Ngôi nhà có giếng trời hình dải lụa

THANH HÓA – Lấy cảm hứng từ vạt áo cô gái Bắc bộ thời xưa, giếng trời hình dải lụa vừa tạo sự mềm mại, vừa cản ánh nắng từ trên cao rọi xuống.

Ngôi nhà 260 m2 nằm tại một khu đô thị ở thành phố Thanh Hóa có thiết kế ba tầng, một tum. Theo quy định chung, kiến trúc sư chỉ được cải tạo nội thất, không được thay đổi bề ngoài ngôi nhà, tác động tới cảnh quan chung của khu.

Với mong muốn của gia chủ là có không gian sống gần gũi, quen thuộc với mọi thành viên trong gia đình, nhóm thiết kế đã chọn phong cách Đông Dương kết hợp giữa kiến trúc tân cổ điển Pháp và các chất liệu truyền thống Á Đông nhằm phối hợp giữa nét hiện đại và văn hóa đặc trưng dân tộc.

Thiết kế giếng trời tạo hình dải lụa là điểm nhấn ấn tượng nhất của ngôi nhà, cũng là nơi đón những tia nắng ban mai đầu tiên của ngày mới.

Dải lụa được thiết kế ngay khu vực thông tầng, có chiều cao bằng một tầng, kéo dài từ điểm dưới của bồn hoa tầng ba xuống dưới nền lan can tầng hai. Ngoài tác dụng làm mềm không gian, giếng trời hình dải lụa còn cản ánh nắng trực tiếp từ trên cao rọi xuống, khiến ánh sáng vào tới nhà là ánh sáng gián tiếp, không gây chói lóa.

Theo kiến trúc sư phụ trách, phần dải lụa được làm từ hệ khung thép-lưới đổ bê tông mỏng tạo hình, chỉ có hai điểm tiếp xúc với tầng dưới rất nhỏ. Bởi vậy làm sao để khối bê tông này vừa nhẹ nhàng, mềm mại, vừa đảm bảo tính chịu lực kết cấu cũng gây khá nhiều khó khăn khi thi công.

“Dải lụa giống vạt áo đung đưa của những cô gái Bắc bộ xưa lúc xuân thì. Tôi muốn đưa những nét đẹp đầy thi vị đó vào trong thiết kế công trình hiện đại”, kiến trúc sư phụ trách nêu ý tưởng.

Cũng có chức năng cản bớt ánh nắng trực tiếp rọi từ trên xuống, phía trên “dải lụa” là hệ mái kính có hoa văn sắt sơn trắng cách điệu từ những đám mây trắng kết hợp hệ lam gỗ cong với phần sắt cong 1/2 hình tròn mô phỏng ngói âm dương trong đình làng Bắc Bộ.

Cách thiết kế này vừa tạo tính thẩm mỹ, vừa giảm độ sáng gay gắt chiếu trực tiếp vào nhà.

Nếu như trong phong cách Đông Dương thuần túy, mọi thứ đều phải trật tự, đăng đối tuân thủ theo nhiều nguyên tắc thì với không gian này, kiến trúc sư giản lược tối đa, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tiện ích của cuộc sống hiện đại.

Màu chủ đạo của căn hộ là trắng, kết hợp nâu trầm của nội thất – màu sắc điển hình của phong cách Đông Dương. Gỗ sử dụng trong nhà chủ yếu là gỗ sồi với ưu điểm về tính thẩm mỹ cũng như giá thành tốt.

Dấu ấn phong cách Đông Dương thể hiện rõ nhất ở không gian phòng khách, phòng ăn với những chi tiết như nội thất mây tre đan cùng họa tiết trang trí truyền thống.

Hệ tủ giày nối tiếp với khu vực vệ sinh chung ngay tại tầng một, kéo dài qua khu bếp tạo một khoảng liền mạch. Cách thiết kế này gần như ẩn giấu phòng vệ sinh một cách tinh tế, không ảnh hưởng tới công năng và thẩm mỹ chung.

Trong phong cách nội thất Đông Dương, gạch bông thường được sử dụng lát sàn. Từ khu vực phòng ăn, loại gạch này được sử dụng vừa tạo điểm nhấn, vừa làm mềm không gian.

Hệ cửa, khung trần nhà, vật dụng trang trí, chạm khắc phù điêu… đều chế tác từ gỗ có tuổi thọ cao, khả năng chịu nhiệt, chịu lực tốt, phù hợp với khí hậu Việt Nam.

Khu vực sảnh tầng hai, bao quanh khu vực thông tầng được thiết kế thành nơi đọc sách. Với thiết kế này, mọi người sống trong nhà đều cảm thấy thoải mái, thư giãn và dễ dàng tương tác với nhau nhất.

Khoảng thông tầng từ lầu một tới mái giúp toàn bộ công trình được đối lưu không khí và đủ ánh sáng tự nhiên. Ánh sáng từ khu vực này dễ dàng tiếp cận không gian riêng tư qua các vách kính.

Hành lang dẫn vào phòng thay đồ sử dụng gạch bông cổ điển, giúp không gian vừa mang nét truyền thống, vừa mang nét hiện đại.

Các họa tiết hoa văn trở thành nét đặc trưng của phong cách Đông Dương trong thiết kế nội thất, tạo nên chất riêng khi ứng dụng vào các chi tiết tường, trần, vật dụng trang trí…

Những bức phù điêu trong nhà là tranh vẽ sơn dầu trên toan kết hợp hệ khung bao gỗ. Toàn bộ nội dung tranh đều đến từ ý tưởng và đề xuất của nhóm kiến trúc sư nhằm phù hợp với phong cách chủ đạo của ngôi nhà.

Khu vệ sinh cũng được lát gạch bông truyền thống.

Vì bồn tắm mua sẵn có nhiều mẫu không phù hợp với tổng thể, lại không đáp ứng được kích thước thực tế, do đó bồn tắm được thiết kế riêng, lắp đặt đầy đủ các thiết bị tăng tính tiện nghi nhất cho người sử dụng. ​​​​​​

Ngôi nhà thi công trong thời điểm dịch Covid-19, do đó kéo dài 15 tháng, chi phí không được tiết lộ.

Trang Vy / Thiết kế và thi công: Lê House / Ảnh: WuyHoang Studio

Đặc tính tình dục của con người

Tại sao tình dục lại thú vị

Jared Diamond trình bày một khám phá về lịch sử tình dục của con người, giải thích cách hành vi tình dục không bình thường của con người có thể là lý do giúp chúng ta tiến hóa.

Điểm mấu chốt để hiểu được đặc tính tình dục của con người là phải xác định đó là một vấn đề trong sinh học tiến hóa.

Một trích đoạn tranh của họa sĩ Marco Battaglini. Ảnh: Mixed Media Painting.

Khi Darwin mô tả hiện tượng tiến hóa sinh học trong cuốn sách Nguồn gốc các loài của ông, đa số các bằng chứng của ông được rút ra từ các đặc điểm giải phẫu. Ông cho rằng hầu hết cấu trúc của động vật và thực vật đều tiến hóa và chúng có xu hướng biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông cũng cho rằng động lực chính đằng sau sự thay đổi trong quá trình tiến hóa chính là chọn lọc tự nhiên.

Darwin sử dụng thuật ngữ này để ám chỉ rằng các loài thực vật và động vật có những đặc điểm thích nghi khác nhau về giải phẫu; một số đặc điểm thích nghi nào đó có thể cho phép các cá thể có khả năng chống chọi để sinh tồn và sinh sản thành công hơn các cá thể khác. Và vì thế, các đặc điểm thích nghi đó sẽ tăng tần số xuất hiện trong quần thể từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Các nhà sinh học sau này đã chỉ ra rằng những lập luận của Darwin về giải phẫu học cũng có thể ứng dụng cho sinh lý học và hóa sinh: Những đặc điểm sinh lý và hóa sinh của một loài động vật hoặc thực vật cũng thích nghi với từng phương thức sống và tiến hóa để đối phó với các điều kiện của môi trường.

Gần đây hơn, các nhà sinh học tiến hóa đã cho thấy những hệ thống xã hội của động vật cũng tiến hóa và thích nghi. Thậm chí giữa các loài động vật có mối quan hệ gần gũi, một số sống đơn độc, một số khác sống thành từng nhóm nhỏ và một số khác nữa lại sống thành từng nhóm lớn. Hệ quả của tập tính xã hội là sự sống sót và sinh sản. Ví dụ, tùy thuộc vào nguồn thức ăn của một loài nào đó là tập trung hay rải rác, loài đó có phải đối mặt với những nguy hiểm từ thú ăn thịt hay không mà việc sống đơn độc hoặc thành từng nhóm có thể tốt hơn cho việc tăng cường khả năng sống sót và sinh sản của chúng.

Những giả thiết tương tự cũng được áp dụng cho bản năng tình dục. Một vài đặc tính tình dục có thể có lợi thế cho việc sinh tồn và sinh sản hơn những đặc điểm khác, phụ thuộc vào nguồn cung cấp thức ăn của từng loài, sự đối mặt với những loài ăn thịt chúng và những đặc điểm sinh học khác.

Tại điểm này, tôi sẽ đề cập đến một ví dụ về một tập tính mà mới đầu tưởng như hoàn toàn trái ngược với logic tiến hóa: Tập tính ăn thịt đồng loại sau quan hệ tình dục.

Con đực của một số loài nhện và bọ ngựa thường bị bạn tình của chúng ăn thịt ngay sau khi hoặc thậm chí ngay khi nó đang giao phối với con cái. Việc ăn thịt đồng loại này rõ ràng có sự chấp thuận của con đực vì khi tiếp cận con cái, con đực không hề có ý định chạy trốn và thậm chí còn nghiêng phần đầu và ngực của chúng về phía miệng con cái để nó có thể nhai gần như toàn bộ phần thân của chúng trong khi phần bụng vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ đưa tinh trùng vào cơ thể con cái.

Nếu chúng ta nghĩ rằng chọn lọc tự nhiên là sự tối đa hóa tỉ lệ sống sót, những kiểu tự sát cho đồng loại ăn thịt như vậy sẽ thật là vô nghĩa. Thực ra, chọn lọc tự nhiên là tăng tối đa khả năng truyền thụ gen và sự sinh tồn trong đại đa số trường hợp chỉ là một chiến lược nhằm đem lại nhiều cơ hội hơn để truyền thụ gen sau này.

Giả sử rằng có những cơ hội truyền gen nảy sinh một cách không lường trước được và không thường xuyên, số lượng con được sinh ra trong những cơ hội đó tỉ lệ thuận với điều kiện dinh dưỡng của con cái. Đó là trường hợp của một số loài nhện và bọ ngựa sống trong một quần thể có mật độ thấp. Một con đực phải may mắn lắm mới gặp được con cái và sự may mắn đó không thể xảy ra hai lần.

Chiến lược của con đực lúc này là tạo ra được càng nhiều con mang gen của nó càng tốt trong cuộc gặp gỡ may mắn đó. Lượng dinh dưỡng mà con cái dự trữ được càng lớn, nó càng có thể truyền nhiều calo và protein vào trứng.

Nếu con đực bỏ đi sau khi giao phối, nó có thể không tìm được một con cái nào khác và sự sống sót của nó sau đó sẽ trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, con đực có thể giúp con cái sinh được nhiều trứng mang gen của nó hơn bằng việc khuyến khích con cái ăn nó.

Hơn nữa, một con nhện cái với cái miệng bị chi phối bởi việc nhai cơ thể con đực sẽ cho phép quá trình giao phối được tiến hành dài hơn, kết quả là sẽ có nhiều tinh trùng được truyền sang và nhiều trứng được thụ tinh hơn.

Logic trong tiến hóa của con nhện đực là hoàn hảo và chỉ kì quặc với chúng ta bởi những đặc điểm sinh học khác của con người khiến cho tình dục ăn thịt đồng loại hoàn toàn không có lợi. Đại đa số đàn ông có nhiều hơn một cơ hội trong cuộc đời để giao phối; hơn thế nữa, mỗi người phụ nữ được chăm sóc tốt cũng thường chỉ sinh một đứa trẻ tại một thời điểm, hoặc có thể chỉ là sinh đôi; và một người phụ nữ sẽ không thể tiêu hóa hết cơ thể một người đàn ông trong một lúc để tăng cường mức dinh dưỡng trong quá trình thụ thai.

Ví dụ này minh họa cho việc phụ thuộc của chiến lược tiến hóa tình dục vào cả các tiêu chí sinh thái và sinh học của loài; cả hai đặc điểm này đều rất khác nhau giữa các loài. Tình dục ăn thịt đồng loại ở các loài nhện và bọ ngựa diễn ra bởi các yếu tố sinh thái ở mật độ quần thể và mức độ gặp gỡ hiếm hoi cũng như các yếu tố sinh học trong khả năng tiêu hóa một lượng thức ăn lớn để tăng cường một cách đáng kể lượng trứng đẻ ra của con cái.

Những tiêu chí sinh thái có thể thay đổi chỉ trong một đêm khi một cá thể chiếm lấy một chỗ cư trú mới nhưng những cá thể đó lại thừa hưởng những đặc tính sinh học từ các thế hệ trước, thứ chỉ có thể thay đổi một cách chậm chạp thông qua chọn lọc tự nhiên.

Vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu chỉ xem xét đến nơi cư trú và phương thức sống của một loài nào đó, phác thảo trên giấy một tập hợp các đặc tính tình dục có thể phù hợp với nơi cư trú và phương thức sống đó, rồi ngạc nhiên khi những đặc tính tình dục được cho là tối ưu đó lại không tiến hóa. Thay vào đó, sự tiến hóa về sinh dục phải tuân thủ nghiêm ngặt những yếu tố di truyền và lịch sử tiến hóa trước đó.

Ví dụ, ở đa số các loài cá, con cái đẻ trứng và con đực sẽ thụ tinh những quả trứng đó bên ngoài cơ thể con cái, thế nhưng ở các loài động vật có vú có nhau thai và các loài thú có túi, con cái sẽ sinh ra một con thay vì đẻ ra những quả trứng và tất cả các loài động vật có vú đều có sự thụ tinh trong (tinh trùng của con đực được đưa vào trong cơ thể con cái).

Việc sinh con non và sự thụ tinh trong liên quan đến rất nhiều đặc điểm thích nghi sinh học và nhiều gen khác nhau mà các loài động vật có vú có nhau thai và các loài có túi phải tuân thủ nghiêm ngặt trong hàng chục triệu năm. Những đặc điểm di truyền này sẽ giúp chúng ta giải thích tại sao không có loài động vật có vú nào chỉ có con đực chăm sóc con non, mặc dù chúng có thể sống trong cùng ổ sinh thái với các loài cá và ếch nhái, những loài mà chỉ có con đực thực hiện nghĩa vụ chăm sóc con.

Qua đây, chúng ta có thể định nghĩa lại vấn đề về bản năng tình dục kì lạ của con người. Trong vòng 7 triệu năm gần đây, các đặc điểm giải phẫu sinh dục của con người đã được tách biệt với người họ hàng gần nhất của chúng ta, các loài tinh tinh, dưới một góc độ nào đó, các đặc điểm sinh lý được tách biệt sâu hơn và tập tính tình dục của chúng ta còn được tách biệt nhiều hơn nữa. Những điểm khác biệt đó phản ánh sự khác biệt về nơi sống và phương thức sống của con người và tinh tinh. Những điểm khác biệt đó cũng bị hạn chế bởi những yếu tố di truyền.

Theo Zing

Chung quanh vụ thanh trừng Phạm Bình Minh – Vũ Đức Đam

Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam, hai quan chức cao cấp vừa bị đảng CSVN thanh trừng. Ảnh VOA

Theo thông cáo báo chí của Ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) hôm thứ Sáu 30 tháng Mười Hai, hai đảng viên cao cấp là Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam đã bị thanh trừng: ông Minh bị thôi chức Ủy viên Bộ Chính trị, còn ông Đam bị thôi chức Ủy viên Ban chấp hành trung ương. Điều đó nghĩa là ông Minh cũng sẽ không còn làm phó thủ tướng thường trực, ông Đam mất chức phó thủ tướng trong kỳ họp bất thường của Quốc hội bù nhìn sẽ khai diễn vào ngày 3 tháng Giêng 2023 sắp tới. 

Một lần nữa, thông tin vỉa hè ở Việt Nam về những vụ đấu đá bí mật trong cung đình Hà Nội đã tỏ ra rất chính xác đến từng chi tiết và không ai ngạc nhiên: Chuyện mất chức của hai ông Minh và ông Đam được dân chúng bàn tán từ lâu vì vai trò của các ông này trong các vụ đại án tham nhũng liên quan tới đại dịch COVID-19: vụ xét nghiệm Việt Á và chuyến bay giải cứu. Khi tay chân của các ông này như các bộ trưởng thứ trưởng Nguyễn Thanh Long, Tô Anh Dũng bị “nhập kho” thì người ta đã biết sự nghiệp chính trị của các phó thủ tướng Minh và Đam sắp cáo chung.

Không ngạc nhiên, người ta chỉ thắc mắc liệu Minh và Đam đã là “trùm cuối” của các vụ án này hay chưa, lý do chính xác của vụ thanh trừng hai ông này là gì, vụ thanh trừng chỉ dừng lại ở mức cách chức, khai trừ đảng hay truy tố và bỏ tù, liệu đây chỉ là kết quả một vụ tranh chấp phe nhóm trong nội bộ hay có bàn tay của ông bạn “bốn tốt 16 chữ vàng” nhằm lũng đoạn chính trường Việt Nam? Vân vân…

Thông cáo của Ban chấp hành trung ương đảng CSVN về vụ thanh trừng hai ông Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam.

Dù thế nào, việc cách chức hai ông Minh và Đam đã đáp ứng được một mong mỏi của người dân đã chịu nhiều thương đau mất mát vì chính sách chống dịch ngu xuẩn của nhà cầm quyền do các ông này lãnh đạo và đang uất hận vì những quan chức cao cấp táng tận lương tâm, trục lợi trên nỗi đau khổ của đồng bào trong suốt ba năm dịch từ 2020 đến nay. 

Có người nói, chuyện thanh trừng là chuyện nội bộ của đảng CSVN, dân chúng đâu có quyền xía vô nên chẳng cần phải quan tâm, “có gì mà ầm ĩ”! Vẫn biết chuyện thanh trừng là chuyện riêng của đảng, nhưng trong chế độ đảng trị, những cá nhân này cũng đồng thời là lãnh đạo nhà nước mà mỗi quyết định của họ ảnh hưởng tới cuộc sống và sinh mệnh của hàng triệu người, mà vụ COVID là một ví dụ, không thể không quan tâm.

Nhiều người tiếc rẻ vì cho rằng Minh và Đam là hai “gương mặt sáng nhất” trong bộ máy chính phủ cộng sản, được đào tạo bài bản ở nước ngoài, có triển vọng sẽ lèo lái đất nước trong công cuộc hội nhập sắp tới. Riêng Minh là con của ông Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng ngoại giao có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, chống lại một mưu đồ “Bắc thuộc” mới và đã bị Bắc Kinh gây sức ép đẩy ra khỏi guồng máy cai trị ở Hà Nội. Thế nhưng môi trường độc tài độc đảng của Việt Nam có tác dụng làm biến chất, tha hóa con người rất kinh khủng, người thiện lương không tồn tại được trong thể chế độc hại đó. 

Huống nữa, trong nhiều năm cầm quyền ở đỉnh cao, Minh và Đam cũng không chứng tỏ họ có khát vọng lớn lao hay tầm nhìn xa trông rộng để thay đổi cục diện, thực hiện dân chủ hóa đất nước mà chủ yếu chỉ diễn những trò mị dân rẻ tiền, những ai theo dõi tình hình chính trị ở Việt Nam đều biết rõ. Không đợi đến đại dịch COVID-19 mà những ung nhọt nhức nhối trong ngành ngoại giao, giáo dục, y tế, văn hóa – thuộc phạm vi điều hành của Minh và Đam – tồn tại đã nhiều thập niên mà không hề được cải thiện. Việc phế truất các cá nhân này xem ra không có gì phải tiếc nuối cả.

Những quan chức cộng sản sắp ngồi vào chiếc ghế mà Minh và Đam để lại chưa chắc đã khá hơn hai nhân vật vừa bị thanh trừng, cũng có thể tệ hơn. Vấn đề chung quy lại là ở thể chế độc tài. Thay đổi các cá nhân mà thể chế cộng sản vẫn giữ nguyên thì không làm cho đất nước tiến bộ hơn mà có khả năng tạo ra thêm mầm mống cho các cuộc thanh trừng tương lai. Sau Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam hẳn sẽ có thêm nhiều cán bộ cao cấp khác của đảng CSVN biến thành “củi”.

Đảng CSVN không công bố rõ lý do Minh và Đam bị thanh trừng, có lẽ vì họ cho rằng đây là chuyện nội bộ của đảng, dân chúng không được quyền biết. Trong bối cảnh vụ Việt Á và vụ chuyến bay giải cứu đang ầm ĩ trên truyền thông, dư luận nghĩ rằng, hai ông này ngã ngựa vì tham nhũng, lợi dụng chức quyền để trục lợi trong thời kỳ đại dịch.

Thế nhưng trong 18 ông bà ủy viên Bộ Chính trị khóa 13 của đảng CSVN hiện nay, người nào không tham nhũng, không lợi dụng chức quyền để trục lợi? Nguyễn Phú Trọng, Phạm Minh Chính, Nguyễn Xuân Phúc, Tô Lâm, Vương Đình Huệ, Võ Văn Thưởng… đều đã “nhúng chàm”, dính từ vụ Formosa, AVG Mobifone, Nguyễn Thị Thanh Nhàn AIC, Việt Á cho đến vụ Vũ Nhôm và vô số vụ tham nhũng lớn khác mà vẫn bao che cho nhau, thỏa hiệp với nhau để duy trì ách thống trị trên đầu trên cổ gần một trăm triệu dân. 

18 ông bà ủy viên bộ chính trị đảng CSVN, tổ chức cầm quyền cao nhất ở VN, có ai là người trong sạch?

Tìm được một quan chức trong sạch trong đảng cộng sản có khi còn khó hơn tìm kim đáy bể cho nên “chống tham nhũng”, “đốt lò” chỉ là những khẩu hiệu rỗng tuếch, những chiêu bài để triệt hạ lẫn nhau mà vụ thanh trừng Minh và Đam là trường hợp mới nhất.

Nếu để ý thì sẽ thấy cuộc thanh trừng trong đảng và chính phủ Việt Nam nhân danh chống tham nhũng diễn ra song song với cuộc đàn áp khốc liệt thành phần bất mãn trong xã hội dựa vào các điều luật mơ hồ và phi lý: “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, và cả hai được thúc đẩy rất mạnh từ sau chuyến đi chầu Bắc Triều của ông đảng trưởng đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng.

Có thể trong chuyến đi, ông Trọng học được bí kíp của Tập Cận Bình về thanh trừng nội bộ và củng cố quyền lực, cũng có thể ông ta photocopy sách lược của Tập củng cố quyền cai trị độc tôn của đảng cộng sản trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội, thanh trừng những phần tử có biểu hiện không trung thành, “tự chuyển hóa” cả trong đảng và trong xã hội nói chung. Cho rằng cuộc thanh trừng của đảng CSVN có bàn tay sắp xếp của Bắc Kinh là một loại thuyết âm mưu, nhưng xem ra cũng không xa thực tế lắm.

Cuối cùng, cho dù ai xuống ai lên thì vụ thanh trừng Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam cũng biểu hiện một cuộc tranh chấp một mất một còn giữa các phe phái trong đảng CSVN nhằm chiếm lấy quyền lực tối cao khi ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng phải từ bỏ chức vụ trong một ngày không xa nữa. Phe đảng CSVN với lực lượng công an “còn đảng còn mình” đang sử dụng hết công cụ bạo lực của họ để đánh bật những phần tử bất tuân trong phe chính phủ và cài cắm vào đó những đảng viên trung thành với đảng, với “đồng chí bốn tốt mười sáu chữ vàng” ở bên kia biên giới phía Bắc.

Không có nhiều hy vọng cho đất nước dù năm 2023 đã cận kề!

Hiếu Chân / Saigon Nhỏ

Trước thềm năm mới và thời đại mới

Những đợt rét đậm kéo dài trong mùa giáng sinh (2022) như muốn báo hiệu một năm mới bất thường (2023), và một thời đại mới bất định. Thế giới chưa thoát khỏi đại dịch Corona thì chiến tranh Ukraine đã ập tới. Đến nay, Trung Quốc vẫn chưa thoát khỏi đại dịch vì chính sách “zero Covid”, làm dân chúng “tức nước vỡ bờ”. Dù các nước có thoát khỏi đại dịch thì còn lâu mới thoát khỏi hệ quả nặng nề đối với hệ thống y tế và nền kinh tế.   

Biến số khó lường

Sau hai thập niên khởi đầu thế kỷ 21, loài người đã bị sốc bởi hai sự kiện khó lường. Một là đại dịch Corona đã làm 15 triệu người chết (theo WHO, tính đến tháng 5/2022), làm cho nhiều quốc gia, kể cả siêu cường cũng bị khủng hoảng. Hai là cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã làm cho hàng trăm ngàn lính Nga và Ukraine bị chết (theo các nguồn báo chí), và hàng chục triệu người dân Uktraine phải sơ tán khỏi quê hương (theo UNHCR).  

Cuộc chiến tranh Nga-Ukraine không chỉ làm cho số người chết ngày càng tăng, và nhiều thành phố của Ukraine bị phá hủy (destruction), mà nó còn làm cho nước Nga bị suy sụp từ bên trong (implosion). Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chưa có hồi kết, không chỉ làm thay đổi vận mệnh của nước Nga và Ukraine, mà còn làm đảo lộn cả trật tự thế giới. Đó không phải là “xung đột giữa các nền văn minh” hay do “ba dòng thác cách mạng”.

Có thể nói đó là một hệ quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan (ultra-nationalism) bị thao túng bởi các nhà độc tài kiểu mới như Putin, Tập Cận Bình, và Donald Trump, làm khuynh đảo thế giới. Nói cách khác, lịch sử chưa thể kết thúc như Franscis Fukuyama đã tuyên bố (the End of History, 1992), mà nó đang bị thao túng. Trong thời đại mới, một số học thuyết cũ của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản có thể trở thành truyện cổ tích.

Chủ nghĩa dân tộc thường là động lực để các quốc gia khởi nghiệp và phát triển. Người Do Thái đã từng bị ruồng bỏ và mất cả tổ quốc, nhưng một khi có được mảnh đất Israel sau chiến tranh,  họ đã trỗi dậy thành một cường quốc, do chủ nghĩa dân tộc Do Thái. Nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thể đầu độc tư tưởng và xô đẩy loài người vào tai họa chiến tranh và diệt chủng. Nước Đức Quốc xã là một tai họa, và Khmer Đỏ là một bài học.

Sai lầm chiến lược của Putin đang biến ông từ người có công phục hưng nước Nga nay bỗng  thành tội đồ lịch sử và “tội phạm chiến tranh”. Sau Ukraine, nước Nga “hậu Putin” chắc sẽ là một nước Nga khác, cũng như nước Đức “hậu Hitler” là một nước Đức khác. Nếu một người dân mắc sai lầm thì gia đình và hàng xóm bị vạ lây. Nếu lãnh đạo một cường quốc mắc sai lầm thì sẽ là bi kịch vì không chỉ nước đó mà cả thế giới chịu tai họa.

Liệu Tập Cận Bình có rút được kinh nghiệm để tránh sai lầm chiến lược như Putin hay không? Rất khó nói, nhất là đối với Đài Loan và Biển Đông. Một khi tham vọng quyền lực và ảo tưởng khôi phục đế chế trong quá khứ đã ngấm vào máu và tiềm thức như ma túy thì rất khó buông bỏ. Cụ Hồ từng nói “đế quốc đánh chết cái nết không chừa”. Đó là bi kịch do “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (the Arrogance of Power, William Fulbright, 1966).

Giọt nước tràn li

Sau Đại hội 20, chuỗi chỉ huy (chains of command) ở Bắc Kinh đang bị rối vì có hai trung tâm chỉ huy: một do “cựu thủ tướng” Lý Khắc Cường lãnh đạo, và hai do “tân thủ tướng” Lý Cường lãnh đạo. Trong tình huống bất cập đó, các cấp dưới không biết phải tuân theo mệnh lệnh của ai, nên cách tốt nhất để bảo vệ mình là “không làm gì”. (As COVID soars, China has 2 chains of command, Katsuji Nakazawa, Mikkei, December 22, 2022).

Làn sóng biểu tình “giấy trắng” đã nổ ra tại nhiều thành phố và địa phương, trong môt nửa đất nước Trung Quốc, đã làm cho Bắc Kinh bất ngờ và làm rung chuyển thế giới. Một mặt, Tập Cận bình không thể để mất mặt và mất kiểm soát, nhưng mặt khác Bắc Kinh không thể đàn áp như tại Thiên An Môn. Trung Quốc phải nới lỏng và bỏ phong tỏa từ 8/1/2023 để tháo ngòi và kéo dài thời gian để tìm cách đối phó với làn sóng biểu tình.

Chính sách zero-covid kéo dài đã làm “giọt nước tràn li”, nhưng bỏ phong tỏa có thể làm gia tăng lây nhiễm. Theo WHO, dịch đã bùng phát trước khi Bắc Kinh nới lỏng phong tỏa. Các chuyên gia dự kiến dịch sẽ bùng phát theo ba giai đoạn:  Một là dịp lễ Giáng sinh và Năm mới (hiện nay). Hai là dịp nghỉ Tết Nguyên Đán khi người dân đổ về quê (hạ tuần tháng 1/2023). Ba là dịp người dân quay trở về thành phố làm việc (tháng 2/2023).

Theo China Insight, trong 3 tháng tới, 60% dân số Trung quốc (khoảng 800 triệu người) sẽ bị lây nhiễm. Trung bình mỗi ngày có 5.000 đến 9.000 người chết. Các bệnh viện và nhà xác đã quá tải, các lò hỏa táng đã chạy hết công suất mà vẫn còn hàng dài chờ đợi. Người giàu Trung Quốc tuyệt vọng, đang ra đi ồ ạt (ước tính 10 ngàn người). Một số chính phủ các nước như Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Ấn Độ, đã ngừng cấp visa cho người Trung Quốc.

Vaccine của trung quốc chứng tỏ không hiệu quả, nhưng ba năm qua Trung Quốc đã xuất khẩu rất nhiều như “vaccine diplomacy”, nay mới phải nhập của nước ngoài. Đây là một bi kịch vì Trung Quốc gặp tai họa thì các nước láng giềng như Việt Nam cũng bị vạ lây. Trong một thế giới toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau thì việc đóng cửa biên giới và hủy các chuyến bay đến từ Trung Quốc là một biện pháp cần thiết nhưng khó khả thi.    

Điều đáng sợ nhất là khả năng virus corona sẽ biến thể thành chủng mới nếu có hàng trăm triệu người lây nhiễm. Khi đó, biến thể mới sẽ xuất hiện và bắt đầu quá trình hủy diệt, giáng một đòn nặng nề cho Trung Quốc vì có tỷ lệ dân số già khá cao. Các chuyên gia dự báo đến mùa xuân, ít nhất một phần ba dân số Trung Quốc sẽ bị lây nhiễm. Ác mộng về “cơn hồng thủy Corona” cách đây ba năm nay đang quay lại đe dọa Trung Quốc và thế giới.

Bàn cờ Mỹ-Trung

Thei giáo sư Minxin Pei (Claremont McKenna College) quyền lực của một nhà lãnh đạo chuyên chế luôn có giới hạn. Nói cách khác, Tập Cận Bình tuy giành được nhiệm kỳ thứ ba nhưng sẽ phải trải nghiệm “nghịch lý quyền lực” (the power paradox, Dacher Keltner). Theo nghịch lý đó, càng có nhiều quyền lực, thì Tập càng cảm thấy bất an. (Xi Jinping and the Paradox of Power, Minxin Pei,Foreign Affairs, November 21, 2022).

Tại Đại hội 20, Tập đã tìm mọi cách lấp đầy Bộ Chính trị và Ban Thường vụ BCT bằng những người trung thành với mình. Vào phút cuối, Tập đã thẳng tay loại hai nhà cải cách hàng đầu là Thủ tướng Lý Khắc Cường và Phó Thủ tướng Uông Dương, cũng như ngôi sao trẻ đang lên là Ủy viên Bộ Chính trị Hồ Xuân Hoa, được ông Hồ Cẩm Đào bảo trợ. Việc loại bỏ các đối thủ như vậy chắc sẽ tạo ra những kẻ thù không đội trời chung.

Quyền lực tuyệt đối của Tập nếu không được kiểm soát có thể gây ra xung đột nội bộ và cản trở quản trị hiệu quả. Chiến thắng của Tập tại Đại hội 20 không phải là đảm bảo cho thắng lợi trong tương lai của ông. Quyền lực mà ông giành được tại Đại hội 20 có thể rất quan trọng để cơ cấu lãnh đạo ở cấp cao nhất và ngăn chặn thách thức đối với quyền lực của ông, nhưng quyền lực đó không hữu dụng mấy để ông thực hiện các chính sách của mình.

Nhiều chuyên gia hàng đầu cho rằng Trung Quốc như một người khổng lồ “đang đứng bên bờ vực thẳm”. Đó không phải là tin mừng: một Trung Quốc suy thoái có thể còn nguy hiểm hơn là một Trung Quốc đang trỗi dậy. Nguy hiểm nhất là Trung Quốc đánh chiếm Đài Loan. Để tránh những rủi ro đó, Mỹ cần mau chóng điều chỉnh ưu tiên chiến lược. (China’s Dangerous Decline, Jonathan TeppermanForeign Afrairs, December 19, 2022).

Theo Matt Potinger, cần kiềm chế tham vọng của Tập Cận Bình ngay bây giờ hơn là chờ đến khi họ đã tiến hành những bước quyết định khó đảo ngược như tấn công Đài Loan. Nếu Mỹ và đồng minh tiến hành ngay các biện pháp cứng rắn buộc Trung Quốc phải phụ thuộc vào thế giới thì mới kiềm chế được tham vọng của Tập. (Xi Jinping in His Own Words, Matt Potinger, Matthew Johnson, David Feith, Foreign Affairs, November 30, 2022).

Đó không hẳn là “kiềm chế” (containment) mà là “hạn chế” (constrainment) như Pottinger đã mô tả. Một chính sách hạn chế, khác với kiềm chế, tính đến thưc tế hiện nay về sự “tùy thuộc kinh tế” (economic interdependence) nhưng có lợi cho Mỹ. Hạn chế là tìm cách làm giảm lòng tin của Bắc Kinh rằng họ có thể đạt mục đích bằng chiến tranh và làm Bắc Kinh mất lạc quan rằng họ có thể tích lũy được lợi thế so với Mỹ và đồng minh. 

Còn nước còn tát  

Đại dịch Corona cũng như biến đổi khí hậu là dịp để tăng cường đồng thuận quốc gia và liên kết quốc tế nhằm đối phó với các thách thức mới. Nhưng đó cũng là cơ hội để các nhóm lợi ích thân hữu lợi dụng nhằm trục lợi. Các đại án như “test kit” (Việt Á) và “chuyến bay giải cứu” là ví dụ điển hình về tham nhũng chính sách đã “chuyển hóa” thành lũng đoạn nhà nước. Nhiều quan chức cấp cao của các ngành liên quan bị kỷ luật và bắt giam.

Điều đó phản ánh thực trạng phức tạp của thời kỳ quá độ có những vùng xám và mảng tối đan xen. Nhưng các hạt sạn và con sâu đó không làm lu mờ được thành tích và phủ nhận được vai trò của ngành ngoại giao trong giai đoạn mới. Trong một bài dài hơn 6.500 từ, nhà ngoại giao lão thành Vũ Khoan (nguyên phó thủ tướng) đã đề cập đến thời đại mới. (Một thời đại mới đang dần hình thành? Vũ Khoan, Tạp chí Cộng sản, 20/11/2022).

Sau khi phân tích đặc điểm tình hình thế giới, ông Vũ Khoan đã nêu “ba hàm ý chính sách”. Một là, những biến động hiện nay và trong thời gian tới báo hiệu một thời kỳ hết sức bất an, bất định, với các mối đe dọa “truyền thống” và “phi truyền thống” đan xen nhau. Hai là, phải trông vào thực lực với phương châm “nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng”. Ba là, thành quả trên mặt trận ngoại giao của ta rất lớn, góp phần hết sức quan trọng. 

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa thực hiện được công nghiệp hóa. Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 50-NQ/TW (20/8/2019) về “định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”. Để tránh rơi vào “tình thế khó xử và khó lường” trong quan hệ quốc tế, “những đối sách trong giai đoạn mới cần được vận dụng một cách cơ động, linh hoạt, tinh tế, trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia”. 

Trong cơ cấu nền kinh tế nước ta, đặc biệt là do hệ lụy của đại dịch Corona làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu, khu vực FDI ở Việt nam tiếp tục chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Năm 2019, FDI chiếm 20,35% GDP, 1/4 giá trị vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 50% sản lượng công nghiệp, 71,7% xuất khẩu và 64,35% nhập khẩu. Trong đó, công nghệ tiên tiến của Mỹ và Tây Âu chỉ chiếm 6%, trong khi công nghệ Trung Quốc chiếm 45%.

Trong một bài khác dài hơn 6.700 từ, nhà ngoại giao lão thành Nguyễn Trung (nguyên trợ lý cho cố thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã bức xúc về vận mệnh của dân tộc trong thời đại mới. Theo ông,  năm 2022 nên được xem như “một năm định mệnh của thế kỷ 21”, nhưng nhà cầm quyền và đội ngũ trí thức “vẫn tiếp tục đi theo đường mòn cũ và thờ ơ trước tình hình mới”. (Năm 2022 thế giới đang đi về đâu? Nguyễn Trung, Viet-studies, 20/12/2022).

Trong khi một số nhà ngoại giao trẻ bị kỷ luật vì “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong vụ “chuyến bay giải cứu”, thì ông Vũ Khoan và ông Nguyễn Trung tuy đã ngoài 80 tuổi, sức tàn lực kiệt, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc, “còn nước còn tát”. Những bài viết đó như “tiếng hát cuối cùng của con thiên nga” trước khi từ biệt cõi đời. Nói cách khác, đó là tâm thức của các nhân sỹ Bắc Hà và tâm trạng của một dân tộc trước thềm một thời đại mới.

Đối tác chiến lược

Chiến tranh liên miên và chia cắt đất nước suốt ba thập kỷ (1945-1975) đã làm Việt Nam tổn thất nặng nề không chỉ về người và nguồn lực, mà còn về thời gian và cơ hội phát triển, trong khi các nước khu vực tranh thủ thời cơ phát triển để vượt lên trước. Thời hậu chiến, (1975-1979) Việt Nam đã để vuột mất cơ hội hòa giải và tái thiết, nên bị xô đẩy vào cuộc “chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” với Khmer Đỏ và Trung Quốc (1979-1989).

Trong giai đoan đổi mới và mở cửa (từ 1986) tư duy quản trị lạc hậu thời bao cấp và hệ lụy nặng nề do chiến tranh để lại, đã kìm hãm cải cách và phát triển của Viêt Nam hàng thập kỷ. Tuy Việt Nam đã đổi mới về kinh tế nhưng chưa đổi mới về thể chế chính trị, nên thành quả đổi mới vẫn bị hạn chế do bất cập. Trong khi đó, vấn nạn tham nhũng tràn lan, các nhóm lợi ích thao túng thể chế và chính sách, làm Viêt Nam tiếp tục tụt hậu so với khu vực.

Người Nhật và người Hàn không tự hào vì “được trời phú rừng vàng biển bạc” như Việt Nam.  Họ dạy con cháu phải chấp nhận khó khăn, thiếu thốn và thiên tai (như động đất, sóng thần), phải không ngừng học hỏi và làm việc như điên để vương lên, không được ảo tưởng “làm giàu không khó”. Trong lịch sử, Nhật đã hai lần trỗi dậy để canh tân và phát triển thần kỳ. Nhật và Hàn là hình ảnh con phượng hoàng “vươn dậy từ đống tro tàn”.

Với truyền thống chống ngoại xâm và vị trí chiến lược tại Biển Đông, Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong tranh chấp chiến lược Mỹ-Trung tại vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đại sứ Marc Knapper tin tưởng rằng trong năm 2023, khi hai nước kỷ niệm mười năm thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, “chúng tôi sẽ tìm các phương thức để có thể kỷ niệm mốc quan trọng này và tìm kiếm các khả năng để nâng cấp lên đối tác chiến lược”.

Việt Nam nằm trong danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC), nhưng ông Knapper cho rằng “Trên cơ sở những giá trị chung, lợi ích chung và lòng tin giữa hai nước, chúng tôi tin rằng việc nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược sẽ càng mở ra nhiều cánh cửa để hai nước hợp tác chặt chẽ hơn. Chúng tôi sẽ tiếp tục nỗ lực tìm kiếm các khả năng, đặt rất nhiều kỳ vọng và mong muốn nâng cấp quan hệ song phương lên đối tác chiến lược”.

Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ đến nay, Thương mại Việt-Mỹ đã tăng 200%, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đạt $2.8 tỷ USD/năm. Việt Nam có khoảng 30.000 sinh viên du học tại Mỹ, và Việt Nam là nước ủng hộ tích cực Bộ Tứ (QUAD). Đại sứ Marc Knapper nói với báo chí tại “Triển lãm Quốc phòng Quốc tế” đầu tiên của Hà Nội (8/12/2022) rằng đây là “một giai đoạn mới để Việt Nam hiện đại hóa, đa dạng hóa, và toàn cầu hóa”.   

Việt Nam muốn thiết lập đối tác chiến lược với Mỹ môt cách lặng lẽ và lấp lửng (ambiguous), dựa trên nền tảng đối tác chiến lược toàn diện Mỹ-ASEAN. Để có đối tác chiến lược với Việt Nam, Mỹ cũng nên lặng lẽ, và có thể công bố chính thức khi tổng thống Biden đến thăm Hà Nội hay lãnh đạo Việt Nam đến thăm Washington. (A window of opportunity to upgrade US-Vietnam relations, Jonathan Stromseth, Brookings, December 20, 2022).  

Không đi quá xa, quá nhanh

Quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến rất xa, “từ kẻ thù nay đã trở thành bạn”, thực chất đang trở thành “đối tác chiến lược”. Theo cựu đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink, chỉ có “bầu trời là giới hạn” (the sky is the limit). Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì hợp tác an ninh Việt-Mỹ vẫn có những giới hạn khó vượt qua. (The Limit to US-Vietnam Security Cooperation, Khang Vũ, US-Vietnam Research Center, University of Oregon, June 12, 2021). 

Việt Nam đã từng bị Mỹ bỏ rơi năm 1973 và Liên Xô bỏ rơi năm 1979 và 1988. Nay Hà Nội muốn biết rõ liệu có thể tin và dựa vào Mỹ tới đâu tại Biển Đông. Hà Nội không muốn bị mắc kẹt vào xung đột Trung-Mỹ và một lần nữa trở thành chiến trường cho các nước lớn. Nếu lợi ích quốc gia liên quan đến “an ninh đối ngoại” thì ý thức hệ liên quan đến “an ninh đối nội”. Ý thức hệ có vai trò rất quan trọng đối với hệ thống Đảng và nhà nước.  

Quan hệ Việt-Mỹ phát triển tích cực là do hệ quả trực tiếp khi Mỹ và Việt Nam cùng chia sẻ lo ngại trước sự trỗi dậy và thách thức của Trung Quốc. Tuy quan hệ Việt-Mỹ đã được cải thiện đáng kể, nhưng còn quá sớm để khẳng định hai nước sẽ trở thành đồng minh như Mỹ với Nhật hay với Úc là những nước “có cùng quan điểm” (like-minded). Nói cách khác, Mỹ giúp Việt Nam nhưng không đẩy quan hệ Việt-Mỹ “đi quá xa và quá nhanh”.

Theo giáo sư Alexander Vuving (Asia Pacific Center for Security Studies in Honolulu), Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Bắc Kinh ngay sau khi Đại Hội đảng lần thứ 20 của Trung Quốc vừa kết thúc, để làm yên lòng Bắc Kinh. Đây là thử thách đầu tiên của “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. (Vietnam’s Approach to China: Bamboo Diplomacy With Neo-tributary Characteristics, Alexander Vuving, Diplomat, November 12, 2022). 

Vuving cho rằng Việt Nam vừa có lợi lớn vừa có hại lớn vì ở cạnh Trung Quốc. “Ngoại giao cây tre” của Việt Nam với tính chất “triều cống kiểu mới” (neo-tributary) được thể hiện khi ông Trọng đến thăm Bắc Kinh. Đây là chuyến thăm chiếu lệ (rituals) phản ánh sự “bất đối xứng” (asymmetry) về quyền lực, nhằm ổn định. Chiếu lệ là một phần trong chiến lược của Trung Quốc nhằm giữ Việt Nam gần Trung Quốc và tránh xa Mỹ.

Vì chuyến thăm của ông Trọng là chiếu lệ và hoa mỹ (rhetoric) nên Việt Nam không có thay đổi đáng kể nào trong chính sách đối với Trung Quốc sau 2014. Chuyến thăm đánh dấu sự mềm mỏng của Hà Nội với Bắc Kinh nhằm đối phó với đe dọa của Trung Quốc, trước khi căng thẳng trở lại. Tuy chuyến thăm phá lệ nhưng không phá cách. Việt Nam nói không với GSI (Global Security Initiative) và chỉ ủng hộ miệng BRI vì sợ “bẫy nợ”.   

Trong khu vực Đông Nam Á, một số nước ASEAN vẫn phải hai mặt để chờ thời (hedging). Họ có thể điều chỉnh thái độ với Trung Quốc và Mỹ như “swing states”.  Philippines sẽ điều chỉnh thời “hậu Duterte”; Malaysia sẽ điều chỉnh khi Mahathier Mohamad hay Anwar Ibrahim trở lại cầm quyền; Thailand và Myanmar sẽ điều chỉnh khi chính quyền quân sự hết thời; Campuchia sẽ điều chỉnh khi nào Hun Manet lên cầm quyền thay Hunsen.    

Lời cuối

Trong cuộc điều trần tai Hạ viện Mỹ (7/12/2022), nhiều ý kiến lo ngại Bắc Kinh sẽ biến Mekong thành “Biển Đông thứ hai”. Trong cuốn “Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ”, Brian Eyler (Stimson Center) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tiểu vùng Mekong trong việc đảm bảo an ninh và đời sống của hàng chục triệu người dân Đông Nam Á. Theo ông, một chiến lược thông minh hơn của Mỹ có thể giúp khu vực này phát triển mạnh.

Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã bị mắc kẹt trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung, nên phải cố gắng giữ cân bằng với nước “cờ thế” (hedging) và nguyên tắc “ba không, một tùy”. Nhưng cuộc chiến tranh Nga-Ukraine và hệ quả năng nề của đai dich Corona đã làm đảo lộn nhiều hằng số và làm xuất hiện các biến số mới khó lường. Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội để Viêt Nam “biến nguy thành cơ”, nhằm thoát khỏi thế “tiến thoái lưỡng nan”.

Nguyễn Quang Di / Viet-Studies

Luật sư cao cấp muốn Putin phải bị đưa ra tòa về cuộc chiến Ukraine

EPA

Tổng thống Nga Vladimir Putin nên bị đưa ra xét xử ở Ukraine trong năm nay vì những tội ác chiến tranh đã diễn ra ở đó, người đứng đầu vụ truy tố cựu lãnh đạo Serbia Slobodan Milosevic nói.

Sir Geoffrey Nice nói với BBC rằng ông Putin là “người có tội” vì đã tấn công các mục tiêu dân sự trong chiến tranh.

Vị trạng sư người Anh bày tỏ sự ngạc nhiên khi các công tố viên và chính trị gia không “nói tới điều này một cách tự do và cởi mở hơn nhiều”.

Nga phủ nhận việc mình phạm tội ác chiến tranh.

Tuy nhiên, khi nói chuyện với chương trình Broadcasting House của kênh phát thanh Radio 4, Sir Geoffrey đã mô tả các hành động của Moscow trong cuộc xâm lược là “tội ác chống lại nhân loại” – vì các mục tiêu dân sự đang bị tấn công.

Tội ác chống lại nhân loại được coi là một trong những tội nghiêm trọng nhất theo điều được gọi là “quy tắc” chiến tranh.

Các luật này cấm tấn công dân thường – hoặc cơ sở hạ tầng quan trọng đối với sự sống còn của họ – và được quy định trong các hiệp ước quốc tế như các Công ước Geneva.

Ví dụ, các cuộc tấn công lặp đi lặp lại của Nga vào mạng lưới năng lượng Ukraine trong mùa đông đã được mô tả là tội ác chiến tranh vì gây thiệt hại cho dân thường. Nga khẳng định họ chỉ tấn công các mục tiêu quân sự.

Binh lính của Moscow bị cộng đồng quốc tế cáo buộc là đã thực hiện hàng ngàn vụ lạm dụng kể từ khi họ xâm chiếm toàn diện nước láng giềng, hồi tháng Hai năm ngoái.

Trưởng công tố ở Kiev cho biết cho đến nay, đã có hơn 62.000 tội ác chiến tranh đã được ghi nhận, trong đó có cái chết của hơn 450 trẻ em. BBC không thể xác minh những con số này.

Sir Geoffrey đã làm việc với Tòa Hình sự Quốc tế về Nam Tư Cũ (ICTY) trong thời gian từ 1998 đến 2006.

Ông dẫn đầu vụ kiện cựu lãnh đạo Serbia Slobodan Milosevic, người đã bị đưa ra xét xử ở The Hague năm 2002 vì những tội ác chiến tranh đã gây ra ở Croatia, Bosnia và Kosovo.

Ông Milosevic – từng được mệnh danh là “đồ tể vùng Balkan” – đã chết trong tù trước khi phiên tòa kết thúc.

Bình luận về cuộc chiến ở Ukraine, Sir Geoffrey cho biết vụ việc “không thể rõ ràng hơn” cho thấy ông Putin phạm tội, và “không nghi ngờ gì” về một hệ thống chỉ huy cho thấy người đàn ông này từ Điện Kremlin là người đã ra mệnh lệnh.

Điều này có nghĩa là “điều quan trọng nhất” là phải xét xử chính bản thân nhà lãnh đạo Nga chứ không phải những người lính cấp thấp, ông nói trong chương trình Broadcasting House.

Ông nói thêm rằng bất kỳ phiên tòa nào cũng “có thể diễn ra vào sáng mai, theo như tôi được biết” và phiên tòa đó nên được tổ chức bởi Ukraine, xét xử bằng tiếng Ukraine. Ông nói rằng bản thân ông Putin sẽ không cần phải có mặt.

Sir Geoffrey đã suy đoán về một lý do có thể khiến nhà lãnh đạo Nga cho đến nay vẫn không phải đối mặt với hành động cứng rắn – mà ông coi là cho thấy có thể đã có động thái trao cho ông Putin quyền miễn tố như một phần của thỏa thuận hòa bình.

Ông cho biết Tòa Hình sự Quốc tế (ICC) – cơ quan có quyền tài phán đối với Ukraine – “vẫn chưa đưa ra phán quyết về trách nhiệm của Putin đối với tội ác này”.

Sir Geoffrey cho biết “sự miễn cưỡng” này đã đặt ra câu hỏi liệu có một loại “lợi ích chính trị” nào đó để không truy tố Tổng thống Nga hay không.

Nhưng ông nói rằng ý tưởng về bất kỳ giải pháp hòa bình nào theo đó ngăn cản việc xét xử ông Putin sẽ là một “viễn cảnh kinh hoàng”, điều sẽ là “sự hoàn toàn khước từ công lý đối với người dân Ukraine”.

Đáp lại, ICC bác bỏ mọi khẳng định về việc có “áp lực hoặc ảnh hưởng” đối với công tố viên, Karim Khan, nhằm trì hoãn bất kỳ cuộc điều tra nào.

Ông Khan đã “lặp đi lặp lại việc lập hồ sơ… nhằm chứng minh rằng việc quy trách nhiệm giải trình là điều bắt buộc phải đạt được”, thông cáo của ICC nói.

Thông cáo nói thêm rằng công tố viên này đã làm việc tại Ukraine để thu thập bằng chứng về tội ác chiến tranh – và lệnh bắt giữ sẽ được ban hành khi thu thập đủ bằng chứng.

Getty Images
Chụp lại hình ảnh,Ông Milosevic – “đồ tể vùng Balkan” – chết trong tù trước khi phiên tòa xử ông về các tội ác chiến tranh ở Croatia, Bosnia và Kosovo kết thúc
  • James FitzGerald /,BBC News