hôm ấy, thầy giảng tác phẩm Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa. Sau khi minh họa một đoạn trong vở tuồng hát bội, thầy kêu mệt rồi ngồi nghỉ. Tôi có việc phải về sớm khoảng vài mươi phút trước khi buổi học kết thúc, nên không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó.

Từ ấy cho đến khi viết bài cho Thời Báo, tôi vẫn đinh ninh thầy Đông Hồ ngã gục tại bục giảng ĐHVK Sài Gòn trong lúc giảng tác phẩm Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa, đúng như chương trình đã ghi. Còn thơ của nữ sĩ Ngân Giang hoàn toàn không có trong chương trình học.

Một thời gian sau khi tờ báo phát hành, tôi nhận được một số góp ý của bạn đọc, phần đông trong Gia Đình Cựu Giáo Chức Việt Nam tại Québec, cụ thể là Nguyễn Bá Hoa.

Tôi đã để công tra cứu nhiều tư liệu trong sách báo, trên các trang mạng Internet của các tác giả trong và ngoài nước viết về thầy Đông Hồ để có một cái nhìn tương đối đầy đủ, khách quan. Hơn nữa, tôi cũng mong muốn và đề nghị các nhà viết văn học sử nên có cái nhìn thật sự khoa học khách quan về nhà thơ Đông Hồ. Xin tạm dẫn sau đây.

Có tài liệu cho rằng: “Đông Hồ dẫn thơ của nữ sĩ Hồng Hà (Đoàn Thị Điểm) [đáng lẽ của nữ sĩ Ngân Giang-NKT]… Trong sự xúc động cao độ, Đông Hồ đã đứt mạch máu não…” (Lê Hồng Thiện, tài liệu đã dẫn). Một tài liệu khác ghi (nguyên văn): “Năm 1969, giữa giảng đường Đại học Văn Khoa Sài Gòn, thi sỹ Đông Hồ đang bình giảng bài thơ này đã đứt mạch máu não khi ngâm câu “Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá…”. Sau một tuần [chi tiết sai, đáng lẽ chiều hôm ấy-NKT] thiêm thiếp tại bệnh viện Grant [đáng lẽ Grall-NKT], Đông Hồ ra đi vào cõi vĩnh hằng” (Nguồn).

Trong bài “Phút cuối cùng trên bục giảng” của Bùi Văn Chúc, có đoạn: “Các sinh viên dự lớp hôm ấy đều tin rằng: Khi đang bình giảng bài thơ “Trưng Nữ Vương” (…) của nữ sĩ Ngân Giang, vì quá xúc động trước vẻ đẹp của nhà thơ nên thầy Đông Hồ đã bị đột tử (tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường Đại học Văn Khoa Sài Gòn vào ngày 25/3/1969” [Nữ sĩ Mộng Tuyết cho in lại trong “Núi Mộng Gương Hồ”, quyển 2, NXB Trẻ, 1998, tr.115-116].

Riêng Nguyễn Bá Hoa có kể một chi tiết khá trung thực: “Sáng thứ ba hôm đó (…) trong chương trình giảng dạy của thầy cho lớp Chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm có phần giảng về tác phẩm “Kim Thạch Kỳ Duyên” của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Nhưng nhân dịp lễ Hai Bà Trưng năm đó, thay vì giảng tiếp tác phẩm “Kim Thạch Kỳ Duyên” (…), thầy giảng bài thơ Vịnh Hai Bà Trưng của nữ sĩ Ngân Giang in trong tập Tiếng Vọng Sông Hương…” (Tài liệu đã dẫn, tr.129).

Dựa vào các nguồn tư liệu dẫn trên, người viết xin ghi lại nguyên nhân cái chết của thầy Đông Hồ, như sau:

Vào sáng thứ Ba (25/03/1969), thầy Đông Hồ đến lớp giảng tác phẩm Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa cho sinh viên chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm tại ĐHVK Sài Gòn. Nhưng nhân dịp Lễ Hai Bà Trưng năm đó, thay vì giảng tiếp tác phẩm Kim Thạch Kỳ Duyên, còn vài mươi phút cuối, thầy Đông Hồ đã bình giảng bài thơ Trưng Nữ Vương của nữ sĩ Ngân Giang. Thầy đắc ý nhứt là bốn câu chót nên cất cao giọng ngâm mấy vần thơ: 

Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa  /  Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi. Chàng ơi! Điện ngọc bơ vơ quá / Chênh chếch trăng tà bóng lẻ soi.

Vì quá cố gắng, và trong sự xúc động cao độ, thầy đã ngất đi tại bục giảng trong vòng tay môn sinh. Mọi người đưa thầy vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Đến 19 giờ cùng ngày, thầy đã ra đi vĩnh viễn.

GS Bửu Cầm đã gởi tặng đôi câu đối phúng thật tuyệt:

               Sông Thái ôm trăng, Lý Bạch thoát   /   Trường Văn nhả ngọc, Đông Hồ siêu.

Có lần đến thăm GS Bửu Cầm, tôi đã nghe thầy đọc đôi câu đối vừa kể.

Không hiểu sao, có người đã trích dẫn sai:  Sông Thái ôm trăng, Lý Bạch quị; Trường Văn nhả ngọc, Đông Hồ tịch.

(Để ý hai chữ cuối câu: quị và tịch, không theo đúng luật bằng trắc trong phép đối – NKT) (Nguồn)

Về sau, Chiêu Dương đã sáng tác mấy câu thơ:

Ai đem tang tóc vào thơ  /  Ngâm câu “Điện ngọc…”, Đông Hồ ra đi.

Cái chết của thầy đã đi vào huyền thoại. Có người còn nói là cái chết đầy “bí ẩn”? Một cái chết thật đẹp – đúng như tiên đoán của GS Thanh Lãng và nhận xét của Nguyễn Hiến Lê! Đó là ý trời mà cũng hợp với ý thầy, như câu của Lương Khải Siêu: “Chiến sĩ tử ư sa trường; học giả tử ư giảng tọa”.

Thầy được an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn (nay là công viên “Lê Văn Tám”). Trên mộ bằng cẩm thạch Ý Đại Lợi có khắc hai câu thơ lục bát, không biết do môn sinh TĐHX Hà Tiên hay ĐHVK Sài Gòn sáng tác:

Ân sâu, nghĩa nặng tình dài   /   Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?

Đến ngày 30/06/1983, nữ sĩ Mộng Tuyết đã di quan về Hà Tiên, cải táng trên núi Tô Châu. Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của thầy Đông Hồ.

Thay lời kết

Thầy Đông Hồ đã ra đi vào cõi vĩnh hằng để lại niềm tiếc thương vô hạn của môn sinh, đồng nghiệp, văn thi hữu cũng như của người bạn đời, bạn thơ của thầy – nữ sĩ Mộng Tuyết.

Nguyễn Hiến Lê, từ năm 1970, đã ao ước những câu thơ sau đây của thầy Đông Hồ “được khắc trên phiến đá Ngũ Hành Sơn mà dựng trước di chỉ Trí Đức Học Xá ở Hà Tiên hoặc khắc lên bảng đồng trong phòng diễn giảng ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn:

“Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên  /  Nền móng văn chương cổ điển

“Đặt xây viên đá đầu tiên  /  Xây dựng tương lai còn hẹn”

(Tiếng Việt huy hoàng – 1967).

Nhân dịp Lễ kỷ niệm húy nhật đệ nhị chu niên của cố thi sĩ Đông Hồ, do trường Trung học Nguyễn Trung Trực Kiên Giang và nhóm môn sinh tổ chức vào ngày 28/03/1971 tại Kiên Giang, GS Thanh Lãng đã phát biểu: “Trong khi ở trung tâm thủ đô, văn thi sĩ lơ là với Đông Hồ bao nhiêu thì ở miền cực Nam, văn thi sĩ say sưa với Đông Hồ bấy nhiêu”. Theo GS, “Nếu Nhất Linh đã làm đẹp mặt miền Bắc, thì ít ra Đông Hồ cũng làm đẹp mặt miền Nam”. Cuối cùng, “GS đề nghị với ông Tỉnh trưởng và Hội Đồng tỉnh Kiên Giang nên đặt tên đường Đông Hồ trong thị xã, và đề nghị với ông Đổng Lý chủ tọa dành một cái gì cho thi sĩ Đông Hồ, tốt hơn hết là đổi tên đường Lam Sơn trước nhà cố thi sĩ thành đường Đông Hồ”.

Viết bài tường thuật buổi lễ kể trên để đăng ở Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học, tôi chợt nghĩ đến việc đặt một tấm bảng nhỏ ghi mấy dòng chữ tại giảng đường ĐHVK Sài Gòn: “Nơi đây, người thầy tuyệt vời Đông Hồ, một người thiết tha yêu tiếng Việt đã ngã xuống”.

Giờ đây, ước mơ của Nguyễn Hiến Lê và tâm nguyện của người viết vẫn chưa thành hiện thực. Nhưng đề nghị chánh đáng của GS Thanh Lãng đã được thực hiện. Hiện nay, theo chỗ chúng tôi được biết, có một số đường đã đổi tên thành đường Đông Hồ, như ở quận Tân Bình và quận Tám, Sài Gòn cũ, hay ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

Riêng người học trò xuất sắc ở TĐHX, người bạn đời tri kỷ của thầy Đông Hồ – nữ sĩ Mộng Tuyết – đã thực hiện tâm nguyện của thầy khi còn sống. Ngoài việc tập hợp các bài giảng của thầy ở ĐHVK Sài Gòn để in thành sách (Văn Học Miền Nam), tác giả “Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp” còn xuất bản tập “Núi Mộng Gương Hồ” để tưởng nhớ đến người thầy tuyệt vời, người chồng yêu kính của mình.

Chưa hết, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội còn lập nên “Nhà Lưu Niệm Đông Hồ” (ở số 46, đường Đông Hồ, thị xã Hà Tiên) – tức trên nền cũ TĐHX – để lưu giữ các kỷ vật, bút tích, di ảnh, tác phẩm của nhà thơ. Có thể nói, trong “Hà Tiên Tứ Tuyệt” (gồm Đông Hồ, Lư Khê, Trúc Hà, Mộng Tuyết) thì đôi uyên ương Đông Hồ – Mộng Tuyết chiếm hết hai. Nói theo Huy Cận: “Đông Hồ – Mộng Tuyết là duyên văn tự, mà cũng là tình duyên, tình đời, thấm đượm tình non nước”.

Noi tấm gương sáng của thầy, người viết cũng tập tễnh làm thơ, viết văn, làm báo rồi nghiên cứu văn học với sự nghiêm cẩn học được ở thầy. Trong khoảng thời gian dạy học, đã thể hiện phần nào tình-yêu-tiếng-Việt, tình-yêu-say-sưa-văn-học-miền-Nam mà thầy thường nung đúc (như giảng về Ca dao miền Nam, Văn chương chữ Quốc ngữ, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa v.v… cho sinh viên Đại học Cần Thơ và Đại học Hòa Hảo, rồi cho sinh viên Lớp Quê Hương Mến Yêu tại Montréal, Canada). Nhưng môn sinh của thầy không bao giờ tạo nên nổi “cái không khí của giáo sư Đông Hồ, của thầy đồ Đông Hồ” được.

Để kết thúc, người viết xin chép lại mấy câu thơ khóc thầy trên mộ chí ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngày nào:

Ân sâu, nghĩa nặng tình dài / Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi!

Nguyễn Kiến Thiết / Saigon Nhỏ

ĐIỂM TIN VIỆT NAM

1World Bank: Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam ‘chững lại’


Công nhân may mặc Việt Nam.
Công nhân may mặc Việt Nam

Ngân hàng Thế giới (World Bank) hôm 14/12 công bố bản cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 12, trong đó nói rằng “cả hai động lực tăng trưởng là xuất khẩu và nhu cầu trong nước đều đang chững lại”.

Theo World Bank, lần đầu tiên kể từ tháng 10 năm 2021, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giảm 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái, “do sức cầu bên ngoài yếu đi và do tác động xuất phát điểm thấp tính từ đợt phục hồi quý tư năm 2021”.

Tổ chức tài chính này cũng đánh giá rằng tiêu dùng hậu COVID “cũng dường như phục hồi chậm lại”, và rằng việc điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt hơn và lạm phát gia tăng “có thể ảnh hưởng đến nhu cầu trong nước trong thời gian tới”.

World Bank cho rằng trong điều kiện huy động vốn toàn cầu dự kiến “vẫn tiếp tục bị thắt chặt và nhu cầu bên ngoài đang yếu đi”, cơ quan quản lý tiền tệ của Việt Nam “có thể cân nhắc cho phép tỷ giá được linh hoạt hơn nữa nhằm hấp thụ những biến động trong môi trường bên ngoài”.

“Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ là điều kiện quan trọng để duy trì ổn định giá cả trong bối cảnh lạm phát cơ bản trong nước gia tăng”, Ngân hàng Thế giới nhận định.

“Chiến lược chi tiêu thận trọng hơn và tập trung hơn vào đúng ưu tiên nhằm đảm bảo đầu tư cho vốn con người, hạ tầng xanh và thích ứng khí hậu sẽ giúp nâng cao khả năng chống chịu và tiềm năng của nền kinh tế”.

Như VOA tiếng Việt đã đưa tin, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính hồi đầu năm nay đã yêu cầu Bộ Công thương “nghiên cứu” khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới về tình hình kinh tế Việt Nam.

World Bank hồi đầu tháng Tám vừa qua nhận định rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam được dự báo “tăng mạnh” từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022.

World Bank cho biết rằng con số tăng trưởng trên nhờ vào việc “phục hồi kinh tế của Việt Nam tăng tốc trong 6 tháng vừa qua, nhờ khu vực chế tạo chế biến đứng vững và các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ”.

2-Báo cáo: Kinh tế Việt Nam đối mặt nhiều trở ngại trong năm 2023

Thành phố Hồ Chí Minh - nơi được mệnh danh là "đầu tàu kinh tế" của Việt Nam. Báo cáo mới dự đoán triển vọng kinh tế của Việt Nam năm 2023 sẽ có nhiều biến động hơn so với năm ngoái.
Thành phố Hồ Chí Minh – nơi được mệnh danh là “đầu tàu kinh tế” của Việt Nam. Báo cáo mới dự đoán triển vọng kinh tế của Việt Nam năm 2023 sẽ có nhiều biến động hơn so với năm ngoái.

Triển vọng kinh tế của Việt Nam dự kiến sẽ có nhiều biến động hơn so với năm ngoái, với mức tăng trưởng GDP dự kiến đạt 6,83% và lạm phát là 3,69% trong tình huống tích cực nhất, theo một báo cáo vừa được công bố vào ngày 12/1 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Tổ chức Hợp tác phát triển Đức GIZ.

Trong trường hợp xấu hơn, nền kinh tế Việt Nam có thể đạt tăng trưởng 6,47% và lạm phát có thể lên tới 4,08% trong năm nay.

Báo cáo cũng cho biết những thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt bao gồm tình trạng lây lan của các biến thể COVID-19 và các bệnh dịch mới, áp lực lạm phát đang diễn ra và cạnh tranh địa chính trị ngày càng gia tăng.

Nếu kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, Việt Nam có thể tiếp tục cải cách và thúc đẩy các biện pháp tài khóa và tiền tệ để giúp phục hồi tăng trưởng kinh tế, báo cáo đưa ra khuyến nghị.

Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng sẽ phụ thuộc đáng kể vào khả năng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do và quản lý rủi ro liên quan đến xu hướng giảm giá của các đồng tiền trong khu vực so với đồng đô la, vẫn theo báo cáo.

Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị những ưu tiên về chính sách của Việt Nam cần tiếp tục tập trung vào việc cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và cải cách hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn đối với đổi mới sáng tạo và môi trường, gắn liền với xử lý hiệu quả các rủi ro trong môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động.

Tuần trước, Ngân hàng Standard Chartered công bố dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 7,2% và lạm phát là 5,5% trong năm nay. Mức lạm phát này cao hơn chỉ tiêu 4,5% mà Việt Nam đặt ra trong năm nay. Theo Ngân hàng Standard Chartered, thâm hụt tài khóa của Việt Nam có thể kéo dài và là nguồn gốc của lạm phát.

3- Hãng xe điện BYD của Trung Quốc sắp xây nhà máy linh kiện tại Việt Nam


Xe điện BYD Atto 3 trưng bày tại Thái Lan, ngày 30/11/2022.
Xe điện BYD Atto 3 trưng bày tại Thái Lan, ngày 30/11/2022.

Nhà sản xuất xe điện (EV) Trung Quốc BYD Auto Co đang có kế hoạch xây dựng một nhà máy ở Việt Nam để sản xuất phụ tùng xe hơi, ba nguồn thạo tin vừa cho Reuters biết. Kế hoạch này của BYD sẽ giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc và tăng cường chuỗi cung ứng ở Đông Nam Á trong mục tiêu mở rộng toàn cầu của công ty.

Một nguồn tin cho biết vốn đầu tư vào miền bắc Việt Nam sẽ hơn 250 triệu đôla, nhằm mở rộng sự hiện diện của công ty mẹ BYD Co tại Việt Nam, nơi đơn vị điện tử của công ty này sản xuất các tấm pin mặt trời.

Động thái này nhấn mạnh xu hướng rộng lớn hơn của các nhà sản xuất là giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng thương mại với Hoa Kỳ và sự gián đoạn sản xuất do các đợt phong tỏa COVID-19 trước đây của Bắc Kinh gây ra.

Công ty BYD từ chối yêu cầu bình luận của Reuters.

BYD, nhà sản xuất ôtô có trụ sở tại Tây An, bán chạy hơn đối thủ Tesla Inc về xe điện với tỷ lệ hơn 2:1 ở thị trường Trung Quốc vào năm ngoái, gần đây đã mở rộng thị trường ở những nơi khác tại châu Á, bao gồm Singapore, Nhật Bản và châu Âu.

Được hỗ trợ bởi công ty Berkshire Hathaway của tỷ phú Mỹ Warren Buffett, BYD sản xuất cả xe hybrid xăng điện và xe điện thuần túy. Cũng như Tesla, BYD kiểm soát phần lớn chuỗi cung ứng của mình, bao gồm cả sản xuất pin, một chiến lược khiến nó khác biệt với các nhà sản xuất ô tô lâu đời.

Vào tháng 9, công ty công bố rằng họ sẽ xây dựng một nhà máy lắp ráp xe điện ở Thái Lan với công suất 150.000 xe/năm từ năm 2024.

Với việc đầu tư vào Việt Nam, BYD đang tìm cách bổ sung công suất, kiểm soát chi phí và đa dạng hóa sản xuất từ các hoạt động tại Trung Quốc, nơi có nhu cầu rất lớn.

Các cuộc đàm phán đang được tiến hành để chọn một địa điểm cho nhà máy tại Việt Nam, theo các nguồn tin từ chối nêu tên vì tính bí mật của các cuộc thảo luận này. Một người cho biết việc xây dựng đã được lên kế hoạch bắt đầu vào giữa năm nay.

Hiện chưa rõ BYD sẽ chế tạo những bộ phận nào tại Việt Nam và liệu công ty này có sản xuất pin hay bộ phận pin hay không.

Như Reuters đã loan tin trong tuần này, khoản đầu tư theo kế hoạch của BYD và một dự án trị giá 400 triệu đôla của nhà sản xuất màn hình kỹ thuật số BOE sẽ chiếm hơn ¼ trong số 2,5 tỷ đôla mà các công ty Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam trong năm ngoái.

Các tập đoàn của Hoa Kỳ như Apple Inc và các nhà cung cấp của họ, chẳng hạn như Foxconn của Đài Loan và Luxshare của Trung Quốc, cũng đang tìm kiếm các trung tâm sản xuất thay thế, với nước láng giềng Việt Nam là một trong những lựa chọn chính.

BYD đang tìm cách thuê 80 ha đất công nghiệp cho việc xây dựng nhà máy mới này, tăng hơn gấp đôi diện tích của họ tại Việt Nam, nơi đơn vị điện tử của họ thuê 60 ha, một nguồn tin thứ hai cho biết.

Một nguồn tin cho biết nhà máy tại Việt Nam sẽ xuất khẩu linh kiện cho nhà máy lắp ráp sẽ được xây dựng tại Thái Lan.

Một nguồn tin cho biết hoạt động tại Việt Nam cũng có thể phục vụ thị trường địa phương, chủ yếu thông qua các dịch vụ bảo trì và phụ tùng thay thế cho xe BYD nhập khẩu từ Trung Quốc.

Điều này sẽ đặt ra thách thức trực tiếp đối với VinFast, một nhà sản xuất xe điện của Việt Nam đã bắt đầu bán ôtô vào năm 2019 và có kế hoạch mở rộng sang Hoa Kỳ và Châu Âu.

Vào tháng 12, Bộ Thương mại Hoa Kỳ phát hiện ra rằng các đơn vị của BYD và các công ty Trung Quốc khác đang lách thuế quan của Hoa Kỳ hàng chục năm qua đối với pin và tấm pin mặt trời của Trung Quốc.

Nếu cuộc điều tra hoàn tất vào tháng 5, kết quả điều tra sẽ buộc các công ty của BYD phải chịu thuế đối với các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và một số nước Đông Nam Á khác.