QUẢNG NGÃI – Ngôi nhà với mái ngói dốc giúp thoát nước mưa nhanh, chắn hướng nắng gắt và vẫn đón được luồng gió mát từ biển.
Ngôi nhà nghỉ dưỡng gia đình diện tích 160 m2, xây trên mảnh đất 500 m2, giáp biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi.
Gia chủ yêu cầu kiến trúc sư thiết kế một căn nhà có tối đa góc nhìn từ các hướng để tận dụng địa thế giáp biển, đồng thời khắc phục được những bất lợi về khí hậu miền Trung, nắng gắt, mưa tạt mạnh.
Giải pháp của kiến trúc sư là ngôi nhà mang bản sắc địa phương cách điệu, mềm mại và phù hợp kiến trúc nhiệt đới với mái ngói dốc để thoát nước mưa nhanh.
Thiết kế nâng cao giá trị về màu sắc, hình khối với màu đỏ của gạch ngói, màu vàng của nắng và cát. Mái ngói đỏ kết hợp với tường trắng uốn lượn, tạo cảm giác như hai tấm lụa trắng và đỏ quấn vào nhau.
Tổng thể hình khối của công trình đã giải quyết yếu tố khí hậu. Công trình che chắn ở hướng Bắc (hướng có mưa tạt vào mùa đông) và lấy sáng cả hai hướng Đông và Tây.
Với thiết kế này, chủ nhà có thể tận hưởng bình minh và hoàng hôn ngay trên sân cát chung.
Hình khối chống bão là các khe hở giữa hai khối để luồng gió biển lưu thông và giảm áp suất khi tới sân nhà.
Công năng khu sinh hoạt chung và khu ở được liên kết trên một hành lang, nơi mọi người có thể quây quần đốt lửa và trò chuyện.
Thay vì bãi cỏ và nhiều cây xanh như nhiều công trình nghỉ dưỡng khác, một sân cát được đặt giữa các khu nhà.
Theo chủ ý của kiến trúc sư, vì công trình nằm trong làng chài, người dân quen sống với cát và nắng nên đây là điểm nhấn mang tính địa phương. Lý do khác đây cũng là nơi ở cuối tuần của gia đình ở thành phố, vốn ít được trải nghiệm với cảm giác nguyên sơ, bởi vậy sân cát là một ý tưởng hợp lý.
Công trình được mở về hướng có gió mát, các hướng nắng xấu được che chắn và tạo những khoảng đệm nhỏ trước khi tiếp xúc trực tiếp tới công trình. Bởi vậy ánh nắng gay gắt từ 10h đến 14h không ảnh hưởng nhiều tới không gian sinh hoạt.
Đây cũng là lý do khiến gió mát lưu thông trong nhà suốt cả ngày.
Cầu thang dạng xoắn ốc dẫn lên tầng hai.
Những hình khối trải dài bao phủ khu đất được thiết kế đặc rỗng đan xen giúp tăng sự thông thoáng, tạo các khoảng đón gió từ biển. Ánh sáng chiếu vào các hình khối cũng tạo nên những mảng không gian có độ tương phản, tạo điểm nhấn cho công trình.
Nội thất của công trình sử dụng nguyên liệu truyền thống địa phương, mang phong cách tối giản. Việc sử dụng nội thất gỗ mộc cùng với rèm tre xuyên suốt làm tăng sự mát mẻ vừa khiến công trình trở nên gần gũi, thân thuộc hơn.
Một góc khu bếp ăn với những vật dụng quen thuộc.
Bản vẽ 3D của công trình.
Thời gian xây dựng ngôi nhà là 5 tháng, chi phí 2 tỷ đồng.
Trang Vy/Thiết kế và thi công: IZ architects / Ảnh: Nguyễn Cường /Vietnam Express
Nói về thơ Nguyễn Bính, trước nay người ta vẫn sử dụng một định thức quen thuộc: thi sĩ chân quê. Thì cũng chẳng sai. Nhưng trong thơ Nguyễn Bính còn hiện diện cả một phần thành thị, vừa như một đối trọng lại vừa như một sự bổ sung cho cái phần quê kiểng đậm đặc mà ai cũng nhận thấy kia.
Nhà thơ Nguyễn Bính (1918 – 1966)
Cũng có thể cho rằng với nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, thành thị vừa là sức đẩy lại vừa là sức hút, và thơ ông, trên một phương diện nào đó, chính là những dao động giữa hai lực này.
Hôm qua em đi tỉnh về/ Đợi em ở mãi con đê đầu làng/ Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/ áo cài khuy bấm em làm khổ tôi! (Chân quê). Trong mắt của anh trai quê đang nóng ruột đón đợi người yêu trở về, thì “tỉnh” – nghĩa là thành thị – quả là một nơi chốn tai vạ! Nó nhào nặn dáng vẻ bề ngoài của cô thôn nữ anh yêu theo cách rất khác so với hệ giá trị thẩm mỹ truyền thống, hệ giá trị thẩm mỹ mà đến tận lúc này vẫn nằm trong máu thịt của anh. Anh cuống cuồng lo sợ trước sự thay đổi. Vì – hẳn là một người nhạy cảm – anh thoáng thấy “cái khác” ấy tiềm ẩn một sự thoái hóa về chất: Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Như vậy đấy, phản ứng đầu tiên của người nhà quê Việt Nam trước những yếu tố đại diện cho thành thị, một thứ phản ứng mang tính chất tự vệ trước cái dị kỷ và khó đoán định. Không có gì khó hiểu, sống sau lũy tre làng từ bao đời nay, người nhà quê Việt Nam làm sao mà đã thấy ngay được cái “hay hớm” của thành thị: những con người ăn trắng mặc trơn, quanh năm chẳng biết đến cày bừa cấy hái; sống thì nhà nào biết nhà nấy, chẳng quần tụ xóm làng họ hàng, chẳng sát gần phần mộ tổ tiên; ăn nói thì khéo léo trơn tru đến mức không tin được; đã thế, họ lại du nhập lắm thứ sinh hoạt lai căng nhăng nhố từ tít tận trời Tây, chẳng có gì giống với tập quán ngàn đời ở xứ sở này.
Thế nhưng, thành thị là một cái mới ở xã hội Việt Nam lúc ấy. Mà cái mới, nói sao mặc lòng, bao giờ cũng có sức hấp dẫn và sức kích thích riêng của nó. Thành thị không chỉ đe dọa người nhà quê, mà nó còn hứa hẹn với họ. Thơ Nguyễn Bính đã hơn một lần nói đến việc người nhà quê bỏ làng lên phố, thay đổi hẳn không gian sinh sống và phương thức tồn tại: Gia đình thiên cả lên Hà Nội/ Buôn bán quanh năm bỏ cấy cày (Giời mưa ở Huế). Thành thị, xét như một cực văn hóa đối trọng với cực văn hóa nông thôn, còn mời mọc người nhà quê gia nhập vào nó để tự khám phá những chiều kích chưa từng được biết đến trong bản thể văn hóa của anh ta. Thì đây: Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rượu). Tuần trăng mật của người nhà quê – ta cứ tạm coi người nhà quê này chính là thi sĩ Nguyễn Bính hóa thân – với thành thị không phải là không có những khoảng thời gian đắm say ngây ngất. Gia nhập thành thị, Nguyễn Bính được sống trong một bầu khí quyển văn hóa khác, được biết và được trải nghiệm những trạng thái cảm xúc – tinh thần khác, khác hẳn so với khi ông chỉ là một người nhà quê, ở quê. Chuyện yêu đương chẳng hạn. Nếu trước kia “thông điệp tình yêu” trong thơ ông được phát đi theo con đường bóng gió xa xôi: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào? (Tương tư), thì bây giờ nó trực tiếp hơn nhiều: Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/ Đừng hôn dù thấy cánh hoa rơi/ Đừng ôm gối chiếc đêm nằm ngủ/ Đừng tắm chiều nay biển lắm người/ Tôi muốn mùi thơm của nước hoa/ Mà cô thường xức chẳng bay xa/ Chẳng làm ngây ngất người qua lại/ Dẫu chỉ qua đường khách lại qua (Ghen). Xưng hô bằng những đại từ “tôi, cô”, rồi nói tới việc cô ôm gối ngủ, cô đi tắm biển, cô xức nước hoa… – “cô” ở đây hẳn là một cô tân thời, chứ tuyệt không phải một cô thôn nữ má hồng răng đen – chỉ từng ấy đã đủ để thấy dấu ấn thành thị trong tình yêu của người (vốn là) nhà quê Nguyễn Bính – yêu và ghen và bộc lộ cái ghen của mình theo cách của người thành thị, trên những “vật liệu” của đời sống thành thị. Nếu đọc cho kỹ, ta sẽ nhận ra trong cái ghen này một điều gì đó như là sự náo nức, rộn ràng, hồ hởi: ấy chính là niềm vui khi người nhà quê lần đầu tiên được biết đến một thứ trạng thái cảm xúc lạ mà thành thị đã gây mầm trong tâm hồn mình!
Gia nhập đời sống thành thị trong vai một nghệ sĩ tự do, có thể nói, Nguyễn Bính đã nhận được khá nhiều từ thành thị: việc mưu sinh bằng khả năng thiên phú của mình (làm thơ), những mối quan hệ xã hội rộng rãi, những cuộc tình lãng mạn, những chuyến xê dịch cho thỏa chí tang bồng trên nhiều vùng miền đất nước, và cả những thú ăn chơi nghiêng trời lệch đất (thuốc phiện, cô đầu). Ông tận hưởng chúng một cách vồ vập, không khách khí. Tuy nhiên, tự trong căn cốt, Nguyễn Bính vẫn cứ là một người nhà quê như mọi người nhà quê Việt Nam bao đời nay. Ông “dan díu với kinh thành” nhưng không thể hòa tan vào nó để trở thành chính nó. Trái lại, trước những biểu hiện của “cái thành thị”, con người nhà quê trong ông luôn thường trực một sự bất mãn, một thái độ phản kháng. Với ông, thành thị không phải nơi đất lề quê thói của những con người thuộc về cộng đồng họ mạc lâu đời, mà nó là chốn tụ lại của dân tứ chiếng với những mối quan hệ bèo nước nay hợp mai tan, không bền mà lại lắm dối trá, lọc lừa. Vì thế mà ông thấy cảnh: Mụ vợ bắc nam người tứ xứ/ Anh chồng tay trắng lẫn tay đen/ Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa/ Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên (Xóm Ngự Viên). Vì thế mà có lúc, dẫu thừa sự đa tình, ông sợ phải gắn bó tình cảm với một người con gái: Hàng xóm có người con gái lẻ/ Y chừng duyên nợ với nhau đây/ Chao ôi, ba bốn tao ân ái/ Đã đủ tan tành một kiếp trai/ Tôi rờn rợn lắm giai nhân ạ!/ Đành phụ nhauthôi kẻo tới ngày/ Khăn gói gió đưa sang xứ lạ/ Ai cười cho được lúc chia tay? (Giời mưa ở Huế). Tâm trạng bơ vơ lạc lõng này được Nguyễn Bính cực tả trong bài Hành phương Nam, khi mà giữa Sài Gòn phồn hoa đô hội, ông chợt nhận ra mình xa lạ biết bao với xung quanh: Ta đi nhưng biết về đâu chứ?/ Đã dấy phong yên khắp bốn trời/ Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi/ Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ/ Ta với nhà ngươi cả tiếng cười/ Dằn chén hất cao đầu cỏ dại/ Hát rằng phương Nam ta với ngươi (Hành phương Nam).
Tuy vậy, thành thị, với tất cả sự gắn bó và những sức mạnh tác động của nó đến con người nhà quê trong căn cốt tinh thần của Nguyễn Bính (phải nói thêm: con người nhà quê đa tình, giàu cảm xúc), không phải là Huế hay Sài Gòn, mà là Hà Nội. Hầu như Nguyễn Bính không có một bài thơ hay một câu thơ nào sáng sủa vui tươi về Hà Nội. Sống ở Hà Nội, kết giao bằng hữu ở Hà Nội, thỏa chí phóng túng hình hài ở Hà Nội, song với ông, kinh thành Hà Nội dường như lại là một không gian ngả về sự tàn lụi, héo úa, điêu tàn, hấp hối. Điều đáng chú ý là trong thơ, Nguyễn Bính luôn nhìn Hà Nội bằng con mắt sầu tình – cái sầu của sự biệt ly và chết chóc trong tình yêu. Thương vay khóc mướn, Nguyễn Bính đã “viếng hồn trinh nữ” không quen biết qua việc nhuộm Hà Nội trong một màu trắng tang tóc lạnh người: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/ Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ/ Tôi thấy quanh tôi và tất cả/ Kinh thành Hà Nội chít khăn xô… Có một chiếc xe màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/ Đem đi một chiếc quan tài trắng/ Và những vòng hoa trắng lạnh người/ Theo bước, những người khăn áo trắng/ Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi (Viếng hồn trinh nữ). Trong xúc cảm hồi nhớ về một cuộc ly biệt năm nào, Hà Nội bị ông bóp méo bằng những nghịch âm nghịch sắc: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve/ Nắng dâng làm lụt cả trưa hè/ Năm xưa một buổi đangmưa lụt/ Tôi tiễn chân người sang biệt ly (Nhớ người trong nắng). Cũng có khi, dù không ở Hà Nội, nhưng Nguyễn Bính vẫn buộc phải chịu đựng sự giày vò đau đớn từ Hà Nội: Hôm qua bắt được thư Hà Nội/ Cho biết tin Dung đã đẻ rồi/ Giờ sửu, tháng ngâu, ngày nguyệt tận/ Bao giờ tôi biết mặt con tôi/ Nào đoán thử xem tên con gái/ Oanh, Yến, Đào, Trâm, Bích, Ngọc, Hồi…/ Tôi biết vô tình Dung lại muốn/ Con mình mang lấy nghiệp ăn chơi (Oan nghiệt). Khi ấy, ở giữa hai hàng chữ của văn bản thơ, Hà Nội đã ngầm hiện lên như một không gian dung chứa sự thác loạn thành thị, nơi mà khách làng chơi và gái làng chơi đã ngẫu hợp trong những cơn cuồng hoan vô trách nhiệm và đem lại cho nhân gian một nỗi oan nghiệt mang hình người. Cả một bài thơ dài Oan nghiệt là những tưởng tượng đen tối, những hối hận nhục nhã, những giật mình kinh sợ của Nguyễn Bính khi nhận được tin một cô gái làng chơi nào đó tên Dung ở Hà Nội đã có con với mình. Đỉnh điểm bi kịch của và trong sự tưởng tượng đó là: Chàng chàng thiếp thiếp cho bằng được/ Bố bố con con chẳng nhận nhau (Oan nghiệt) – cha, gã nghệ sĩ lãng tử; và con, gái làng chơi theo nghiệp mẹ, có thể sẽ rơi vào loạn luân mà không biết. Hà Nội là cái khung nền cho tưởng tượng ấy!
Như vậy đấy, Nguyễn Bính không phải chỉ là con người của nông thôn: ông như người lái đò qua lại giữa hai bờ nông thôn và thành thị. Ông háo hức nhập cuộc với thành thị rồi mau chóng vỡ mộng, sầu buồn, đau đớn vì nó, nhưng vẫn không thể dứt bỏ được nó. Kiểu cảm thức này còn kéo dài trong thơ Việt Nam, kỳ lạ thay, ngay cả khi thành thị đã không còn là một cái mới như ở thời của Nguyễn Bính.
Văn hóa ngủ trưa đang trở nên quen thuộc hơn ở những quốc gia phương Tây. Các công ty như Google, Samsung hay NASA đều thiết kế chỗ ngủ trưa cho nhân viên.
Chúng ta thường cảm thấy buồn ngủ vào buổi chiều, do nhịp sinh học chậm lại, nhằm cảnh báo chúng ta cần tỉnh táo. Do đó, ngủ trưa là một cách để bạn bớt buồn ngủ hơn.
Nhân viên công ty Goopal Group ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngủ trưa ngay tại bàn làm việc. Ảnh: Reuters.
Kenny Pang – chuyên gia của Trung tâm Giấc ngủ châu Á (Asia Sleep Centre) của Singapore, cho biết một giấc ngủ ngắn vào buổi trưa giúp chúng ta tái tạo tinh thần và tăng khả năng tập trung.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng ngủ trưa giúp cải thiện trí nhớ, giảm căng thẳng và tăng cường hệ thống miễn dịch, thậm chí có thể chống lại các vấn đề sức khỏe liên quan đến thiếu ngủ.
Marianne Parker – một phụ nữ sinh ra ở Anh, từng làm việc tại một công ty dịch thuật ở Thanh Đảo, Sơn Đông (Trung Quốc), cho biết cô vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy bối rối khi các đồng nghiệp lôi ra một chiếc gối từ ngăn kéo bàn của họ để tranh thủ chợp mắt vào buổi trưa.
Tuy nhiên, Parker sau đó đã không mất nhiều thời gian để làm theo họ, và rồi cảm thấy bản thân được nghỉ ngơi đầy đủ, làm việc hiệu quả hơn sau đó. Giờ đây, khi đã trở lại Anh, cô tin rằng nơi làm việc hiện tại của mình nên hình thành văn hóa ngủ trưa tương tự.
Mặc dù vai trò của giấc ngủ trong việc tăng khả năng sáng tạo vẫn còn đang được các nhà khoa học tranh luận, nhưng đa phần đều không phủ nhận lợi ích của việc ngủ trưa.
Nghệ sĩ Tây Ban Nha Salvador Dalí thường dành nửa giờ mỗi ngày để chợp mắt. Anh sẽ ngồi thẳng lưng, cầm trong tay một chiếc chìa khóa. Khi chiếc chìa rơi ra, gây tiếng động, anh sẽ ngay lập tức tỉnh dậy. Theo Dalí, phút nghỉ ngắn ngủi này là tất cả những gì anh cần để vực dậy tinh thần và thể chất. Giai đoạn lơ lửng giữa giấc ngủ và có ý thức này được gọi là hypnagogia – nó có thể cho phép tâm trí linh hoạt hình thành các kết nối sáng tạo. Phương pháp “ngủ ngắn” này đã được các nhà sáng tạo và nhà khoa học nổi tiếng khác như nhà phát minh Thomas Edison, nhà văn kiêm nhà thơ Edgar Allan Poe… áp dụng.
Chuyên gia tai mũi họng Pang cũng cho rằng, ngủ trưa có thể có tác động tích cực đến sức khỏe tinh thần của một người. Các cuộc khảo sát ở Anh và Mỹ đã tìm thấy mối liên hệ giữa việc ngủ trưa và mức độ hạnh phúc, với điều kiện giấc ngủ ngắn hơn 30 phút. Thế nên, các nhà nghiên cứu gọi giấc ngủ trưa là “Nghệ thuật cân bằng”.
Clara Chan, chuyên gia y khoa Trung Quốc khuyến cáo nên ngủ trưa dưới một giờ, bởi ngủ quá lâu có thể làm loạn nhịp sinh học và ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ ban đêm.
Mặc dù thời gian ngủ trưa lý tưởng ở mỗi người là khác nhau, Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia, Mỹ tin rằng thời gian lý tưởng là khoảng 20 phút. Việc ngủ quá lâu có thể gây cảm giác chệch choạc, mất phương hướng.
Tuy nhiên, ngủ trưa không phải lúc nào cũng tích cực. Theo Pang, ngủ trưa có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề như mất ngủ, tức là mất khả năng đi vào giấc ngủ hoặc không ngủ được. Trong khi đó, Clara Chan giải thích rằng ngủ trưa có thể là dấu hiệu của các vấn đề đáng chú ý của cơ thể như thiếu ngủ, thiếu máu, tiểu đường, khả năng hoạt động kém của tim, hoặc các tình trạng tâm lý như trầm cảm.
Euro yếu sẽ khiến hàng nhập khẩu vào châu Âu đắt đỏ hơn, kéo lạm phát lên cao, nhưng lại có lợi cho các hãng xuất khẩu khu vực này.
Đồng tiền chung châu Âu hôm 12/7 lần đầu tiên trong 20 năm có giá tương đương USD. Hiện tại, giá euro đã nhích lên. Mỗi euro đổi được 1,04 USD. Cũng như các đồng tiền khác, euro yếu đi sẽ gây ra nhiều tác động với nền kinh tế khu vực này.
Với lạm phát và sức mua
Gần nửa hàng hóa nhập khẩu vào eurozone được thanh toán bằng USD, cao hơn so với gần 40% bằng euro, theo số liệu của Cơ quan Thống kê châu Âu Eurostat. Ví dụ, dầu mỏ và khí đốt thường được trả bằng USD. Giá hai loại hàng hóa này đã tăng vọt vài tháng qua do chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine.
Điều này đồng nghĩa châu Âu sẽ cần nhiều euro hơn để trả cho cùng một lượng hàng hóa niêm yết bằng USD. “Hàng nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn”, càng khiến lạm phát thêm trầm trọng và làm giảm sức mua của các hộ gia đình, Isabelle Mejean – Giáo sư tại Đại học Sciences Po nhận định.
Một người đàn ông đang mua hàng tại chợ ở Rome (Italy). Ảnh: Reuters
William De Vijlder – nhà kinh tế học tại BNP Paribas thì bổ sung một tác động đặc biệt nữa khi euro mất giá so với USD là “làm giảm hoạt động du lịch từ châu Âu sang Mỹ”. Nguyên nhân là du khách châu Âu sẽ cần nhiều euro hơn để mua hàng hóa bằng USD. Việc này sẽ kéo tổng chi phí của chuyến đi lên cao. Không chỉ với Mỹ, ảnh hưởng này sẽ còn xuất hiện khi họ tới các nước neo đồng tiền vào USD, như Qatar hay Jordan.
Trái lại, du khách từ Mỹ, Qatar hay Jordan sang châu Âu sẽ hưởng lợi, do đồng tiền của họ đổi được nhiều euro hơn trước đây.
Với các doanh nghiệp
Tác động của việc euro yếu đi còn tùy từng doanh nghiệp, theo mức độ phụ thuộc vào ngoại thương và năng lượng.
“Các công ty xuất khẩu ra ngoài khu vực đồng euro sẽ hưởng lợi khi giá giảm, do sản phẩm của họ cạnh tranh hơn khi đổi sang USD”, Philippe Mutricy – Giám đốc nghiên cứu tại ngân hàng Bpifrance nhận xét, “Nhưng ngược lại, các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ gặp bất lợi”.
Trong trường hợp các thợ thủ công địa phương – những người phụ thuộc vào nguyên liệu thô và năng lượng, nhưng ít xuất khẩu – đồng euro yếu đi sẽ khiến chi phí sản xuất tăng vọt.
Bên hưởng lợi lớn nhất là các hãng sản xuất theo định hướng xuất khẩu, như hàng không vũ trụ, xe hơi, hàng xa xỉ và hóa chất.
Bên cạnh đó, các công ty lớn “có sự chuẩn bị tốt hơn trước các cú sốc”, do họ có thể phòng trừ rủi ro tỷ giá biến động, Mutricy giải thích. “Họ có thể mua trước ngoại tệ với tỷ giá phù hợp để phòng trừ biến động lớn trong tương lai”, ông nói.
Với tăng trưởng kinh tế và nợ
Đồng euro giảm trên lý thuyết sẽ khiến giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tại châu Âu, từ đó kích thích kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, lợi ích này có thể bị lấn át bởi giá hàng hóa tăng vọt do xung đột Ukraine, đặc biệt là tại các nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu như Đức.
Tác động lên khả năng trả nợ thì mơ hồ hơn. Mejean cho rằng nền kinh tế càng tăng trưởng tốt, khả năng trả nợ càng cao. Tuy nhiên, đó là với điều kiện các thị trường tài chính coi nợ của châu Âu là an toàn và lãi suất vẫn ở mức thấp.
Còn với các nước phát hành trái phiếu bằng USD, giá euro giảm so với USD chỉ càng khiến khối nợ của họ thêm nặng nề.
Với các ngân hàng trung ương
Nội tệ yếu kéo lạm phát lên cao sẽ càng khiến Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) nâng lãi suất nhanh hơn. Cơ quan này thông báo trong tháng 7 sẽ nâng lãi lần đầu tiên trong 11 năm.
“Thách thức từ việc lấy lại quyền kiểm soát lạm phát sẽ tăng lên khi tỷ giá kéo hàng nhập khẩu lên cao”, De Vijlder nói.
Cuối tháng 5, Ngân hàng Trung ương Pháp hồi tháng 5 từng nhận định đồng euro yếu đi sẽ làm phức tạp thêm các nỗ lực kiềm chế lạm phát của ECB. Lạm phát eurozone đã lên 8,6% trong tháng 6.
Đế chế La Mã đã tham gia tạo dựng nên một nền văn minh tiến bộ bằng sự hiểu biết, ham học hỏi mà thế giới hiện đại đang kế thừa và phát triển.
Từ 1.500 năm TCN, một cộng đồng người di cư đã vượt dãy Alps và biển Adriatic tới phía Đông của bán đảo Italia khai hoang. Họ sinh sống, trồng trọt trong một thị trấn nhỏ có tên là thành Roma. Và cũng chính những người nông dân di cư này, bằng nỗ lực phi thường đã xây dựng nên đế chế La Mã, một đế chế được mệnh danh là “Imperium sine fine” – Đế chế không có điểm kết thúc, không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Đồng thời là đế chế hình mẫu cho sự ưu việt về văn hóa, công nghệ, quân sự và xã hội đương thời.
Đế chế ham học hỏi, không ngừng sáng tạo
Trong thời kì cổ đại, giáo dục La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic… với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc, chính là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.
Người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ 4 TCN có nguồn gốc từ văn tự Hy Lạp, họ đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ viết riêng của mình – chữ Latinh trở nên phổ biến và chính là nguồn gốc của các ngôn ngữ ở châu Âu. Nhờ có chữ Latinh mà chúng ta phát triển được ra ngôn ngữ chung cho cả thế giới, thúc đẩy nhiều lĩnh vực phát triển như chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học, nghệ thuật… mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.
Văn học La Mã chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hy Lạp gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch… Người La Mã tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: Thần Zeus – thần Jupiter, Thần Hera, Poseidon, Demeter, Athena… và các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch. Trong đó, thần thoại của La Mã luôn gắn liền với những câu chuyện từ các vị thần cùng những khát vọng gần gũi với con người hơn.
Titus Livius (59 TCN – 17 SCN) nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kì trị vì của Augustus đã viết Lịch Sử La Mã dài 142 chương, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước qua lịch sử hào hùng của dân tộc… Những thành tựu này, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.
Kiến trúc La Mã phát triển rực rỡ, đại diện tiêu biểu La Mã là Vitrius (86-26 TCN), ông đã dành cả cuộc đời để viết về các kỹ thuật kiến trúc xây dựng và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay.
Trong đó, phải kể đến biểu tượng Colosseum đấu trường lớn nhất, vĩ đại nhất của đế chế La Mã được xây dựng năm 72 sau CN, hoàn thành sau 8 năm với chiều cao 8m, dài 189m, rộng 156m, diện tích dáy 24.000m², chu vi bên ngoài 545m và kích thước đấu trường trung tâm là 87m x 55m. Để xây dựng nên công trình này, người La Mã đã sử dụng 100.000 m3 đá, 300 tấn kẹp sắt để kết nối. Colosseum có sức chứa 50.000 – 80.000 khán giả. Đây nơi diễn ra những màn tử chiến vô cùng đẫm máu và tàn bạo giữa các tù binh giác đấu, các tù binh chiến tranh, nô lệ cùng những con quá thú nhằm mục đích mua vui cho vua chúa và người dân. Tiếp đến là trường đua Cirus Maximus có sức chứa 250.000 khán giả. Đấu trường này, đã mang lại cho các tay đua nguồn thu nhập khổng lồ so với những vận động viên thể thao đương đại.
Về lĩnh vực khoa học La Mã có sự tiến bộ vượt bậc, tiêu biểu như Heron (thế kỷ 1) – một kỹ sư tài ba và là nhà toán học xuất sắc với các cách tính diện tích. Nhà toán học và thiên văn học Menelaus (thế kỷ 2 – 3) đã chứng minh được tổng các góc trong một tam giác cầu lớn hơn 180 độ và cách tính dây cung mặt cầu.
Nhà toán học Claudius Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ 2) – người đầu tiên vẽ bản đồ trái đất, lấy Địa Trung Hải làm trung tâm với tác phẩm “Hệ thống vũ trụ”, ông cho rằng trái đất là hình tròn đã giúp các nhà địa lý tìm ra những miền đất mới.
Nhà triết học, thầy thuốc Claudius Galen (131- đầu thế kỉ 3) đại diện xuất sắc cho nền y học tiến bộ của La Mã với tác phẩm “Phương pháp chữa bệnh” chứng minh được rằng các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy trong vòng nửa giờ.
Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người Hy Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại. Bộ luật 12 bảng với tiến bộ vượt bậc đã chống lại sự phán xét độc đoán của giới quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân. Luật La Mã ảnh hưởng đến hệ thống pháp lý sau này của phương Tây và nhiều quốc gia hiện đại.
Cuối thế kỉ thứ 2 TCN – đầu thế kỉ thứ 1, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Sau khi người La Mã theo Kitô giáo đã nâng tôn giáo này từ một giáo phái nhỏ thành một trong các tôn giáo lớn của thế giới.
Những đóng góp của đế chế La Mã có huy hoàng, xán lạn đến đâu đi chăng nữa cũng đều bắt nguồn từ nỗ lực học hỏi, sáng tạo không ngừng từ nhiều nền văn minh khác, trong đó có Hy Lạp. Họ đã tiếp thu, hoàn chỉnh thành cá riêng của dân tộc mình. Nếu như không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật, khoa học Hy Lạp và đế chế La Mã; không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì cũng không có châu Âu hiện tại được.
Một cá nhân với khát vọng lớn đã đoàn kết cả dân tộc
Đế chế La Mã được hình thành từ khát vọng chinh phục nhưng lại duy trì và phát triển nhờ tinh thần kỷ luật, tinh thần sáng tạo không ngừng, mà còn bởi ở tài năng của vị thủ lĩnh kiệt xuất như Julius Caesar đã gắn kết cả dân tộc bằng một tinh thần đoàn kết. Ông đã kết nối các cá nhân lại với nhau thành một thể thống nhất nhằm đánh bại mọi kẻ thù tạo nên đế chế La Mã hùng mạnh nhất trong lịch sử.
Julius Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn, nội bộ La Mã bị chia rẽ thành hai phe Quý tộc bảo thủ và Dân chủ. Bên ngoài, các quốc gia đồng minh liên tục gây chiến, tranh giành lãnh thổ. Năm Caesar 16 tuổi, cha ông đột tử, toàn bộ tài sản thừa kế bị bọn quan độc tài sung công. Ông quyết định gia nhập quân đội phục vụ ở khu vực Tiểu Á, thời cuộc hỗn loạn đã trở thành môi trường đào tạo và đòn bẩy giúp cho Caesar sớm bộc lộ tài năng quân sự của mình.
Julius Caesar là một thủ lĩnh đầy khát vọng. Khi còn tham gia quân đội tham chiến tại Gaul (nay là Pháp và Bỉ), ông đánh bại những bộ lạc ở đây, trở thành thủ lĩnh vùng Gaul và xây dựng quân đội để bắt đầu thực hiện các hoạt động quân sự nhằm củng cố vị thế
Caesar sớm bộc lộ mong muốn trở thành một trong những lãnh đạo vĩ đại của La Mã. Ông cũng là nhà cầm quân thiện chiến, luôn đặt lợi ích cá nhân dưới cộng đồng, đặt bản thân mình dưới đất nước và các đối thủ mạnh hơn nhiều lần cũng không làm ông sợ hãi.
Trong trận chiến nổi tiếng Pharsalus, ông đã chỉ huy đội quân 22.000 người đánh bại hoàn toàn đội quân 60.000 binh sĩ của phe Quý tộc. Sau đó, Julius Caesar dẫn quân chinh phục vùng Trung Đông, Bắc Phi mở rộng bờ cõi La Mã. Ông cũng là người hỗ trợ về quân sự để Cleopatra có thể trở thành nữ hoàng Ai Cập. Với các chiến công hiển hách, khi trở lại La Mã, Julius Caesar được tôn làm nhà lãnh đạo tối cao của La Mã và tôn làm Cha của Đất nước.
Ngay từ thuở thiếu thời, dù không giàu có nhưng gia đình Julius Caesar đã mời một nhà hùng biện nổi tiếng về dạy dỗ ông. Sau này, để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Julius Caesar còn theo học một nhà hùng biện nổi tiếng khác của La Mã. Với tài hùng biện xuất sắc, ông đã thuyết phục được một lực lượng hùng mạnh phò trợ cho mình. Bên cạnh đó, ông cũng chiếm được sự trung thành tuyệt đối của quân sĩ dưới quyền.
Đối với bản thân, Julius Caesar cũng vô cùng khắt khe. Ông tập luyện và sinh hoạt như một chiến binh, ông có khả năng sử dụng kiếm và cưỡi ngựa xuất sắc cùng sức chịu đựng đáng kinh ngạc. Trên trận chiến, ông không phải là vị tướng đi sau hàng quân mà luôn luôn là người đi đầu dẫn dắt. Khi nhìn thấy vị chủ tướng vung kiếm hô vang lời xung kích, đội quân La Mã đã vùng lên như vũ bão, bất chấp lực lượng đối địch, bất chấp địa hình, thời tiết… và họ đã trở thành đội quân làm nên sự vĩ đại của đế chế La Mã.
Chí hướng lớn tạo nên đế chế hùng mạnh thời cổ đại
Vương quốc La Mã được bao bọc ba mặt là biển, phía bắc là dãy Alps. Khi người La Mã thống trị vùng đất này, họ muốn mở mang bờ cõi, xây dựng một đế chế không biên giới về lãnh thổ. Dựa vào sức mạnh quân sự, Roma chinh phục các vùng đất quanh khu vực Địa Trung Hải.
Cỗ máy quân sự của La Mã đi tới đâu, chiến tranh và kiểm soát đến đó. Đội quân này rất kiên trì và tham vọng thống trị đến mức sẵn sàng chiến đấu bất kể đổi thủ mạnh như thế nào, thời gian chiến tranh kéo dài bao lâu. Điển hình nhất là trận La Mã – Ba Tư kéo dài 683 năm đã trở thành cuộc xung đột kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại.
Trải qua thời kỳ quân chủ (khoảng những năm 753 TCN đến 509 TCN), đế chế La Mã bước vào nền Cộng hòa La Mã. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Ý như người Samnite và Sabine, người Etrusca.
Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 TCN, Roma xung đột với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicilia và Iberia. Sau khi đánh bại Vương quốc Macedonia và đế chế Seleucid vào thế kỉ thứ 2 TCN, người La Mã trở thành những người chủ của vùng Địa Trung Hải.
Thế kỷ thứ 2 SCN, hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu bị La Mã thống trị
Vào thời kỳ cực thịnh, đế chế La Mã cai quản một vùng đất rộng lớn khoảng 5 triệu km2, là đế chế lớn thứ 24 trong lịch sử với khoảng 50-90 triệu thần dân, chiếm khoảng 12-20% dân số thế giới lúc bấy giờ. Riêng thủ phủ Roma đã khoảng 1 triệu dân vào thời hoàng kim và là thành phố đông đúc nhất thời bấy giờ.
Lịch sử đã ghi nhận Maximinus Tharax trị vì đất nước từ năm 235 -258 SCN, ông nắm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội đầu tiên của đế chế La Mã. Vào thời điểm này, đế chế La Mã đã phát triển rộng lớn đến mức không còn khả thi để cai trị tất cả các tỉnh từ vị trí trung tâm. Tuy nhiên vào giai đoạn khủng hoảng từ năm 235-284 SCN đã có tới 14 vị hoàng đế – chiến binh thay nhau nắm quyền nhưng chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Đến thời đại Septimius Severus, quân đội La Mã vô cùng hùng mạnh với 500.000 binh lính, 182.000 lính bộ binh, 250.000 quân trợ chiến, 10.000 cận vệ hoàng đế, 40.000 hải quân và 11.000 quân Madi.
Chiến binh La Mã xuất phát điểm là những người du cư thuần nông nhưng lại có thể trở thành bậc thầy trong tác chiến và thực thi chiến lược. Từ một thị trấn nhỏ như ở Italy, người La Mã đã trở thành bá chủ Địa Trung Hải và các khu vực Châu Á, Tiểu Á, Bắc Phi.
Đội quân La Mã còn được gọi là “Exercitus” nghĩa là “rèn luyện” và họ tôn thờ nữ thần kỷ luật Disciplina. Điều này nhấn mạnh rằng người La Mã cực kỳ chú trọng tới công tác huấn luyện và tính kỷ luật một cách nghiêm ngặt. Binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng.
Đội hình La Mã được mô tả như là một “cỗ máy quân sự” và được coi là những người lính chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới. Lính La Mã rèn luyện ở mọi nơi, ngay cả trên chiến trường hay đường hành quân. Mỗi chiến binh đều hiểu, họ phải đạt đến ngưỡng hoàn hảo, có thể sử dụng kết hợp cùng lúc các loại vũ khí như kiếm, giáo và khiên. Có khả năng chiến đấu độc lập và phối hợp binh đoàn đầy hiệu quả.
Trở nên hoàn hảo cũng là lựa chọn duy nhất, bởi đội hình tác chiến của quân đoàn La Mã vô cùng phức tạp. Các đơn vị chiến thuật có từ 60 – 120 người. Mỗi chiến binh mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Khi tác chiến họ sắp xếp đội hình, hành quân và phối hợp chiến đấu vô cùng chuẩn xác.
Đội hình vai kề vai, sát cánh cùng nhau đã tạo ra một khối sức mạnh tấn công sâu vào hàng ngũ quân địch. Đôi khi, mỗi chiến binh sẽ chiến đấu hoàn toàn đơn độc, xoay chuyển và đối phó với kẻ thù từ mọi hướng. Quân đoàn La Mã có thể đương đầu với nhiều loại quân khác nhau một cách hiệu quả từ kỵ binh, cung thủ, máy móc cho tới chiến tranh du kích. Họ gần như bất khả chiến bại, kỷ luật là yếu tố làm nên sức mạnh của đội quân La Mã cổ đại, một trong những đế chế rộng lớn nhất lịch sử nhân loại.
Họ có thể chịu những thất bại nặng nề, ngay cả khi đứng trước nguy cơ bị hủy diệt hoàn toàn nhưng họ chưa bao giờ khuất phục. Họ chấp nhận thua trong từng trận đánh nhưng quyết giành chiến thắng trong cả cuộc chiến tranh. Trận chiến Watling đã chứng minh cho điều đó khi 10.000 người La Mã đánh bại hơn 100.000 quân khởi nghĩa Briton.
Tinh thần kỷ luật thép và khát vọng xây dựng đế chế cường thịnh trở thành lẽ sống và sức mạnh để những nông dân thành Roma chinh phục và thống trị hơn 300 quốc gia khác. Trong thời đại thịnh trị, quân đoàn La Mã là những chiến binh không đối thủ, một quân đoàn huyền thoại mà cho đến nay, vẫn được các nhà quân sự cho là tổ chức hình mẫu.
Tuy nhiên, những cuộc di dân mà bao gồm cả các cuộc xâm lăng lớn của những bộ tộc người German và người Huns dưới trướng Attila đã dẫn đến sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã. Cùng với sự thất thủ của Ravenna dưới bàn tay của người Heruli và sự kiện Odoacer lật đổ Romulus Augustulus vào năm 476 SCN, đế quốc Tây La Mã cuối cùng đã sụp đổ và nó đã bị hoàng đế Zeno bãi bỏ chính thức vào năm 480 SCN.
Đế quốc Đông La Mã, được biết đến sau này với tên gọi là đế quốc Byzantine, đã sụp đổ sau khi Constantinople thất thủ bởi bàn tay của người Ottoman dưới triều đại của Mehmed II vào năm 1453.
Cuối cùng đế chế La Mã cũng không thể duy trì được sự tồn tại của mình. Sự sụp đổ La Mã đã chứng minh cho quá trình suy tàn của các đế chế ở phương Tây, khi mà các đế quốc không đủ tiềm lực để thực thi sự cai trị của mình lên lãnh thổ rộng lớn, được chia thành nhiều chính thể kế vị, khiến tình hình rối ren, bất ổn…
Đế chế này, sụp đổ cũng bởi xa rời những giá trị cốt lõi – khi mà khát vọng lớn xuất phát từ tham vọng mù quáng, sử dụng quá nhiều lực lượng sản xuất vào các cuộc bành trướng lãnh thổ gây mất cân bằng xã hội, sai lầm trong công cuộc chính trị hóa quân sự cùng với những cuộc thanh trừ nội bộ kéo dài trong suốt quá trình hình thành và phát triển.
Ở đế chế này, tuy có sự học hỏi nhưng chưa đầy đủ, các giá trị truyền thống cần được duy trì ngày càng mai một dẫn đến những suy đồi về đạo đức. Ở đế chế La Mã có tinh thần đoàn kết song vẫn còn tồn tại lòng vị kỷ của cá nhân, có sự phân biệt giai tầng gây nên mất cân bằng, bất bình đẳng, sử dụng bạo lực để cai trị, chính quyền tham nhũng ở khắp mọi nơi đã đẩy một đế chế hùng mạnh như La Mã đến bờ vực của sự lụi tàn.
Dẫu vậy, những ánh hào quang rực rỡ nhất mà đế chế La Mã đã tạo dựng cho văn minh châu Âu và nhân loại thế giới vẫn đáng được học hỏi.