Ngôi nhà ‘mùa hè’

Việc sử dụng rơm, vải và sợi tự nhiên nhấn mạnh khía cạnh của một ngôi nhà mùa hè, một nơi ẩn náu tách biệt giữa không gian đô thị để trở thành một phần của thiên nhiên. Về tổng thể, căn nhà là sự kết hợp giữa những mái nhà bằng bê tông đặc, ván ghép dạng thanh ốp tường phía ngoài và gạch lộ thiên. Kiến trúc sư cho biết không gian bếp không, gian sinh hoạt chung là “trái tim” của ngôi nhà.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 1.

Căn biệt thự rộng hơn 430 m2 tại Brazil được thiết kế theo phong cách hòa mình với thiên nhiên. Xuyên suốt dự án là những mảng không gian xanh được lồng ghép khéo léo, ngoài ra với thiết kể mở bất kể không gian sinh nào cũng tràn ngập ánh nắng.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 2.

Gia chủ mong muốn có một căn nhà thiết thực, tiện dụng đầy đủ tiện nghi và ấm cúng.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 3.

Ngoài phía sân vườn, kiến trúc sư thiết lập một hồ bơi vô cực, bao quanh là thảm thực vật thiên nhiên đa dạng.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 4.

Về tổng thể, căn nhà là sự kết hợp giữa những mái nhà bằng bê tông đặc, ván ghép dạng thanh ốp tường phía ngoài và gạch lộ thiên.

Phần tường bao bọc phía ngoài được thiết kế tương đối đặc biệt, nhóm kiến trúc sư sử dụng tấm ván được khoét những lỗ tròn trên bề mặt. Kiến trúc sư cho biết cách làm này nhằm giúp không gian nhà luôn nhận được nguồn sáng tự nhiên nhưng lại không bị chiếu vào một cách trực tiếp.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 5.

Cận cảnh tấm chắn nắng trong không gian phòng ngủ. Tấm chắn kết hợp với khung cửa sổ rộng giúp gia chủ có thể linh hoạt đóng/mở trong quá trình sử dụng.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 6.

Khi cần thiết, các cửa sổ có thể đóng lại hoàn toàn, nhìn từ phía ngoài khi đóng lại phần tường bao bọc tạo cảm giác liền mạch, nguyên khối.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 7.

Kiến trúc sư cho biết không gian bếp không, gian sinh hoạt chung là “trái tim” của ngôi nhà, nó là nơi diễn ra cuộc sống sinh hoạt thường ngày, nơi các thành viên trong gia đình gặp gỡ thường xuyên.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 8.

Các không gian sinh hoạt chung được trang bị đầy đủ và phù hợp với nhu cầu hàng ngày của gia đình. Ngoài ra, sảnh phòng khách với lò sưởi là một trong những không gian ưa thích của gia chủ.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 9.

Không gian ăn uống rộng rãi và đèn thả trần vân gỗ độc đáo.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 10.

Việc sử dụng rơm, vải và sợi tự nhiên nhấn mạnh khía cạnh của một ngôi nhà mùa hè, một nơi ẩn náu tách biệt giữa không gian đô thị để trở thành một phần của thiên nhiên.

Ngôi nhà mùa hè - Ảnh 11.

Một góc không gian sinh hoạt ngoài trời, nơi tắm nắng thư giãn của gia chủ.

Theo Nhật Quang / NDH

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ “chìa khoá” để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh

Chìa khoá để có được hạnh phúc không phải là tiền bạc hay danh tiếng mà là điều vô cùng gần gũi và quen thuộc này.

“Điều gì giúp chúng ta sống khoẻ mạnh và luôn hạnh phúc?” là câu hỏi mở đầu cho bài diễn thuyết thu hút hơn 22 triệu lượt xem trên TED Talks của nhà tâm thần học nổi tiếng Robert Waldinger.

Ông hiện là Giáo sư Tâm thần học tại Trường Y Harvard và là người chịu trách nhiệm chỉ đạo dự án The study of Adult Development – Nghiên cứu về sự phát triển của con người. Đây là một trong những nghiên cứu quan trọng với thời gian dài nhất lịch sử từng được thực hiện.

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ chìa khoá để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh - Ảnh 1.

Giáo sư Robert Waldinger là người kế nhiệm thứ 4 của dự án The study of Adult Development – Nghiên cứu về sự phát triển của con người.

NGHIÊN CỨU DÀI NHẤT LỊCH SỬ

Theo đó, dự án The study of Adult Development – Nghiên cứu về sự phát triển của con người được bắt đầu từ những năm 1938 và kéo dài cho đến nay. Trong hơn 80 năm nghiên cứu, các nhà khoa học đã khảo sát cuộc sống của 724 nam giới. Những người này được chia thành 2 nhóm, nhóm 1 là sinh viên năm 2 của Đại học Harvard, nhóm 2 là những nam sinh đến từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn nhất Boston.

Sau hơn 80 năm nghiên cứu, cho tới hiện tại gần 60 người trong số 724 người này vẫn còn sống, đang ở độ tuổi ngoài 90 và vẫn tiếp tục tham gia dự án. Không những vậy, thế hệ con cháu của những người này cũng đồng ý tham gia nghiên cứu này, cho đến hiện tại con số đã lên hơn 2000 người.

Theo giáo sư Robert Waldinger chia sẻ, tất cả những người tham gia đều được theo dõi sức khỏe định kỳ, lấy mẫu máu và quét sóng não. Thậm chí các chuyên gia còn phỏng vấn cha mẹ của những người này để tìm hiểu về tính cách, môi trường sống của mỗi thành viên tham gia dự án.

Những nam sinh đó sau này đã trưởng thành và bước vào mọi tầng lớp trong xã hội. Có người trở thành bác sĩ, luật sư, có người trở thành công nhân, một trong số đó thậm chí đã trở thành Tổng thống Mỹ.

Trong 724 nam sinh khi đó có những người vượt lên trên nghèo khó để vươn tới các vị trí cao trong xã hội, ngược lại có những người từ nơi cao tụt xuống đáy xã hội. Trong số đó cũng có những người có cuộc sống luôn vui vẻ, hạnh phúc, thành công lại có những người luôn sống trong sự đau khổ, giằng xé cùng với nỗi ê chề của thất bại. Thông qua hàng chục năm nghiên cứu cùng hàng chục nghìn trang dữ liệu, giáo sư Robert Waldinger đã chỉ ra:

“Không phải sự giàu có, danh tiếng hay làm việc chăm chỉ giúp chúng ta có được cuộc sống hạnh phúc, thứ giúp chúng ta hạnh phúc và khỏe mạnh hơn chính là những mối quan hệ tốt đẹp”.

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ chìa khoá để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh - Ảnh 2.

Giáo sư Robert Waldinger chia sẻ, khi thực hiện khảo sát về việc “Mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc đời bạn là gì” hơn 80% người có câu trả lời là “làm giàu”. Từ kết quả này, giáo sư Robert Waldinger cho biết, việc chúng ta vô tình cho rằng việc nỗ lực kiếm thật nhiều tiền và nhiều tiền hơn nữa để có cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc hơn dễ khiến chúng ta có nhận định không chính xác.

Theo đó, qua nghiên cứu về sự phát triển của con người, giáo sư chỉ ra thứ quyết định cuộc đời của một người có hạnh phúc hay không lại phụ thuộc vào những mối quan hệ với người thân, bạn bè và cộng đồng.

Dưới đây là 3 bài học lớn về các mối quan hệ được các nhà khoa học đúc kết từ nghiên cứu này.

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ chìa khoá để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh - Ảnh 3.

Chủ động kết nối, tránh xa cô đơn “độc hại”

Bước đầu tiên để có mối quan hệ tốt đẹp chúng ta cần dũng cảm, chủ động kết nối, mở rộng quan hệ và hãy kết bạn. Tránh việc để bản thân trở nên lạc lõng hay chìm trong sự cô đơn “độc hại” không có 1 người ai bên cạnh thấu hiểu.

Vì qua nghiên cứu giáo sư Robert Waldinger chỉ ra, những người bị cô lập, sống trong sự cô đơn “độc hại” thường có sức khỏe kém đi ở giai đoạn đầu trung niên, chức năng não suy giảm và tuổi thọ bị rút ngắn.

Ý kiến này cũng tương tự với nghiên cứu của Đại Học Chicago khi phát hiện ra não của những người cô đơn hoạt hóa trì trệ, dễ mắc các bệnh tim mạch, gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp và dễ mắc các bệnh tâm lý hơn những người có các mối quan hệ tốt đẹp.

Từ những nghiên cứu này, giáo sư Robert Waldinger đã đưa ra biện pháp “tiêu diệt” sự cô đơn “độc hại” chính là những mối quan hệ “tích cực”.

Thông qua nghiên cứu, giáo sư cho biết, những người có mối quan hệ với gia đình, bạn bè, cộng đồng tốt hơn thường dễ dàng có được niềm vui, hạnh phúc, sức khỏe tốt hơn và sống thọ hơn với những người cô đơn ít bạn bè.

Có thể thấy việc có những mối quan hệ tốt đẹp là tiền đề giúp chúng ta có được niềm vui và sự hạnh phúc cùng sức khỏe cả về mặt thể chất lẫn tinh thần.

Chất lượng của các mối quan hệ quan trọng hơn số lượng

Qua thống kê, cứ 5 người trưởng thành lại có 1 người cô đơn giữa 1 đám đông, cô đơn trong môi trường làm việc, cô đơn trong cuộc hôn nhân của mình hoặc cô đơn trong chính gia đình mình… Theo đó, thông điệp thứ hai mà các chuyên gia đã rút ra sau nghiên cứu đó là: “Việc bạn có bao nhiêu bạn bè hay người thân không phải là vấn đề, quan trọng là chất lượng những mối quan hệ đó ra sao”.

Theo nghiên cứu có rất nhiều nam giới và nữ giới 80 tuổi nói rằng họ thấy vô cùng hạnh phúc dù cơ thể đã già yếu và thường xuyên phải chịu sự đau đớn, tuy nhiên họ vẫn luôn thấy vui vẻ vì bên cạnh mình có người vợ/ người chồng hoặc người thân thấu hiểu và yêu thương họ.

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ chìa khoá để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh - Ảnh 6.

Ảnh minh hoạ.

Ngược lại, những cặp vợ chồng hay những người thường xuyên phải sống giữa những bất đồng, lạnh nhạt và có những mối quan hệ bất hạnh thường cảm thấy nỗi đau thể xác dường như nhân lên nhiều lần và trở nên trầm trọng hơn mỗi khi có thêm sự xuất hiện của nỗi đau tinh thần.

“Việc phải sống cùng người chồng, người vợ độc hại đôi khi còn đáng sợ cả việc ly hôn”, giáo sư Robert Waldinger cho biết.

Chính vì vậy, trong trường hợp này hãy luôn ghi nhớ rằng “chất lượng quan trọng hơn số lượng” hãy lựa chọn đồng hành cùng những người thực sự thấu hiểu và tôn trọng, yêu thương bạn một cách chân thành.

Không sợ những mối quan hệ tranh cãi,

chỉ sợ những mối quan hệ không có sự tin tưởng

Giáo sư Robert Waldinger cho biết, việc gắn bó với người khác giúp trí nhớ của chúng ta trở nên “sắc bén” hơn. Theo nghiên cứu việc được ở trong những mối quan hệ tốt đẹp, luôn tin cậy lẫn nhau sẽ giúp chúng ta có trí nhớ tốt hơn bình thường. Ngược lại, những người ở trong mối quan hệ không thể tin tưởng người khác là những người dễ bị suy giảm trí nhớ.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra, một mối quan hệ không phải lúc nào cũng “xuôi chèo mát mái” đôi khi cũng sẽ có mâu thuẫn. Ví dụ như một cặp vợ chồng, họ hoàn toàn có thể xảy ra tranh cãi, nhưng miễn họ luôn tin tưởng nhau, khi khó khăn luôn tìm đến nhau thì những cuộc cãi vã đó không ảnh hưởng xấu tới trí nhớ của họ. Có thể thấy, những mối quan hệ xây dựng trên sự tin cậy sẽ giúp “bảo vệ” não bộ của chúng ta tốt hơn.

Nghiên cứu hơn 80 năm của Harvard hé lộ chìa khoá để có cuộc sống hạnh phúc và khoẻ mạnh - Ảnh 8.

Ảnh minh hoạ.

Sau cùng, chìa khoá để có được một cuộc sống hạnh phúc không phải là tiền bạc hay danh tiếng mà là những mối quan hệ tốt đẹp đồng hành cùng chúng ta trong suốt cuộc đời. Mong rằng các sau bài viết này mọi người rút ra được “chìa khoá” hạnh phúc cho riêng mình.

Theo Trí thức Trẻ

Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn từ giữa thế kỷ 16 đến thế kỷ 19

Minh họa: tinki-unsplash

Huyện Tống Sơn xưa chỉ là một dải đất nhỏ hẹp, càng thêm chật hẹp bởi núi liên chi, đồi bát úp. Đây là hình ảnh đặc trưng nhất của Thanh Hoá, cả ba miền rừng núi, trung du, và đồng chiêm trũng cùng hoà hợp trên một vùng đất cổ. Có lẽ họ Lê (tổ tiên của tuyên uý Lê Huấn) đến trước chọn nơi cát địa nhất, lập lên trang Bái Nại rồi hương Đại Lại, lưng tựa vào dãy núi Ông Lâu hình long ngai, hướng nhìn ra sông Lèn vòng tay ôm phía trước.

Năm 1336, Lê Quý Ly sinh ở mảnh đất “phát vương” này để thành Hồ Quý Ly, ông vua nhiều danh tiếng cũng lắm tai tiếng. Họ Nguyễn (tiên tổ của Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn) hẳn là đến sau, không ngại rừng thiêng nước độc, lập trại ấp Bái Nại, phát triển thành Bái Trang, sau là Gia Miêu Ngoại Trang ở một góc khuất hoang vắng, nơi núi Bái Sơn dáng rồng nằm gặp dãy Tam Điệp như đàn hổ dữ đuổi theo hai con trâu chạy ra tận sát mép biển Đông (1). Họ Nguyễn đến đây từ bao giờ? Họ bí mật chui qua lỗ đơm đó của ông Khổng Lồ trên đèo Ba Dọi hiểm trở, hay đàng hoàng vượt biển Thần Phù sóng gió rồi ngược dòng Tống Giang lên Bái Sơn?

Vua Gia Long nói: “Tổ tiên ta công đức chứa chồng, có hơn ngàn năm, nhưng thế đại xa cách, sự tích thiếu sót” (2). Và họ Nguyễn cũng chỉ truy tầm để truy phong đến đời ông nội Nguyễn Hoàng là Nguyễn Hoằng Dụ, thân phụ Nguyễn Kim. Địa danh Gia Miêu đã thấy nói đến ở đời Lê Thái tổ, với ba “trang” Gia Miêu Ngoại, Gia Miêu Nội, Gia Miêu Thượng, trong đó, Gia Miêu Ngoại là “anh cả”. Chữ “Gia Miêu” 嘉苗 là mạ (cấy lúa). Tổ tiên Nguyễn Công Duẩn đã sớm biến cả một vùng sơn lam chướng khí, nước độc hoá nước lành, đất chua thành đất ngọt để xây nên những đồng lúa tốt. Chắc chắn lương thực gia đình họ Nguyễn phải tích luỹ qua nhiều đời, giàu hơn cả Lê Lương giáp Bối Lý thời Đinh Lê, mới đủ cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn nhiều vạn thạch lương trong suốt 10 năm kháng chiến.

Câu chuyện “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” giống như một giai thoại vui vui. Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn đâu phải để dung thân mà để lập thân. Đặt chân lên đất Hoành Sơn, Nguyễn Hoàng cùng Nguyễn Ư Dĩ (người cậu ruột nuôi cháu từ lúc mới hai tuổi) bàn tính kế lâu dài “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng” lại thường xưng là chúa Tiên”, tỏ rõ khát vọng lớn, lập giang sơn riêng. Đến phút cuối đời, Nguyễn Hoàng vẫn chỉ một niềm mong muốn “dựng nên nghiệp lớn”.

“Nghiệp lớn” của Nguyễn Hoàng cũng như các đời chúa kế tiếp đều mang danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”. Thế là anh em thành cừu thù, đất nước xảy ra chiến tranh. Tất nhiên nếu không có chiến tranh, lịch sử sẽ mười phần hoàn hảo. Tuy nhiên, chiến tranh đã dạy cho cả hai bên những bài học đắt giá. Từ sau thất bại ở Nghệ An (1655-1660), chúa Nguyễn Phúc Tần nhận ra phía Bắc không phải là con đường mở nước. Và những lần tiến đánh Nam Hà tiếp đó của các chúa Trịnh như càng thúc giục thêm các chúa Nguyễn sải dài hơn bước chân mở đất về phương Nam.

Minh họa: kayla-kozlowski-unsplash

__________

Chính sách di dân khẩn hoang là quốc sách lớn của chúa Nguyễn. Nòng cốt của đội quân khẩn hoang vô cùng đông đảo ấy không phải là dân nghèo phiêu dạt. Trước hết, họ là những nhà giàu có, những nông dân biết làm ăn, những quan lại am hiểu nghề ruộng mang theo những thành phần bất hảo: lưu dân, tù binh, hàng binh, tội đồ, nô lệ,… người người, lớp lớp tiến về miền đất mới. Tổ tiên chúa Nguyễn xuất thân là dân khai hoang lập ấp, từ hoang rậm mà có trăm kho nghìn lẫm, từ dân lân, dân ấp mà thành trụ cột quốc gia.

Những anh hùng ấy khi gấp khúc lươn, họ lại trần lưng tay cày tay cuốc cùng gia nhân, tướng sĩ tự mưu sinh, tích luỹ lương thực chờ thời cơ mới, tiêu biểu: Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Kim,… Các chúa Nguyễn không chỉ có truyền thống mà còn biết phát huy truyền thống bằng kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của mình để tổ chức sản xuất, quản lý lao động, khắc phục thuỷ thổ, đấu tranh chống thiên nhiên, xây dựng trại ấp,… giúp dân an cư lạc nghiệp trên quê mới.

Quốc sách di dân khẩn hoang lập làng của các chúa Nguyễn giải quyết có hiệu quả vấn đề nông dân trong lịch sử, hạn chế tới mức thấp nhất căn bệnh nan y của xã hội phong kiến, có lúc, có nơi xảy ra khá trầm trọng là phiêu tán, tệ nạn, trộm cướp… dẫn đến bạo động, loạn lạc,… ảnh hưởng an ninh quốc gia. Các chúa Nguyễn, ngoài trách nhiệm dựng nước và giữ nước còn tự giao phó cho mình nhiệm vụ mở nước. Trong tình hình bấy giờ, mở nước cũng chính là dựng nước và giữ nước. Họ mở nước đến đâu, di dân khẩn hoang, lập làng đến đó, và ngược lại, di dân khẩn hoang, lập làng đến đâu, mở nước tới đó. Nghĩa là dân ở đâu, cõi bờ ở đó. Nếu giặc xâm phạm cõi bờ, chính người dân ở đó cầm vũ khí, tự bảo vệ làng quê mình. Trong khoảng 200 năm, các chúa Nguyễn mở mang được gần nửa nước, từ Phú Yên, Khánh Hoà đến An Giang, Hà Tiên, công nghiệp sánh với mấy nghìn năm lịch sử.

Tuy nhiên, lịch sử đất nước cũng như mỗi cá nhân, mỗi gia đình, dòng họ, có thịnh suy, tồn vong. Nhà Đinh trung hưng thất bại. Nhà Lý bị diệt là mất luôn. Nhà Trần trung hưng đến hai lần đều không thành. Hai nhà: Hậu Lê và Nguyễn đều sáng chói sự nghiệp Trung hưng. Tuy vậy, các vua Lê Trung hưng đều là cái bóng mờ trên ngai vàng đã nhạt màu son. Riêng nhà Nguyễn làm chủ cả một vùng giang sơn rộng lớn nghìn xưa chưa từng thấy. Nhưng đó là do thực lực nhà Nguyễn hay bởi bàn tay can thiệp giúp đỡ của nước ngoài?

Thực tâm, Nguyễn Ánh trên bước đường cùng, chưa dám quyết định cầu viện vua Xiêm vì chưa tin lắm ông bạn láng giềng nhiều tham vọng. Nhưng tướng Châu Văn Tiếp lại thua trận Cá Trê, đánh liều chạy sang Vọng Các kêu cứu. Vua Xiêm sai hai người cháu Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân giúp Gia Định trả thù Tây Sơn vốn đã gây cho Xiêm mối bất bình từ trước. Nguyễn Ánh không thể không chấp nhận vì lúc ấy ông chẳng còn tí quyền hành nào ở Gia Định. Việc bất ngờ xảy ra đến cả vua Xiêm cũng không thể ngờ là Chiêu Tăng, Chiêu Sương thả cho quân sĩ cướp bóc, hãm hiếp, tàn hại dân lành, tranh nhau cả tiền bạc Tây Sơn ném ra làm mồi nhử, khiến Nguyễn Ánh thất vọng tin chắc sẽ thất bại, đành tập hợp bề tôi của mình cấp tốc rút về đảo Thổ Chu. Tại đây, theo lời Bá-Đa-Lộc, Nguyễn Ánh phải than rằng người Xiêm lừa gạt ông, mượn cớ lập lại quyền bính cho ông để dùng danh vị ông mà cướp bóc dân chúng và bắt sống ông thôi (3).

Dù sao, sai lầm của Châu Văn Tiếp dẫn đến hậu quả nhân dân Gia Định bị tàn hại, Nguyễn Ánh là chủ soái vẫn phải chịu trách nhiệm.

Mạc thị gia phả, tập sử liệu của người đương thời sống trong cuộc chép rất rõ: “Chiêu Tăng và Chiêu Sương vẫn thả quân cướp bóc tàn hại dân chúng”… Vua (tức Nguyễn Ánh) ngăn cản không được, nhỏ nước mắt than: “Việc phục quốc cốt là lo cho nước cho dân, thế mà nay để cho bọn ấy thả sức làm điều bạo ngược, làm quốc chủ như ta làm gì, kẻo rồi giặc nguỵ (tức Tây Sơn) lại vin vào cớ đó vu cho ta rước giặc về tàn hại nhân dân. Ta không nỡ nhìn thấy cảnh đó. Chư tướng xin từ nay không để mặc cho bọn chúng hoành hoành tàn bạo nữa” (4).

Sau đó, nhiều lần vua Xiêm muốn gửi quân sang giúp, Nguyễn Ánh đều không nhận. Ví dụ: Tháng Chín năm Quý Sửu (1793) vua Xiêm sai đại tướng Chất Trì đóng quân năm vạn ở Nam Vang, gửi 500 chiến thuyền đậu ở Hà Tiên, đưa thư hẹn giúp Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn, nhưng ông từ chối khéo. Nguyễn Ánh không dễ quên bài học hơn 10 năm trước. Ông nói với tướng sĩ: “Mượn người ngoài giúp, đưa họ vào trong nước mình, sợ di mối hại về sau” (5).

Nhưng phải chăng, “miệng đọc ca, tay gẩy đàn lỗi”, Nguyễn Ánh vẫn cầu viện phương Tây! Tại sao?

__________

Bá-đa-lộc đem Hoàng tử Cảnh đi cầu viện từ cuối năm 1784, đầu năm 1787 mới đến nước Pháp. Rồi 10 tháng sau, ngày 28 Tháng Mười Một 1787, hiệp ước mới được ký kết, một bên là đại diện vua Louis XVI, một bên Bá-đa-lộc được Nguyễn vương uỷ nhiệm với tờ giấy viết từ năm, sáu năm trước!

Không có quốc thư, chỉ có một tín vật làm tin, đó là chú bé mang tên Hoàng tử Cảnh, lúc ra đi tuổi lên ba, bây giờ lên bảy! Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh bốn chiếc tàu, 1,200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 lính Phi, để đổi lấy cửa biển Hội An, sau thêm hòn Côn Lôn. Pháp được toàn quyền và độc quyền thương mại ở Nam Hà (8).

Nhưng hiệp ước không thành! Nhiều năm sau, một số người Pháp còn tắc lưỡi tiếc của vì đã bỏ mất món hàng béo bở. Họ không biết chính bởi món hàng hiệp ước Versailles quá hời tới mức không ngờ, Toàn quyền De Conway, người được giao trách nhiệm thi hành hiệp ước, vốn tính đa nghi càng thêm hồ nghi. Ông đã phái nhiều tàu đến Nam hà thám thính, tìm hiểu các cửa biển, các đảo lớn nhỏ và thực lực Nguyễn Ánh… Hẳn là tên cáo già này đã đánh hơi thấy nhượng địa quan trọng: Cửa bể Hội An thuộc quyền quản lý của Tây Sơn hùng mạnh, còn Côn Lôn chỉ là hoang đảo giữa trùng khơi mịt mù sóng gió!

Tờ báo Gazette Nationale ngày 14 Tháng Sáu 1789 xuất bản tại Pondichéry viết: “Không bao giờ tình hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm năm tỉnh phía Nam như bây giờ” (9). Đó là một nhận xét đầy mỉa mai: Một ông vua mất ngôi, mới trở về tạm thời chiếm được Gia Định như Nguyễn Ánh mà dám đòi nhường đất đai đã thuộc về một ông vua hùng mạnh của Tây Sơn!

Trước tình hình ấy, Nguyễn Ánh phản ứng như thế nào? Ông rất mừng khi Hoàng tử Cảnh đã được Bá-đa-lộc bảo vệ yên lành, tổ chức đón rước linh đình tại Vũng Tàu. Còn hiệp ước Versailles, De Conway coi là “một trò đùa”, Nguyễn Ánh cũng xem như tờ giấy lộn! Nó có vẻ giống chuyện chú Cuội bán đàn vịt trời trong truyện cười dân gian Việt Nam, một thứ mẹo vặt rất An Nam! Nhưng hiệp ước Versailles sẽ dẫn tới chiến tranh Pháp với Tây Sơn nếu Pháp muốn có được cửa bể Hội An, và như “Chiến quốc sách” “Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”. Có lẽ đó mới là thâm ý của “ngư ông” Nguyễn Ánh. Sự thật, lúc bấy giờ, con voi Louis XVI đã già, quá già, lại đang sa lầy ở chính nước Pháp và chưa biết đến bao giờ mới thoát ra được.

Cần nói thêm, hiệp ước Versailles thất bại, Bá-đa-lộc không thể đi không lại về không. Con đường truyền giáo của Đức cha có thể chấm hết nếu ông bị mất lòng tin đối với Nguyễn Ánh. Ông vất vả chạy ngược, chạy xuôi mới quyên nổi tiền mua 1,000 khẩu súng trường và mộ được 19 người, gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng giống nhau ở điểm hám lợi, ham danh! Họ đến Gia Định Tháng Bảy 1789, thường ngày lo đánh chén hơn đánh giặc và rốt cuộc đánh bài chuồn sau mấy năm “làm ăn” không phát tài! Theo số liệu của các giáo sĩ: Trong quân đội của Nguyễn Ánh đến năm 1800, số người Tây cũng chỉ có khoảng hơn 40 người!

Ảnh: annie-spratt-unsplash

__________

Cái người xưa gọi là “khí số” chính là vai trò lịch sử. Khi nhà Tây Sơn hết vai trò lịch sử, lịch sử tất phải chọn ai đó, không người này thì người khác, đứng ra dọn dẹp đống đổ nát để xây dựng trên nền tảng quốc gia ngôi nhà mới. Và lịch sử đã chọn Nguyễn Ánh. Lịch sử có thể chọn nhầm ai đó, nhưng với Nguyễn Ánh, là nhân vật xứng đáng nhất vì ông đã thành công nhất. Nếu không chọn Nguyễn Ánh, lịch sử chọn ai bấy giờ? Điểm mặt các anh hùng, hào kiệt nổi lên buổi ấy, không còn ai hơn Nguyễn Ánh hay bằng Nguyễn Ánh.

Thiết tưởng hậu thế không nên quá khó tính đòi hỏi những gì lịch sử không thể có được, những gì Nguyễn Ánh không thể làm được. Hạn chế lịch sử từ Quang Trung đến Gia Long là không thể cởi bỏ sớm chiếc long bào ố vàng cũ kỹ để thay bằng bộ complet tân thời mới toanh của văn minh tư sản. Vậy, ở trong cái lồng phong kiến đã trở nên chật hẹp ấy, triều Nguyễn của Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị phải khắc phục như thế nào để ổn định đất nước, bảo vệ nền độc lập, điều hoà mâu thuẫn giai cấp, củng cố vương quyền, phát triển xã hội toàn diện? Trước hết là:

Vấn đề ruộng đất

Sau gần nửa thế kỷ loạn lạc, chiến tranh, triều Nguyễn phải gánh chịu hậu quả nặng nề về tình hình ruộng đất rắc rối, phức tạp, đòi hỏi nhà nước phải có chủ trương đúng đắn kèm theo biện pháp hữu hiệu. Năm 1803, Gia Long chỉ dụ cấm bán công điền, tiếp theo, năm 1804, chỉ dụ chia công điền. Gia Long không thể và cũng chưa dám làm gì khác vì đất nước chưa thật sự ổn định. Một số triều thần xin vua thi hành phép “phân điền chế sản”. Nhưng triều Hồ “hạn điền” hoàn toàn thất bại, triều Tây Sơn lấy ruộng nhà giàu chia cho nhà nghèo cũng chỉ có tác dụng nhất thời.

Điền chủ giàu lên, ngày càng giàu thêm nhờ nhiều nguồn đất đai, không phải hoàn toàn bởi thủ đoạn chiếm đoạt của nông dân. Gia Long rất có cơ sở khi ông nói: “Bọn nghèo không chịu khó nhọc làm ăn, chia cho rồi đem cho kẻ khác, nay muốn ngăn ngừa bọn cường hào kiêm tính bao quát, lấy ruộng chia đều thì lại thêm phiền nhiễu nhân dân. Trẫm đã nghĩ rồi, không thể làm được” (10).

Cho nên Gia Long vẫn phải theo cách cũ của triều Lê, nhưng kèm theo các chính sách tích cực: Mở mang đồn điền, đẩy mạnh khai hoang, khuyến khích lao động, dùng pháp luật ràng buộc và xử lý kẻ lười biếng, bọn cường hào, v.v… Đời Minh Mạng, xét thấy tổng số ruộng đất ở Bình Định 76,000 mẫu, ruộng tư chiếm 70,000, còn ruộng công chỉ có 6,000 mẫu, cho lấy một nửa số ruộng tư của mỗi nhà chuyển sang làm ruộng công. Cách làm này tưởng như người ít ruộng chịu thiệt thòi nhất, sự thật ruộng tư của họ ra đi lại trở về dưới cái tên khác: Công điền. Còn nhà giàu, càng giàu càng thua thiệt nhiều (những nơi công điền nhiều hơn hoặc bằng tư điền không áp dụng lệnh này).

Những cố gắng của triều Nguyễn các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đã đưa nông dân ra khỏi bờ vực thẳm, hạn chế ở mức độ nhất định nạn lưu tán, căn bệnh nan y của thời đại phong kiến nói chung. Đặc biệt, nhà Nguyễn là triều đại phong kiến duy nhất trong lịch sử có thóc gạo dồi dào tới mức xuất khẩu bán cho ngoại quốc.

Vấn đề thương mại

Có phải triều Nguyễn “trọng nông ức thương”? Đúng! Thì triều đại phong kiến nào mà chẳng “nhất bên trọng, nhất bên khinh”? Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên… bấy giờ cũng không khác, không thể khác. Đó là đặc điểm của phong kiến phương Đông chăng? Tuy vậy, hãy xem triều Nguyễn ức thương như thế nào?

Nhà Nguyễn đặt trạm thu thuế trên ngã ba các con sông huyết mạch. Điều này chứng tỏ nội thương nếu không phát đạt cũng chẳng bị ngăn cấm. Sau một thời gian, Gia Long bỏ bớt trạm thu thuế và giảm mức thuế hoặc không đánh thuế một số mặt hàng để khuyến khích nội thương. Đối với ngoại thương, triều Nguyễn bị xem là “bế quan toả cảng”. Có đúng triều Nguyễn “bế quan toả cảng” hay chỉ giới hạn giao thương, quản lý chặt ngoại thương? Hãy đơn cử một vài ví dụ:

Sau khi Gia Long lên ngôi, người nước Anh ba lần đến Đà Nẵng xin lập phố buôn bán ở Trà Sơn, nhà vua đều không cho, vì đấy là nơi quan yếu không thể cho người ngoài đến ở. Năm 1832, Tổng thống Hoa Kỳ cử đặc phái viên mang quốc thư đến xin thông thương tàu thuyền ở cửa Vụng Lấm, Phú Yên; Minh Mạng sai viết thư phúc đáp, đại ý: Hoa Kỳ muốn xin thông thương, cố nhiên ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay tàu thuyền nếu có đến buôn bán thì cho ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà vượt quá kỷ luật (11).

Không thể nói nhà Nguyễn, cụ thể Gia Long, Minh Mạng chủ trương “bế quan toả cảng”. Lý do họ quy định cho tàu thuyền ngoại quốc là chính đáng và cách giải quyết như thế là thoả đáng. Các vua Nguyễn cũng hoàn toàn đúng khi triều đình nắm độc quyền ngoại thương để chỉ mua vào những thứ thật cần thiết và bán ra những gì nên bán, có thể bán. Đặc biệt loại hàng chiến lược như thóc gạo, khoáng sản,… quan hệ tới an ninh quốc gia, nhà vua trực tiếp quản lý. Triều đình Nguyễn biết khá rõ trên tàu buôn của nước ngoài có cả những món hàng nguy hiểm chết người: Cha cố, gián điệp, thuốc phiện,… không thể để tự do nhập lậu vào Việt Nam.

Một nhà sử học kịch liệt lên án chính sách “bế quan toả cảng” của nhà Nguyễn và phê phán thẳng tay tình trạng công thương đình đốn ở triều Nguyễn cũng đã buộc phải viết: “Dù sao thời Gia Long đến thời Minh Mạng, nền thương mại trong nước và bên ngoài có phục hồi; thuế thương chính thu được là ba trên bốn mươi triệu, tức là một phần 13 của ngân sách nói chung” (12).

Vấn đề bang giao

Truyền thống Việt-Miên-Lào-Xiêm là láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau. Gia Long trước khi mất, căn dặn hoàng thái tử (tức Minh Mạng) không được gây hấn ngoài biên (13). Năm 1823, Diến Điện vì mấy lần xâm lược Xiêm, bị quân Nguyễn giúp Xiêm đánh thua nên xin lập đồng minh Việt-Diến chống Xiêm, Minh Mạng từ chối.

Nhà vua bảo triều thần: “Không nên bỏ tình hoà hiếu mà tìm sự cừu thù” (14). Nhưng bản tính các vua Xiêm hay cậy mạnh, lại nhiều tham vọng, muốn thôn tính Lục Chân Lạp (Miên) để xâm chiếm luôn vùng đất Gia Định, mưu đô hộ Vạn Tượng (Lào) nhằm uy hiếp cả miền Trung nước Việt. Bởi thế, nhà Nguyễn phải sai tướng đem quân giúp Miên, Lào giữ yên đất nước, vì Việt-Miên-Lào như môi với răng, môi hở răng lạnh. Xiêm nổi giận, hễ có dịp là tấn công Việt để trả thù. Năm 1833, quân Xiêm đánh chiếm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, đánh chiếm cả miền đất phía Tây Quảng Trị và xâm phạm biên giới Nghệ An, uy hiếp đến kinh đô Huế, khiến triều đình Nguyễn hết sức lo lắng. Phải mất mấy năm vất vả, quân Nguyễn mới dẹp yên được. Nhưng sau đó, triều đình Nguyễn vẫn sẵn sàng bỏ qua chuyện chiến tranh, lại quan hệ hữu hảo với Xiêm.

Không biết có bao nhiêu độc giả đã hiểu lầm bởi một giáo sư nổi tiếng đầu ngành sử học, đã dùng ngòi bút đanh thép kết tội các vua Nguyễn “bành trướng, xâm lược” và “chính sách xâm lược tai hại của triều đình nhà Nguyễn càng làm cho cuộc khủng hoảng trong nước thêm sâu sắc”. Ông tâng bốc Xiêm hết lời và mạt sát Nguyễn cũng cạn lời! (15).

Sự thật, từ thời các chúa Nguyễn, hai nước Miên, Lào đã nhờ Nam hà bảo hộ để chống lại sự bành trướng của Xiêm. Và các chúa Nguyễn, tiếp theo là các vua Nguyễn đều hết lòng với Miên, Lào trong việc bảo hộ, vì bảo hộ bạn cũng tức là bảo vệ mình. Bảo hộ là gì? Theo quan niệm các vua chúa nhà Nguyễn, bảo hộ là giúp đỡ, bảo vệ, khác với đô hộ là thống trị, xem nước người ta như thuộc quốc của nước mình.

Chính sách bảo hộ của nhà Nguyễn khá minh bạch. Gia Long bảo triều thần: “Bảo hộ là cốt giữ cho nước ấy được còn, chứ không phải để giám sát, cai trị nước ấy. Vậy nên hạ lệnh bọn Thuỵ (viên quan phụ trách bảo hộ Cao Miên) chớ nên can dự vào chính sự nước ấy, để cho phiên vương được tự làm việc thì lòng dân sẽ yên” (16). Một số triều thần muốn giải quyết dứt điểm vấn đề Cao Miên để đối phó dứt khoát với Xiêm. Gia Long nói: “Được một nước Chân Lạp để sự lo về sau, Trẫm quyết không làm như thế”. Đó là quan điểm đúng đắn mang tầm chính trị sáng suốt, sâu sắc của ông vua giỏi.

Vấn đề ngoại đạo

Nhà truyền giáo nổi tiếng nhất Nam hà bấy giờ là Bá-đa-lộc. Ông này còn mang các tên: Đức cha cả, Giám mục d’Adran, Đức ông Pigneau, Pierre-Yoseph-Georges, Pigneau de Béhaine… Với tên Bi-nhu quận công, Bá-đa-lộc như một triều thần Việt Nam thứ hạng cao, chỉ sau quốc công.

Ông đang long đong tại Nam Vang, được Mạc Thiên Tứ đưa đến gặp Nguyễn Ánh tại đảo Thổ Chu. Chính ở đây, năm 1784, ông hứa giúp Nguyễn Ánh cầu viện Đại Tây. Mối quan hệ bắt đầu từ đó, đôi bên tưởng chừng gắn bó keo sơn, thực chất là hai thế giới cách biệt không thể dung hoà giữa hai luồng tư tưởng văn hoá Đông-Tây, Việt-Pháp. Bá-đa-lộc âm mưu biến Hoàng tử Cảnh thành con chiên ngoan đạo và tương lai sẽ là ông vua sùng tín bậc nhất phương Nam, để dân tộc Việt, tất cả đều chắp tay, cúi đầu trước cây thánh giá.

Năm 1789, Hoàng tử Cảnh trở về nước sau sáu năm được Bá-đa-lộc kèm cặp. Ngày giỗ gia tiên, cậu bé Cảnh không chịu vái lạy ông bà, Nguyễn Ánh hỏi Đức cha cả tại sao thầy dạy học trò quên ông bà? Bá-đa-lộc trả lời: Thờ cúng ông bà, tin ông bà phù hộ con cháu sống lâu, giàu có là mê tín dị đoan. Nguyễn Ánh bảo Bá-đa-lộc: Lễ bái chỉ là để chứng tỏ con cháu nhớ ơn tổ tiên, ông bà, để đền đáp công ơn ấy, tôi nhất quyết phải giữ đạo ông bà vì đó là một trong những giáo dục căn bản của xứ tôi (17).

Rồi Nguyễn Ánh đặc cử một số nho thần dạy bảo Hoàng tử Cảnh theo lề lối giáo dục truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bấy giờ ở Nam hà, thế lực các giáo sỹ phương Tây rất mạnh nhưng họ đều phải lùi bước trước thái độ cứng rắn của Nguyễn Ánh, quyết xây dựng một quốc gia thống nhất về mọi mặt trên cơ sở truyền thống tư tưởng – văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Vương triều Nguyễn thời kỳ đầu trị quốc, các vua Gia Long, Minh Mạng không bảo thủ lạc hậu đến mức “phản động” như người ta lầm tưởng. Họ ý thức việc cần thiết phải học tập, tiếp thụ khoa học kỹ thuật tiến bộ của văn minh thế giới để áp dụng vào thực tế Việt Nam. Chỉ có khoảng nửa thế kỷ (1802-1858), họ xây dựng vững chắc nền tảng quốc gia thống nhất, để sau đó đế quốc Pháp trong 80 năm đô hộ dù chia cắt đất nước thành ba “kỳ”, với ba chế độ chính trị khác nhau, âm mưu biến Việt Nam thành quận huyện của Đại Pháp thì Việt Nam vẫn là Việt Nam.

Dĩ nhiên, bên cạnh vinh quang có cay đắng, họ Nguyễn, từ chúa Nguyễn đến vua Nguyễn đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử những nhiệm vụ lịch sử giao phó mà không hoàn thành, cả những hành vi sai trái, lỗi lầm bất cứ vì nguyên nhân chủ quan hay lý do khách quan.

Nếu tôi là nhà điêu khắc, tôi sẽ làm một pho tượng đài MẸ ĐẤT MẸ LÚA vĩ đại, dưới chân tượng, hiển nhiên khắc to hai chữ VIỆT NAM, không quên thêm một chữ “NGUYỄN”, dựng tại nơi cát địa nhất của Nam bộ, miền đất được xây đắp bằng trí tuệ, sức lực và máu xương người Việt Nam suốt năm thế kỷ.

Hoàng Tuấn Phổ / Saigon Nhỏ

Những mảnh ghép về Hà Nội

“Hà Nội đẹp đến nỗi nó bị phá thế mà vẫn còn đẹp” (Một nhà văn)

Hà Nội có vẻ đẹp bí ẩn của cô gái nửa Á nửa Âu, như bức tranh mosaic. Đó là vẻ đẹp càng ngắm càng say mê, càng ở lâu càng quyến rũ. Mỗi khi đi xa lòng vẫn nhớ về Hà Nội, nhất là Hà Nội mùa thu, với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, tiếng dương cầm trong căn nhà đổ, mái ngói xô nghiêng, như còn vọng tiếng chuông ngân… Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng mê hoặc lòng người, không chỉ với người Việt mà còn với người nước ngoài.

Hà Nội của tôi

Đại sứ Pháp Jean Noel Poirier yêu Hà Nội nên đã làm bộ phim tài liệu “Hà Nội của Tôi” (Mon Hanoi, 2017) do anh viết kịch bản và đạo diễn, để ghi lại hồn cốt và “bí mật của Hà Nội” mà nhiều người dễ bỏ qua, như văn hóa hè phố độc đáo. Đó là góc nhìn và cảm xúc của một người Pháp đã sống nhiều năm ở Hà Nội, nên đã “phải lòng” thành phố này như “quê hương thứ hai”. Sau khi nghỉ, anh mở một tiệm giặt là ở phố Hàm Long, Hà Nội.

Nhiếp ảnh gia người Mỹ William Crawford cũng yêu Hà Nội, nên đã đến thành phố này hàng mấy chục lần trong suốt ba thập kỷ (từ năm 1985) để ghi lại những hình ảnh của Hà Nội qua những biến đổi của thời gian và không gian. Đó là những tư liệu quý và hắp dẫn về Hà Nội, đã được triển lãm tại Việt Nam và bảo tàng ở Mỹ, và đã xuất bản thành sách (Hanoi Streets 1985-2015: In the Years of Forgetting, William Crawford, 2018).

Anh đã cất công ghi lại khá chi tiết kiến trúc thuộc địa và bản địa, cảnh quan đô thị và chân dung người dân trong không gian riêng tư tại các đường phố Hà Nội và khu vực ngoại ô. Cuốn sách đó đã tổng hợp được những bức ảnh màu đầy cảm xúc, kèm theo hồi ký với góc nhìn trực quan của chính tác giả về con người Hà Nội, về sự thay đổi và phát triển của thành phố và dân cư, đặc biệt là di sản khu phố cổ, với “Hà Nội 36 phố phường”.

Michael DiGregorio là đại diện Asia Foundation tại Việt Nam (từ 2014) và tham gia nhóm công tác về năng lượng của AmCham. Trước đó, Michael đã làm cho Ford Foundation tại Việt Nam (2002-2009). Anh đã sống ở Việt Nam gần ba thập kỷ, nên “phải lòng” Hà Nội. Lý do Michael đã gắn bó với Hà Nội như “quê hương thứ hai”, không chỉ vì lấy vợ Việt, mà còn vì Hà Nội đã hấp dẫn anh bởi nhiều di sản lịch sử và văn hóa đầy nghịch lý. 

Tại sao du khách thập phương khi đến Hà Nội chỉ thích khu phố cổ, tuy chật chội và đông đúc? Mỗi thành phố thường có hồn cốt riêng (ambiance), và khu phố cổ với “Hà Nội 36 phố phường” mang đậm hồn cốt của di sản thành Thăng Long. Chẳng ai muốn đến một thành phố tuy hiện đại nhưng vô hồn như thủ đô Naypyidaw của Myanmar. Bên cạnh khu phố cổ, Hà Nội còn có “khu phố Tây” lịch lãm với nhiều biệt thự Pháp từ thời thuộc địa. 

Martin Rama là chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam trong 8 năm (2002-2010). Anh là tác giả cuốn sách “Những quyết sách khó khăn: Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi”. Anh không chỉ là chuyên gia kinh tế, mà còn là nhà hoạt động nghệ thuật nghiệp dư, đã “phải lòng” Hà Nội ngay từ lần đầu (10/1998). Sau khi rời Việt Nam, anh đã viết cuốn “Hà Nội, một chốn rong chơi” (Giải thưởng Bùi Xuân Phái 2014).

Cuốn sách đó là lời lời tỏ tình của Martin Rama với Hà Nội, tuy “xa mặt nhưng không cách lòng”. Trong cuốn sách, anh đã gọi Hà Nội là “nàng thơ” khi kể câu chuyện tình yêu của mình với Hà Nội. Với anh, “nàng” không lộng lẫy như những thủ đô châu Âu, nhưng thực sự xinh đẹp với cá tính riêng của mình. Vào mùa hè, tính khí “nàng” hơi đỏng đảnh, mưa nắng thất thường, thậm chí nổi cơn bão tố, nhưng đến mùa thu, nàng lại dịu dàng.

Martin Rama quan tâm không chỉ về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, mà còn về phát triển đô thị bền vững (Sustainable Urban Development). Đó là một dự án do anh khởi xướng, và đã đề xuất bốn phương án để dung hòa phát triển đô thị với bảo tồn di sản văn hóa. Đó là (1) phân vùng; (2) xác định mục đích sử dụng đất; (3) quy chế; (4) khuyến khích. Theo anh, Hà Nội quyến rũ mọi người vì không gian văn hóa vỉa hè và cây xanh. 

Paris được yêu thích bởi văn hóa cà phê vỉa hè, một “cá tính” của thành phố. Hà Nội cũng có “văn hóa vỉa hè”, nơi mọi người kiếm sống, mua sắm, ăn uống, giao lưu, và hẹn hò… ngoài đường. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người yêu Hà Nội. Với các nhiếp ảnh gia, đó không chỉ là một thành phố xinh đẹp như tranh vẽ và giấc mơ, mà còn tràn đầy cảm xúc. Martin Rama đã tích cực vận động thành phố bảo tồn những di sản văn hóa.  

Với vai trò giám đốc dự án tại Trung tâm Phát triển đô thị bền vững (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) Martin Rama đã tổ chức “giải cứu” thành công bức tranh tường ở ngã tư chợ Mơ, bị người ta đập đi để mở đường cho một dự án mới. Bức tranh tường nặng hàng chục tấn được di chuyển tới một địa điểm mới để khôi phục và bảo tồn với vai trò mới. Đó không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật tuyên truyền, mà còn là di sản của Hà Nội.

Martin Rama còn vận động thành phố bảo tồn ngõ 22A Hai Bà Trưng (Hanoi Cinematheque). Đó là một khuôn viên rất đẹp, có vai trò quan trọng trong lịch sử của thành phố. Với những lan can theo phong cách trang trí nghệ thuật Art Deco và một quán cà phê ngoài trời dễ thương, nó như một ốc đảo thanh lịch và yên bình giữa một khu phố khá ồn ào. Những nơi như vậy đã góp phần hình thành “cá tính” độc đáo của thủ đô Hà Nội.

Có thể nói Hà Nội là một bức tranh ghép nhiều sắc thái, tuy đa dạng nhưng hòa hợp trong một thành phố “tân cổ giao duyên”. Đó là di sản độc đáo cần bảo tồn. Gần đây, quy hoạch “Hà Nội mới” với diện tích mở rộng vì những động cơ thực dụng, đã làm cho Hà Nội biến dạng, với các  “đô thị mới” (new towns) tuy hiện đại nhưng quy hoạch dở và vô hồn nên khó hòa hợp với “Hà Nội xưa”. Quy hoạch đô thị không phải để xây nhà và bán.

Lợi ích nhóm

Trung Quốc đã cải cách thành công để kinh tế cất cánh, trở thành công xưởng của thế giới, trong khi Việt Nam vẫn chưa công nghiệp hóa, vẫn lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và gia công hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp FDI. Nếu không xây dựng được nội lực để phát triển bền vững thì không thể độc lập và khó giữ được chủ quyền. Không phải Việt Nam thiếu cơ hội hay nguồn lực, mà thiếu tầm nhìn chiến lược và đổi mới tư duy.

Đối với các nước chậm phát triển hay “không chịu phát triển”, có hai thứ vô hình nhưng nguy hiểm là “chủ nghĩa đặc thù” (exceptionalism) và “chủ nghĩa tiệm tiến” (gradualism). Những người theo chủ nghĩa đặc thù thường lập luận rằng Việt Nam có đặc thù riêng nên không chấp nhận các giá trị phổ quát (không giống ai). Những người theo chủ nghĩa tiệm tiến lập luận rằng Việt Nam không nên đổi mới quá nhanh (giữ nguyên trạng).

Đổi mới “vòng một” ở Việt Nam tuy đã triển khai từ cuối thập niên 1980, nhưng nay đã hết đà.  Đổi mới “vòng hai” vẫn dậm chân tại chỗ. Kinh tế Việt Nam không thể cất cánh “theo hướng rồng bay” vì ách tắc về thể chế chưa được tháo gỡ, làm cản trở cải cách và phát triển. Báo cáo “Việt Nam 2035, Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ” do Bộ KH-ĐT và World Bank soạn thảo (năm 2016) vẫn chưa được triển khai.

Theo mô hình 8 bước để “quản trị thay đổi” (Leading Change, John Kotter, 1995), bước đầu tiên là “cấp bách” (urgency). Theo lý thuyết “thay đổi quản trị” (The Future of Management, Gary Hamel, 2007) yêu cầu đổi mới còn cấp bách và triệt để hơn, mang tính đôt phá để cải tổ cách thức quản trị. Nhưng tại Việt Nam, chủ nghĩa đặc thù và chủ nghĩa tiệm tiến đã làm vô hiệu hóa quá trình đổi mới vì “quá ít và quá chậm” (too little too late).

Một lý do thành công của đổi mới “vòng một” chính là sự cấp bách (urgency). Chỉ khi nào bị dồn đến bờ vực tuyệt vọng (desperation), người ta mới “đổi mới hay là chết”. Nhưng sự thành công bước đầu của đổi mới “vòng một” đã tạo ra tâm lý “thỏa mãn” quá sớm và “vùng an toàn” (comfort zone), làm triệt tiêu động lực đổi mới. Theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam có thể để lỡ con tàu tốc hành công nghệ số, nếu chậm đổi mới thể chế.

Người Hà Nội thích đùa: “Hà Nội không vội được đâu”. Nhưng đại dịch và chiến tranh Ukraine là hai sự kiện bất ngờ làm cho người Việt giật mình tỉnh ngộ trước hiểm họa khó lường. Muốn đối phó với đại dịch, với biến đổi khí hậu, và mối đe dọa tại Biển Đông, người Việt phải có “đồng thuận quốc gia” (national consensus). Nếu phân hóa và chia rẽ thì không quốc gia nào có thể đứng vững trước các thách thức khó lường trong thế kỷ 21.

Khi vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (năm 1010) chắc ông không hình dung được mình đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử lớn thế nào. Đối với bất cứ quốc gia nào, thủ đô không chỉ có giá trị địa chiến lược, mà còn là biểu tượng và hồn cốt của dân tộc. Vì vậy, trong chiến tranh, kẻ thù thường đánh chiếm và phá hủy thủ đô, để xóa bỏ di sản lịch sử và văn hóa dân tộc. Nhưng trải qua 1022 năm, Thăng Long vẫn trường tồn.

Nhưng Lý Công Uẩn dù có đầu thai sống lại, chắc không muốn sống ở Hà Nội vì giao thông ách tắc và không khí ô nhiễm. Chắc ông không thể hiểu được tại sao người Hà Nội lại chặt hạ 6.700 cây xanh (lá phổi của thành phố) và lấp nhiều hồ ao (là phong thủy của Hà Nội). Chắc ông cũng không thể hiểu được tại sao người Hà Nội lại thường xuyên đào vỉa hè lên để lát lại, như một “cái mỏ lộ thiên” mà các nhóm lợi ích khai thác mãi không hết.

Theo thống kê của Vietnamnet (23/3/2015), đã có hơn 70 bài báo trong nước và ngoài nước lên tiếng về vụ chặt 6.700 cây xanh Hà Nội. Điều đó nói lên tâm trạng bức xúc của người dân và vai trò của báo chí trước quyết định mất lòng dân của thành phố về môi trường. Sức ép của dư luận trong nước và ngoài nước đã buộc trung ương và thành phố phải điều tra, làm nhóm lợi ích buộc phải dừng tay. Một số quan chức đã bị kỷ luật hoặc bị truy tố.  

Theo báo chí, chiến dịch cải tạo và lát lại vỉa hè tại 100 tuyến phố Hà Nội tốn hàng nghìn tỉ đồng ngân sách. Riêng trong giai đoan 2013-2017, thành phố đã có kế hoạch chi 1.800 tỉ đồng để cải tạo vỉa hè. Sau khi thợ điện đào hè lên để đặt cáp rồi lấp lại, thợ nước lại đào lên để sửa ống nước. Việc đào lên, lấp xuống không phối hợp, không có thanh tra giám sát, nên chất lượng kém. Có nhiều tuyến phố vừa lát vỉa hè xong đã xuống cấp.

Theo Tiền Phong (30/3/2019) chánh văn phòng Hội Kiến trúc sư Việt Nam Phạm Thanh Tùng cho rằng những tuyến phố vỉa hè còn tốt thì không cần lát lại. Ông cho rằng điều cần nhất lúc này là Hà Nội phải đổi mới tư duy quản trị đô thị. Đã đến lúc thành phố phải có trách nhiệm với kinh phí của nhân dân. Không nên biến việc lát vỉa hè thành “dự án đầu tư có nhiều thất thoát”.  Theo quy luật, tham nhũng là do không kiểm soát quyền lực.   

Theo Lao động (3/11/2021) Công ty Cổ phần Môi trường Nhật-Việt (JVE Group) đã đề xuất phương án xây hầm ngầm chống ngập, kết hợp cao tốc ngầm để cải tạo sông Tô Lịch thành “công viên Lịch sử-Văn hóa-Tâm linh”. JVE áp dụng công nghệ Bio-Nano Nhật để xử lý tận gốc mùi hôi, phân hủy tầng bùn đáy, xử lý chất ô nhiễm hữu cơ, diệt các vi khuẩn có hại đang tồn tại trong lòng sông và duy trì môi trường sạch cho sông.

Theo dự án JVE, để có thể làm hồi sinh sông Tô Lịch theo đúng nghĩa, cần giải pháp tổng thể như thu gom nước thải, cấp nước mới cho sông sau khi thu gom nước thải, xử lý triệt để nguồn gây ra mùi hôi như bùn đáy, tầng nước bị ô nhiễm trong lòng sông, và thoát nước khi mưa bão. Nhưng dự án JVE cải tạo sông Tô Lịch do Nhật tài trợ đã bị đình trệ do đại dịch, và không được ông Thị trưởng Nguyễn Đức Chung ủng hộ vì lợi ích nhóm.

Dự án “Bảo tồn, cải tạo, phát triển cầu Long Biên và các khu vực liên quan”, có tổng diện tích khoảng 310 ha, đã được Chính phủ Việt Nam quyết định làm một bảo tàng và khu sinh thái độc đáo của thành phố ven sông Hồng, với nhiều hạng mục khác như công viên trung tâm (Central Park), trên cơ sở lấy cầu Long Biên làm trọng tâm, để tạo thành một không gian mở, đan xen với không gian đô thị hiện hữu của trung tâm thủ đô Hà Nội.

Giới tinh hoa   

Việt Nam vốn có truyền thống trọng trí thức (như khẩu hiệu “nhất sỹ, nhì nông”) và hiếu học (như Văn Miếu). Nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao đã đảo lộn các giá trị truyền thống, với  khẩu hiệu cực đoan “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Gần đây, người ta vẫn tranh luận về “định nghĩa trí thức”. Kết cục là số lượng trí thức tuy đông, nhưng chất lượng thấp, do hệ lụy của bằng giả để chạy chức và chạy theo thành tích. 

Theo thống kê của Bộ GD-ĐT (đến 31/12/2019), Việt Nam có 619 giáo sư, 4.831 phó giáo sư, 17.035 tiến sĩ, 46.251 thạc sĩ. Một tỷ lệ rất cao. Theo Vietnamnet (5/5/2022) “luận án tiến sĩ phát triển môn cầu lông cho công chức” là có thật chứ không phải trò đùa. Đến năm 2020, cả nước có 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng, nhưng không có trường đại học nào của Việt Nam được xếp hạng cao hơn 1000 trường trên toàn cầu. 

Gần đây, nghệ sĩ Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh đã làm cộng đồng mạng ồn ào khi bị bắt do cáo buộc tấn công tình dục thiếu nữ Anh 17 tuổi tại Tây Ban Nha. Câu chuyện chưa đến hồi kết nhưng dư luận đã sôi sục như “cơn bão trong cốc trà” (a storm in a tea cup). Các nghệ sỹ được công chúng thần tượng nên dễ gây tai tiếng. Không chỉ “Minh Béo” bị bắt tại Mỹ (2016) mà nhiều “nghệ sỹ ưu tú” đã dính vào nghi án “ăn chặn từ thiện”.

Thế giới mạng nay đã trở thành một thế lực đáng sợ vì sự bùng nổ của YouTube và Tik Tok. Việc gây tranh cãi trên mạng là một thú vui dễ kiếm tiền. Thế giới mạng sẽ đổ xô vào “bình loạn” bất kể chuyện gì gây tranh cãi, chủ yếu là để “câu view”. Từ bầu cử tổng thống Mỹ với nhân vật Donald Trump đầy kịch tính, đến chiến tranh tàn khốc giữa Nga và Ukraine gây phân hóa dư luận. Vụ Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh không ngoại lệ.

Trong bối cảnh thế giới mạng đang góp phần vào một cuộc khủng hoảng truyền thông mới, thì người dân tại các xã hội đang chuyển đổi (transitional) như Việt Nam vốn có nền tảng dân trí thấp, càng dễ ngộ nhận và dễ trở thành nạn nhân. Hàng ngày, họ bị các YouTubers và TikTokers tấn công ào ạt qua nền tảng mobile, và bị bội thực bởi quá nhiều phim Tàu và các chương trình giải trí hay quảng cáo rẻ tiền trên các kênh TV và radio.

Đây là những vấn đề nổi cộm về văn hóa ứng xử trong xã hội do dân trí thấp, dễ ngộ nhận. Đó còn là hệ quả của hệ thống giáo dục làm thui chột thế hệ trẻ. Cách đây đã lâu, một vị lãnh đạo đã nhận xét: “chất tượng giáo dục nước ta rớt nhanh như nhảy dù”. Tuy ngành giáo dục có tiến hành cải cách, nhưng sau mỗi lần cải cách lại càng tụt hậu, vì không chú trọng đến thực chất mà chỉ chú trọng đến hình thức như hô khẩu hiệu như phong trào.   

Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh được coi là thành phần “tinh hoa” (elite) trong xã hội, nhưng có thể là sản phẩm lỗi của hệ thống giáo dục. Họ lớn lên trong một xã hội khép kín, thiếu pháp quyền. Để tồn tại, họ thường phải sống hai mặt để che đậy mặt trái của mình. Khi đã có nhiều tiền và có dịp ra nước ngoài, họ muốn “đổi đời” để thỏa mãn “phần con”, hơn là nâng cấp “phần người”. Nói cách khác, đó vẫn là dân trí thấp trong văn hóa ứng xử. 

Vì quen được công chúng trong nước thần tượng nên họ dễ ngộ nhận. Khi ra nước ngoài, họ vẫn tưởng mình là “người nổi tiếng”. Một số người theo thuyết âm mưu còn lập luận rằng họ bị gài.  Thường ở nước nào cũng có lừa gạt và tống tiền, nhưng không đâu có nhiều cạm bẫy và lừa gạt như ở Việt Nam, mà có người đã ví như “Thập diện Mai phục”. Nếu có dân trí cao, hiểu biết rộng, và văn hóa ứng xử tử tế, thì chẳng ai gài bẫy được họ.

Lời cuối

Cách đây 20 năm, vụ án “Thủy cung Thăng Long” (ở Hồ Tây), đã làm một số quan chức phải vào tù hay mất chức. Nay dự án khổng lồ “Sungrand City” tại Quảng An (Tây Hồ) được phép xây dựng đã gần xong. Tuy không có trong quy hoạch, nhưng họ có cách “điều chỉnh quy hoạch” (làm thêm nhà hát) để hợp thức hóa dự án. Nói cách khác, quy hoạch Hà Nội nói chung, và khu vực Hồ Tây nói riêng, đã bị nhóm lợi ích thao túng.

Gần đây, nhóm lợi ích trong vụ án “Việt Á” và các “chuyến bay giải cứu” đã lợi dụng đại dịch để lũng đoạn thể chế, vơ vét ngân sách nhà nước và móc túi của dân. Trong khi đó, các tỷ phú bất động sản và chứng khoán đã lũng đoạn thị trường và thao túng chính sách để trục lợi, bất chấp các vấn nạn như ách tắc giao thông, ô nhiễm không khí, ngập lụt vì ao hồ bị lấp để xây dựng, cây xanh bị chặt hạ, và hệ thống thoát nước xuống cấp. 

Nếu tham nhũng là “giặc nội xâm”, thì đại dịch là “tai họa kép”. Nhóm lợi ích không chỉ vơ vét ngân sách và móc túi dân, mà còn làm cho kế hoạch phục hồi kinh tế sau đại dịch càng nan giải. Theo báo Pháp luật (28/6/2022), trong 10 năm qua, 7.390 đảng viên đã bị kỷ luật hay tù do tham nhũng. Trong 170 cán bộ cao cấp (diện Trung Ương quản lý) bị bắt, có 33 Ủy viên TƯ Đảng, và 50 sỹ quan cấp tướng. Đó chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”.   

Trong bốn Thị trưởng của Hà Nội gần đây, đã có hai người phải “vào lò” là ông Nguyễn Đức Chung và ông Chu Ngọc Anh. Đó là một tỷ lệ quá cao. Nhưng trước đó, ông Nguyễn Quốc Triệu và ông Nguyễn Thế Thảo cũng để lại nhiều tai tiếng. Nói cách khác, trong hai thập kỷ qua, Hà Nội chưa có một thị trưởng nào xứng đáng với thủ đô. Đó không phải là do “dân trí thấp”, mà là do “quan trí lùn”, vì hệ lụy của một thể chế đã lỗi thời. 

Nguễn Quang Dy / Viet-studies