Biệt thự phố theo kiến trúc Á Đông

ĐÀ NẴNG Nằm trong khu dân cư với những biệt thự hiện đại xung quanh, Q Villa nổi bật với kiến trúc đậm nét Á Đông hoài cổ.

Q Villa được xây dựng trên mảnh đất diện tích 10 x 25 m với hai mặt tiền trước và sau.

Giữa những căn biệt thự hiện đại xung quanh, ngôi nhà trở nên khác biệt với lối kiến trúc đậm nét Á Đông. Phong cách này là sự pha trộn đặc trưng của nhiều nền văn hóa, không có khuôn mẫu cố định mà hài hòa, linh hoạt.

Phần mái ngói được lấy ý tưởng từ các nếp mái truyền thống, kết hợp cùng lan can gỗ, cửa lá sách… tạo nên nét hoài cổ. Công trình sử dụng ngói xi măng có độ sần trên bề mặt, giúp tản nhiệt tốt cũng như giảm được áp lực khi nước xối vào mùa mưa. Sử dụng loại ngói này còn tránh được tình trạng rêu mốc, rêu xanh, ảnh hưởng tới thẩm mỹ chung.

Gam màu chủ đạo trong thiết kế nội thất theo phong cách Á Đông thường nhẹ nhàng, nhã nhặn. Bởi vậy, màu sắc đặc trưng trong nhà là màu gỗ, kết hợp cùng màu bê tông thô, giúp không gian thông thoáng và rộng rãi hơn.

Phát huy những nét đặc trưng của phong cách hiện đại, đồ nội thất trong nhà có kiểu dáng đơn giản. Mục đích chính là hướng đến công năng sử dụng cũng như mang đến cho chủ nhà cuộc sống thoải mái nhất.

Ngôi nhà gồm một phòng ngủ master, ba phòng ngủ phụ, phòng khách bếp, hồ bơi, sân vườn… cùng khu sinh hoạt chung. Toàn bộ không gian đều thiết kế mở, góc nhìn hướng ra sân vườn nhằm kết nối cuộc sống với thiên nhiên.

Trong phong cách nội thất Á đông, gạch bông thường sử dụng lát sàn. Tại phòng bếp, loại gạch này được dùng ở không gian chính nhằm tạo điểm nhấn cũng như làm mềm không gian.

Bể bơi rộng 2,5 x 8,5 m nằm dọc nhà không chỉ là nơi thư giãn của gia đình mà góp phần tạo nên lá phổi xanh cho không gian. Từ phòng khách, phòng ăn hay phòng ngủ, mọi người đều có thể nhìn thấy mặt nước.

Tổng thể công trình là một bài toán chuyển tiếp về không gian: Bên ngoài, trung gian và bên trong. Lớp áo bao bọc phần không gian trung gian khiến cho các tác động của môi trường được kiểm soát. Nó như một mái vòm lớn che chắn an toàn và cây xanh vẫn có thể phát triển tốt bên trong. Các khối công trình được sắp xếp chồng chéo để biến ánh sáng vào nhà trở thành ánh sáng gián tiếp, cũng như thông gió tự nhiên.

Giải pháp thông tầng được áp dụng nhằm khai thác ánh sáng đến từng không gian sử dụng, đồng thời tăng cường việc đối lưu gió theo trục đứng từ tầng một lên tới tầng ba.

Trần bê tông khu vực thông tầng còn được đục các lỗ thông khí, không chỉ có chức năng lấy nắng xuống hồ bơi, mà còn tạo hiệu ứng hoa nắng đẹp mắt.

Ngôi nhà mang âm hưởng kiến trúc Á Đông cùng tinh thần Phật giáo và thiền định, bởi vậy kiến trúc sư không chỉ thiết kế nhiều không gian mở, giao hòa với thiên nhiên mà còn tạo ra nét chấm phá bằng các chi tiết nhỏ.

Như tại không gian sinh hoạt chung, kiến trúc sư đã thiết kế một chiếc bàn thấp, nơi mọi người có thể thưởng trà, đọc sách… tìm sự bình yên sau những lo toan bộn bề.

Trong nhà xuất hiện khá nhiều vòng tròn trên tường, tạo cảm giác mềm mại và cân bằng thị giác. Một số vị trí sử dụng ô cửa tròn lớn, như một cách ngăn chia không gian ước lệ nhưng vẫn tạo sự kết nối. Vòng tròn còn tượng trưng cho sự vĩnh cửu vì không có sự bắt đầu hay kết thúc.

Văn hóa phương Đông thường đề cao vẻ đẹp tinh tế với việc sắp xếp đồ nội thất trật tự và đối xứng. Dù bài trí đơn giản nhưng đảm bảo mọi thứ ngăn nắp và khoa học.

Một số đồ nội thất trong nhà sử dụng gỗ óc chó kết hợp với mây – vật liệu đặc trưng trong thiết kế phong cách Á Đông. Trước khi sử dụng mây vào đồ gỗ, vật liệu này phải được tẩy trắng, ngâm dầu nhiều lần để tạo độ cứng, sau đó được sơn 3-4 lớp để bảo vệ lớp mây không bị mốc mục theo thời gian.

Hệ cửa, đồ nội thất, vật dụng trang trí… đều chế tác từ gỗ óc chó có tuổi thọ cao, khả năng chịu nhiệt, chịu lực tốt, phù hợp với khí hậu Việt Nam.

Hệ cửa gỗ lá sách được sử dụng xuyên suốt từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, như một sự chuyển tiếp không gian. Hệ cửa không chỉ có tác dụng phân chia riêng tư cho từng khu vực mà có có tác dụng đối lưu không khí, mang gió, ánh sáng tự nhiên cho không gian sống. Điều này giúp ngôi nhà thân thiện với thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng.

Nằm trong khu dân cư an ninh tốt, thay vì xây tường bao hay cổng bảo vệ vây kín, mặt tiền chính của nhà chỉ ngăn cách với không gian bên ngoài bằng bức tường thấp, kế đó là bàn trà bằng đá và hồ nước nhỏ.

Phương án này không chỉ mang thiên nhiên bên ngoài vào bên trong mà còn tạo ra không gian mở-nơi các thành viên trong gia đình nghỉ ngơi, thư giãn khi thời tiết

Công trình hoàn thành trong một năm, chi phí không được tiết lộ.

Trang Vy
Thiết kế: AN NAM Architecture
Kiến trúc sư: Kevin Le, Phan Thanh Nam, Vũ Minh Đạt, Nguyễn Cân

Sự thật đáng sợ về vi khuẩn

Nếu như dịch bệnh đến từ virus đã khiến nhân loại phải gồng mình chống đỡ, thì mới đây một nghiên cứu quy mô lớn công bố trên tạp chí Y học hàng đầu The Lancet cho thấy vi khuẩn đã trở thành nguyên nhân gây tử vong cao thứ 2 thế giới, chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ.

Sự thật đáng sợ về vi khuẩn - Ảnh 1.

Trại tị nạn Alla Futo ở vùng ngoại ô thủ đô Mogadishu (Somalia) là nơi bùng phát nhiều dịch bệnh do vi khuẩn gây ra. Ảnh: REUTERS.

Theo The Lancet, trong năm 2019 có tới 7,7 triệu ca tử vong liên quan đến 33 mầm bệnh vi khuẩn, chiếm 13,6% tổng số ca tử vong toàn cầu. Số ca tử vong do bệnh truyền nhiễm nói chung là 13,7 triệu ca, tức là vi khuẩn đã lấn át cả virus.

33 mầm bệnh vi khuẩn nói trên được tìm thấy trong 11 hội chứng truyền nhiễm chính ở 204 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số này, có 5 loài đặc biệt nguy hiểm là tụ cầu vàng, E.coli, phế cầu khuẩn, trực khuẩn Klebsiella và trực khuẩn mủ xanh. Chúng gây ra 54,9% số ca tử vong do vi khuẩn. Tụ cầu vàng (gây ngộ độc tiêu hóa, nhiễm trùng da, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng bệnh viện…) gây tử vong nhiều nhất với hơn 1 triệu ca.

Nghiên cứu cũng chỉ ra khoảng cách về tỉ lệ tử vong do vi khuẩn giữa các vùng giàu và nghèo. Vùng châu Phi Hạ Sahara ghi nhận số ca tử vong do nhiễm khuẩn là 230 ca trên 100.000 dân, trong khi con số này ở những vùng có thu nhập cao, như Tây Âu, Bắc Mỹ là 52 ca trên 100.000 dân.

Đáng chú ý, nhóm tác giả của nghiên cứu kể trên cho rằng việc thiếu dữ liệu về gánh nặng toàn cầu do vi khuẩn khiến việc thiết lập các ưu tiên về sức khỏe cộng đồng trở nên khó khăn. Trong đó khó thực hiện chiến lược dự phòng lây nhiễm như một biện pháp nền tảng, kể cả các chương trình giảm nhiễm trùng bệnh viện, giáo dục sức khỏe cộng đồng, quản lý suy dinh dưỡng, giúp người dân tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh tốt hơn… Còn về điều trị, cũng không bảo đảm sự sẵn sàng của các dịch vụ chăm sóc khẩn cấp nhằm giảm số ca tử vong do nhiễm khuẩn.

Chính vì những bất cập đó, mới đây Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã triệu tập hơn 300 nhà khoa học để xem xét bằng chứng về 25 họ vi khuẩn có nguy cơ gây ra đợt bùng phát dịch bệnh.

“Hậu họa y tế từ vi khuẩn cần phải được coi là ưu tiên khẩn cấp để can thiệp trong cộng đồng y tế toàn cầu” – TS Mohsen Naghavi (Trường Đại học Washington, Mỹ) lên tiếng.

Trên thực tế, theo giới Y học, thế giới đã tập trung quá nhiều nguồn lực vào virus mà quên đi tác hại không kém của vi khuẩn trong việc gieo rắc bệnh tật và cướp đi mạng sống con người. Một trong những cảnh báo được đưa ra cho rằng siêu vi khuẩn lây lan nhanh chóng chính là do việc quá lạm dụng kháng sinh, với mong muốn dùng thuốc mạnh để cứu các bệnh nhân nguy kịch. 

Nhiễm siêu vi khuẩn kháng nhiều loại thuốc kháng sinh đã cướp đi sinh mạng của khoảng 33.000 người ở châu Âu mỗi năm và gánh nặng do tình trạng này gây ra bằng cả bệnh cúm, lao phổi và nhiễm HIV cộng lại.

Theo Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát bệnh tật châu Âu (ECDC), ảnh hưởng của tình trạng nhiễm vi khuẩn kháng thuốc đã gia tăng từ năm 2007, cùng với sự gia tăng đáng lo ngại các ca nhiễm vi khuẩn kháng các loại kháng sinh mạnh nhất. “Điều này rất đáng lo bởi những loại kháng sinh này là phương án điều trị cuối cùng hiện có. Một khi chúng hết tác dụng, sẽ rất khó điều trị nhiễm trùng, thậm chí nhiều trường hợp sẽ vô phương cứu chữa” – ECDC cảnh báo.

Các chuyên gia của ECDC ước tính khoảng 70% vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng hiện đã kháng được ít nhất một loại kháng sinh thường dùng. Theo thời gian, vi khuẩn có khả năng tiến hóa thành “siêu vi khuẩn” và chống lại được nhiều loại thuốc khác nhau. Đây sẽ là một trong những mối đe dọa lớn nhất mà y học ngày nay phải đối mặt. Nhưng còn đáng sợ hơn khi biết rằng khoảng 75% trường hợp nhiễm siêu vi khuẩn là do mắc phải tại các bệnh viện và phòng khám y tế – được gọi là nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế.

TS Ben Howden – Giám đốc Phòng thí nghiệm chẩn đoán vi trùng học tại Trường Đại học Melbourne (Australia) và cộng sự đã nghiên cứu hàng trăm mẫu xét nghiệm của một loại vi khuẩn có tên Staphylococcus, thu thập từ 78 bệnh viện khắp thế giới. Kết quả, họ phát hiện một số chủng của vi khuẩn này đã biến đổi về ADN, khiến chúng kháng được 2 loại kháng sinh thông dụng nhất thường được kết hợp để điều trị các ca nhiễm trùng bệnh viện.

“Chúng ta đã quá lạm dụng kháng sinh, với mong muốn dùng thuốc mạnh để cứu các bệnh nhân đang nguy kịch. Và vì thế đã vô tình tạo ra các chủng vi khuẩn “sát thủ” kháng thuốc” – TS Howden nói.

Chưa hết, các quan chức y tế bang Oregon (Mỹ) còn thông báo về 3 trường hợp nhiễm nấm siêu vi khuẩn Candida kháng thuốc – một bệnh nhiễm nấm hiếm gặp mà Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ mô tả là gây ra “mối quan ngại nghiêm trọng” cho thế giới. 

Loại nấm này được ghi nhận vào năm 2009, nhưng sau đó đột nhiên biến mất. Sự trở lại của nó là dấu hiệu bất thường cho thấy nó đã vượt qua được sự truy sát của tất cả các loại kháng sinh để trở thành loại vi khuẩn gây ra “nhiễm xâm lấn” ở khoảng 10% những người tiếp xúc gần với người mắc bệnh.

Ngày 28/11, nhóm các nhà khoa học Nga, Đức, Pháp lên tiếng cảnh báo lớp băng vĩnh cửu tan chảy do biến đổi khí hậu đang gây nguy cơ cho nhân loại, sau khi họ phát hiện và hồi sinh thành công một chủng virus có từ 48.500 năm trước. 

Đây là virus cổ xưa nhất từng được hồi sinh. Trước đó, nhóm nghiên cứu đã hồi sinh thành công 2 chủng virus có từ 30.000 năm trước. Tới nay, nhóm nghiên cứu đã hồi sinh trong phòng thí nghiệm được 7 chủng virus cổ xưa được phát hiện từ lớp băng vĩnh cửu ở Siberia. Theo nhà nghiên cứu Jean-Michel Claverie (Đại học Aix-Marseille, Pháp) tất cả các chủng virus được hồi sinh đều có khả năng lây nhiễm cho những dạng sự sống đơn bào. 

Điều này cho thấy khả năng tồn tại những virus khác đang nằm yên dưới lớp băng vĩnh cửu và có thể được phóng thích ra do biến đổi khí hậu, dẫn đến nguy cơ lây nhiễm cho cây cối, động vật và người.

Thanh Đức / Đại đoàn Kết

“Gặp” người đàn ông nắm trong tay vận mệnh của toàn bộ ngành công nghiệp Đức

Cuộc khủng hoảng năng lượng biến Muller từ 1 nhà kỹ trị gần như vô danh trở thành 1 người nổi tiếng nhận được rất nhiều sự chú ý.

Khi Klaus Muller bắt đầu đảm nhận vị trí người đứng đầu FNA, cơ quan quản lý mạng lưới điện, khí đốt, viễn thông, bưu chính và đường sắt trên toàn bộ nước Đức, ông đã tưởng tượng mình sẽ dốc sức để mở rộng nguồn năng lượng tái tạo cũng như hệ thống cáp quang.

Công việc trước đó của ông là phụ trách lĩnh vực môi trường và nông nghiệp ở Schleswig-Holstein, vì thế ông khá thân thiết với Bộ trưởng Kinh tế Robert Habeck. Hai người cùng là thành viên của đảng Xanh, và Muller rất quan tâm đến những ưu tiên của đảng Xanh như xu hướng trung hòa carbon – dù đó là thứ khiến ông Habeck không hài lòng.

Thế nhưng Muller đã phải thú nhận với phóng viên The Economist rằng những ưu tiên này sẽ phải chờ đợi. Ông nhậm chức chỉ vài ngày sau khi Nga bắt đầu thực hiện chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine. Ngay ngày đầu tiên, ông đã phải dành phần lớn thời gian để nghĩ về nguồn cung và mạng lưới phân phối khí đốt – “huyết mạch” của nền công nghiệp Đức đang bị đe dọa bởi những biện pháp đáp trả phương Tây từ phía Nga.

“Chúng ta đã có 1 mùa hè tốt đẹp hơn nhiều so với dự báo của tất cả mọi người, nhưng đó không phải là tất cả”, ông nói.

Những gì diễn ra ở Ukraine cũng biến Muller từ 1 nhà kỹ trị gần như vô danh trở thành 1 người nổi tiếng nhận được rất nhiều sự chú ý. Ông thường xuyên là khách mời của những chương trình talkshow trên tivi và có hàng chục nghìn người theo dõi trên Twitter. Bản tin hàng ngày của FNA về thực trạng nguồn cung khí đốt có tới hàng triệu độc giả.

Khi Muller đưa ra những nhận định lạc quan, dường như cả nước Đức “thở phào”. Còn ngược lại, khi ông nhận định thận trọng, ví dụ như lời cảnh báo trên Twitter ngày 28/11 rằng trong 7 ngày tới nhiệt độ ở Đức sẽ thấp hơn 2 độ C so với mức trung bình trong 4 năm gần đây, dường như tâm trạng bi quan cũng bao trùm cả nước.

Lý do khiến người dân Đức, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, chú ý đến từng câu chữ của Muller là bởi ông chính là người phụ trách việc đảm bảo nguồn cung khí đốt. Nếu chính phủ Đức thực hiện bước đi chưa từng có tiền lệ là tuyên bố tình trạng khẩn cấp về khí đốt, toàn bô 75 nhân viên của FNA sẵn sàng chia ca làm việc 24/7.

Họ cắm chốt tại 1 căn phòng không có cửa sổ của tòa nhà văn phòng được xây từ những năm 1960 để điều phối nguồn cung khí đốt. Căn phòng được trang bị khoảng 20 chiếc giường, có máy phát điện riêng, 1 bồn chứa nước, nhà tắm và có cả thức ăn đông lạnh.

Bệnh viện, trường học, nhà trẻ, quân đội, đồn cảnh sát, cứu hỏa, nhà tù, các hộ gia đình và các hộ kinh doanh mặt hàng thiết yếu sẽ được ưu tiên, Muller giải thích. Còn những nơi ngốn năng lượng nhiều nhất như bể bơi nước ấm, phòng xòng hơi sẽ nằm trong danh sách bị cắt giảm đầu tiên.

Quyết định cắt giảm nguồn cung khí đốt sẽ được đưa ra dựa trên 6 tiêu chí, trong đó có quy mô công ty, mặt hàng mà công ty đó sản xuất (thực phẩm và thuốc men sẽ được miễn) và cần bao nhiêu thời gian để công ty đó giảm lượng tiêu thụ mà không làm hỏng các thiết bị. FNA đã phát triển 1 nền tảng kỹ thuật số để điều hành nguồn cung cho 2.500 công ty sử dụng nhiều khí đốt nhất.

javascript:if(typeof(admSspPageRg)!=’undefined’){admSspPageRg.draw(2010262);}else{parent.admSspPageRg.draw(2010262);}

Dù được quy hoạch và quản lý cẩn thận như vậy, tình trạng khẩn cấp về khí đốt vẫn có thể khiến chuỗi cung ứng bị gián đoạn nghiêm trọng, thậm chí dẫn đến phá sản và thất nghiệp. Tháng 9 năm ngoái, có một dự báo rất ảm đạm được Viện IFO ở Munich đưa ra. Họ ước tính GDP Đức có thể sụt giảm 7,9% trong năm tới nếu như ban bố tình trạng khẩn cấp về khí đốt. Đó là mức thiệt hại lớn hơn cả khi kinh tế Đức rơi vào suy thoái vì khủng hoảng tài chính toàn cầu hay Covid-19.

Nhưng có lẽ mùa đông năm nay Đức sẽ tránh được cơn ác mộng này. Các cơ sở dự trữ khí đốt đang tràn trề khí đốt được nhập khẩu từ Nga trước khi Tổng thống Nga Putin “ngắt van” vào tháng 9 (Nga từng cung cấp tới 55% tổng lượng khí đốt mà Đức nhập khẩu). Hiện nguồn cung chính của Đức đến từ Na Uy, sau đó là Hà Lan, Bỉ và Pháp. Đến Giáng sinh, Đức còn có thêm 3 ga nổi tiếp nhận khí hóa lỏng ở Wilhelmshaven, Lubmin and Brunsbüttel. 3 cơ sở này đã được gấp rút xây dựng trong thời gian kỷ lục. Đến mùa đông sang năm dự kiến sẽ có thêm 3 hoặc 4 ga nữa.

Tuy nhiên, Muller vẫn chỉ ra rằng chừng đó vẫn chưa đủ để bù đắp toàn bộ nguồn cung từ Nga. Đức vẫn cần phải sử dụng ít hơn ít nhất 20% so với các năm trước thì mới không bị thiếu khí đốt. Điều này ngày càng khó khăn khi mà thời tiết ngày càng lạnh. “Xin hãy sử dụng tiết kiệm dù trời lạnh!”, Muller viết trên Twitter ngày 28/11.

Cho đến nay người Đức vẫn đang nghe theo lời khuyên của ông. Nghiên cứu của ĐH Hertie công bố ngày 1/11 cho thấy trong tháng 9 lượng khí đốt mà ngành công nghiệp Đức sử dụng thấp hơn 19% so với năm ngoái. Các hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ cũng tiết kiệm khoảng 26%. Theo khảo sát của Viện IFO, khoảng 75% nhà sản xuất đã có thể tiết kiệm khí đốt mà không làm giảm năng suất. Nhưng họ cũng cho biết nếu tình hình kéo dài thì cắt giảm sản lượng là điều khó tránh.

Muller cho rằng dù sao thì cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay khiến Đức rút ra được 3 bài học. Thứ nhất, “chúng ta sẽ không bao giờ tự đặt mình vào 1 rủi ro tương tự bằng cách quá phụ thuộc vào 1 nguồn cung duy nhất”. Bài học này cũng đã được phản ánh vào cuộc tranh luận hiện đang nổ ra ở ĐỨc về mối quan hệ kinh tế thân thiết với Trung Quốc.

Hai bài học còn lại – giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và đầu tư nhiều hơn cho năng lượng tái tạo – sẽ giúp nước Đức vững mạnh hơn trong dài hạn. Và đó còn là những thứ cho phép Muller nghĩ về những ưu tiên của đảng Xanh mà ông từng kỳ vọng sẽ theo đuổi khi nhậm chức lãnh đạo FNA.

Tham khảo The Economist / Thu Hương / Nhịp sống Thị Trường

Thấy gì từ liên minh tam giác chiến lược Nga -Trung Quốc – Iran?

Thấy gì từ liên minh tam giác chiến lược Nga -Trung Quốc - Iran?

Việc đổ vỡ trật tự cũ tất yếu sản sinh cơ cấu quyền lực mới, Nga, Trung Quốc và Iran là một trong những liên minh mới hình thành.

Thấy gì từ liên minh tam giác chiến lược Nga -Trung Quốc - Iran? - Ảnh 1.

Nga cần Iran để đối trọng với phương Tây

Trước sức ép của Mỹ và hàng loạt tác động khách quan do sự thay đổi trật tự toàn cầu, người ta đã hình dung về mối liên minh mới giữa các quốc gia đồng quan điểm, chung kẻ thù. Trong đó, mối quan hệ bộ ba Trung Quốc , Nga và Iran nồng ấm lên trông thấy kể từ khi chiến sự Nga- Ukraine xảy ra.

Giới tinh hoa chính trị ở Teheran đã tranh cãi dữ dội về việc nên xuống thang với phương Tây hay ngả về phương Đông. Trong khi người Iran còn lưỡng lự thì nhân tố Trung Quốc xuất hiện từ năm 2010.

Phương pháp cứng rắn của phương Tây, đặc biệt lệnh cấm vận vào năm 2012 không đe nẹt được Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad, người cầm quyền quốc gia Hồi giáo gia đoạn 2005 – 2013. Họ đã chọn Trung Quốc để tìm lối thoát.

Đầu tư từ Trung Quốc vào Iran tăng nhanh chóng, không có đối thủ; thương mại song phương từ con số 0 tăng lên 50 tỷ USD; hàng loạt hợp đồng lịch sử về dầu mỏ, khí đốt, cung cấp vũ khí do Bắc Kinh chủ trì tại quốc gia Trung Đông.

Dưới nhiệm kỳ 8 năm của Tổng thống Hassan Rohani, Iran tái thiết quan hệ với Nga, thực hiện thông qua hợp tác quân sự tại Syria. Tổng thống đương nhiệm Iran Ebrahim Raisi đã tiếp tục khuếch đại động lực này bằng cách nhấn mạnh tới khía cạnh quân sự và an ninh trong quan hệ đối tác của ông với Moscow.

Thấy gì từ liên minh tam giác chiến lược Nga -Trung Quốc - Iran? - Ảnh 2.

Quan hệ Nga – Trung Quốc ngày càng bền chặt

Quan hệ kinh tế Nga – Iran không đáng kể, nhưng hai bên ngày càng nhận ra họ có chung mục tiêu: thoát Mỹ, tự quyết trên thị trường dầu thô và khí đốt. Sau khi bị phương Tây cô lập, Tổng thống Putin càng muốn siết chặt hơn quan hệ với Iran.

Nga muốn tìm kiếm nguồn cung cấp vũ khí cho chiến sự Ukraine; ngược lại Iran dễ dàng tiếp cận nguồn lương thực dồi dào từ Nga. Suy cho cùng đây là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi trước mắt.

Sau chuyến thăm của ông Putin đến Teheran hồi tháng 7, Công ty Dầu mỏ Quốc gia Iran cũng đã ký thỏa thuận với Tập đoàn năng lượng Gazprom của Nga để đầu tư 40 tỷ USD vào ngành công nghiệp khí đốt tự nhiên của Iran. Hai nước cũng vừa lần đầu tiên sử dụng đồng rial và ruble trong thanh toán nhằm “né” các hạn chế tiếp cận hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT.

Những gì Iran và Nga cần thì Trung Quốc có thể đáp ứng – cung cấp cho hai nước này thị trường thương mại khổng lồ, đủ sức đề kháng với lệnh cấm vận của phương Tây. Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để đạt được mục đích lợi ích kinh tế.

Lợi ích đổi lại cho Bắc Kinh là không hề ít. Cường quốc châu Á có quyền tiếp cận nguồn năng lượng hóa thạch khổng lồ từ hai đối tác vốn không còn quyền chọn lựa.

Vị trí địa lý của Iran “quan trọng về mặt chiến lược” đối với Bắc Kinh, đặc biệt là do vị trí địa lý gần Pakistan, nơi Trung Quốc tham gia vào các dự án cơ sở hạ tầng thông qua cái gọi là Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan.

Đặc biệt, eo biển Hormuz ở Iran kiểm soát 1/6 lưu lượng dầu và 1/3 lưu lượng khí hóa lỏng trên thế giới. Vai trò của Trung Quốc ngày tăng ở Iran nói riêng và Trung Đông nói chung sẽ dẫn đến kết cục Washington bị “hất cẳng” ra khỏi khu vực này.

Xét về tương quan song phương, Nga ở “cửa dưới” trong quan hệ với Trung Quốc. Thực chất, Bắc Kinh chỉ đóng vai trò “người bạn tinh thần” với Moscow. Càng kéo dài chiến sự Nga- Ukraine, Tổng thống Putin càng đánh mất vai trò và trở nên bị phụ thuộc vào Trung Quốc.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Võ Văn Ba: Điệp viên hàng đầu của VNCH và CIA ở Nam Việt Nam

Chỉ gần đây mới có tin chính thức về cái chết của Võ Văn Ba, người từng được coi là ‘điệp viên hàng đầu của CIA ở Nam VN’, khi báo chí Hà Nội gọi đây là ‘tên nội gián nguy hiểm’, bí số X92, Frank Snepp đã biết chắc về cái chết sẽ đến của điệp viên này từ ngày 17/4/1975.

“Lúc ấy tôi biết tính mệnh của Võ Văn Ba đang lâm nguy, và có đủ lý do để tin là một nhân viên CIA biết rõ về nhiệm vụ của ông đã bị phe cộng sản bắt tại Phan Rang, và ngờ rằng khi bị tra tấn, người này sẽ khiến ông bị lộ. Một trong những ác mộng kinh hoàng nhất của tôi trong những ngày cuối cuộc chiến – là người anh hùng này, người đã liều lĩnh làm mọi thứ để hỗ trợ đồng minh – và đảm bảo sự thành công của đợt không vận khẩn cấp cuối cùng đưa nhiều người Việt di tản khỏi VN – có thể đã không sống sót.

Thiếu tá Cảnh sát VNCH Phan Tấn Ngưu, trong một bài viết về Võ Văn Ba trên trang CanhsatQuocgia.org đã gọi ông là “điệp viên giỏi nhất của VNCH, và nhớ lại ông Võ Văn Ba hay nói ‘Nếu cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!’ và đó chính là điều ông đã làm, khi bị bắt giữ chỉ vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ.”

“Giờ đây tôi nhiều lần tự trách là đã không khăng khăng bắt Võ Văn Ba phải cùng mình rời khỏi Việt Nam,” nhà phân tích chính của CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) trong cuộc chiến Việt Nam thổ lộ điều vẫn còn khiến ông bị dằn vặt.

Cùng là gián điệp hai mang, nhưng không như Phạm Xuân Ẩn, cái tên Võ Văn Ba chỉ trong mấy năm nay mới được nhắc đến.

Truyền thông Việt Nam sau 1975 nói ông “chui sâu, leo cao vào nội bộ ta” trong suốt 10 năm và “gây tổn thất đáng kể cho cách mạng” (báo Nhân Dân hồi 2015, và báo Công an Nhân dân về điệp viên X92).

Võ Văn Ba là ai? Ông đã làm gì trong cuộc chiến Việt Nam mà được mệnh danh là điệp viên hàng đầu của CIA, giỏi nhất của VNCH ở Nam Việt Nam?

Trong cuộc phỏng vấn chúng tôi thực hiện cho BBC, Frank Snepp, người từng nhận lệnh của CIA đưa ông Nguyễn Văn Thiệu ra sân bay để rời VN tháng 4/1975, nói điệp viên Võ Văn Ba là một trong những lý do ông đang viết thêm một cuốn sách nữa về cuộc chiến cho đến giờ vẫn còn ám ảnh tâm trí ông.

Frank Snepp: Võ Văn Ba là một người yêu nước, được CIA đặt cho biệt hiệu ‘TU Hackle’ và là điệp viên giỏi nhất của CIA hoạt động trong lòng địch.

Ông từng là một đảng viên cộng sản tận tụy vào cuối thập niên 1940, chuyên tuyển mộ thành viên trẻ tại một tỉnh phía nam Sài Gòn. Ông làm việc với Việt Minh, rồi trở thành một kẻ khủng bố, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng khủng bố không phải là cách thu phục trái tim con người. Chán ngán việc phe cộng sản dùng giết chóc và đe dọa như một chiến thuật chiêu mộ, Võ Văn Ba rời bỏ hàng ngũ.

Tạm biệt chủ nghĩa cộng sản năm 1954 vào thời điểm Hiệp định Geneva, Võ Văn Ba trở thành người đốn cây trồng rẫy, và dọn về tỉnh Tây Ninh, phía tây bắc Sài Gòn. Tây Ninh là một tỉnh quan trọng, vì đó là địa bàn hoạt động của Trung ương Cục Miền Nam, từ một hang ở Núi Bà Đen.

Khi cán bộ Bắc Việt đi qua rẫy của Võ Văn Ba ở chân đồi, ngay bên dưới căn cứ chỉ huy Trung Ương Cục để tham dự các cuộc họp, ông dần dà quen biết họ. Cảnh sát VNCH trong khu vực này, biết lý lịch của Võ Văn Ba, nhận ra ông ở một vị trí lý tưởng. Họ tìm đến ông và nói: chúng tôi muốn ông giúp chúng tôi theo dõi cộng sản, và Võ Văn Ba trở thành gián điệp nhị trùng năm 1960.

Thoạt đầu Võ Văn Ba hợp tác với cảnh sát VNCH. Ông nhanh chóng là một điệp viên hiệu quả, làm việc với cấp chỉ huy cộng sản. Võ Văn Ba đóng vai người cộng sản lầm đường muốn trở lại Đảng, và mới đầu chỉ được tiếp cận với vòng ngoài của Trung ương Cục Miền Nam, nhưng sau đó đi hẳn vào trung tâm của Cục. Nhờ vậy, ông thu thập được mọi động tĩnh từ cơ quan này, biết hết các điệp viên hai mang của họ, và những điều họ đang làm.

Năm 1965, CIA bắt đầu đưa Võ Văn Ba vào quỹ đạo của mình sau khi nhận thấy ông là một nguồn tin có giá trị. Ông từ đó làm việc cho cả An ninh Cảnh sát VNCH lẫn CIA.

Năm 1968, Võ Văn Ba báo trước cho cảnh sát VNCH năm ngày về cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Thông tin tương tự đến được Đại sứ quán Hoa Kỳ, người Mỹ không đánh giá cao tin này lắm, nhưng cảnh sát VNCH thì có. Và đó là lý do tại sao khi lực lượng cộng sản tấn công Sài Gòn vào Tết Mậu Thân 1968, cảnh sát VNCH đã chuẩn bị trước và có mặt để đối phó.

BBC: Ông có thể kể lại kinh nghiệm làm việc với Võ Văn Ba?

Frank Snepp: Năm 1969, tôi đến VN làm chuyên viên phân tích cho CIA. Một trong những điều đầu tiên tôi phải làm là phân tích tài liệu chúng tôi vừa tịch thu được, một tài liệu của Cộng sản quan trọng nhất mà chúng tôi từng có.

Tài liệu đó là Nghị quyết 9, phân tích của Bắc Việt về những gì xảy ra năm 1968, cũng như hoạt động quân sự sau đó. Bắc Việt nhận định rằng quá nhiều quân sĩ của họ đã tử trận, nhiều đến mức họ dự trù phải thúc thủ trong vòng hai năm. Nói cách khác, họ không thể có cuộc tấn công lớn nào nữa. Khi CIA tịch thu được toàn bộ tài liệu này, tôi được giao nhiệm vụ cùng với ba hoặc bốn đồng nghiệp, cũng thuộc CIA, phải tìm hiểu xem tài liệu có xác thực hay không.

Chúng tôi nghĩ tài liệu đó thật, nhưng không chắc 100%. Làm thế nào để xác định được là tài liệu đó có giúp chúng tôi biết ý định sự thật của phía cộng sản không rất quan trọng, vì chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, chính sách mới của Nixon về việc rút lực lượng Mỹ và đưa lực lượng Việt Nam lên tuyến đầu, chỉ mới bắt đầu. Nếu tài liệu này đúng, có nghĩa là trong thời gian hai năm, khi Cộng sản không thể hoạt động mạnh trên chiến trường, chúng tôi sẽ rảnh tay thực hiện chính sách Việt Nam hóa.

Chúng tôi gặp Võ Văn Ba và được Võ Văn Ba xác nhận đó là tài liệu đúng. Đó là một đột phá tình báo lớn. Tôi biết Võ Văn Ba trong hoàn cảnh đó. Trong vòng hai năm, tôi bắt đầu gặp trực tiếp ông ta, không phải vì tôi giỏi, không phải vì tôi nói được tiếng Việt, tôi luôn phải có thông dịch viên khi làm việc với Võ Văn Ba, nhưng vì tôi đã nắm sẵn được nhiều bí mật. Là một nhà phân tích của CIA, tôi được truy cập vào những bí mật quan trọng và bạn phải biết bí mật thì mới có thêm được bí mật. Vì vậy CIA cử tôi đến nói chuyện với nhiều nguồn tin, trong đó có Võ Văn Ba, để lấy tin và xác minh xem những gì chúng tôi nhận được có chính xác không.

Tôi bị Võ Văn Ba mê hoặc. Ông có trí nhớ phi thường, có thể xem một tài liệu và nhớ nguyên văn mọi thứ cần nhớ về tài liệu đó. Không cần phải cầm tài liệu trong tay, chỉ cần đọc nó một lần, ông sẽ có thể mang tài liệu đó đến cho chúng tôi trong đầu của ông.

CIA huấn luyện cho ông tất cả những kỹ thuật căn bản trong nghề tình báo.

Phải nói rõ là Võ Văn Ba có người phụ trách trực tiếp tức ‘handler’ là Cảnh sát Đặc biệt của VNCH. Ông cũng có một ”handler” khác là một nhân viên CIA người Mỹ ở Tây Ninh. Nhưng người Mỹ này không thể trực tiếp gặp ông, bởi nếu Cộng sản nhìn thấy ông với một người da trắng, họ sẽ nghi ngờ.

Vì vậy, để gặp ‘handler’ người Mỹ, Võ Văn Ba phải vào một bệnh viện ở Tây Ninh, trèo lên một băng ca, kéo tấm trải giường lên người, giả như người đã chết. Sau đó, các nhân viên phụ trách người Việt của ông sẽ chuyển băng ca ra ngoài, đưa lên máy bay. Máy bay sẽ đưa Võ Văn Ba vào Sài Gòn nơi ông cải trang để gặp tôi hoặc một người Mỹ khác. Ông sẽ mặc áo dài nam hay đội bộ tóc giả lớn khiến ông trông giống một phụ nữ và đeo cặp kính đen khổng lồ giống như Greta Garbo, rồi đến gặp chúng tôi tại một nơi an toàn.

BBC:Ngoài trí nhớ phi thường như ông nói, Võ Văn Ba là người như thế nào và có đặc điểm gì, thưa ông?

Frank Snepp: Võ Văn Ba có hai nhược điểm. Một là rất thích bia Budweiser. Ông được bảo là người Mỹ thả bia Budweiser dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để làm chậm tiến độ xâm nhập của Bắc Việt, vì đang di chuyển họ phải dừng lại uống bia (cười). Chẳng biết điều đó có đúng không, tôi cho rằng đó là sự thật, dù không bao giờ kiểm chứng được. Dẫu sao Võ Văn Ba rất mê Budweiser.

Nhược điểm thứ hai là rất thích thuốc Salem. Nghe nói ông Hồ Chí Minh cũng mê thuốc lá Salem, và thường bỏ thuốc Bastos hoặc thuốc lá Việt Nam trong túi áo, và mời những thứ này cho các đồng chí. Nhưng khi muốn hưởng chút lạc thú, ông sẽ lấy Salem ra hút. Vì vậy, Võ Văn Ba, người thích trò trớ trêu, luôn đòi chúng tôi cung cấp bia Budweiser và thuốc Salem trước khi trao cho chúng tôi những bí mật.

Và những bí mật ông có được thì thật tuyệt vời. Toàn những tin từ nội bộ. Ông được hàng ngũ cộng sản tín nhiệm đến nỗi được tham gia các cuộc họp bên trong Bộ chỉ huy ở Núi Bà Đen.

Võ Văn Ba ở vào vị trí lý tưởng để giúp chúng tôi, và để giúp ông đóng được vai trò một thành viên Cộng sản tốt, CIA và Cảnh sát Đặc biệt VNCH dàn dựng nhiều việc. Chúng tôi tấn công vào các trạm kiểm soát của cảnh sát VNCH, tất cả đều là giả, và sau đó loan tin là phe cộng sản đã làm điều đó, dĩ nhiên Võ Văn Ba kiếm được điểm, vì vậy, tín nhiệm của ông ngày càng tăng trong giới chỉ huy Bắc Việt. Họ cho rằng ông đã thi hành tất cả những điệp vụ kinh tởm cho họ, trong khi thực sự ông làm việc cho chúng tôi.

BBC: Những tường trình của Võ Văn Ba đã giúp công việc của ông ra sao?

Frank Snepp: Tôi dần dà ủng hộ tuyệt đối những tường trình của Võ Văn Ba. Lúc trở về trụ sở CIA ở Mỹ vào năm 1971, tôi là thành viên của một đơn vị phân tích lớn, chuyên viết bản tường trình hàng ngày (Daily Brief) cho Tổng thống. Tôi quảng bá báo cáo của Võ Văn Ba, vì là một trong số ít người trong ban phân tích của CIA đã gặp được ông, và vì tôi biết ông là vàng ròng.

Năm 1972, chúng tôi bắt đầu nhận được báo cáo lạ của Võ Văn Ba. Lạ vì nó cho thấy Cộng sản đang làm một điều mà chúng tôi không bao giờ nghĩ họ sẽ làm. Họ cho cán bộ biết là có thể sẽ có một hiệp định hòa bình mà không cần phải có điều kiện họ luôn coi là tiên quyết, đó là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Tôi sửng sốt khi đọc điều đó, vì tôi biết Võ Văn Ba là người đáng tin.

Tôi viết ngay bản tường trình hàng ngày cho tổng thống nói rằng tôi nghĩ một hiệp định hòa bình đang trong quá trình được thực hiện. Lúc ấy Henry Kissinger đang bí mật đàm phán ở Paris, nhưng không nói cho ai biết mình đang làm gì. Báo cáo của Võ Văn Ba là dấu hiệu đầu tiên cho chúng tôi thấy đã có bước đột phá trong cuộc đàm phán bí mật ở Paris giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. CIA, dù ít nhất là ở cấp của tôi, không ai biết gì về điều này. Vì vậy, chúng tôi đã được điệp viên giỏi nhất của mình báo về tiến trình các cuộc đàm phán tại Paris.

Sau đó tôi lại được cử về Sài Gòn vào mùa thu năm 1972 để thẩm vấn một tù binh Bắc Việt giỏi nhất mà chúng tôi bắt được. Vào tháng 10/1972, khi tôi đã có mặt ở Sài Gòn, chúng tôi nhận được một báo cáo hết sức sửng sốt của Võ Văn Ba. Báo cáo cho biết Kissinger đã có một thỏa thuận khủng khiếp với phe cộng sản, cho phép Bắc Việt giữ lực lượng của họ ở miền Nam.

Bản báo cáo của Võ Văn Ba không chỉ đến Tòa Đại sứ, mà còn đến tay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khiến ông Thiệu vào tháng 10/1972 phản ứng mãnh liệt, hỏi chuyện gì đang xảy ra, Kissinger đang làm gì? Ông Thiệu nhất quyết phản đối, nói sẽ không chấp nhận thỏa thuận mà Kissinger đang đàm phán dù đó là thỏa thuận gì, vì ông không được tham dự vào việc thương lượng. Khi ông Thiệu nhất quyết phản đối thì đến phiên Bắc Việt hỏi chuyện gì đang xảy ra, người Mỹ chắc đang lừa chúng ta.

Khi thấy thỏa thuận có nguy cơ bị hỏng, vì Võ Văn Ba đã cho chúng tôi biết sự thật, Nixon quyết định dội bom Bắc Việt để chứng minh với ông Thiệu rằng Mỹ vẫn đứng về phía ông, và cũng để làm cho Bắc Việt phải tiếp tục thương lượng, và họ đã trở lại đàm phán.

Võ Văn Ba đã cung cấp cho tổng thống VNCH thông tin đầu tiên về những gì Kissinger đang làm, và quan trọng nhất là quyết định cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam của Kissinger.

BBC: Ông có tiếp xúc với Võ Văn Ba thường xuyên không?

Frank Snepp: Trong thời kỳ ngừng bắn 1973 đến 1975, tôi thỉnh thoảng gặp ông để biết những kế hoạch mới nhất của cộng sản. Tôi cũng được trao một trọng trách mới, là giúp quản lý một đặc vụ mà chúng tôi đang có ở Hà Nội. Phải nói rõ rằng người phụ trách Võ Văn Ba là một nhân viên CIA khác rất giỏi, nhưng tôi được cử đến gặp ông định kỳ để kiểm chứng những phát hiện của ông với nguồn trực tiếp của chúng tôi ở Hà Nội. Tôi không giỏi gì, nhưng chỉ vì tình cờ mà tôi được liên lạc trực tiếp với điệp viên giỏi nhất của CIA và có dịp kiểm chứng những tin những điệp viên gửi về.

Khi Nixon từ chức, Võ Văn Ba cho chúng tôi những dấu chỉ đầu tiên về những gì Cộng sản sẽ làm vào cuối năm 1974. Ông nói Bắc Việt sẽ thử nghiệm để xem khả năng phòng thủ của VNCH lúc ấy yếu đến độ nào.

Ngày 8/4/1975, Võ Văn Ba cho chúng tôi báo cáo đầu tiên về những gì phe cộng sản sẽ làm để dứt điểm cuộc chiến. Tôi không được tin này trực tiếp, mà nhận qua người ‘handler” của ông. Tôi gửi ngay yêu cầu cho Võ Văn Ba thông qua người Mỹ này để hỏi thêm.

Sau đó, ngày 17/4, tôi trực tiếp gặp Võ Văn Ba và nhận được toàn bộ kế hoạch kết thúc chiến tranh của Cộng sản: Sẽ không có thỏa thuận nào, ông Thiệu từ chức hay không không thành vấn đề, cũng không thành vấn đề nếu chúng tôi muốn thành lập một chính phủ liên hiệp, Cộng sản nhất quyết tiến chiếm Sài Gòn kịp sinh nhật Hồ Chí Minh vào giữa tháng 5, và sẽ tấn công trước ngày 1/5, đúng y như những gì đã xảy ra.

Tin đó khiến các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã bị sốc mà phải tức thời lập chương trình cho những chuyến trực thăng khẩn cấp đưa người di tản. Vì vậy, với những ai đã được đưa ra khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Võ Văn Ba là người đã cứu họ…

PHẦN 2: FRANK SNEPP SO SÁNH ĐIỆP VIÊN CIA VÕ VĂN BA VÀ TÌNH BÁO CS PHẠM XUÂN ẨN.

Cùng là gián điệp nhị trùng, nhưng không như Phạm Xuân Ẩn, cái tên Võ Văn Ba chỉ trong mấy năm nay mới được nhắc đến.

Truyền thông Việt Nam sau 1975 nói ông “chui sâu, leo cao vào nội bộ ta” trong suốt 10 năm và “gây tổn thất đáng kể cho cách mạng”.

Võ Văn Ba là ai và số phận ông ta ra sao sau 30/04/1975 khi lực lượng chính quy của Bắc VN tiến vào Sài Gòn, xóa sổ chế độ VNCH.

Trong cuộc phỏng vấn chúng tôi thực hiện cho BBC, Frank Snepp, nhà phân tích chính của CIA trong chiến tranh VN, kể những gì ông biết về Võ Văn Ba, nêu ra ý kiến cá nhân về điệp viên này và chia sẻ những gì ông tin là ông biết được thêm sau 1975.

Frank Snepp: Theo thông tin mà chính Cộng sản đưa ra sau đó, Võ Văn Ba bị một nhân viên CIA, một người Mỹ bị bắt hai tuần trước khi cuộc chiến kết thúc làm lộ. Theo bản dựng lại vụ án của Cộng sản, được công bố sau chiến tranh, nhân viên CIA này, khi bị tra tấn đã khai ra Võ Văn Ba. Ngoài ra, hành tung của Võ Văn Ba cũng bị một thông dịch viên người Việt tiết lộ. Đây là người từng làm việc với Võ Văn Ba, người này bị bắt, tôi nhớ là ở Ban Mê Thuật. Tóm lại, hai cá nhân liên quan đến CIA, khi bị tra tấn đã khai ra vai trò của ông.

Khi tôi gặp Võ Văn Ba hôm 17/4, mạng sống của ông đang bị nguy hiểm nghiêm trọng, vì trong vòng vài ngày đó ông có lẽ đã gặp những người đã bị bắt, trong đó có một số người Mỹ. Khi Sài Gòn thất thủ, Võ Văn Ba chưa di tản. Với thông tin thu thập được từ các tù nhân, phe cộng sản bắt giam ông, và họ công bố trong các phân tích thời hậu chiến là ông đã dùng thắt lưng treo cổ tự tử để khỏi bị tra tấn. Vợ ông bán hoa ở Tây Ninh dường như không bị sát hại, và tôi tin là con trai của Võ Văn Ba cũng không bị cộng sản bắt bớ, mặc dù điều này không rõ ràng.

Với tôi, Võ Văn Ba là một người hùng, một người thực sự yêu nước. Ông là một Nathan Hale (1755-1776, sĩ quan, nhà hoạt động tình báo thời cuộc chiến Cách mạng Mỹ) của miền Nam Việt Nam, và cho đến gần đây, khi Bắc Việt công bố những tài liệu riêng của họ, công chúng vẫn biết rất ít về ông. Tôi đã viết về Võ Văn Ba trong cuốn Decent Interval, nhưng lúc ấy tôi rất cẩn thận, không tiết lộ bất kỳ chi tiết nào, không công bố danh tính hay thông tin xác định nào ngoại trừ việc nói rằng ông ở tỉnh Tây Ninh và là điệp viên tốt nhất của CIA. Lý do là khi viết sách, tôi không biết chắc số phận Võ Văn Ba lúc đó ra sao.

BBC: Có phải Võ Văn Ba là một trong những lý do khiến ông viết thêm một cuốn sách nữa về cuộc chiến Việt Nam. Ông biết tin Võ Văn Ba treo cổ tự tử vào lúc nào?

Frank Snepp: Kể chuyện Võ Văn Ba, tôi hy vọng sẽ tạo chất xúc tác để những người Việt tị nạn và người Việt sống ở hải ngoại tôn vinh người đàn ông này. Ông là một người miền Nam yêu nước một cách phi thường, nhưng chưa ai biết nhiều về ông, ít nhất là cho đến nay.

Tôi chỉ biết tin Võ Văn Ba chết khi an ninh Việt Nam ở Hà Nội công bố tài liệu của họ về vụ án. Trong bốn năm qua, Hà Nội đã công bố gần như tất cả những khám phá của họ về ông. Họ đã kiểm tra lời khai của tù nhân, thu giữ tài liệu và tổng hợp lại những chiến dịch mà họ cho là đã gây tổn hại cùng cực, và kết luận Võ Văn Ba là điệp viên nguy hiểm nhất từng hoạt động chống cách mạng. Họ xác nhận những gì tôi biết, đó là việc ông đã tiết lộ các tài liệu về kế hoạch và thiết kế quan trọng của Cộng sản từ năm 1965 đến khi kết thúc chiến tranh. Ông đã cung cấp hết cho CIA, vấn đề là CIA không phải lúc nào cũng tin ông.

BBC: Ông Phan Tấn Ngưu, người phụ trách liên lạc với Võ Văn Ba từ phía VNCH, viết là CIA có lúc không tin Võ Văn Ba là vì ông gặp vấn đề bị thử bằng máy phát hiện nói dối (lie detector test). Điều đó đúng không?

Frank Snepp: Vào năm 1971, có nghi ngờ rằng Võ Văn Ba là gián điệp nhị trùng hoạt động cho Cộng sản. Tôi đã có cuộc gặp kéo dài ba ngày với ông và xem qua tất cả những gì chúng tôi biết về ông, cùng với ông Phan Tấn Ngưu, sĩ quan cảnh sát của VNCH, ”handler” của Võ Văn Ba, hiện đang sống ở Quận Cam (California) và cũng là người đã công bố những gì ông biết về Võ Văn Ba kể cả việc chúng tôi đã gặp nhau.

Vào đầu năm 1971, tôi đã có thể xác minh rằng Võ Văn Ba đúng là những gì ông đã tuyên bố. Điều gây nghi ngờ là Võ Văn Ba đã đưa một số báo cáo cho các cơ quan tình báo khác của VNCH, như Phủ Đặc ủy Tình báo Trung ương và có thể cả cho cơ quan an ninh quân đội. Võ Văn Ba làm như vậy vì họ trả ông một ít tiền.

Ông cung cấp cho chúng tôi những bí mật chính, nhưng cũng kiếm thêm tiền bên ngoài. Và vì vậy, khi làm ‘lie detector test’, đồ thị của ông có những vết nhấp nhô. Ông cũng không nói với chúng tôi rằng ông trao một số bí mật cho những cơ quan đồng minh để kiếm thêm chút tiền. Đó là nguồn gốc những nghi vấn về ông. Nhưng những nghi ngờ này phần lớn đã được giải tỏa, chủ yếu là qua cuộc gặp gỡ ba ngày của tôi với ông ấy vào năm 1971.

BBC: Ông có thể so sánh Võ Văn Ba với Phạm Xuân Ẩn, điệp nổi tiếng hoạt động cho phe cộng sản Bắc Việt cũng trong cuộc chiến VN?

Frank Snepp: Phạm Xuân Ẩn nói chung là một hacker. Ông ta làm việc chống lại mục tiêu mềm yếu nhất ở miền Nam Việt Nam, đó là giới báo chí. Ông Ẩn thu thập những thông tin có giá trị mà báo chí lấy được từ Đại sứ quán Hoa Kỳ, và chuyển nó cho Bắc Việt.

Nhưng so sánh Phạm Xuân Ẩn với Võ Văn Ba, thì xin đừng làm thế. Võ Văn Ba là thứ thiệt. Ông như nhân vật trong phim James Bond. Võ Văn Ba nằm ở ngay Trung ương Cục Miền Nam của phe cộng sản, đầu não chính của họ ở miền Nam, giống như một điệp viên nằm ngay trong Lầu Năm Góc. So với Võ Văn Ba, Phạm Xuân Ẩn không là gì cả. Ý tôi là, Phạm Xuân Ẩn được ca tụng vì giới báo chí Mỹ kinh ngạc không thể tin được là họ đã bị ông ấy lừa. Vậy à? Nhưng, việc đưa ra đề xuất so sánh hai người, tôi nghĩ, là một xúc phạm với Võ Văn Ba. Thật đấy. Không phải là tôi muốn hạ giá trị Phạm Xuân Ẩn. Tôi biết ông ta là một điệp viên thông minh, nhưng xét về tầm cỡ, ông ấy không thể so với vai trò của Võ Văn Ba.

BBC:Theo ông, Võ Văn Ba đã có những thành tích gì đáng ghi nhớ?

Frank Snepp: Võ Văn Ba cho Nguyễn Văn Thiệu dấu chỉ đầu tiên là Henry Kissinger đang đánh lừa miền Nam Việt Nam. Ông đã cảnh báo cho chúng tôi về Tết Mậu Thân năm 1968 mặc dù Đại sứ quán Hoa Kỳ không công nhận tất cả những điều ông nói. Ông đã giúp chúng tôi chứng thực tài liệu cho thấy phe cộng sản đã chịu những thương vong khủng khiếp vào năm 1968 và sẽ không thể tiếp tục chiến đấu với mức độ ác liệt như cũ. Điều đó giúp chúng tôi khởi động chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Ông đã cho chúng tôi biết phản ứng đầu tiên của phe cộng sản về việc Tổng thống Nixon từ chức vào tháng 8 năm 1974.

Võ Văn Ba báo cho chúng tôi mọi quyết định quan trọng Cộng sản đưa ra. Đây không phải là nhận định của tôi mà là nhận định của chính Bắc Việt. Họ lập một danh sách, nói là Võ Văn Ba đưa cho CIA kế hoạch cho các năm 1969, 1970, cuộc tấn công lễ Phục sinh… Võ Văn Ba cung cấp tất cả thông tin về kế hoạch ngừng bắn của họ. Bạn không cần tin tôi, mà hãy đọc những phân tích của họ, những phân tích của chính phe địch.

Ngay Bắc Việt cũng phải công nhận là Võ Văn Ba qua mặt được họ là điều rất phi thường. Đại sứ Graham Martin dần dà cũng quý mến Võ Văn Ba, vì ông cho rằng thành công của Võ Văn Ba cho thấy phe cộng sản cũng dễ bị tổn thương và có điểm yếu kém, có lỗ hổng. Vì vậy, khi Đại sứ Martin cuối cùng quyết định không tin vào cảnh báo của Võ Văn Ba là sẽ không có thỏa thuận, điều đó làm tôi sửng sốt, vì ông đã từng tin rằng điệp viên này giỏi nhất trong số những người giỏi nhất.

Việc Đại sứ Martin và xếp CIA Polgar giảm tầm quan trọng của những gì Võ Văn Ba cảnh báo làm tôi kinh ngạc. Nhưng những điều Võ Văn Ba nói với chúng tôi hôm 17/4, cuối cùng cũng đã được gửi về cho tổng thống trong bản tóm tắt hàng ngày, và nhờ đó đã thúc đẩy ngay kế hoạch cho trực thăng bốc người, giúp nhiều người trong chúng ta vượt thoát.

Tóm lại, chúng ta không thể kể về Chiến tranh Việt Nam mà không nhắc đến thành tích của Võ Văn Ba. Lịch sử chiến tranh Việt Nam đã được kể lại nhiều lần, nhưng không mấy ai có thông tin về Võ Văn Ba, ngoại trừ những gì tôi viết trong cuốn hồi ký ban đầu, nhưng cũng không dám viết gì nhiều như bây giờ.

Giờ đây tôi đã viết về Võ Văn Ba, và đến nhiều viện bảo tàng và viện nghiên cứu khác nhau để nói rằng, quý vị phải cập nhận tài liệu của quý vị về chiến tranh Việt Nam, phải kể về một số đóng góp của người đàn ông này, bởi vì những gì Võ Văn Ba báo với chúng tôi đều là tin chính xác vào những thời điểm quan trọng. Và lịch sử phải ghi rõ những gì chúng ta biết, những gì không biết, những tin chúng ta đã vì đó có hành động thích hợp, và những tin chúng ta đã phớt lờ. Phải làm thế, vì sự thật là điều then chốt của lịch sử.

Tác giả: Tina Hà Giang p/v Frank Snepp /Theo BBC