Cuối tuần đi hái vải ở Bắc Giang

BẮC GIANG – Nếu là người thích ăn vải, đừng bỏ qua trải nghiệm check-in ngay tại vườn, đang vào mùa trĩu quả ở Lục Ngạn.

Nguyễn Thị Yến (Yến Vi Vu), sinh năm 1999, người Bắc Giang, hiện sống và làm việc tại Hà Nội. Cô về thăm quê đúng mùa vải vào đầu tháng 7 để có những bức hình check-in đẹp. Yến và hai người bạn tới Lục Ngạn bằng xe máy từ Hà Nội, đi hết khoảng 3,5 tiếng.

Theo Yến đây là trải nghiệm thích hợp vào cuối tuần, có thể đi và về trong ngày. Yến tư vấn, hành trình di chuyển từ Hà Nội tới Bắc Giang theo hướng cầu Thanh Trì, cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đường 293 Tây Yên Tử rẽ vào Lục Nam để tới Lục Ngạn. Lưu ý, đoạn đường Lục Nam sang Lục Ngạn khá nhỏ và xấu, nhiều xe tải nên cần di chuyển chậm và cẩn thận.

Vải thiều là cây trồng chủ lực của tỉnh Bắc Giang, đang vào mùa trĩu quả, thu hoạch đem bán. Đến huyện Lục Ngạn, du khách có thể dễ dàng thấy những đồi vải trập trùng, quy hoạch gọn gàng. Ở Lục Ngạn hiện tại chưa khai thác rõ ràng dịch vụ check-in vườn vải. Yến được giới thiệu và dẫn tới tham quan đồi vải của người chủ tên Hiếu ở thôn Muối, xã Giáp Sơn, miễn phí check-in.

Trong ký ức của một người con Bắc Giang, Yến nhớ hồi xưa đi cứ vài bước chân lại thấy một cây vải. “Tuy vậy, giờ nông thôn mới, nhà cửa sửa sang, cây vải cũng bị bỏ đi bớt rồi”, Yến nói.

Nhìn từ xa khó thấy rõ màu đỏ của vải đang chín mọng, song khi đứng sát hơn, những chấm đỏ dần xuất hiện xen giữa màu xanh của lá. “Mình đứng trên đỉnh đồi này nhìn sang đồi bên kia cũng toàn vải là vải. Xa xa chỉ là màu xanh của lá thôi, không thấy đỏ lắm. Đến gần mới thấy rõ màu đỏ. Và mình không nghĩ vải lên hình lại đẹp và bắt mắt như thế!”, Yến nhận xét. Cây vải thiều cao khoảng 10-15 m, tán hình mâm xôi.

Yến hào hứng khi leo lên đồi, trầm trồ khi thấy những cành vải đỏ nặng trĩu. Chủ vườn phải lấy gậy để chống lên, nếu không quả vải chạm đất sẽ bị thối, hỏng.

Vải là loại quả mà Yến yêu thích nhưng không dám ăn nhiều vì hồi bé “ăn nhiều quá nên nổi mẩn đỏ cả người”. Lần khác, Yến ăn vải lúc đói, lượng đường cơ thể tăng cao đột ngột nên bị choáng, chóng mặt. Từ đó, cô chỉ ăn vải sau bữa ăn, với số lượng vừa phải, song đây là loại quả đặc trưng của quê hương nên Yến vẫn dành tình cảm đặc biệt.

Yến chia sẻ một số kinh nghiệm check-in vườn vải:

– Liên hệ trước với chủ vườn để sắp xếp thời gian tham quan.

– Nên đến vào buổi sáng, trời còn mát và sương còn đọng trên lá.

– Nếu tham quan buổi chiều, nên mang theo mũ đội tránh nắng.

– Nên mang theo nước uống vì leo đồi vải dễ mệt, và “ăn vải ngọt xong uống nước mát rất đã”.

Thời điểm hợp lý nhất để tham quan mùa vải là buổi sáng, ngoài chiêm ngưỡng cảnh đẹp trong vườn, bạn có thể bắt gặp cảnh họp chợ, các thương lái từ mọi nơi đổ về mua vải và người dân chở quả ra chào hàng. Nếu muốn trải nghiệm đặc biệt hơn, du khách có thể đến từ tối hôm trước và ngủ lại, đến 1-2h sáng dậy để cùng người dân đi thu hoạch.

“Đêm ở đây vào mùa vải thì cũng sáng như ban ngày. Nào thì bóng đèn, đèn pin, đủ các thiết bị chiếu sáng phục vụ cho công tác thu hoạch. Mình cũng muốn thử trải nghiệm nhưng thời gian không cho phép, mùa vải năm sau sẽ quay lại”, Yến chia sẻ.

“Kinh nghiệm là cứ chỗ nào sai quả hoặc có một hàng cây làm đường dẫn thì đứng đó, cười thật tươi, cầm thêm túm vải là sẽ có ảnh đẹp”, Yến cười và chia sẻ. Du khách nên mặc quần áo gọn gàng. Lưu ý không tự ý hái vải khi chưa được chủ vườn cho phép. Không leo trèo, tạo dáng phản cảm, tránh làm gãy cành cây.

Thưởng thức vải tại vườn thú vị và “ngon” hơn ăn quả mua từ siêu thị. Quả vải tươi hơn, căng mọng hơn dù vị ngọt vẫn như vậy. Tuy nhiên, cái hay là có thể bóc vỏ và cắn ngập miếng khi quả vẫn theo trên cành. “Tuy nhiên, sau đó mình vẫn sẽ hái cành đó xuống để thưởng thức nốt và tránh gây mất mỹ quan”, Yến chia sẻ.

Mùa vải đến và trôi qua nhanh, chỉ khoảng 2-3 tuần. Do đó, bạn phải tranh thủ thời gian, đến Lục Ngạn tham quan sớm. “Mình cập nhật thông tin liên tục từ giữa tháng 6 mà thời điểm đầu tháng 7 thì nửa đồi vải đã được thu hoạch”, Yến nói. Đến gần cuối tháng 7, mùa vải sẽ kết thúc.

Bạn có thể mua vải tại vườn, song các vườn thường không bán lẻ, chỉ bán theo số lượng lớn. Loại đẹp giá trên 20.000 đồng một kg, loại thường thì trên 10.000 đồng một kg. Đến cuối vụ, giá vải sẽ tăng. Nếu quý mến, chủ nhà sẽ mời bạn ăn vải tại vườn, thậm chí tặng 1-2 túm vải mang về.

“Mình nhớ có năm được mùa, người ta còn cho nhau vải, không thèm đem đi bán, vì bán cũng không ai mua, hoặc bán với giá quá rẻ chẳng được bao nhiêu. Với mình, vải thiều trở thành một thứ quá quen thuộc”, Yến chia sẻ.

Trung Nghĩa / Ảnh: Yến Vi Vu, Trịnh Quý Long

Cuốn tự truyện của Andersen và những điều chưa biết về đại văn hào của thế giới

Andersen (1805-1875) là đại văn hào của thế giới. Đại diện tiêu biểu của dòng tác phẩm văn chương folklore của châu Âu. Người sáng tác nên những tác phẩm làm suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta. Phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: Nàng tiên cá, Chú lính chì dũng cảm, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Vịt con xấu xí, Cô bé bán diêm.

Chân dung nhà văn Andersen.

Ông là một tác giả mà chúng ta vô cùng yêu mến, một tâm hồn cách ta mấy thế kỉ nhưng tỏa bóng đến ngày nay và còn nhiều thế hệ sau này. Kể từ thế kỉ XIX đến nay, Andersen đã xuất hiện trên văn đàn thế giới với những tuyển tập truyện thần tiên đầy huyền ảo và nhiệm màu. Truyện cổ Andersen có lẽ là những cuốn truyện đã đi vào năm tháng và gắn liền với tuổi thơ của biết bao thế hệ. Nhưng cuốn sách mới lần này được giới thiệu không giống những tác phẩm trước, mà chính là cuốn tự truyện về cuộc đời ông… sau khi ông đã kể chuyện về bao nhiêu cuộc đời của những con người, những cái cây, những bông hoa, những loài vật, những đồ vật…

Năm 1855, khi một hợp tập các tác phẩm của Andersen được xuất bản ở quê hương Đan Mạch, ông đã viết lại tự truyện của mình để đưa vào hợp tập này. Andersen giữ nguyên bản phác thảo ban đầu như đã in ở Đức, rồi chèn thêm chi tiết, bổ sung hồi ức, tư liệu, thư từ, văn trích… vào các phần đã viết, và cập nhật thêm nội dung về quãng đời mười năm kế tiếp. Bản tự truyện thứ hai này không có bản dịch tiếng Anh riêng biệt, mà được dịch từ nguyên tác tiếng Đan Mạch là Mit Livs Eventyr. Ấn bản tiếng Việt do dịch giả Đăng Thư dịch từ bản tiếng Anh The Story of My Life – nhà xuất bản Hurd & Houghton ấn hành năm 1871.

Với cuốn tự truyện Chuyện đời tôi, độc giả Việt Nam có dịp tiếp cận đại văn hào ở đa diện góc nhìn hơn, khi ông xuất hiện ở tư cách một nhà thơ, một kịch tác gia, một tiểu thuyết gia trước khi là một nhà văn chuyên viết truyện thần tiên cho thiếu nhi. Cũng qua tự truyện này, không chỉ thuật lại những năm tháng tuổi thơ cùng nhiều duyên may định mệnh đã tạo nên bước ngoặt thay đổi đời mình, Andersen còn tiết lộ những chi tiết thú vị về đời sống viết lách phong phú của mình, với chất liệu dồi dào được ông thu thập qua biết bao những chuyến du kí qua nhiều xứ sở châu Âu, những cuộc gặp và tương tác với nhiều nhân vật nổi tiếng, tiêu biểu của thế kỉ XIX ở Đức, Pháp, Ý, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, và cả những vùng đất và những công quốc mà giờ đây chỉ còn được chúng ta biết đến qua các tài liệu lịch sử…

Xuyên suốt cuốn sách, nhất là ở phần II, ta sẽ thấy Andersen xứng đáng là một phượt thủ, ông sống rất hay được bạn bè ở các nước châu Âu mời đến chơi và sống. Các chi tiết trong các chuyến du hành của Andersen cho chúng ta thấy: Thế kỉ XIX, châu Âu quan tâm đến văn hóa nghệ thuật như thế nào? Bố cục địa chính trị của châu Âu ở thế kỉ XIX? Tầm quan trọng của các công quốc nhỏ nay thuộc Đức ở châu Âu? Kịch có vai trò quan trọng ở châu Âu vào thế kỉ XIX, theo sau đó là tiểu thuyết; vai trò của báo chí của châu Âu.

Ở phần III của tự truyện, Andersen có đưa vào rải rác khoảng chục bài thơ trọn vẹn. Đây là những bài thơ tự tình, ca ngợi phong cảnh, viết tặng bạn… để minh họa cho một sự việc nào đó.

“May mắn và đầy biến cố, đời tôi là một câu chuyện thú vị. Nếu như lúc tôi còn nhỏ, bước vào đời trong cảnh nghèo khó và cô đơn mà có một bà tiên hiện ra bảo rằng: “Bây giờ con hãy chọn đường đời của con, và mục đích con muốn gắng công đạt tới, sau đó, tùy theo sự phát triển trí tuệ của con và khi thấy hợp lí, ta sẽ dẫn dắt và bảo vệ để con đạt được điều ấy,” thì dẫu như vậy, số phận của tôi cũng không thể nào được định hướng sao cho vui vẻ hơn, thận trọng hơn hay tốt đẹp hơn. Câu chuyện đời tôi sẽ cho mọi người biết điều mà tôi luôn được nhắn nhủ: Có một Đấng Chúa Trời đầy lòng yêu thương sẽ dẫn dắt mọi sự theo hướng tốt đẹp nhất.” (Trích Chương I) .

Bìa sách Chuyện đời tôi của Andersen.

Đầy ắp chi tiết thú vị, chứa đựng gần như toàn vẹn tâm hồn của một tác giả lãng mạn, đầy tình thương yêu dành cho con người, Chuyện đời tôi xứng đáng là cuốn sách tiếp theo của Andersen được “gối đầu giường” bên cạnh những tuyển tập truyện thần tiên đã quá nổi tiếng của ông.

Cuốn sách Chuyện đời tôi thuộc tủ sách về các nhân vật lịch sử của Omega Plus. Andersen là một trong hiếm hoi nhân vật không có xuất thân chính trị. Tuy nhiên, tầm ảnh hưởng của ông đối với thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa là không thể phủ nhận. Để đáng nói đây là một cuốn sách đặc sắc, một điểm nhấn của Omega Plus nói chung và tủ sách nhân vật lịch sử đối với bạn đọc nói riêng.

Ngoài các tác phẩm thuộc thể loại truyện thần tiên, Andersen còn là kịch tác gia, nhà thơ với số lượng tác phẩm khá đồ sộ, thể hiện nhiều khía cạnh đa dạng đa màu sắc trong thế giới quan và nhân sinh quan của ông, cũng như phần nào thể hiện đời sống châu Âu thế kỉ XIX.

THU LAN / Văn Nghệ Quân Đội 

Bản năng đế quốc của Nga

Nước Nga lại một lần nữa là trung tâm của các cuộc tranh cãi chính sách ở nhiều nước phương Tây. Đây cũng là lần thứ ba liên tiếp một tân tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu nhiệm kỳ với những tham vọng cải thiện các mối quan hệ song phương với Nga. Cần phải nhìn sâu hơn vào lịch sử của nhà nước Nga để hiểu được tại sao việc đạt được mục tiêu này là rất khó khăn.

Đến nay đã một phần tư thế kỷ trôi qua kể từ khi Liên bang Xô-viết tan rã; và năm 2017 sẽ đánh dấu lễ kỷ niệm 100 năm Cách mạng Nga – cuộc Cách mạng lật đổ đế chế Nga hoàng kéo dài hàng trăm năm và vốn đã lung lay lúc đó. Một cách ngẫu nhiên, có những điểm tương đồng đáng chú ý giữa các giai đoạn theo sau sự kết thúc của từng thời kỳ đế quốc này.

Lịch sử nước Nga được đặc trưng bởi sự bành trướng liên tục về phía lục địa Á-Âu. Cuộc xâm nhập về phía đông vào Siberia của Nga hoàng cũng giống như cuộc mở rộng về phía Tây của Hoa Kỳ ở thế kỷ 19, và sự bành trướng vào Trung Á của Nga cũng trùng hợp với việc các cường quốc châu Âu thực dân hóa châu Phi.

Tuy nhiên, khi bành trướng về phía tây và phía nam, đế quốc Nga đã luôn vấp phải sự kháng cự và phải dùng vũ lực để giữ cho những vùng đất vừa chiếm được này nằm trong lãnh thổ của mình. Sau cách mạng 1917, nhiều vùng trong số các khu vực trên – từ Tashkent đến Tbilisi, và từ Kiev đến Helsinki – đã đòi độc lập khỏi ách thống trị của Nga.

Ban đầu, Vladimir Lenin có vẻ thuận theo những yêu cầu trên; tuy nhiên ông đã sớm triển khai lực lượng Hồng quân để áp đặt quyền lực Xô-viết lên toàn vùng đế quốc Nga cũ. Công cuộc này đã thành công ở Ukraine, miền Nam Caucasus và Trung Á, nhưng thất bại ở Phần Lan và các nước vùng Baltic, và chịu một thất bại quyết định ở ngoại vi Warsaw vào năm 1920. Điều này cho phép một chuỗi các quốc gia độc lập ra đời từ sườn tây của đế quốc Nga cũ.

Tuy nhiên, sau đó Stalin lên nắm quyền. Bằng cách sử dụng khủng bố và công nghiệp hóa cưỡng ép để nỗ lực đưa nước Nga hùng mạnh trở lại, Stalin đã cố gắng đòi lại quyền kiểm soát trên các vùng lãnh thổ cũ. Stalin đã tìm ra một cơ hội trong những cuộc đàm phán bí mật với Adolf Hitler, theo đó ông ta yêu cầu trả lại những gì đã mất sau năm 1917, bao gồm các nước vùng Baltic, Phần Lan và một phần Ba Lan.

Cuối cùng Stalin cũng đạt được ý đồ. Sau khi Đế chế của Hitler sụp đổ, nhất là lại nhờ vào những hy sinh của Hồng quân Liên Xô, Stalin đã được toàn quyền hành động để mở rộng sức mạnh của Liên Xô vào sâu trong trung tâm của châu Âu. Một cách thần kỳ và bằng lực lượng vũ trang, chỉ Phần Lan bảo toàn được độc lập. Các nước vùng Baltic bị đưa trở lại gọng kìm Xô-viết một cách tàn bạo, còn Ba Lan và một số nước khác thì bị biến thành các quốc gia vệ tinh.

Vào năm 1976, một cố vấn hàng đầu của Henry Kissinger trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra lập luận gây tranh cãi rằng nước Nga đã thất bại trong việc thiết lập những mối quan hệ “hữu cơ” với các quốc gia trên. Đúng vậy, khi Liên Xô sụp đổ, các quốc gia vệ tinh đã đẩy nhanh sự cáo chung của Liên Xô bằng cách đòi lại chủ quyền của mình. Một cách nhanh chóng, hầu hết tất cả các nước cộng hòa không thuộc người Nga trong Liên bang Xô-viết cũ đều đòi lại và giành được độc lập. Với việc Ukraine và các nước vùng Nam Caucasus trở thành các quốc gia độc lập thì Nga còn kiểm soát ít lãnh thổ hơn cả giai đoạn sau cách mạng năm 1917.

Cũng như Lenin một thế kỷ trước, Vladimir Putin quyết tâm thay đổi tình hình trên. Kể từ khi nắm quyền, tiếp sau những nỗ lực cải cách tự do và dân chủ quyết liệt vào những năm 1990, ngày càng có thể thấy rõ, Putin khát khao đưa nước Nga hùng mạnh trở lại, cả về kinh tế lẫn địa chính trị. Mặc dù vẫn có những điểm khác nhau hiển nhiên giữa sự thành lập của Liên Xô và thời điểm bây giờ, nhưng sự tương đồng về lịch sử là quá rõ ràng đến mức chúng ta không thể bỏ qua.

Dưới thời Putin, nước Nga đã xâm lược và chiếm đóng các vùng của Gruzia (Georgia), sáp nhập Crimea từ Ukraine, và yểm trợ quân sự cho hai “nước cộng hòa” bù nhìn ở miền Đông Ukraine. Nga cũng đã nỗ lực, dù cho đến nay vẫn chưa thành công, để thành lập một nước Novorossiya (Nước Nga mới) kéo dài qua miền Nam Ukraine.

Từng bước một, bất cứ khi nào có cơ hội là Kremlin lại sẵn sàng sử dụng mọi phương tiện sẵn có để giành lại những gì họ cho là của mình. Putin có thể chưa có một kế hoạch vững chắc và toàn diện cho công cuộc khôi phục lại đế quốc, nhưng chắc chắn ông ta có một xu hướng không thay đổi là thực hiện những bước tiến đế quốc chủ nghĩa bất cứ khi nào những rủi ro là có thể chấp nhận được, như ở Gruzia vào năm 2008 và Ukraine vào năm 2014.

Vậy chúng ta có thể rút ra bài học gì từ quá khứ? Trước hết, chủ nghĩa đế quốc Nga phát triển mạnh khi châu Âu và phương Tây bị chia rẽ. Đây là trường hợp khi Hitler và Stalin ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau vào năm 1939, và khi Napoleon kí hiệp ước với Nga hoàng Alexander vào năm 1807. Và chúng ta chắc chắn không nên quên Hội nghị Yalta năm 1945.

Việc mở rộng NATO và Liên minh Châu Âu để bao gồm cả Trung Âu và các nước vùng Baltic đã trở nên quan trọng đối với an ninh châu Âu. Trong bất cứ kịch bản nào khác thì chúng ta cũng sẽ bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh quyền lực cực kỳ nguy hiểm với một nước Nga muốn phục thù và giành lại những gì đã mất.

Sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991 và Cách mạng Nga năm 1917 đã tái định hình đời sống chính trị khu vực và toàn cầu. Ngay sau mỗi sự kiện trên, nước Nga đều tỏ rõ sự bất lực mang tính lịch sử trong việc xây dựng các mối quan hệ hòa hợp với những quốc gia xung quanh; và ở những giai đoạn trung gian, nước Nga đã hành động dựa theo những tham vọng đế quốc với các hệ lụy được đổ lên đầu các quốc gia láng giềng.

Nhưng nước Nga sẽ chỉ chấp nhận thực tế của mình nếu phương Tây kiên quyết ủng hộ nền độc lập của các quốc gia trên trong một khoảng thời gian kéo dài. Cuối cùng, nước Nga sẽ nhận ra rằng quốc gia này có lợi ích lâu dài trong việc phá bỏ khuôn mẫu lịch sử của mình, tập trung phát triển trong nước và xây dựng các mối quan hệ hòa bình và tôn trọng lẫn nhau với các quốc gia láng giềng.

Chắc chắn là chúng ta chưa đạt được điều đó, nhưng đó không phải là lý do để đầu hàng, hoặc để bỏ đi những bài học lịch sử. Chúng ta cần một nước Nga ổn định, thịnh vượng và hòa bình. Và điều này chỉ có thể đạt được với sự kiên quyết ủng hộ độc lập và chủ quyền của tất cả các quốc gia láng giềng của Nga.

Carl Bildt là ngoại trưởng Thụy Điển từ năm 2006 đến tháng 10 năm 2014, và là Thủ tướng trong giai đoạn 1991-1994, khi ông đàm phán cho việc Thụy Điển gia nhập EU. Là nhà ngoại giao quốc tế nổi tiếng, ông từng đảm trách chức vụ Đặc sứ của EU ở Nam Tư cũ, Đại diện cấp cao về vấn đề Bosnia và Herzegovina, Đặc sứ của Liên Hiệp Quốc ở khu vực Balkan, và là Đồng Chủ tịch của Hội nghị Hòa bình Dayton. 

Copyright: Project Syndicate 2017 – Russia’s Imperial Instinct

Nguồn: Carl Bildt, “Russia’s Imperial Instinct”, Project Syndicate, 16/01/2017.

Người dịch: Nguyễn Thanh Mai | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Trung Quốc có thể biến bẫy nợ do chính họ tạo ra thành cơ hội lịch sử

Bắc Kinh nên “cắt lỗ” và tập trung vào việc lấy lại danh tiếng.

Khi nói đến sự gắn kết của nền kinh tế Trung Quốc với các nước đang phát triển, khía cạnh gây tranh cãi nhất là các chương trình cho vay khổng lồ, thứ đã bơm hàng trăm tỷ USD tiền vay vào các nước nghèo trong vòng 15 năm qua.

Các nhà phê bình đã lên án hoạt động cho vay ở nước ngoài của Bắc Kinh là một hình thức bẫy nợ nham hiểm, sẽ dần biến những nước đi vay thành chư hầu kinh tế. Tuy nhiên, ngày nay, mặt còn lại của câu chuyện này đã được hé lộ: chính Trung Quốc đang rơi vào cái bẫy nợ mà họ đã đào cho người khác.

Theo sau cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, cũng như tình trạng lạm phát cao, lãi suất tăng, và suy thoái rình rập ở Mỹ và châu Âu, nhiều nước nghèo đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi hệ thống tài chính toàn cầu gần như tan rã vào năm 2008.

Khi phải vật lộn với dòng vốn tháo chạy ra nước ngoài, thiếu lương thực, và giá hàng hóa cơ bản sụt giảm mạnh, ngoại trừ dầu mỏ và khí đốt, chính phủ của các nước thu nhập thấp sẽ ngày càng gặp khó khăn trong việc hoàn trả các khoản vay từ Trung Quốc.

Dù không có dữ liệu chính thức về các khoản vay mà Bắc Kinh trao cho các nước đang phát triển, nhưng Trung Quốc hiện là chủ nợ chính thức lớn nhất của nhóm nước này. Trong mọi kịch bản, các khoản vay thực tế của Trung Quốc đều có thể lớn hơn đáng kể so với hầu hết các ước tính.

Một cuộc điều tra về các khoản vay ở nước ngoài của Trung Quốc do nhà kinh tế Carmen Reinhart, hiện là chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới, và các đồng sự thực hiện vào năm 2018 cho thấy các khoản vay chưa được báo cáo của Trung Quốc cho nước ngoài, chủ yếu là các nước đang phát triển, chiếm trung bình khoảng 15% tổng sản phẩm quốc nội của các nước này.

Trong lúc bóng đen vẫn đang bao trùm nền kinh tế thế giới, Bắc Kinh nên tìm cách đối phó với một cuộc khủng hoảng nợ do chính họ gây ra.

Sự sụp đổ kinh tế gần đây của Sri Lanka chính là dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên. Nợ nước ngoài của quốc gia Nam Á này đã lên tới 38,6 tỷ USD, bằng khoảng 47% GDP của họ, 10% trong số này là tiền nợ đối với Trung Quốc.

Đầu năm 2022, Sri Lanka đã không thể trả được khoản nợ đến hạn trị giá gần 7 tỷ USD. Sau khi Bắc Kinh không đưa ra được biện pháp giảm nợ nào, vào tháng 4, Sri Lanka đã quyết định tạm ngừng trả một số khoản nợ nước ngoài của mình để chờ cơ cấu lại. Ngay sau đó, các cuộc biểu tình lớn đã lật đổ chính phủ Sri Lanka.

Người tham dự hô vang khẩu hiệu trong cuộc biểu tình phản đối khủng hoảng kinh tế ở Colombo ngày 19/04: Sri Lanka là dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên. © AP

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu sẽ xấu đi hơn nữa, nhiều nước đang phát triển khác, tương tự như Sri Lanka, dự kiến sẽ vỡ nợ đối với các khoản vay nước ngoài của họ. Nhiều quốc gia trong số này là những quốc gia đã nhận được hàng trăm tỷ đô la cho vay từ Trung Quốc và họ sẽ trở thành một thách thức gần như không thể giải quyết đối với Chủ tịch Tập Cận Bình.

Dưới sự cai trị của Tập, Trung Quốc đã quảng bá mạnh mẽ bản thân như một giải pháp thay thế cho phương Tây, và hào phóng tài trợ cho các dự án rủi ro ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, giờ đây, các khoản vay trị giá hàng trăm tỷ đô la mà Trung Quốc dành cho các nước nghèo đang gặp nguy hiểm, bởi chính những ràng buộc đi kèm đã khiến các nước này đặc biệt dễ bị tổn thương trước suy thoái kinh tế.

Thứ nhất, trong khi 55% các khoản vay và viện trợ không hoàn lại của các chính phủ phương Tây và các tổ chức tài chính quốc tế được đổ vào các chương trình xã hội như y tế, giáo dục, và hỗ trợ nhân đạo, thì gần 2/3 khoản cho vay của Trung Quốc là dành cho cơ sở hạ tầng.

Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, các dự án cơ sở hạ tầng đã hoàn thành như đường thu phí, bến cảng, và nhà máy điện sẽ tạo ra ít doanh thu hơn vì giao thông và tiêu thụ điện năng đều ít hơn, khiến các dự án này khó tạo ra thu nhập cần thiết để trả các khoản vay.

Thứ hai, vì các khoản vay của Trung Quốc thường được thế chấp bằng nguồn thu từ tài nguyên, rủi ro vỡ nợ sẽ tăng lên đáng kể trong thời kỳ suy thoái, vì nhu cầu thấp hơn thường làm giảm giá hàng hóa cơ bản, ngoại trừ dầu mỏ, xuất phát từ các lệnh trừng phạt đối với Nga trong cuộc chiến ở Ukraine. Điều này làm gia tăng gánh nặng lên nguồn doanh thu cần thiết để trang trải các khoản nợ.

Trung Quốc có rất ít lựa chọn tốt để leo ra khỏi cái hố mà họ đã tự đào cho chính mình. Việc ép các chính phủ vỡ nợ như Sri Lanka phải trả các khoản vay trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế sẽ là vô ích và phản tác dụng. Trung Quốc sẽ không chỉ mất tiền mà còn làm mất uy tín của mình trong quá trình này. Tuy nhiên, việc xóa nợ hoàn toàn lại gây ảnh hưởng xấu đến bảng cân đối kế toán của các ngân hàng quốc doanh Trung Quốc, vốn là cơ quan thực hiện các khoản vay này, và cuối cùng Bắc Kinh sẽ là người phải bù lỗ.

Lựa chọn tốt nhất của Trung Quốc là áp dụng một cách tiếp cận đa nhánh để có thể cứu vãn hình ảnh và cắt giảm tổn thất của họ.

Nhánh đầu tiên phải là xóa nợ cho các nước nghèo nhất. Do các quốc gia có thu nhập thấp khu vực châu Phi cận Sahara chiếm khoảng một nửa các khoản cho vay ở nước ngoài của Trung Quốc, họ nên được ưu tiên nếu Bắc Kinh có kế hoạch xóa một phần đáng kể khoản nợ của họ.

Lý do để xóa nợ cho các quốc gia này đặc biệt thuyết phục, vì họ có khả năng bị tổn thương nhiều nhất bởi cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu. Danh tiếng của Trung Quốc sẽ thiệt hại đến mức không thể bù đắp, nếu cứ ép các nước này trả nợ trong lúc xảy ra bạo loạn vì tranh giành bánh mì trên đường phố.

Nhánh thứ hai là tái cơ cấu nợ. Trung Quốc nên cắt giảm lãi suất, tạm thời đình chỉ việc trả nợ, và kéo dài thời gian đáo hạn khoản vay để ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ liên tục trong ngắn hạn.

Nhánh thứ ba là phối hợp với các nhà tài trợ và cho vay quốc tế khác. Là nước cho vay chính thức lớn nhất thế giới, Trung Quốc nắm trong tay đòn bẩy thực sự. Nếu có thể sử dụng chương trình xóa nợ để khuyến khích các bên cho vay khác làm điều tương tự, Trung Quốc có thể dẫn đầu một nỗ lực quốc tế nhằm giúp các nước đang phát triển vượt qua cơn bão kinh tế toàn cầu.

Kết quả là, đây có thể trở thành một cơ hội lịch sử để Trung Quốc thể hiện vai trò lãnh đạo quốc tế của mình. Trớ trêu thay, chính sự thiếu thận trọng về tài chính của Trung Quốc, chứ không phải tầm nhìn xa chiến lược của họ, mới là thứ tạo ra cơ hội này.

Minxin Pei là Giáo sư về Quản trị chính quyền của Trường Claremont McKenna và là nghiên cứu viên cao cấp không thường trú của Quỹ Marshall Đức tại Mỹ.

Nguồn: Minxin Pei, “China can turn debt trap of its own making into historic opportunity,” Nikkei Asia,

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng / Nghiên cứu Quốc Tế

Nước Nhật và những vụ ám sát chính trị

Cựu Thủ tướng Nhật đã qua đời chiều ngày 8 Tháng Bảy 2022, nạn nhân của một vụ ám sát khiến dư luận thế giới sững sờ. Ở đất nước Mặt Trời Mọc vốn gần như luôn bình yên nhưng những vụ ám sát chính trị thật ra cũng không hiếm…

Lâu nay Nhật Bản được biết đến là một đất nước an bình, ít tội phạm nhưng thực ra các vụ ám sát chính trị lại có một lịch sử dài lâu. Tuy không còn diễn ra nhiều như trong suốt thời gian dài trước Thế chiến thứ hai nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra vài vụ khiến dư luận ngỡ ngàng.

Người dân Nhật bày tỏ nỗi xúc động bên ngoài nhà ga Yamato-Saidaiji, nơi cựu Thủ tướng Shinzo Abe bị bắn chết (ảnh: Yuichi Yamazaki/Getty Images)

Cách nay hơn một năm, tuần báo Anh ngữ Tokyo Weekender từng có loạt bài mô tả lại những vụ ám sát chính trị gây chấn động nước Nhật và dư luận quốc tế, trong đó có các vụ âm mưu ám sát Hoàng đế Hirohito (có đến ba vụ), Ryoma Sakamoto (người có công xây dựng hòa bình, xóa tan hệ thống shogun phân chia lãnh thổ giữa các tướng quân), nhiều vị thủ tướng… Những kẻ thủ ác người Nhật cũng từng lên kế hoạch sát hại nghệ sĩ lừng danh thế giới Charlie Chaplin (nổi tiếng với nhân vật Charlot) và thái tử Nga 1891 Tsarevich Nicholas Alexandrovich II hồi Tháng Tư 1891.

Thủ tướng Nobusuke Kishi được đưa đến bệnh viện sau khi bị mưu sát (ảnh: ullstein bild/ullstein bild via Getty Images)

Những vụ tấn công các chính trị gia cấp cao như cựu Thủ tướng Shinzo Abe tuy không nhiều nhưng không phải hoàn toàn không có. Chính ông ngoại của ông Abe, Thủ tướng Nobusuke Kishi từng bị đâm vào đùi trong lúc chiêu đãi quan khách trong Dinh Thủ tướng vào năm 1960. Nhiều quan chức khác cũng bị thương trong sự kiện này. Cùng năm 1960, ông Inejiro Asanuma, khi ấy là nhân vật số một của Đảng Xã hội Nhật, bị một thanh niên 17 tuổi cực hữu dùng kiếm đâm chết trong lúc đọc diễn văn trong Tòa Thị chính ở Hibiya (Tokyo).

Trong những năm 1975, 1992 và 1994, lần lượt các Thủ tướng Takeo Miki, Phó Thủ tướng Shin Kanemrau và Thủ tướng Morihiro Hokosawa cũng bị tấn công bằng dao hoặc súng. Nhưng may mắn là cả ba vị này đều sống sót.

Thủ tướng Takeo Miki (ảnh: Kaku KURITA/Gamma-Rapho via Getty Images)

Ngược dòng thời gian về năm 1921, ông Takashi Hara, người có công xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị lãnh đạo Nhật và là thường dân đầu tiên trở thành một thủ tướng chính phủ, bị một công nhân hỏa xa trẻ tuổi đâm chết trong Nhà ga Tokyo. Chín năm sau, cũng trong trạm xe lửa nội đô này, Thủ tướng Osachi Hamaguchi bị một người đàn ông dùng súng bắn nhiều viên đạn vào người. Ông bị thương nặng và qua đời một năm sau đó.  Năm 1932, một nhóm sĩ quan hải quân cầm súng nhào vào văn phòng làm việc của Thủ tướng Tsuyoshi Inukai bắn ông chết.

Ông Takashi Hara (ảnh: © CORBIS/Corbis via Getty Images)

Các vụ tấn công chính khách cấp thấp cũng không thiếu. Năm 1990, tức hai năm sau mạnh miệng lên tiếng nhận định rằng cả đến Hoàng đế Hirohito cũng có trách nhiệm lớn để nổ ra cuộc chiến với Mỹ trong Thế chiến thứ hai, ông Hitoshi Motoshima, thị trưởng Nagasaki – một trong hai thành phố bị không quân Mỹ đánh bom nguyên tử vào năm 1945 – bị bắn bởi một thành viên cấp cao của một tổ chức cực hữu. Năm 1995, ông Yukio Aoshima nhận thư bom trong khi đang chu toàn trách nhiệm Đô trưởng thành phố Tokyo. Ông thoát chết nhưng một viên chức của chính quyền thành phố bị thương nặng. Năm 2007, Thị trưởng thành phố Nagasaki Itcho Ito trong lúc đi vận động cử tri dồn phiếu cho mình thì bị một thành viên cấp cao của một tổ chức tội phạm bắn chết.

Đại sứ Mỹ tại Nhật Edwin Reischauer (và vợ) trong bệnh viện sau khi ông bị tấn công (Getty Images)

Kẻ dữ, vì khác biệt chính kiến, cũng tìm đủ “công cụ” khác để tấn công, chẳng hạn phóng hỏa nhà Bộ trưởng Xây dựng Kono Ichiro vào Tháng Bảy 1963; dùng tay đấm vào mặt Thủ tướng Miki Takeo khi ông dự tang lễ cựu Thủ tướng Sato Eisaku hồi Tháng Bảy 1975; dùng thanh sắt đánh đập dân biểu Hamada Koichi vào Tháng Hai 1990. Cũng trong năm 1990, vào Tháng Mười, một dân biểu khác, ông Niwa Hyosuke, bị kẻ dữ tấn công bằng dao nhọn khi dự lễ diễu binh ở Căn cứ Phòng vệ Moriyama. Kẻ quá khích cũng không tha quan chức ngoại giao nước ngoài. Tháng Ba 1964 một kẻ đã dùng dao tấn công Đại sứ Mỹ tại Nhật là ông Edwin Reischauer.
P. Nguyễn Dũng / Saigon Nhỏ