Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình
Tại quần đảo này, có rất nhiều ngôi nhà được xây dựng trên những hòn đảo biệt lập để làm nơi nghỉ dưỡng lý tưởng.

Trên thế giới có rất nhiều hòn đảo được mệnh danh là “thiên đường”. Trong đó, Thousand Islands dù không phải nơi được mệnh danh là “thiên đường” nhưng lại gây thương nhớ bởi khung cảnh thiên nhiên bao phủ tuyệt đẹp.

Nằm giữa vùng biên giới của Mỹ và Canada, quần đảo này bao gồm 1.864 hòn đảo trải dài khoảng 80km, khởi nguồn từ phía Đông Bắc hồ Ontario dọc theo con sông Saint Lawrence.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 1.

Quần đảo Thousand Islands với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ

Để được coi là một hòn đảo trong Thousand Islands, diện tích nổi trên nước ít nhất phải ở mức 0,1 mét vuông, nổi trên nước quanh năm và có ít nhất một cái cây sống. Trong số hơn một ngàn hòn đảo này, có những nơi rộng cỡ 64 km vuông nhưng cũng có những hòn đảo nhỏ chỉ đủ để xây lên cho một ngôi nhà duy nhất.

Tại quần đảo này, Heart Island được xem là trái tim của ngàn đảo, nơi lưu giữ những câu chuyện tình lãng mạn. Bên cạnh đó, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn của quần đảo này vào mùa thu khi lá xanh bắt đầu chuyển vàng, hòa quyện cùng làn nước trong xanh khiến hòn đảo này tựa như chốn thần tiên trong truyện cổ tích.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 2.

Khung cảnh đẹp đến nao lòng tại Thousand Islands vào mùa thu

Ngoài ra, nơi đây cũng nổi tiếng với cây cầu dài 1,5km nối hai nước Mỹ – Canada bắc ngang qua Thousand Islands. Cây cầu này được xây dựng từ năm 1938, là nơi chứng kiến nhiều biến cố lịch sử thế giới. Khi du khách đứng trên cầu, cũng có thể phóng tầm mắt để thưởng thức phong cảnh toàn thể Thousand Islands mà không hề bị ngăn cản bởi hai chữ “biên giới”.

Nhờ phong cảnh đẹp cùng sự riêng tư tuyệt đối tại đây, nhiều hòn đảo đã được chọn làm nơi sinh sống và nghỉ dưỡng của nhiều người. Ngoài những ngôi nhà đơn, nhà đôi thông thường, có những hòn đảo với diện tích lớn còn được xây dựng tòa lâu đài bên trên với hàng cây bao xung quanh.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 3.
Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 4.

Những ngôi nhà đơn…

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 5.

và thậm chí là lâu đài được xây dựng trên các hòn đảo riêng biệt.

Được biết, phương tiện đi lại giữa các hòn đảo và đất liền chủ yếu bằng tàu thuyền. Tất nhiên, hầu hết các hòn đảo này đều có điện được cung cấp năng lượng từ cối xay gió và thủy điện. Dịch vụ điện thoại cũng hoàn toàn ổn nhờ đường dây được nối bằng dây cáp dưới xuyên từ hòn đảo này sang hòn đảo khác.

Khoảng 20 hòn đảo trong số những hòn đảo này đã tạo nên Công viên Quốc gia Thousand Islands, công viên quốc gia lâu đời nhất Canada nằm ở phía đông của dãy núi Rocky.

Sự riêng tư mà những hòn đảo này cung cấp là điều mà hầu hết nhiều nơi nghỉ dưỡng trên thế giới không thể có được. Đây cũng được đánh giá là nơi yên bình và lý tưởng nhất để tránh xa phố thị ồn ã và tận hưởng sự an nhiên.

Quần đảo đặc biệt mỗi cư dân đều sở hữu hẳn một hòn đảo cho riêng mình - Ảnh 6.

Với đầy đủ dịch vụ tiện nghi, đây được đánh giá là nơi nghỉ dưỡng vô cùng lý tưởng tại Canada

Nguồn: Buzz Feed /Shoha VN

Nhà thơ Thế Lữ gửi gắm gì trong tâm sự con hổ nhớ rừng?


(Kỷ niệm 90 năm Phong trào Thơ mới, 1932-2022)

 Nhà thơ Thế Lữ viết bài thơ ‘Nhớ rừng’ nói lên tâm sự một con hổ trong vườn bách thú vào năm 1935, mà đến nay vẫn khiến độc giả luận bàn. Điều đặc biệt là dù có thể quên 46 câu của tác phẩm này, thì người đời sau, cũng không thể quên một câu, ấy là “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”. Câu thơ sẽ trở thành câu cửa miệng cho những ai rơi vào bi kịch hết thời…

Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989) nổi tiếng trong cả văn chương lẫn sân khấu. Thế nhưng, nhắc đến nhà thơ Thế Lữ là công chúng nghĩ ngay đến bài thơ “Nhớ rừng”. Nhà thơ Thế Lữ đã gửi gắm điều gì vào “lời con hổ ở vườn bách thú” mà bao nhiêu thập niên trôi qua, vẫn còn dư âm trong lòng nhiều thế hệ?

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi

Với khi thét khúc trường ca dữ dội

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng

Vờn bóng âm thâm, lá gai, cỏ sắc

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc

Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Ta biết ta chúa tể muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cay xanh nắng gội

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng

Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém

Dăm vầng lá hiền lành không bí hiểm

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Nơi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa

Nơi ta không còn được thấy bao giờ

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi

Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi”.

Nhớ rừng” chính là lời con hổ ở vườn bách thú của Thế Lữ. Chính vì có ý ấy, mà mở đầu “Nhớ rừng”, Thế Lữ mới dùng “Lời con hổ ở vườn bách thú” làm đề từ, làm lời dẫn cho bài thơ của mình.

Nhà thơ Thế Lữ (1907-1989)

Đây là bài thơ hay vào bậc nhất của Thế Lữ và là bài mở đầu của một thời đại trong thi ca trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh- Hoài Chân. Và sau rất nhiều năm, năm 2005, Nhà xuất bản Giáo dục lại chọn “Nhớ rừng” vào Tuyển thơ Việt Nam thế kỷ 20.

Trong phần giới thiệu về Thế Lữ, Hoài Thanh viết: “Chính tên là Nguyễn Thứ Lễ. Sinh tháng 10 năm Đinh Mùi (1907). Nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ thấy người nói là Thái Hà Ấp Hà Nội, còn thi sĩ thì cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi xuống Hải Phòng. Học đến năm thứ ba ban thành chung thì bỏ để theo sở thích riêng. Sau đó lên Hà Nội học trường mỹ thuật, nhưng lại thôi ngay. Bắt đầu viết từ hồi này. Được ít lâu bị đau lại về Hải Phòng tĩnh dưỡng. Những ý thơ và đôi bài thơ đầu tiên, như bài Lựa tiếng đàn, nẩy ra trong lúc này. Có chân trong Tự lực văn đoàn và trong tòa soạn các báo: Phong hóa, Ngày nay, Tinh hoa. Đã xuất bản: Mấy vần thơ (1935, Đời nay, Hà Nội, 1941)”.

Cũng trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài Chân đánh giá rất cao Thế Lữ: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vừng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ sở này…Bởi không có gì khiến người ta tin thơ mới hơn là đọc những bài thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh…Thơ Thế Lữ là nơi hẹn hò của hai nguồn thi cảm. Thế Lữ đã băn khoăn trước hai nẻo đường: Nẻo về quá khứ với mơ mòng, nẻo tới tương lai và thực tế”.

Không ngần ngại, Hoài Thanh đã chọn 6 câu trong nhớ rừng: “Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già/ Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi/ Với khi thét khúc trường ca dữ dội/ Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng/ Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng/ Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc” để viết “không ai còn có quyền bĩu môi trước cuộc cách mệnh về thi ca đương nổi dậy.”

Nhiều năm sau, nhà thơ Vũ Quần Phương đã bình “Nhớ rừng” khá tâm đắc: “Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn bách thú. Đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ là một thân hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đạp phá hưng dữ, đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một khối căm hờn, nằm dài trông chờ ngày tháng qua, mặc cho thân thế bị tụt xuông ngang hàng với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói: Con hổ này đã được thuần hóa: “Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi/ Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt phong phú của thơ mới khi dựng lại khung cảnh kì vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm…”

Đấy là nghĩa đen, nghĩa hẹp. Còn về nghĩa bóng, nghĩa rộng…Nhớ rừng chính là bi kịch của những kẻ có sức mạnh, có chí lớn nhưng bị mất tự do, bị giam hãm trong một không gian nhỏ hẹp, không gian nô lệ. Đó cũng là bi kịch của nhiều người dưới thời Pháp thuộc. Nhưng dường như trong cái không gian nô lệ ấy, chúa sơn lâm vẫn không hoàn toàn chịu khuất phục, chính vì thế mà phần cuối của “Nhớ rừng” mới có mấy câu: “Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn/ Để hồn ta phảng phất được gần ngươi/ Hỡi cánh rừng ghê gớm của ta ơi”.

Điều đặc biệt là dù có thể quên 46 câu của tác phẩm này, thì người đời sau, cũng không thể quên một câu, ấy là “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”. Câu thơ sẽ trở thành câu cửa miệng cho những ai rơi vào bi kịch hết thời. Câu thơ này cũng có giá trị tương tự như câu “Cơm áo không đùa với khách thơ” của Xuân Diệu, câu “Mờ trong bóng chiều một đoàn quân thấp thoáng” của Phạm Duy nếu áp dụng vào một tình huống cụ thể khác.

Và nếu trong văn xuôi, Nam Cao để lại trong văn học sử một Chí Phèo ăn vạ, Vũ Trọng Phụng để lại một Xuân tóc đỏ cơ hội, luôn biết xuất hiện đúng nơi, đúng lúc…thì Thế Lữ, Xuân Diệu, Phạm Duy, cũng đã làm được những điều tương tự trong thơ.

Nêu thế để thấy: Thơ để nhớ được một câu, một bài, lại mang giá trị lâu dài trong đời sống, không phải là việc đơn giản.

Đi cùng thời gian, tính đến mùa xuân Nhâm Dần 2022, ít nhất “Nhớ rừng” cũng đã có tuổi thọ gần 90 năm rồi.

ĐẶNG HUY GIANG / Văn Nghệ Sagon

Nhận diện 8 căn bệnh thời đại của người Việt

Những bệnh này đều có ít nhiều trong mỗi chúng ta. Vấn đề cần nhìn nhận cho đúng là nếu biết rèn luyện kềm chế, giữ cho nó dừng lại ở mức nhẹ nhàng thì đó là lẽ tự nhiên thường tình nhưng cứ buông thả để cho nó phát triển thì sẽ bùng nổ” trở thành bệnh hoạn.

Nhận diện 8 căn bệnh thời đại của người Việt

Con người là sinh vật tiến hoá nhất, có khả năng tư duy, diễn đạt biết sáng tạo và sử dụng công cụ lao động, biết cảm thụ cái hay cái đẹp và có mối quan hệ trong cộng đồng ngày càng phong phú và phức tạp. Con người ngay từ buổi sơ khai, sống rất hồn nhiên, trong lành, lương thiện đồng thời cũng đã bộc lộ những mặt xấu, thậm chí rất xấu trong mối quan hệ với đồng loại. Trong quá trình tiến lên cùng với sự hình thành và phát triển xã hội, những mặt tốt và xấu của con người cũng có những biến đổi: biến đổi tích cực và cả những biến đổi tiêu cực.

Những phẩm chất tính cách đó được nảy sinh, lớn dần, được điều chỉnh, xoá bỏ, bổ sung trong bản thể con người đồng thời nó cũng phản ảnh cái sinh hoạt đầy biến động của thế giới bên ngoài. Do đó tính cách con người trong mỗi thời đại đều có những đặc điểm tương ứng.

Trong thời đại ngày nay – thời đại trí tuệ, nhiều phẩm chất tốt của con người xuất hiện và phát triển, nhất là tinh thần đổi mới, ý thức lao động sáng tạo, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đất nước song mặt xấu, mặt tiêu cực cũng nảy sinh, phát triển và cản trở cái thực tiễn xã hội đang vận động của chúng ta. Mặt tốt, mặt anh hùng là chủ yếu, hệ thống truyền thông đại chúng đã nói nhiều, riêng về mặt xấu, những tật xấu thì chúng ta chưa có dịp bàn kỹ, nhất là ở dạng khái quát, tổng kết.

Ở đây, tôi xin phác thảo chân dung những căn bệnh thời đại, mặt trái của giai đoạn lịch sử hiện nay với mong muốn được đông đảo bạn đọc cùng tham gia hoàn thiện với ước mơ được mọi người nỗ lực giúp nhau hạn chế và tiến tới xoá bỏ những gì mà chúng ta đã nhìn thấy.

1. Bệnh cơ hội chủ nghĩa

Đây là căn bệnh của những người không có chính kiến rõ ràng, hay ngả nghiêng, gió chiều nào theo chiều đó, ai mạnh thì theo, thường xuyên tranh thủ lãnh đạo, hành động nhằm mưu cầu lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ, bất chấp đúng hay sai. Họ luôn có ý thức tận dụng mọi cơ hội để tạo uy tín cá nhân gây cảm tình với những người, những cấp có thẩm quyền để dễ dàng được thoả mãn tham vọng cá nhân về chức vụ, lương bổng, phân công công tác phân phối các quyền lợi vật chất – tinh thần. Họ hay gần gũi những người có thần thế, xum xoe, giúp đỡ, kể cả giúp đỡ những việc tầm thường hằng ngày.

Những người mắc bệnh này thường bụng nghĩ một đằng, miệng nói một nẻo; ngồi trong hội nghị nói khác, ra ngoài hành lang nói khác; khi đương chức thì ép mình vào khuôn phép một cách máy móc, thậm chí giả tạo nhưng đến khi về hứa thì buông thả, nói bạt mạng, hành động bạt mạng.

Bệnh cơ hội càng trở nên trầm trọng khi xã hội đang có những bước phát triển nhanh, có nhiều biến động về tổ chức, nhân sự, về cơ chế và hệ thống việc làm. Bệnh này thường xâm nhập vào cán bộ công, nhân viên các cấp có nhiều tham vọng.

2. Bệnh bảo thủ

Bệnh này đang giảm dần nhưng những gì còn lại ở một số người nào đó lại là lực cản lớn lao cho sự phát triển cho công cuộc đổi mới. Đặc biệt những người bảo thủ mà đang nắm giữ những trọng trách ở các cấp, các ngành, các đoàn thể thì sức cản trở của họ tăng lên cấp số nhân. Những người bảo thủ là những người luôn có ý thức duy trì cái cũ không chịu điều chỉnh, thay đổi, bổ sung. Họ thường dị ứng trước những cái mới; ngay cả những cái đã được thử nghiệm thành công, họ cũng rất dè dặt tiếp nhận, ứng dụng. Có những cái sai đã rành rành ra đấy, quần chúng góp ý nhiều nhưng họ vẫn không chịu sửa hoặc đến khi phải sửa thì chỉ sửa nửa vời và sửa ngấm ngầm.

Họ sợ mở rộng dân chủ, tổ chức diễn đàn; ít nghe ngóng, học tập cái hay cái đẹp kể cả những sáng kiến kinh nghiệm đã được đúc kết khẳng định. Việc thẩm định đánh giá con người sự việc (như bầu người lãnh đạo, đề cử người vào những chức danh quản lý, bầu lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, nhận xét cán bộ, nghiệm thu đề tài v.v…) họ đều theo những chuẩn mực cũ. Không ít người có tư tường phục hồi nguyên vẹn những cái đã mất đi trong quá khứ, kể cả những tập tục hủ lậu trái với lương tâm đạo lý và nền văn minh thời đại.

3. Bệnh thực dụng chủ nghĩa

Những người mắc bệnh này thường sống không có lý tưởng, chỉ quan tâm đến những gì mang lại lợi ích thiết thực trước mắt mà ít quan tâm đến toàn diện, lâu dài, nhất là những hoạt động tinh thần, những lợi ích về tư tưởng chính trị. Một số không ít coi tiền là trên hết, là tất cả; lương tâm và đạo lý bao giờ họ cũng đặt xuống dưới. Nhiều vụ xung đột kiện cáo, xâu xé nhau trong gia đình, dòng họ… đều có căn nguyên từ căn bệnh này. Những người này nhìn vấn đề gì cũng méo mó, tầm thường.

Họ ít quan tâm đến quá khứ, đến những giá trị lịch sử; họ cũng chẳng nghĩ mấy đến tương lai. Tầm nghĩ suy của họ ngắn, đơn giản; ít có ước mơ hoài bão, xin đừng nhầm lẫn với những người có đầu óc thực tế, chống tư tưởng hão huyền, càng không nên lẫn lộn với những nhà tư tưởng thực dụng trong trào lưu triết học hiện đại (với không ít yếu tố tích cực) ở phương Tây mà tiêu biểu là Piếc xơ, Jêm, Silơ…

4. Bệnh hám danh, hám địa vị

Kể ra thì ai cũng muốn mình có tiếng tăm tốt, có địa vị trí xứng đáng trong xã hội; thấy những người đã thành danh, có địa vị cao thì ai cũng thèm. Điều đó là lẽ thường tình. Nhưng đến mức mong muốn cuồng nhiệt, dùng thủ đoạn để biến mong muốn thành hiện thực là đã bệnh hoạn rồi.

Trong giai đoạn lịch sử mà nền kinh tế văn hoá xã hội phát triển mạnh, nhiều chức danh hấp dẫn xuất hiện cùng với bao nhiêu quyền lợi và thuận lợi đi kèm, gây sự chú ý đối với mọi người, đặc biệt trong hoàn cảnh dân trí được nâng cao nhất là đối với những người có trình độ, có tài năng. Ngay đối với những người bình thường, hiểu biết còn hạn chế nhưng khi được đề bạt vào chức vụ cao cũng không từ chối và băn khoăn gì,

5. Bệnh nói dối

Đây là bệnh khá phổ biến. Cấp xã báo cáo lên cấp huyện, huyện báo cáo lên tỉnh, tỉnh báo cáo lên Trung ương chẳng mấy khi trung thực. Bao giờ thành tích cũng nhiều lên, thiếu sót ít đi. Khi cần xin kinh phí thì khó khăn bày ra chồng chất; cái gì cũng thiếu, cũng hụt. Khi cấp trên về thì cái tốt phô ra, cái xấu che lại. Nhân viên đi công tác về bao giờ cũng báo cáo theo hướng mình đã làm nhiều, làm có hiệu quả. Về phía lãnh đạo cũng có người thấy được sự thiếu trung thực của cấp dưới nhưng cũng lờ đi, cũng động viên khích lệ để cùng vui vẻ. Dần dần, việc nói dối trở thành quen, không ai thấy xấu hổ, ngượng nghịu nữa.

6. Bệnh đố kỵ, cố chấp

Đây là bệnh của những người hay khó chịu, ghen ghét với những ai có thể hơn mình. Để bụng lâu, có thiên kiến, định kiến lâu đối với những người có sai sót với mình; thiếu hẳn lòng vị tha, sự bao dung độ lượng.

Những người này thường có những biểu hiện nhỏ nhen, sống không được thoáng đãng, hay để ý hay thắc mắc những điều nhỏ nhặt, xử lý trong mọi tình huống, thiếu cao thượng, đẹp đẽ.

7. Bệnh mũ ni che tai, ném đá giấu tay

Những người mắc bệnh này thường có thái độ lảng tránh mọi vấn đề nổi cộm trong cơ quan, đơn vị, địa phương cũng như ngoài xã hội. Họ “chui vào vỏ ốc”, sống vuông vắn, tròn trĩnh. Gặp những cuộc họp có vấn đề cần tranh luận gay gắt, cần đấu tranh phê bình mạnh mẽ thì cáo ốm, xin vắng; nếu bất đắc dĩ phải đi thì chọn một chỗ cuối, kín đáo. ngồi thu lu, im ắng từ đầu đến cuối. Ai trực tiếp hỏi ý kiến thì lắc đầu trả lời là không hay biết chuyện gì hoặc không có suy nghĩ gì.

Khi ở cái thế phải nói thì tiên phát biểu như phản ánh dư luận, nghe người này, người khác. rồi nói lại. Khi trong lòng bức bối muốn phê phán ai thì mượn miệng người này người khác nói giúp.

8. Bệnh ham làm giàu bất chấp ruộng tâm, đạo lý, pháp luật

Thời đại trí tuệ và nền kinh tế thị trường đang mở ra nhiều con đường có thể làm giàu. Mong muốn làm giàu là một khát vọng chính đáng là một động lực mạnh mẽ của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta khuyến khích mọi người làm giàu bằng con đường đúng đắn. Song cái căn bệnh ham làm giàu mà ta nói ở đây là làm giàu bằng mọi giá, bất chấp cả lương tâm, đạo lý và pháp luật. Có kẻ đã làm giàu trên mồ hôi nước mắt và cả xương máu của người khác, từ bỏ cả anh em ruột thịt, thất hiếu với cha mẹ; làm giàu bằng con đường lừa gạt, buôn gian bán lậu. Đặc biệt một số người đã bị sa lưới pháp luật hoặc bị lên án nặng nề nhưng họ vẫn không sám hối, không kiềm chế.

Ngày trước, giàu nhiều khi là cái họa, là xấu; nhưng bây giờ giàu thường được trọng vọng và giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống. Do đó, giàu đang là một hình ảnh có sức quyến rũ mạnh. Song trên thực tế, chỉ có một số ít người là có khả năng làm giàu bằng con đường chân chính. Đó là cơ sở cho bệnh ham làm giàu bằng con đường bất chính nẩy nở và phát triển.

Thực ra những bệnh kể trên đều có ít nhiều trong mỗi chúng ta. Vấn đề cần nhìn nhận cho đúng là nếu biết rèn luyện kềm chế, giữ cho nó dừng lại ở mức nhẹ nhàng thì đó là lẽ tự nhiên thường tình nhưng cứ buông thả để cho nó phát triển thì sẽ bùng nổ” trở thành bệnh hoạn.

Chúng ta cần tích cực quyết tâm hạn chế nó, xoá bỏ nó nhưng phải kiên trì vì nó là bệnh đời, có gốc rễ từ nhiều đời, nay có môi trường mới, nhanh chóng lớn lên và vẫn đang gắn bó với từng cuộc đời, đang là cái sự đời của thế cuộc.

Theo TẦM NHÌN

5 lối tư duy ngược đời nhưng giúp người Do Thái kinh doanh gì cũng “hái ra tiền”: Bản lĩnh đến đâu, thành công đến đó

5 lối tư duy ngược đời nhưng giúp người Do Thái kinh doanh gì cũng “hái ra tiền”: Bản lĩnh đến đâu, thành công đến đó
Dân số người Do Thái chiếm 0.25% dân số thế giới, nhưng số tài sản họ sở hữu chiếm đến 1/3 trên thế giới. Người Do Thái nổi tiếng là người kinh doanh giỏi nhất thế giới và cũng là người giàu nhất thế giới. Rốt cuộc tư duy kiếm tiền của họ có gì khác biệt?

Người Do Thái giỏi nắm bắt mọi cơ hội để kiếm tiền, ngay cả khi cơ hội này chỉ có thể kiếm được 1 đồng đô la, họ cũng không bỏ lỡ. Nếu có 10 đồng đô la, họ sẽ xem xét chia 10 đồng đô la thành 10 cơ hội khác nhau, giống như 10 quả trứng được chia vào 10 chiếc giỏ khác nhau. Người Do Thái không thích đặt cược, vì vậy họ luôn có nhiều cơ hội hơn để kiếm tiền. Nếu bạn muốn làm giàu, bạn hãy học theo lối tư duy làm giàu của họ.

Tom, người đang du học thạc sĩ ở Mỹ cảm thấy thật may mắn khi vô tình gặp được một doanh nhân người Do Thái. Tiếp xúc với nhau trong một thời gian dài, Tom học hỏi được rất nhiều từ người bạn Do Thái. Anh học được 5 tư duy kiếm tiền có vẻ hơi ngược đời nhưng lại vô cùng hợp lý:

1. Đừng dễ dàng từ bỏ mục tiêu, dù người khác nghĩ gì

Đối với người Do Thái, những tích góp dù là nhỏ nhất, vẫn có thể tạo ra tiền bạc. Điều này muốn nói tới việc tiết kiệm cả tiền bạc, và trí tuệ, cống hiến sức lực. Bạn dám trả giá càng nhiều thì bạn càng có thể thu về thành quả tương xứng.

Người Do Thái thường tâm niệm 1 câu rằng: “Bản lĩnh đến đâu, thành công đến mức độ đó. Có gan lớn bao nhiêu, thì dễ giàu bấy nhiêu.”

Nhiều người xuất thân từ gia đình bình thường. Nhưng họ không chấp nhận đi làm công ăn lương với mức lương ổn định mấy năm trời. Họ luôn nỗ lực, tìm cách tự mình lập nghiệp khi tích lũy đủ cả kiến thức và tiền bạc.

5 lối tư duy ngược đời nhưng giúp người Do Thái kinh doanh gì cũng “hái ra tiền”: Bản lĩnh đến đâu, thành công đến đó - Ảnh 1.

Mục tiêu là động lực để người Do Thái sống ngày một tốt hơn. Ảnh: Internet

Giờ đây, người kinh doanh đồ ăn, có người kinh doanh quần áo. Có người làm ông chủ lớn với hàng trăm nhân viên. Nhưng cũng có người chưa thành công với quyết định của mình.

Tuy vậy, họ chưa bao giờ từ bỏ. Vì mục tiêu là động lực để họ sống ngày một tốt hơn!

2. Kiếm tiền từ người giàu, nhưng không phung phí tiền cho đồ xa xỉ

Người Do Thái rất giỏi trong việc kinh doanh. Tuy nhiên, họ bị đánh giá là thực dụng, vì thường không chi trả tiền cho những món hàng xa xỉ phẩm.

Nhưng người bạn Do Thái của Tom chia sẻ, Người Do Thái sẽ từ chối chi tiền để mua những đồ vật không mang lại giá trị nào ngoài sự phù phiếm. Bởi vì họ không cần loại “danh tiếng” như vậy.

Trên đường phố của các thành phố lớn ở Israel, bạn sẽ rất khó tìm được các thương hiệu bán xa xỉ phẩm, thay vào đó đều là những cửa hàng bán sản phẩm mang lại giá trị thiết thực.

Những đứa trẻ Do Thái cũng thường được dạy cách tiêu tiền hiệu quả ngay từ khi còn nhỏ. Chính vì thế, khi lớn lên, nhận thức kiếm tiền của họ rất mạnh mẽ.

3. Trong kinh doanh, lợi nhuận là số 1

Thông thường, giữa những người bạn thân thiết, việc nhờ vả có thể nói là điều bình thường. Nhưng người Do Thái thường cho rằng: Bạn nhờ tôi, bạn cần tôi, đó chính là cơ hội kiếm tiền của tôi.

Tư duy này cũng được áp dụng triệt để vào lĩnh vực kinh doanh. Vì thế, người Do Thái bỏ bớt sự cả nể, trì hoãn mà nhiều người thường phạm phải. Thay vào đó, người Do Thái kinh doanh với “tinh thần thép”, xem lợi ích là hơn hết!

5 lối tư duy ngược đời nhưng giúp người Do Thái kinh doanh gì cũng “hái ra tiền”: Bản lĩnh đến đâu, thành công đến đó - Ảnh 2.

Ảnh minh họa. Ảnh: Internet

4. Không bao giờ giảm giá

Kinh doanh là nghề chính của người Do Thái. Nhưng khác với những người buôn bán khác, họ không thích giảm giá hay khuyến mãi mặt hàng. Thậm chí, nếu khách hàng mặc cả hàng hóa, họ sẵn sàng để bạn đi.

Mỗi món đồ đều đã được định giá rõ ràng, khách hàng nếu cảm thấy phù hợp thì hãy lựa chọn mà đừng bao giờ trả giá. Vì sẽ chẳng bao giờ người Do Thái chịu bán nó cho bạn với giá thấp hơn.

Có thể bạn nghĩ quan điểm này của họ thật cố chấp, không linh hoạt theo thị trường, nhưng người Do Thái lại rất kiên quyết với việc này. Bởi họ tin tưởng vào chất lượng sản phẩm của mình, tin rằng sản phẩm xứng đáng với mức giá đã niêm yết.

Nếu chấp nhận để khách hàng mặc cả và giảm giá, đồng nghĩa với việc họ đang tự hạ thấp giá trị sản phẩm của mình.

5. Đồ đã mua, miễn trả lại

Đối với người Do Thái, một khi đã lựa chọn mua hàng, khách hàng cần chịu trách nhiệm với món hàng họ đã lựa chọn. Nếu khách hàng có băn khoăn gì, hãy kiểm tra sản phẩm ngay tại chỗ. Khi phát hiện ra vấn đề lúc mua hàng, họ nhất định sẽ chịu trách nhiệm về sản phẩm. Còn nếu khách hàng đã mang sản phẩm đi, vậy thì miễn bàn vấn đề đổi trả.

Không phải người Do Thái chối bỏ trách nhiệm với sản phẩm của họ, nhưng điều kiện để họ chịu trách nhiệm là gì, khách hàng phải nắm cho rõ. Thứ đã bán ra, nằm trong tay bạn, thì bạn hãy tự chịu trách nhiệm

Theo Thể thao & Văn hóa

Sau ‘cuộc chầu thánh thể’ tại Bắc kinh của ông Trọng…

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Bắc Kinh, cư dân mạng xã hội ở Việt Nam lo lắng, Hà Nội ngả về Bắc Kinh quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến các mối bang giao khác của Việt Nam.

Với não trạng quan phương bị quy phục, có thể ông Nguyễn Phú Trọng không hay biết rằng, sau khi đạt đến đỉnh cao của quyền lực, Tổng bí thư – Chủ tịch Tập Cận Bình giờ đây cô đơn hơn bao giờ hết.

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Bắc Kinh, cư dân mạng xã hội ở Việt Nam lo lắng, Hà Nội ngả về Bắc Kinh quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến các mối bang giao khác của Việt Nam. Tuy nhiên, so với các triều đại phong kiến xa xưa, giờ đây sau Đại hội 20 ĐCSTQ (chu kỳ 5 năm một lần), thì việc ông Trọng “sang chầu” Bắc Kinh là phải đạo.

Não trạng quan phương bị quy phục

Đối với TBT Nguyễn Phú Trọng, 3 ngày ở Bắc Kinh (30/10 – 1/11) là cả một “cuộc chầu thánh thể” để bày tỏ sự cung kính đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, giống như con chiên bày tỏ lòng trung thành dành cho Chúa Trời. Ông Trọng hẳn cũng biết rằng, bản thân ông Tập Cận Bình vốn chẳng say mê gì chủ nghĩa Mác – Lênin cả. Trong thâm tâm, ông Tập chỉ tôn thờ một thứ chủ nghĩa Mác được Trung Quốc hóa để toàn Đảng của ông kiên trì “tín ngưỡng và lòng tin” vào công cuộc “phục hưng vĩ đại” của Trung Hoa. Đấy chính là tư tưởng Tập Cận Bình – chủ nghĩa Đại Hán trong thế kỷ 21. Cho nên đoạn trích trong Tuyên bố chung, nói rằng, Việt Nam và Trung Quốc “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin” là cả một sự nhượng bộ của Tập Cận Bình đối với Nguyễn Phú Trọng. Và Tuyên bố chung 6.000 từ, thì cũng chỉ đề cập đến Mác – Lê có một lần duy nhất.

Việc Tập Cận Bình ưu tiên tiêu chí trung thành khi bổ nhiệm nhân sự vào Bộ Chính trị và Thường vụ Bộ Chính trị thể hiện sự thay đổi to lớn ở Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo trước ông Tập luôn đặc biệt coi trọng vai trò lãnh đạo tập thể và sự tách biệt giữa Đảng và Nhà nước sau thời kỳ cai trị hỗn loạn của Mao Trạch Đông. Những luồng gió mới mở cửa đã tạo tiền đề cho những cải cách theo định hướng thị trường, dẫn đến sự trỗi dậy nhanh chóng của Trung Quốc từ một quốc gia nghèo bị cô lập vươn lên thách thức trật tự toàn cầu của Mỹ và phương Tây. Một trong những điểm nhấn quan trọng nhất tại Đại hội 20 là Tập Cận Bình đã phát triển hai khái niệm: “Sáng kiến An ninh Toàn cầu” (GSI) và “Sáng kiến Phát triển Toàn cầu” (GDI) thành khung khổ chung cho toàn bộ quản trị kinh tế – xã hội Trung Quốc trong kỷ nguyên mới. Đây là nội dung ông Trọng đặc biệt quan tâm và ông Trọng cam kết, Việt Nam sẽ tham gia GDI và ông cũng đánh giá tích cực đối với GSI, theo như nội dung thứ 7 trong Tuyên bố chung giữa hai nước.

Với não trạng quan phương bị quy phục, có thể ông Nguyễn Phú Trọng không hay biết rằng, sau khi đạt đến đỉnh cao của quyền lực, Tổng bí thư – Chủ tịch Tập Cận Bình giờ đây cô đơn hơn bao giờ hết. Trước Đại hội 20, ông Tập còn phải lo đối phó với các sự chống đối ngấm ngầm hoặc công khai của đoàn phái, bang phái và các thế tử đảng ngay trên thượng tầng lãnh đạo. Nhưng từ nay, một mình một chợ, ông sẽ đối phó với nguy cơ hỗn loạn bởi tình huống: duy nhất chỉ có một mình ông kiểm soát toàn diện đất nước 1.4 tỷ dân. Như vậy, Tập sẽ rơi vào cái bẫy do chính ông tạo ra. Nếu có tầm nhìn như thế, TBT Nguyễn Phú Trọng đã không dũng cảm bày tỏ tin tưởng, dưới sự lãnh đạo “hạt nhân” của ông Tập, nhân dân Trung Quốc sẽ hoàn thành đúng thời hạn các mục tiêu do Đại hội 20 ĐCSTQ đề ra, thực hiện thắng lợi các định hướng phấn đấu “100 năm lần thứ hai”.

Thế “tam quốc chí” có tạo sức ép?

Hôm đầu tuần 30/10, TBT Tập Cận Bình nói với TBT Nguyễn Phú Trọng rằng, cả hai nước và hai ĐCS Trung Quốc và Việt Nam “không bao giờ để bất kỳ ai can thiệp vào tiến trình của đôi bên”. Thông điệp nhấn mạnh việc chống lại sự can thiệp từ bên ngoài được ông Tập đưa ra đưa ra trong bối cảnh quan hệ căng thẳng giữa Trung Quốc với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ về vấn đề Đài Loan, xung đột Ukraine, thương mại và nhiều vấn đề khác. Phát biểu tại lễ tiếp đón TBT Nguyễn Phú Trọng, TBT Tập còn nhấn mạnh: “Sự phát triển của sự nghiệp tiến bộ nhân loại là quá trình dài và quanh co… Hai ĐCS Trung Quốc và Việt Nam cần kiên định hành động vì hạnh phúc của nhân dân và sự tiến bộ của nhân loại, đẩy mạnh hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa bằng tất cả nguồn lực của mình, và không bao giờ để bất kỳ ai can thiệp vào bước tiến của chúng ta hoặc để bất kỳ thế lực nào làm lung lay nền tảng thể chế trong sự phát triển của chúng ta”. Tuyên bố này được trích từ Đài truyền hình Trung Quốc, nội dung này không tìm thấy trên các tin tức của TTXVN.

Với “Tuyên bố chung” gồm 13 nội dung lớn bao trùm hầu hết mọi mặt của bang giao Việt – Trung, dư luận băn khoăn nếu Trung Quốc đã “quy phục” được toàn diện Việt Nam như thế, từ nay, lối ra thế giới của Việt Nam liệu có bị hẹp bớt không? Sức ép từ một thế “tam quốc chí” mới tạo nên giữa Trung Quốc, Hoa Kỳ và LB Nga đối với Hà Nội sẽ như thế nào? Ngày 30/10, bình luận về vấn đề này trên truyền thông quốc tế, Tiến sĩ Nguyễn Thành Trung từ Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, mối quan hệ hai nước Việt – Trung cũng như giữa Việt Nam với các nước, về cơ bản sẽ không có nhiều chuyển biến, sau chuyến công du Bắc Kinh của ông Trọng. Tuy nhiên, dư luận vẫn quan ngại, với chuyến thăm Trung Quốc của ông Trọng, có thể ảnh hưởng gì tới tình trạng nhân quyền vốn đang rất bết bát của Việt Nam và vai trò của của Mỹ trong việc cải thiện tình trạng này ra sao?

Phó Giám đốc Phân ban Châu Á của HRW Phil Robertson tuyên bố trong một thông cáo gửi truyền thông quốc tế: “Việt Nam có mối quan hệ ‘yêu-ghét’ với Trung Quốc. Và Việt Nam thường dùng điều này khiến Hoa Kỳ có thể gặp khó khăn. Chính phủ Việt Nam đôi khi đứng về phía Hoa Kỳ chống lại các hành động của Trung Quốc trong các vấn đề hàng hải, nhưng những lần khác lại hợp tác rất chặt chẽ với chính quyền Trung Quốc, nơi cũng vi phạm trắng trợn các quyền con người như thế. GS. Carl Thayer, Đại học New South Wales (Úc) nói với BBC hôm 1/11 rằng, nếu thông tin hiện chưa được xác nhận, Việt Nam đang vận động Hoa Kỳ thu xếp chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Joe Biden vào tháng 11 này là chuẩn, thì Việt Nam có thể bất ngờ trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang.

Bình luận trên của GS. Carl Thayer được đưa ra trước “Đối thoại nhân quyền Hoa Kỳ-Việt Nam lần thứ 26” diễn ra tại Hà Nội vào 2/11, đúng một ngày sau khi TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng trở về nước sau chuyến thăm Trung Quốc. Trong khi Việt Nam nhấn mạnh Trung Quốc là ưu tiên ngoại giao hàng đầu, ý kiến này, theo GS. Thayer, không nên diễn dịch rằng Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu duy nhất. Dựa trên sự thuận lợi về mặt địa lý, mối quan hệ thương mại và sức mạnh đang ngày càng được củng cố của Trung Quốc là tất nhiên. Cuộc đối thoại sẽ là một phần của các sự kiện ngoại giao theo khuôn mẫu. Cả hai bên sẽ trình bày lập trường đã có từ lâu của mình về nhiều vấn đề khác nhau. Cả hai sẽ đồng ý rằng tiếp tục đối thoại là quan trọng. Việt Nam có quan điểm dàn trải về quyền con người, bao gồm cả việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc, xóa đói giảm nghèo và bình đẳng giới. Trong khi Hoa Kỳ sẽ bàn đến các vấn đề tự do tôn giáo và các quyền dân sự và chính trị của mọi công dân.

Trần đông A / VOA