Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia

Mỗi ngày trồng rau, chăm hoa và nuôi cá bên trong khu vườn rộng 60m² là điều mà bà mẹ thành phố này làm nhiều chị em phải ghen tị.

Chị Phương ở Hàng Châu (Trung Quốc) tự nhận mình là một “nông dân thành phố”. Sở thích của chị gói gọn trong khu vườn rộng 60m² của gia đình. Hằng ngày, chị dành thời gian cho việc chăm hoa, trồng rau và nuôi cá. Quả thật, khung cảnh khu vườn lung linh của chị đã khiến cho rất nhiều bạn bè phải ghen tị.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 1.

Khu vườn rộng 60m² của chị Phương khiến nhiều người phải ghen tị.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 2.

Nhất là khung cảnh lung linh của khu vườn mỗi khi màn đêm buông xuống.

Chị Phương kể lại vào mỗi dịp mùa hè, chị thường cùng gia đình đi nghỉ lại các khu trang trại. Không chỉ thay đổi bầu không khí trong lành mà ở đây, những đứa cháu nhỏ có cơ hội được gần gũi hơn với thiên nhiên. Theo chị Phương, việc giáo dục con cháu gần gũi, yêu quý thiên nhiên là một điều vô cùng cần thiết.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 3.

Khu vườn đã được chị Phương cải tạo lại trong thời gian gần đây.

Dịch bệnh diễn ra và mọi người phải ở nhà nhiều hơn. Chính trong thời điểm này, chị Phương đã quyết định cải tạo lại khu vườn nhà mình. Trước đây, khu vườn chỉ đơn thuần được cô dùng để trồng rau củ và chăm sóc cây cảnh, hoa cỏ nhưng chưa được quy hoạch và tổ chức.

Sàn được ốp bằng gỗ nhựa có khả năng chịu được điều kiện thời tiết nắng mưa ngoài trời.

Chị Phương thiết kế lại khu vườn với một không gian nghỉ ngoài trời, bao quanh là ao cá nhỏ. Vườn rau được đặt tại một góc riêng trong vườn.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 4.

Bao quanh khu vực nghỉ ngơi là một ao cá nhỏ.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 5.

Ao cá nhỏ khiến cho khu vườn gia đình của chị Phương càng thêm sinh động.

Khu vực nghỉ ngơi ngoài trời được bao quanh bằng hàng rào gỗ chống ăn mòn. Sàn cũng được lát bằng chất liệu gỗ nhựa có khả năng chịu được mọi điều kiện thời tiết bên ngoài. Sau khi hoàn thành, chị Phương vô cùng ưng ý với kết quả đạt được. Chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến chị nghĩ đến những đêm hè mát mẻ ngồi bên trong vườn rồi.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 6.

Khung cảnh khu vườn sau khi đã cải tạo xong.

Xung quanh khu vực nghỉ ngơi được trồng nhiều loại cây xanh và hoa cỏ khác nhau. Một số được chị trồng trong chậu và treo trên hàng rào. Các loại cây bụi thì được trồng trực tiếp xuống đất. Sự có mặt của các loài cây trong vườn khiến bầu không khí ở đây luôn trong lành, dễ chịu.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 7.

Chị Phương trồng rất nhiều loại cây xanh và hoa cỏ khác nhau trong khu vườn của gia đình.

Cả khu vườn được chị Phương trồng cỏ xanh mướt mắt. Lũ trẻ có thể thoải mái chạy nhảy, vui đùa ngoài trời. Tuy nhiên, để có được thảm cỏ này, chị Phương phải dành thời gian cắt cỏ mỗi tuần một lần. Nếu bỏ quên, cỏ có thể phát triển nhanh đến mức bạn chẳng dám nghĩ đến.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 8.

Toàn bộ khu sân vườn đều được trồng cỏ xanh mướt.

Mẹ đảm sở hữu khu vườn 60m² mỗi ngày trồng hoa, nuôi cá như đang nghỉ dưỡng tại gia - Ảnh 9.

Lũ trẻ nhà chị Phương có được không gian vui chơi ngoài trời rất lý tưởng.

Chị Phương thiết kế một ao cá nhỏ trong khu vườn. Nhờ vậy, khung cảnh khu vườn nhỏ của gia đình trông sinh động hơn nhiều. Hàng ngày, chị và những đứa cháu nhỏ của mình đều thích thú nhìn ngắm những chú cá thoải mái bơi lội qua lại. Những đứa trẻ còn đặc biệt hứng thú với việc được cho cá ăn hàng ngày.

Khung cảnh khu vườn khi màn đêm buông xuống khiến ai cũng yêu thích.
Chị Phương sử dụng đèn năng lượng mặt trời hình nấm để tăng vẻ đẹp sinh động, mộng mơ cho khu vườn gia đình.
Theo Sohu / Vietnam Express

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt

Trên thực tế, có những loại thực phẩm hoàn toàn không gây hại như nhiều người tưởng, mặc dù thành phần của nó dễ khiến cho mọi người hiểu nhầm.

Việc hiểu đúng về các loại thực phẩm mình tiêu thụ mỗi ngày có thể giúp bạn không còn lo lắng hay lăn tăn khi tiêu thụ chúng nữa.

1. Trứng bắc thảo

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt - Ảnh 1.

Hiểu nhầm: Trứng bắc thảo có chứa kim loại nặng.

Sự thật: Trứng bắc thảo đã qua kiểm định không chứa kim loại nặng, nó là một nguồn cung cấp protein chất lượng cao.

Bác sĩ Trương Thế Hành tại Phòng khám Lianqing Trung Quốc cho hay: “Màu đen của trứng là do protein bị biến tính. Thành phần dinh dưỡng của nó tương tự như các loại trứng khác. Điểm khác biệt duy nhất là chất zeaxanthin dễ bị mất đi trong quá trình làm trứng bắc thảo“.

2. Đậu nành

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt - Ảnh 2.

Hiểu nhầm: Giàu phytoestrogen, tiêu thụ nhiều có thể gây ung thư phụ khoa .

Sự thật: Nội tiết tố thực vật khác với nội tiết tố động vật, việc tiêu thụ thường ít ảnh hưởng đến cơ thể người. Chất isoflavones trong đậu nành có lợi cho cơ thể. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc tiêu thụ đậu nành với lượng vừa phải có thể làm giảm nguy cơ ung thư.

Theo bác sĩ Từ Tú Viên, một chuyên gia dinh dưỡng tại Bệnh viện Đài Bắc cho biết: “Trong chế độ ăn uống bình thường, hàm lượng phytoestrogen khi vào cơ thể người không ảnh hưởng trực tiếp lên các cơ quan. Vì thế, phytoestrogen không tác động nhiều vào việc gây ra u xơ“.

Ngoài ra, isoflavones trong đậu nành cũng là một loại phytoestrogen. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tiêu thụ đậu nành vừa phải không những không làm tăng xác suất ung thư vú mà còn làm giảm nguy cơ mắc bệnh. Hiệp hội Ung Thư Mỹ cũng xác nhận, việc tiêu thụ các sản phẩm từ đậu nành có thể giúp làm giảm nguy cơ ung thư vú, tuyến tiền liệt và nội mạc tử cung.

3Đường nâu

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt - Ảnh 3.

Hiểu nhầm: Chứa acrylamide, gây ung thư nếu tiêu thụ nhiều.

Sự thật: Acrylamide chưa được xác nhận có thể gây ung thư cho con người. Trên thực tế, có rất ít người tiêu thụ một lượng lớn đường nâu mỗi ngày.

Tiến sĩ Khoa học Thực phẩm và là chuyên gia dinh dưỡng tại Trung Quốc bà Trần Hiểu Vy cho biết: “Thực phẩm chiên ngập dầu và nướng ở nhiệt độ cao có thể tạo ra chất acrylamide nhưng hàm lượng trong giới hạn cho phép. Tuy nhiên, thịt nướng nguy hiểm hơn nhiều vì nó tạo ra hàm lượng acrylamide cao hơn“.

javascript:if(typeof(admSspPageRg)!=’undefined’){admSspPageRg.draw(4132);}else{parent.admSspPageRg.draw(4132);}

Protein trong thực phẩm và đường dưới nhiệt độ cao sẽ bị cháy xém và đổi màu, quá trình này có thể tạo ra acrylamide. Hiện tại acrylamide mới chỉ có bằng chứng gây ung thư trên động vật. Các nghiên cứu dịch tễ học vẫn chưa đủ để chứng minh nó là chất gây ung thư ở người.

Ngoài ra, không giống như đường trắng tinh luyện, đường nâu giữ lại nhiều khoáng chất vi lượng hơn, chẳng hạn như magiê và kali, những chất này giúp ổn định thần kinh. Các bác sĩ y học cổ truyền Trung Quốc thường khuyên phụ nữ bị đau bụng kinh uống đường nâu để làm dịu cơn đau.

4. Gạo trắng

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt - Ảnh 4.

Hiểu nhầm: Giá trị dinh dưỡng của gạo trắng không cao, tiêu thụ nhiều sẽ khiến lượng đường trong máu tăng nhanh, không tốt cho người bị tiểu đường.

Sự thật: Gạo trắng vẫn còn chứa các chất dinh dưỡng khác như sắt, canxi, kali, phốt pho và vitamin nhóm B.

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, gạo trắng có tác dụng nuôi dưỡng lá lách và dạ dày, bồi bổ tỳ vị.

Bác sĩ Vạn Phương ở Trung Quốc cho biết: “Bệnh nhân không nên ăn quá nhiều cơm trắng, cần tích cực tiêu thụ các loại thực phẩm như cá, trứng, sữa trước sau đó mới tới cơm. Đặc biệt cần chú ý tới cân nặng để kiểm soát lượng đường huyết“.

5. Bỏng ngô

5 loại thực phẩm có lợi cho sức khỏe nhưng lại thường xuyên bị hiểu nhầm là không tốt - Ảnh 5.

Hiểu nhầm: Cũng giống như một số món ăn nhẹ, bỏng ngô được xem là thực phẩm không lành mạnh.

Sự thật: Nếu không thêm các nguyên liệu tạo mùi thơm và chất phụ gia, bỏng ngô là món ăn vặt tương đối lành mạnh. Điều này là do ngô rất giàu chất xơ, tinh bột kháng và giàu chất chống oxy hóa.

Hàm lượng chất xơ và chất chống oxy hóa polyphenol trong bỏng ngô không thấp. Tinh bột kháng khác với tinh bột thông thường, nó là dạng tinh bột không được ruột hấp thụ nên sẽ trở thành thức ăn cho vi khuẩn đường ruột, tạo điều kiện cho các lợi khuẩn phát triển. Khi đường ruột khỏe mạnh, điều này có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và nhiều bệnh khác.

Nguồn: Aboluowang / Theo PH / Tổ Quốc

Hàn Mặc Tử: Thiên thần bị đầy đọa


(Kỷ niệm 90 năm phong trào Thơ mới, 1932-2022)

Quê Đồng Hới – Quảng Bình nhưng thi tài Hàn Mặc Tử chói sáng đỉnh điểm khi về sống ở Quy Nhơn – Bình Định những năm cuối cuộc đời ngắn ngủi. Có một thiên cơ giữa đất và người…

1.Từ tuổi học trò ở Quy Nhơn những năm sáu mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã rất ngưỡng mộ thơ Hàn Mặc Tử và xem vết tích của ông để lại ở đất này là niềm tự hào và quyến rũ: Ngôi nhà tuổi thơ số 20 đường Khải Định (nay là ngã tư Lê Lợi – Nguyễn Du); mái trường College ông dệt mộng đèn sách; thư viện nơi ông bươn bả với kiến thức kim cổ đông tây; bãi biển trăng và cát vàng mộng mị; những con đường rụt rè, những tình yêu; căn phòng thơ và bạn bè; xóm Tấn nơi lánh bệnh; nhà thương phong điều trị bệnh và ngôi mộ trên đồi Ghềnh Ráng…

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940)

Lời bài hát “đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà…” đã ru chúng tôi vào một Quy Nhơn hoang sơ đẹp và buồn của mối tình thi sĩ và cái dốc Mộng Cầm đã trở thành địa danh nôn nao bổi hổi. Tôi có duyên may được gặp gỡ và trò chuyện với ba trong bốn nhà thơ lớn của nhóm “Bàn Thành tứ hữu” là Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Thông qua họ, tôi hiểu thêm về Hàn Mặc Tử trong lòng những người bạn của ông. Bây giờ trong cõi xa kia, bốn người bạn thân ở thành Đồ Bàn đã gặp lại nhau nơi cõi khác, chẳng chỉ “nửa đêm trăng tà” mà còn bất cứ lúc nào, như ngày xưa trẻ trung ở Quy Nhơn, trong những lần tìm đến nhau, thăng hoa trong thơ ca và tình bạn. Hàn Mặc Tử sinh ngày 12 tháng 8(âm, nhằm ngày 22/9/1912, mùa trăng, Chúa nhật, ngày của Chúa,…).

2. Hàn Mặc Tử không phải một tông đồ truyền giáo mà là “loài thi sĩ” đã xác lập định mệnh thơ với nguồn mạch của một thế giới tân kỳ, không phải đi rao giảng đức tin tôn giáo mà quán chiếu trời thơ như một sứ điệp của tình yêu cuộc sống hoàn vũ. Không phải là linh mục để thực hiện nghi thức bí tích, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn là một kẻ chăn chiên chăn dắt tình yêu và gieo vào ân sủng thơ ca một mùi dầu thánh.

Tôi đã lặn lội trong âm thanh tuyệt diệu và mầu nhiệm những bài ca của Sa-lô-môn trong Kinh Thánh, tìm một nguồn gốc của sự vui vẻ thanh sạch và cao quý những nam nữ rất thanh khiết “như con hoàng dương hay là như con nai con ở trên các núi thuốc thơm” để quay về với đời và thơ Hàn Mặc Tử. Đó là một tình yêu tràn trề chảy qua vườn nho chín mọng, hoa tường vi trắng hồng, lai láng dưới răng, lưỡi, bầu vú, trong ngũ quan líu lo những mật ong và sữa. Khi người ta yêu nhau, có thể lắng nghe mọi âm thanh ngây ngất, nhìn mọi chi tiết đắm đuối của thân tâm trong bản giao hưởng thế giới tạo vật muôn trùng.

Hàn Mặc Tử, dưới góc độ nào đó, ở đầu thế kỷ XX phân thân trong hoàng đế Sa-lô-môn, trong kẻ lương nhân, và trong cả cô gái đồng trinh mà mấy nghìn năm rồi, thường hằng trong thánh ca bất tử: “Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu. Danh chàng thơm như dầu đổ ra; Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng. Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng, Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài. Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng. Các gái đồng trinh yêu mến chàng cách chánh trực”. Và bắt đầu một hành trình sáng tạo, Hàn đã lấy máu làm mực, lấy trăng làm giấy, kẻ lên đó những vần thơ khai phóng làm ngây ngất những tinh cầu: “Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt/ Như đón từ xa một ý thơ“.

Hàn Mặc Tử bày biện cuộc mình như một thánh lễ, giấy bút vào hành trình: “Mực lùa khí vị vô hồn chữ/ Văn hút hào quang ở miệng ra“. Dù khi hối hả (như một cái máy vi tính tiên tri mà thời Hàn chưa có): “Thơ chưa ra khỏi bút/ Giọt mực đã rụng rồi/ Lòng tôi chưa kịp nói/ Giấy đã toát mồ hôi” hay trầm tĩnh thức nhận “Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ/ Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ“, và niềm sám hối “Đời không có ngọc trong pho sách/ E chết khôi nguyên ở Phượng Trì” luôn luôn là nỗi ám ảnh để nhà thơ đi tìm châu báu trong trần gian: “Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Còn mặt trời kia tợ khối vàng“. Thánh lễ của Hàn, từ cuộc khai tâm “Thuở ấy càn khôn mới dựng nên/ Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên/ Người thơ phong vận như thơ ấy/ Nào đã ra đời ngọc biết tên“, qua rửa tội “Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi/ Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng“, đến cuộc hòa minh: “Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo dọi/ Để nhắn hồn em đã tới nơi“, rồi ơn gọi: “Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu/ Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang” cho tới tận cùng “Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết/ Trải niềm đau trên trang giấy mong manh/ Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh” là thánh lễ của một kẻ tuẫn đạo để cứu rỗi. Điều này thuộc về định mệnh. Bầy chiên ngôn ngữ đã được quán triệt trong thể xác và linh hồn người thơ, và người thơ lộn trái thịt da cốt tủy ra trình bày dưới ánh sáng, theo một nhu cầu nội tại chân thực và thành kính. Hàn Mặc Tử đã tự thắp những vầng trăng trên thánh lễ, từ y phục: “Áo ta rách rưới trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng” đến lương thực: “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn” đến tiện nghi: “Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải” và trải nghiệm “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” nhưng cuối cùng vẫn chơi trên trăng với mục đích: “Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường thổi/ Để hớp tinh anh của Nguyệt Cầu/ Và để thoát ly ngoài thế giới…“. Tự gọi tên “Máu cuồng và Hồn điên“, Hàn Mặc Tử đã trải qua những cơn đau đớn giày vò về thể xác lẫn tinh thần, muốn thoát hồn ra ngoài xác thịt mà “Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng“, một cự ly quán thế cả và thiên hạ để “Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế“. Đó là cuộc lữ hành lý tưởng của “loài thi sĩ” để tìm một nụ cười an lạc trong niềm đau cùng cực của một hình hài.

3.Nỗi cô độc của một thiên tài thơ ca là nỗi cô độc trong sum vầy, như đỉnh núi đột khởi giữa điệp trùng gò đống. Đời Hàn Mặc Tử luôn luôn hiện hữu song hành với thơ Hàn Mặc Tử, trong tình yêu của mọi người dành cho Hàn Mặc Tử suốt trăm năm nay. Và dù chưa có một thống kê xã hội học chính thức, tôi vẫn nhận thấy mộ Hàn Mặc Tử trở thành một trong những địa điểm hành hương được người mến mộ viếng thăm nhiều nhất trong số các nhà thơ Việt! Tôi đã đọc trong nước mắt của những vần thơ do khách đa tình sau mấy thế hệ viếng Hàn, nghe rào rạt sức sống của Hàn trong nguồn cảm hứng tinh khôi của họ, như dành cho người lương nhân trong Nhã Ca: “Vừa sớm mai, chúng ta sẽ thức dậy, Ði đến vườn nho, đặng xem thể nho có nứt đọt, Hoa có trổ, thạch lựu có nở bông chăng: Tại đó tôi sẽ tỏ ái tình tôi cho chàng. Trái phong già xông mùi thơm nó; Và tại cửa chúng ta có những thứ trái ngon mới và cũ; Hỡi lương nhân tôi, tôi đã để dành trái ấy cho chàng!“.

Chúng ta đều biết, ở Bình Định có vị anh hùng kiệt xuất Quang Trung – Nguyễn Huệ và cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trình bày thánh tích của một thiên tài. Thiên tài quân sự bách chiến bách thắng đã đưa một người nông dân lên ngôi hoàng đế, đưa những tấc sắt thành lưỡi gươm thiêng đại định thiên hạ. Tất nhiên, không ai đi so sánh 39 năm hiển hách huân nghiệp của một người bước lên ngai vàng với 28 năm của một dân đen dù dân đen ấy là một thiên tài thi ca mang tên Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, nhà thơ đồng nghĩa với anh hùng văn hóa. Ai dám bảo đạo quân chữ nghĩa của Hàn Mặc Tử không phải được sinh thành bởi hương thơm và ánh sáng, không có khả năng chinh phục nụ cười nước mắt của thiên hạ trong nhiều thế kỷ tiếp theo.

Sự ngắn ngủi của đời họ là dồn nén của bùng nổ và nguồn cảm hứng thiên hạ dành cho họ sẽ không bao giờ vơi cạn. Thửa ruộng Hàn Mặc Tử, tòa nhà Hàn Mặc Tử, ngôi đền Hàn Mặc Tử sẽ làm cuộc giãi bày cho đến muôn sau, trong cuộc cứu rỗi thi ca thiên khởi, uyên nguyên, xa lạ với cuộc ma-ra-tông rượt đuổi trường phái, chủ thuyết, trào lưu, nắm chiếc đuôi khôn ngoan của cỗ xe ngựa triết học kinh viện. Cái đời thơ kỳ lạ ấy đã thực hiện sứ mệnh như một thiên thần bị đày đọa, đã đau khổ và yêu thương đến cùng cực khi trót một lần hẹn thề cùng cõi nhân gian

NGUYỄN THANH MỪNG / Văn học Saigon

Gorbachev: Anh hùng bất đắc dĩ

Hai mươi năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Mikhail Gorbachev được phương Tây âm thầm ca ngợi, nhưng lại bị phớt lờ ở Moscow. Tuy nhiên ở cả hai nơi này, danh tiếng của ông đều dựa trên việc cải tổ thất bại một hệ thống đang hấp hối mà ông ta từng đặt trọn niềm tin.
Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên cách đây không lâu, Mikhai Gorbachev hồi tưởng lại những năm tháng của ông trên đỉnh cao quyền lực ở Liên Xô. Khi đã vào luồng vấn đề thì thường rất khó để ngắt lời ông. Nhưng lần này thì ông lại ngập ngừng, im lặng trong một lúc lâu và nhìn chằm chằm vào người phỏng vấn một cách khó chịu với cặp mắt soi mói. “Anh biết không, bây giờ tôi có thể vẫn đang ở đó, trong điện Kremlin”, ông nói. “Nếu tôi bị thôi thúc chỉ vì quyền lực cá nhân, có lẽ tôi vẫn còn sở hữu nó… Nếu trước đây đơn giản tôi chẳng làm gì cả, chẳng thay đổi gì ở Liên Xô trong tình trạng thời đó, chỉ ngồi yên và tiếp tục như trước, thì ai biết được…”. Rồi ông phá lên cười. Nếu ông cảm thấy chua xót, ông đã che dấu điều này khá tốt.

Đây thường một phần là do sự tự ảo tưởng của những nhà lãnh đạo đã về hưu, bị đánh bại, hay bị phế truất. Nhưng ở Gorbachev còn có một điều sâu thẳm hơn, và đặc biệt là rất có liên quan trong năm nay – kỷ niệm lần thứ 20 sự kiện năm 1989,[1] năm bắt đầu dẫn tới sự kết thúc quyền hành của ông. Ngay cả khi hồi tưởng lại, thật khó để tin là đế chế Xô-viết – một người khổng lồ mà hai thế hệ người dân phương Tây phải nể sợ – lại biến mất trong thoáng chốc. Những nhà phân tích từng nghĩ rằng Liên Xô có thể tiếp tục ì ạch tồn tại trong vài thập niên nữa, cố gắng rồi thất bại trong việc cải tổ nền cộng sản (nhưng sẽ không sụp đổ ngay): một xứ Thượng Volta[2] có hạt nhân, nhưng không phải là một cường quốc đáng gờm nữa.

Gorbachev trông vẫn khỏe mạnh ở tuổi 78, độ tuổi mà đa số những người tiền nhiệm của ông được cho là vẫn đang ở thời đỉnh cao quyền lực. Trong những năm 1980, tổng bí thư của Đảng Cộng sản Liên Xô có thể gần như nắm trọn quyền lực độc tài nếu ông ta muốn. Gorbachev đã có thể nắm vững quyền lực và tiến hành những thay đổi lặt vặt. Ông có thể đã đưa ra những cải tổ nhỏ cho hệ thống vốn hầu như không có thay đổi gì từ thời Stalin và không mạo hiểm đối với vị trí của các nước thuộc Hiệp ước Warsaw ở Trung và Đông Âu. Nhưng ông lại tham vọng nhiều hơn thế. Mục tiêu của ông là cứu vãn và phục hưng chủ nghĩa cộng sản – chủ nghĩa cộng sản “chân chính” của những nhà khởi lập cho đức tin mà ông tin tưởng đó. Cũng với nhiệt huyết đó, ông tin tưởng vào đất nước mình – không phải Nga, mà là Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết. Nhưng chính Gorbachev hơn ai khác đã là người khai tử chủ nghĩa cộng sản.

Thay vì điều hành từ Phòng Óc chó (Walnut Room) [3] ở điện Kremlin như một phần trong ông vẫn tin là mình có thể tiếp tục làm được như vậy, thì giờ đây Gorbachev đi khắp nơi hăng say không nghỉ, và đương nhiên ông vẫn bận com-lê của Louis Vuitton, thứ ông giúp quảng cáo khắp thế giới. Ông kiếm được những khoản kếch sù từ các buổi nói chuyện vòng quanh thế giới, và còn nhiều những thứ bên lề khác. Mới tháng 6 vừa rồi ông đã ghi âm một vài bài dân ca mình thích nhất rồi dành số tiền lớn thu được cho từ thiện. Đúng ra ông sống ở Moscow, nhưng ông dành rất ít thời gian ở Nga. Bạn bè thân nhất của ông là những ông trùm tỉ phú, những người tài trợ cho hai Quỹ Gorbachev, một nhằm lưu giữ những tư liệu của ông, và một để giúp chống bệnh ung thư trẻ em, được lập ra để tưởng nhớ người vợ quá cố Raisa của ông. Ông gần như là một nhân vật bị phớt lờ ở Nga, mặc dù ông có phần hùn trong một tờ báo của Moscow với một trong những người ủng hộ giàu có – cựu nhân viên KGB Alexander Lebedev –người mới đây đã làm cho truyền thông dậy sóng khi mua lại tòa báo Evening Standard.

Khi Gorbachev được nhớ đến ở quê nhà, ông thường bị chỉ trích vì là người đã làm tan vỡ một đế chế mà chẳng cần có cuộc chiến nào, và làm cho nền kinh tế sụp đổ khi liên bang tan rã vào năm 1991. Đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc xung quanh Vladimir Putin, đây là một thảm họa nhục nhã mà Gorbachev là người trực tiếp chịu trách nhiệm. Và nước Nga giờ đây mới chỉ phục hồi lại từ thảm họa đó. Trong những sách giáo khoa mới, Gorbachev hiếm khi được nhắc đến, hoặc chỉ xuất hiện một cách chẳng hay ho gì ở dòng chú thích cuối trang, trong khi Stalin được ca ngợi là một “nhà lãnh đạo Nga vĩ đại” (mặc dù ông là người Gruzia).

Ở ngoài nước Nga, lịch sử sẽ tử tế hơn. Gorbachev sẽ được nhớ đến như một nhân vật đi đầu trong cuộc giải phóng một phần ba châu Âu khỏi sự chiếm đóng quân sự và chủ nghĩa toàn trị, một trong những nhân vật chính yếu của những tuần lễ rối ren trong cuộc cách mạng năm 1989, cũng như vì vai trò của ông trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh. Hơn nữa, những năm cuối dưới quyền cai trị của ông và vài năm đầu dưới quyền của người kế nhiệm Boris Yeltsin có thể được xem như là một giai đoạn tự do ngắn ngủi và thanh bình ở Nga.

***

Dĩ nhiên Gorbachev không có ý định gây ra những điều này. Ông được chọn lựa bởi một nhóm 18 ông trùm cộng sản già nua phần lớn là vì ông còn khá trẻ, có sức sống và sự hấp dẫn. Đã có 3 đám tang của các lãnh đạo Liên Xô diễn ra trong vòng 2 năm rưỡi trước khi Gorbachev được chọn vào ngày 10/3/1985. Leonid Brezhnev nắm quyền trong vòng 20 năm và đã trở thành tên gọi để chỉ thứ mà ngay cả những người phụ tá của ông khi nói chuyện riêng đã gọi là “thời đại trì trệ”. Trong những năm cuối cùng của mình, Brezhnev đã quá yếu đến nỗi phải được đưa lên Lăng Lenin bằng một cái thang cuốn trong những buổi diễu hành ở Quảng trường Đỏ.

Yuri Andropov thì mắc bệnh nan y khi ông nhậm chức. Trong gần hết 13 tháng cầm quyền, ông đã điều hành đất nước trên giường bệnh. Konstantin Chernenko, người đã từng có nhiệm vụ chính trong chính phủ là châm thuốc cho người bạn thân nhất của mình là Brezhnev, trở thành người thay thế đầy bệnh tật ở độ tuổi 70. Sự già yếu của ông ta tượng trưng cho tình trạng đất nước bấy giờ.

Những người đứng đầu đảng hồi năm 1985 hẳn đã từng muốn chọn một trong số những người đồng chí cao niên của mình.  Nhưng không có ứng cử viên nào phù hợp, và ngay cả họ cũng từng nghe những câu chuyện châm biếm lan truyền cả nước – “Các đồng chí, chúng ta sẽ bắt đầu đại hội theo cách truyền thống – bằng việc khiêng đồng chí tổng bí thư vào”. Sự lựa chọn Gorbachev được ấn định bởi Andrei Gromyko, một ngoại trưởng cứng rắn, có vẻ mặt trông nghiêm nghị, và qua bốn thập kỷ đã được xem là “Mr. Nyet” (Ngài nói Không) của ngoại giao Nga. Ông đảm bảo với các đồng sự rằng Gorbachev, thành viên Bộ Chính trị trẻ nhất ở tuổi 54, là người theo khuôn khổ của họ, nhưng có nhiệt huyết để phục hồi danh tiếng của Liên Xô.

Họ chọn Gorbachev không phải vì việc vài tháng trước đó Margaret Thatcher từng nói bà có thể làm việc được với ông ta. Họ chọn vì nghĩ rằng ông có năng lượng để hồi sinh một hệ thống Liên Xô đã cũ nát. Gromyko nói rằng Gorbachev tin vào sự cần thiết của một nền quốc phòng mạnh và việc duy trì đế chế châu Âu của Liên Xô. Ông kết luận: “Anh ta có một nụ cười đẹp. Nhưng thưa các đồng chí, Mikhail Sergeyevich (tức Gorbachev) có hàm răng thép.”

Ông dường như mang tới một làn gió mới, ngay cả ở Washington. Jack Matlock, cố vấn chính cho Ronald Reagan về vấn đề Liên Xô ở Cục An ninh Quốc gia (NSA), và không lâu sau được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Moscow, cũng chia sẻ niềm hứng khởi ban đầu. “Ở cả trong và ngoài nước, ai nấy cũng mệt mỏi khi chứng kiến đế chế Xô-viết loạng choạng dưới tay những kẻ yếu ớt bất tài”, ông nói. “Gorbachev đi lại, nói chuyện, bộ com-lê của ông ta vừa vặn…thế nên ông ta làm cả thế giới ngỡ ngàng”.

Gorbachev là lãnh đạo Liên Xô đầu tiên được sinh ra sau Cách mạng tháng 10. Câu chuyện của ông là đặc trưng của một chú bé nhà nông đến từ vùng nông thôn của Liên Xô dưới thời Stalin. Vùng Bắc Caucasus quê ông chịu thiệt hại khủng khiếp từ những nạn đói do con người gây ra trong những năm 1930. Gorbachev sau đó từng nhắc lại việc ông đã chứng kiến những người hàng xóm chết đói như thế nào. Ban đầu ông được bảo vệ khỏi những điều tồi tệ nhất: ông ngoại của ông, một người cộng sản thời kỳ đầu, đứng đầu một trang trại tập thể ở địa phương. Nhưng sau cuộc thanh trừng của Stalin năm 1937, ông ngoại ông đã bị bắt với tội “thành phần Trotskyist phản cách mạng hữu khuynh”. Trong vòng 14 tháng sau đó, gia đình ông trở thành những người ngoài rìa xã hội cho đến khi ông ngoại ông được thả ra tù.

Gorbachev đã học cách thích ứng. Ông trở thành đảng viên – và đảng cho ông mọi thứ. Khi ông dần thăng tiến, ông không hề tỏ ra có dấu hiệu nào đi ngược với đường lối chính thống. Ông nổi tiếng là một người chuyên bợ đỡ trong một bộ máy quan liêu mà ở đó sự nhún nhường lót đường cho mọi thứ. Gorbachev sau đó nói rằng: “Tất cả chúng tôi đều liếm đ*t Brezhnev, tất cả chúng tôi”. Chỉ đến lúc vào được Bộ Chính trị thì ông mới cho phép mình thể hiện ra một trong những tính cách khác thân thiện hơn, đó là tính hài hước. Lúc riêng tư thì ông thể hiện là một người giỏi sưu tầm và kể các câu chuyện hài cộng sản, và thậm chí tự nghĩ ra một vài câu chuyện của riêng mình.

Ngoài việc kể chuyện hài, Gorbachev còn khiến những cộng sự của mình ngạc nhiên bởi niềm tin chân thành của ông vào chủ nghĩa xã hội. Khi ấy sự hoài nghi đã ăn sâu vào hồn cốt của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô đến nỗi mà chỉ có vài người trong hệ thống thực sự tin tưởng vào hệ tư tưởng đó. Gorbachev tin là Lenin đã vạch ra con đường, và phận sự của ông là hướng Liên Xô quay lại con đường đó sau “khúc cua sai lầm” của Stalin. Ông thường nhắc đến Lenin như một “thiên tài đặc biệt” và đọc các tác phẩm của Lenin đều đặn ngay cả trong những ngày cuối của mình ở điện Kremlin.

Nhà ngoại giao Sergei Tarasenko, người làm việc cận kề với Gorbachev, nói rằng hầu hết đảng viên (apparatchiks) trong toàn bộ đế chế chỉ nói ngoài miệng về những lời giáo huấn như thế: “Việc có sách của Lenin trong thư viện là điều đúng đắn về mặt chính trị. Nếu anh phải viết một bài nói chuyện mà anh muốn tìm một trích dẫn của Lenin thì cứ lật sang phần mục lục”. Gorbachev là người hiếm hoi, một tín đồ thật sự nghĩ rằng (những tư tưởng của) người sáng lập Liên bang Xô-viết vẫn còn đặc biệt phù hợp với vị trị ông đang nắm giữ, mãi tận 70 năm sau.

Chính vào một buổi “vi hành” diễn ra ở Leningrad vào tháng 5/1989, khoảng 2 tháng sau khi nhậm chức, thì hai cụm từ được gắn liền mãi mãi với kỷ nguyên của Gorbachev mới bắt đầu gia nhập vào từ điển các thuật ngữ chính trị. Cải tổ (perestroika) và công khai hóa (glasnost) trở thành những thuật ngữ toàn cầu, nhưng trong tiếng Nga thì chúng có những định nghĩa riêng. Khi Gorbachev dùng những từ này thì chúng có ý nghĩa đúng như những gì ông muốn.

Trong thời gian đầu, perestroika – “cải tổ” – nghĩa là một quá trình cải cách khiêm tốn để cải thiện kỷ luật nơi làm việc. Gorbachev đưa ra hàng loạt những biện pháp năng động để cho phép các công ty thể hiện tính chủ động cao hơn và đưa ra vài thay đổi trong việc phân phối sản phẩm. Ông đã sa thải hàng tá thân hữu của Brezhnev và những quan chức tham những “thời kỳ đình đốn”. Ông cũng từng bước đưa một ít quy tắc dân chủ vào hệ thống bằng cách tái sắp xếp các danh sách bầu cử, nhưng vẫn trong hệ thống nhà nước một đảng. Nhưng không biện pháp nào trong số này mang tính cách mạng. Ông không hề có ý định bãi bỏ quản lý tập trung, áp dụng nền kinh tế thị trường, tự do hóa giá cả và tiền lương, hay là bãi bỏ quyền lực độc tôn của những người cộng sản.

Tuy nhiên, sau 4 năm cầm quyền ông cũng đã có một bước đi cấp tiến: ông cho phép bầu cử đối với Đại hội Đại biểu Nhân dân (Congress of People’s Deputies) – theo lý thuyết là cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước. Và dù bảo đảm những người cộng sản được “sắp xếp” để giành số đông thắng cử, ông cũng cho phép một vài người chỉ trích được trúng cử, như nhà vật lý bất đồng chính kiến Andrei Sakharov. Gorbachev nói rất nhiều về dân chủ, nhưng ông không bao giờ mạo hiểm đặt mình vào cuộc tranh cử. Ông muốn “cải tổ” mọi thứ nhưng không muốn động tới những gì thuộc về nền tảng.

Glasnost – “công khai hóa” – cũng là một “bữa tiệc di động”. Việc này bắt đầu một cách thận trọng nhưng, như những người chỉ trích bảo thủ của ông đã lo sợ, một khi giới nhà báo được khuyến khích xuất bản những câu chuyện về các cán bộ bất tài, về một giai cấp bần cùng ở những thành phố thuộc các tỉnh, hay về sự đàn áp phong trào dân tộc chủ nghĩa và những người bất đồng chính kiến, quá trình này sẽ trở nên khó kiểm soát.

Liên Xô của Gorbachev không có tự do báo chí hoàn toàn, nhưng cũng phóng khoáng hơn bao giờ hết. Gorbachev thật sự nghĩ rằng việc xuất bản ấn phẩm của các tác giả như Solzhenitsyn và Pasternak, và những tiết lộ về sự khủng khiếp của lịch sử Xô-viết, sẽ khiến người dân cố gắng làm cho Liên Xô vận hành một cách chân thực và hiệu quả hơn. Tất nhiên việc đó chỉ làm cho họ căm ghét chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn, và chỉ có một tín đồ thực thụ mới tưởng tượng ra điều ngược lại. Glasnost có những hiệu ứng cấp tiến cả ở Liên Xô và những nước Đông Âu vệ tinh gần kề hơn cả sự mong đợi của ông. Cũng chính nhờ ông mà quá trình này không bị dừng lại và giới truyền thông không bị đàn áp.

Ngay cả một vài trong số những người ngưỡng mộ Gorbachev nhiều nhất, những trợ lý thông minh và có tài đã làm việc không mệt mỏi cùng ông, thỉnh thoảng cũng thất vọng với phương pháp của ông. Có một ví dụ kinh điển diễn ra trong những ngày đầu ông nắm quyền.

Gorbachev quyết tâm sẽ giải quyết một tật xấu ám ảnh nước Nga: rượu vodka. Năm 1984 hơn 9 triệu kẻ nghiện rượu đã được gom về từ các đường phố của Liên Xô. Những cái chết yểu, tình hình tội phạm, nghèo đói và những gia đình tan nát có thể thấy ở khắp nơi. Ngày 4/4/1985, sau 3 tuần làm “Gensek” (Tổng Bí thư), ông triệu tập Bộ Chính trị và tuyên bố rằng từ nay trở đi, giá bán rượu vodka sẽ tăng gấp ba lần. Sản xuất bia và rượu sẽ bị cắt giảm 75%.

Vladimir Dementsev, Bộ trưởng Tài chính, cảnh báo với ông rằng điều này sẽ dẫn tới một lỗ hổng lớn trong ngân sách quốc gia. Gorbachev ngắt lời ông và tuyên bố: “Những điều ông nói không có gì là mới. Chúng ta biết là không có tiền để bù đắp vào khoản thâm hụt đó. Nhưng ông chẳng đề nghị được gì ngoài việc tiếp tục để người ta say xỉn. Có phải ông đề nghị xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên vodka chăng?”

Không ai nghi vấn thẩm quyền của Tổng Bí thư. Gorbachev theo đuổi việc cấm vodka của mình một cách cương quyết – và dẫn đến thảm họa. Đã có những hàng người khổng lồ trước các cửa hàng rượu và một chợ đen vodka đã nhen nhóm hình thành chỉ sau một đêm. Cái hố đen tài chính mà Dementsev đã cảnh báo càng trở nên sâu hơn những gì ông ta đã dự đoán. Tỉ lệ người chết tăng vọt vì việc tiêu thụ thứ rượu tự chế độc hại. Sau 3 năm Gorbachev thừa nhận sai lầm của mình và bãi bỏ chiến dịch đó, nhưng đã để lại thiệt hại nặng nề. Đó là cách điều hành đặc trưng của ông trong suốt 6 năm rưỡi.

Gorbachev có thể khơi gợi sự trung thành và lòng khâm phục mạnh mẽ bằng tầm nhìn, trí tuệ và sự chân thành của mình. Những suy nghĩ và bản năng về “đại cục” của ông là tử tế và thật thà, ngay cả khi chúng được dựa trên những phân tích không chính xác. Ông muốn bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và Châu Âu, xóa bỏ rủi ro chiến tranh Đông-Tây, cắt giảm chi tiêu quân sự và cải thiện kinh tế trong nước của Liên Xô. Việc ông nghĩ những điều này sẽ giúp củng cố chủ nghĩa cộng sản có quan trọng không? Không lâu sau khi nắm quyền, ông và những cố vấn chính, đặc biệt là người chủ chốt thúc đẩy perestroika, Alexander Yakovlev, đã đi đến kết luận rằng những nước trong Hiệp ước Warsaw là gánh nặng hơn là một phần thưởng. Nhưng ông không bao giờ nghĩ ra một chiến lược nhất quán để dỡ bỏ gánh nặng đó.

***

Vì sao người Liên Xô lại từ bỏ đế chế của họ một cách bình yên như thế, chẳng hề một chút thở than? Và vì sao chỉ trong vòng vài tháng cuối những năm 1980? Ba trong số những yếu tố quan trọng nhất lại ít được nhắc đến, nhất là ở Mỹ và châu Âu, có lẽ bởi chúng không nhấn mạnh vai trò của những giáo hoàng, tổng thống và thủ tướng phương Tây.

Về cơ bản là người Đông Âu đã tự giải phóng họ. Nhưng trong số những nguyên nhân khiến họ có thể làm được điều đó có sự thất bại của Liên Xô ở Afghanistan, tình trạng nợ nước ngoài ngập đầu của các nước cộng sản trong khối Hiệp ước Warsaw, và việc giá dầu rớt đột ngột trong những năm 1980, điều đã khiến Liên Xô bị phá sản. Gorbachev đã hết mình đối phó với những sự kiện này không kém việc thương lượng lại những thỏa thuận địa chính trị với người Mỹ.

Khi xét đến yếu tố đầu tiên, có một nguyên nhân bao trùm là vào lúc khởi đầu cuộc cách mạng của Công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan những năm 1980-81, Liên Xô đã không gửi xe tăng vào Warsaw và Gdansk – như đã từng làm ở Budapest năm 1956 và Praha năm 1968. Câu trả lời đến từ người biện hộ cứng rắn nhất cho chủ nghĩa đế quốc Liên Xô trong nhóm lãnh đạo điện Kremlin, trùm tư tưởng Mikhai Suslov. “Chúng ta đơn giản là không thể đủ sức có thêm một Afghanistan nữa trong tay chúng ta”, ông nói thế trong một cuộc tranh luận gay gắt của giới lãnh đạo.

Người Liên Xô nhận ra họ đã phạm sai lầm trong việc xâm lược Afghanistan không lâu sau khi quân đội của họ đặt chân đến đây vào cuối năm 1979. Gorbachev không nhúng tay vào quyết định này. Ông ta lúc đó là một đảng viên cấp thấp và đã nghe đến việc này qua radio. Ông là một trong những cán bộ Liên Xô đầu tiên gọi cuộc chiến này là “vết thương đang rỉ máu của chúng ta”, và so sánh nó với Việt Nam. Đến lúc ông lên nắm quyền thì gần 10.000 quân Liên Xô đã tử trận. Ông và những người phụ tá đã quyết tâm chấm dứt chiến tranh – đặc biệt là khi các tướng chỉ huy nói rằng họ không thể thắng và điều tốt nhất mà quân đội Liên Xô có thể làm là “ổn định tình hình”. Câu hỏi đặt ra là làm sao để làm được điều này mà không bị mất mặt.

Ông có thể đã cho rút quân ngay trong vài tháng đầu mới cầm quyền, và đổ lỗi cho những người tiền nhiệm vì đã tiến hành một cuộc chiến ngày càng không được lòng dân. Nếu vậy thì hành động đó chắc sẽ nhận được sự tung hô rộng khắp từ phương Tây. Nhưng ông đã gạt cơ hội này đi. Ông không thể chấp nhận sự thất bại nhục nhã của Liên Xô trước một đám “khủng bố” cỏn con. Và ông nói: “Những người bạn của chúng ta…sẽ quan ngại…Họ nghĩ đây sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy thế của Liên Xô”.

Vì thế nên trong vòng 4 năm ông thoái thác và quanh co, làm khoảng hơn 6.000 quân Liên Xô và 200.000 người Afghanistan thiệt mạng và khả năng ứng biến của Liên Xô ở những nơi khác đã bị suy giảm. Tới lúc hồng quân rời khỏi Afghanistan, những người bất đồng chính kiến ở Trung và Đông Âu đã không còn lo lắng nhiều là quân Liên Xô sẽ dùng vũ lực chống lại họ nữa.

Về yếu tố thứ hai, Miklós Németh, thủ tướng Hungary trong những năm cuối 1980, giải thích là đất nước của ông đã dùng khoản nợ 1 tỉ Mác Đức từ Tây Đức năm 1987 như thế nào. Số tiền này đúng ra được dùng vào việc cải cách kinh tế, nhưng “Chúng tôi đã dùng 2/3 trong số đó để trả lãi [của những khoản nợ trước] và dùng phần còn lại vào việc nhập khẩu hàng tiêu dùng để xoa dịu cảm giác về một cuộc khủng hoảng kinh tế.”

Tất cả những chế độ của khối đông Âu (ngoại trừ Romania) nợ phương Tây một khoản khồng lồ: khoảng 150 tỉ đô la vào cuối năm 1989. Họ liên tục nói dối về nền kinh tế của mình. Đông Đức, nơi mà Ngân hàng Thế giới đã bị hố khi liệt kê là nước giàu thứ 11 của thế giới, đã phải chi hơn 70% thu nhập quốc dân để trả những khoản nợ nước ngoài và cảm thấy rất khó khăn để trả lãi suất. Những lãnh đạo cộng sản như Eric Honecker và János Kádár từng nghĩ rằng cách duy nhất để cầm cự là vay mượn từ các ngân hàng phương Tây. Các ngân hàng xem Đông Âu như một ván cược an toàn – họ nghĩ là “sự bảo đảm” của Liên Xô sẽ loại trừ tình trạng vỡ nợ.

Nhưng Gorbachev không còn sẵn sàng, hay có khả năng, để bảo đảm về kinh tế hay chính trị cho các chế độ thuộc khối Warsaw. Như Németh, người sau này trở thành một nhà kinh doanh ngân hàng, đã giải thích, “việc giết chết hệ thống cộng sản bắt đầu vào thời điểm các ngân hàng phương Tây…cho các nước như Hungary vay. Chúng tôi đã cắn câu.”

Yếu tố thứ ba, sự sụp đổ của giá dầu từ năm 1985-86, đã dẫn đến sự khủng hoảng chung cuộc của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Thu nhập từ xuất khẩu của Liên Xô giảm mạnh, làm cho nhiều người trong nhóm lãnh đạo hoang mang về cách mà hệ thống kinh tế của đế chế đang vận hành. Có đáng trợ cấp dầu và khí thiên nhiên rẻ cho các nước thuộc khối Warsaw để đổi lại những hàng tiêu dùng kém chất lượng không?

Các kinh tế gia và viện nghiên cứu chính sách ở Moscow đang bắt đầu đặt dấu hỏi về mối quan hệ giữa Liên Xô và các nước vệ tinh. Và rồi một vụ xì-căng-đan nhỏ đã thúc đẩy hành động. Đồng minh thân nhất của Liên Xô, Bulgaria, đã đem dầu giá rẻ nhận được từ Liên Xô bán cho phương Tây với giá thị trường và bỏ túi phần tiền chênh lệch. Khi Gorbachev hay tin, ông đã hết sức giận dữ đối với Todor Zhivkov, lãnh đạo độc tài đã nắm quyền ở Sofia trong ba thập kỷ. Điều này làm thay đổi thái độ của ông đối với Đông Âu, nơi mà dẫu sao ông cũng đã dần mất thiện chí. Ông thay đổi các điều khoản thương mại giữa Liên Xô và các nước Đông Âu và nói với các lãnh đạo rằng họ hãy tự lo liệu lấy, rằng Liên Xô sẽ không còn có thể giúp sức cho họ chống lại chính người dân của mình. Những người cũ cứng đầu như Honecker không tin lời ông ta và nghĩ rằng Đông Âu quá quan trọng đến mức Liên Xô không thể từ bỏ.

Phương Tây đã trở thành sự cuốn hút lớn hơn đối với Gorbachev – không chỉ về mặt địa chính trị mà còn về mặt cá nhân. Ông ghét việc chuẩn bị cho những chuyến đi đến thủ đô của các nước khối Warsaw, nhưng lại trở nên hào hứng với những hội nghị ở London, Paris hay Rome. Đầu óc của ông đã bị xoay chuyển bởi hiện tượng “phát cuồng vì Gorbachev” (“Gorbymania”) của những năm 1980. Ông chán nản với những buổi thảo luận với các quan chức Bộ Chính trị tối dạ ở Praha. Các buổi thảo luận đó có là gì khi so với một đoàn xe hộ tống dọc Đại Lộ thứ Năm được tung hô bởi những người Mỹ đang vẫy cờ Liên Xô và mang những dòng biểu ngữ ngợi ca “Chúa phù hộ người mang lại hòa bình”?

Gorbachev cũng không bao giờ có kế hoạch rút lui khỏi Đông Âu, hay duy trì quyền lực của Liên Xô ở đó. Ông tưởng tượng rằng mình có thể khuyến khích những “tiểu Gorbachev” để thay thế những nhà độc tài bất lực già nua đang bị quần chúng căm ghét. Tính toán sai lầm lớn của ông là những nước này sẽ lựa chọn được tiếp tục nằm trong quỹ đạo của phe xã hội chủ nghĩa, điều mà ông chỉ nhận ra sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Nhưng ông từ lâu đã quyết định là sẽ không dùng vũ lực để duy trì đế chế. Khoảng chục nhà lãnh đạo khác trong lịch sử cũng đã làm như vậy.

Xét theo những thành tích của của mình thì Gorbachev là một thất bại. Ông đã tin rằng ông có thể cứu vãn chủ nghĩa xã hội. Ông là một nhà ái quốc của một quốc gia đã ngưng tồn tại khi chính ông đang đứng mũi chịu sào lèo lái đất nước đó. Con người ông đầy những mâu thuẫn trong vai trò một con người và một nhân vật lịch sử – và điều mâu thuẫn lớn nhất là Mikhail Gorbachev sẽ được nhớ đến như một vĩ nhân chính vì thất bại của ông.

Tác giả: Victor Sebestyen | Biên dịch: Nguyễn Phương Tú | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp / Nghiên cứu Quốc tế

Nhìn lại con người và di sản của Mikhail Gorbachev

Mikhail Gorbachev có hai người hùng trong suy nghĩ, đều là những nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa của thế kỷ 19: Alexander Herzen và Vissarion Belinsky. Các tác phẩm của hai ông tập trung vào phẩm giá cá nhân, và Gorbachev hầu như thuộc lòng tất cả những cuốn sách của họ. Khi chúng được chuyển thể lên sân khấu Nga trong vở kịch ba phần “The Coast of Utopia” [Bờ biển xứ Không tưởng] của Tom Stoppard vào năm 2002, đích thân ông đã đến xem. Và khi buổi diễn kết thúc, ông được mời lên sân khấu để nhận một tràng pháo tay nhiệt liệt, từ những khán giả mà có lẽ vẫn chưa ra đời khi ông nhậm chức tổng bí thư cuối cùng của Liên Xô vào năm 1985.
Perestroika (cải tổ) do ông khởi xướng đã không bao giờ đi đến cái đích như ông muốn, về một chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhân đạo – có lẽ vì đích đến đó là một điều Không tưởng. Đối với giới tinh hoa Nga hiện đại, ông là một kẻ kỳ quặc nếu không muốn nói là kẻ phản bội: một kẻ ngu ngốc đã khiến Liên Xô sụp đổ, nhưng lại không tranh thủ kiếm chác từ quá trình đó. Có quyền lực, một cuộc sống thoải mái và số phận của hàng trăm triệu người trong tay, nhưng Gorbachev đã buông tất cả khi từ chức tổng thống Liên Xô vào ngày 25 tháng 12 năm 1991.

Trước đó, Gorbachev đã họp suốt tám giờ với Boris Yeltsin, tổng thống Nga và đối thủ truyền kiếp của mình, về quá trình chuyển giao quyền lực. Sau cuộc gặp, ông nằm nghỉ trong văn phòng – một lần cuối cùng. Khi đồng nghiệp thân cận Alexander Yakovlev bước vào, ông ta thấy Gorbachev nhỏ nước mắt. “Anh thấy đấy, Sasha, đó là cách mọi chuyện diễn ra,” Gorbachev nói.

Rõ ràng ông không muốn nhìn Liên Xô chết như vậy. Người đàn ông đã kết thúc Chiến tranh Lạnh, người đã thay đổi tiến trình lịch sử thế kỷ 20, không phải là nhà bất đồng chính kiến ​​hay nhà cách mạng. Ý định ngay từ đầu của ông là cải tổ Liên Xô, chứ không phải phá hủy nó. Nhưng thái độ ác cảm với bạo lực và niềm tin của ông vào sự Khai sáng là đủ để kéo sập một hệ thống mà bản thân nó được tạo nên bởi đàn áp và dối trá.

Gorbachev sinh năm 1931, ngay sau khi Stalin tập trung quyền lực và phát động phong trào tập thể hóa nhằm xóa bỏ giai cấp nông dân. Ông lớn lên ở miền nam nước Nga, một vùng nông nghiệp trù phú vốn là nơi sinh sống của những người Cossack chưa từng biết đến chế độ nông nô, trong một ngôi làng mang tên Privolnoye, có nghĩa là “tự do.” Ông có hai người ông: một người thích treo các biểu tượng Chính thống giáo; người còn lại treo ảnh chân dung của Marx và Lenin. Như nhiều người thuộc thế hệ của mình, Gorbachev có cái hiểu đời, cẩn trọng và bảo thủ của một người nông dân. Ông cũng có thể lực của một người đã đi làm nông trường từ ​​thuở nhỏ.

Chính sự nhạy cảm và bản năng con người đó nhiều năm sau đã cho phép Ronald Reagan thấy ở Gorbachev không chỉ một nhân vật Mác-Lê, mà còn là một người có rất nhiều điểm chung với ông. Cả hai đều tự thân đi lên từ các cộng đồng nông dân nhỏ, đều tin vào sự đứng đắn, và đều mang trong mình cái lạc quan và tự tin của những năm hậu Thế chiến 2.

Động lực đưa Chiến tranh Lạnh đi đến hồi kết tới từ cả mối quan hệ giữa hai người đàn ông này lẫn sự kém cỏi của nền kinh tế Liên Xô. Gorbachev, người quan tâm đến việc cải thiện điều kiện sống của người dân hơn là vị thế siêu cường mà ông cho là đương nhiên, không thấy cần thiết phải tiếp tục chạy đua vũ trang.

Đó là kết luận hợp lý sau một hành trình dài khởi đầu từ cái chết của Stalin. Khi Nikita Khrushchev xé bỏ chủ nghĩa sùng bái cá nhân Stalin vào năm 1956, Gorbachev chính là một trong những lãnh đạo đảng trẻ tuổi có nhiệm vụ truyền bá thông điệp mới xuống các cấp chi bộ. Từ đó, tách bạch chủ nghĩa Stalin khỏi chủ nghĩa xã hội đã trở thành công việc cả đời của ông. Và khi lên nắm quyền mà không có kế hoạch hay chương trình cải cách nào trong tay, Gorbachev chỉ mang trong mình niềm tin đơn giản rằng, sau 18 năm trì trệ, “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này.” Ông mang đến cho Liên Xô sức trẻ, năng lượng và – quan trọng nhất – nhân tính.

Thảm họa hạt nhân Chernobyl xảy ra chỉ một năm sau đó. Vụ tai nạn, mà chính phủ tìm cách che đậy, cho thấy sự rối loạn chức năng, kiêu ngạo và coi thường mạng sống con người của hệ thống Liên Xô. Gorbachev lập tức nắm lấy cơ hội của mình và lên án một hệ thống “bị suy đồi bởi bọn nịnh bợ, đàn áp những người có suy nghĩ khác biệt, chủ nghĩa hình thức, quan hệ cá nhân và gia tộc.” Thay vào đó, ông đề xuất “glasnost,” hay công khai hóa. Ông nói với đảng của mình rằng đây mới là chủ nghĩa xã hội đích thực.

Trên tinh thần đó, vào năm 1989 ông tuyên bố cuộc bầu cử cạnh tranh đầu tiên vào Xô Viết Tối cao. Ông cũng đồng ý nên truyền hình trực tiếp cuộc bầu cử. Hàng triệu người đã được thấy Andrei Sakharov, nhà vật lý bất đồng chính kiến ​​được Gorbachev cho phép quay về nước, công khai thách thức vị tổng bí thư. Những ngày đó làm cho độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản sụp đổ, cùng với sự bí ẩn về quyền lực của nó.

Đây cũng là tín hiệu cho tất cả các nước cộng hòa thấy rằng Liên Xô đang tan rã. Đến đầu năm 1991, trong nỗ lực tuyệt vọng để giữ lại liên bang, Gorbachev đã liều mình liên kết với các lực lượng đàn áp và đưa xe tăng Liên Xô vào Litva. Để rồi chỉ vài tháng sau, chính lực lượng do KGB lãnh đạo này tổ chức đảo chính và quản thúc ông tại Crimea. Khi cuộc đảo chính sụp đổ và ông trở lại Moscow, Gorbachev chọn về nhà để chăm sóc cho người vợ Raisa vừa bị đột quỵ, thay vì làm một chính trị gia của công chúng.

Khi dành tình cảm không giấu giếm cho vợ, Gorbachev đã vi phạm quy tắc bất thành văn yêu cầu các lãnh đạo Nga cắt bỏ hoàn toàn cuộc sống riêng tư. Nhưng một lần nữa, đặt cuộc sống riêng tư lên trên lợi ích phù du của nhà nước là quan điểm chính của ông. Rời khỏi chức vụ không phải là dấu chấm hết cho cuộc đời ông, cũng như hầu hết những người tiền nhiệm trước. Nhưng không như những người kế vị mình, Gorbachev không có gì phải sợ hãi, và không có của cải để che giấu. Trong những năm đầu tiên sau khi từ chức, ông đã đóng quảng cáo cho Pizza Hut để kiếm tiền. Theo tiêu chuẩn của giới thượng lưu Nga ngày nay, Gorbachev là một kẻ nghèo. Số tiền từ giải Nobel hòa bình năm 1990 của ông đã được dùng để thành lập Novaya Gazeta, một tờ báo tự do của Nga.

Khi Raisa được chẩn đoán mắc bệnh ung thư máu, Gorbachev đưa bà đến một phòng khám ở Đức và ôm bà trong vòng tay còn nguyên chất nông dân của mình. Sau khi chôn cất Raisa, ông đã đến dự một bữa tiệc hậu trường tại Nhà hát Nghệ thuật Moscow. Ngẫu hứng, một diễn viên đứng lên kêu gọi cựu tổng thống đọc hoặc hát một cái gì đó. Tất cả mọi người đều sững sờ vì xấu hổ, ngoại trừ Gorbachev. Đám đông tản ra tạo không gian cho ông, và Gorbachev đã ngâm bài thơ của Lermontov, “Tôi một mình lên đường. Con đường bạc màu lấp lánh trong sương mờ”.

Nguồn: “Mikhail Gorbachev has died,” The Economist, 30/08/2022.

Người dịch: Đỗ Đặng Nhật Huy