Ngôi nhà ‘mặc áo giáp’ bằng gốm

Không chỉ tạo nên nơi ở vừa truyền thống vừa tiện nghi cho gia chủ, công trình ở Bát Tràng còn giành giải thưởng của tạp chí kiến trúc Anh.

Tọa lạc ở ngôi làng cổ hơn 1.000 năm tuổi, ngôi nhà năm tầng trên diện tích 220 m2 kết hợp vẻ đẹp truyền thống đặc trưng của Bát Tràng ở bên ngoài với nét hiện đại, tiện nghi của nội thất bên trong.

Nhiệm vụ đặt ra cho các kiến trúc sư là thiết kế không gian sống hàng ngày cho một đại gia đình bảy thành viên, nơi họ hàng và bạn bè thường xuyên sum họp, nấu ăn đồng thời không gian sống phải “hòa với thiên nhiên”. Bên cạnh chức năng chính là ở, căn nhà còn được sử dụng làm tiệm kinh doanh gốm của gia chủ.

Lấy cảm hứng từ sản phẩm truyền thống đặc trưng của địa phương, nhóm thiết kế dùng gốm làm vật liệu chính. Toàn bộ hệ tường mặt ngoài nhà được xây bằng 5.000 viên gạch gốm với các độ đặc, rỗng khác nhau, tạo thành một khối gốm khổng lồ trong lòng Bát Tràng.

Vật liệu gốm cũng có nhiều ưu điểm như độ cứng khá cao, chống chịu tốt tác động từ môi trường như nắng mưa, gió bụi, có khả năng chống ẩm và nồm tốt.

Mặt tiền nhà còn được bố trí 31 ô cửa, kết hợp với cây xanh tạo nên những điểm nhấn.

Như mong muốn của chủ nhà, yếu tố kết nối con người với thiên nhiên, tương tác giữa mọi người trong ngôi nhà được nhóm thiết kế đặc biệt quan tâm. Sau lớp vỏ gốm là một khoảng đệm, tiếp đó mới là không gian ở.

Khoảng đệm rộng từ 0,5 đến 5 mét tùy vị trí, được tận dụng làm chỗ trồng các loại cây như khế, mít cùng các cây ưa bóng râm. Nhờ đó, thiên nhiên luôn hiện diện trong sinh hoạt hàng ngày của gia chủ.

Để cây phát triển không ảnh hưởng tới cấu trúc của ngôi nhà, nhóm thiết kế đổ hệ thống bồn riêng cho các cây lớn và thêm các lớp vải địa, versicell trợ thoát nước.

Thiết kế ba lớp làm mát căn nhà, gia chủ không cần dùng nhiều điều hòa. Bức tường gạch gốm chắn nắng trực tiếp nhưng vẫn cho gió và ánh sáng đi qua, giúp công trình luôn thông thoáng.

Không gian nội thất bên trong được thiết kế thoáng đãng với những ô kính lớn, tạo nên các khung hình cho người ở “bắt trọn” thiên nhiên xung quanh và cảm nhận các hiệu ứng ánh sáng do lớp tường gạch gốm phía bên ngoài tạo ra.

Việc kết hợp khung cửa kính và các lỗ thoáng trên bức tường gạch còn có tác dụng lấy sáng hiệu quả mà không gây quá nóng vào mùa hè.

Nội thất sử dụng chủ yếu gỗ tự nhiên kết hợp với tường gạch nung sơn màu tương đồng lớp vỏ gốm đem tới cảm giác ấm cúng.

Đầu năm nay, công trình này giành chiến thắng tại hạng mục Ngôi nhà mới tốt nhất của giải thưởng Wallpaper* Design Awards 2021 do tạp chí Wallpaper* tổ chức.

(Tạp chí Wallpaper* là tạp chí kiến trúc – thiết kế của Anh, thành lập từ năm 1996. Trang điện tử của tạp chí này có khoảng hai triệu lượt truy cập mỗi tháng)

Minh Trang / Ảnh: Hiroyuki Oki / Thiết kế: Võ Trọng Nghĩa Architects

Chuyện của cô ấy

Nên giấu tên cô ấy. Và cũng chẳng cần biết để làm gì.

Miễn là ta biết chuyện của cô ấy.

Cô ấy xinh, thích ăn diện. Đã đỗ tú tài. Không học tiếp đại học, vì lấy chồng. Vợ chồng rất yêu nhau.

Chồng cô ấy là công chức, tháng tháng lãnh một số lương đủ ăn xài. Nhưng ăn xài mới đủ thôi thì chưa ổn. Nếu chỉ đủ thì bao nhiêu thứ hàng tràn ngập trong các chợ, trên vỉa hè Sài Gòn, Gia Định, vừa đẹp vừa rẻ, vừa tiện lợi cho đời sống vật chất, ai tiêu thụ cho? Cho nên cô ấy cũng xin đi làm để có dư tiền.

Và cô được vào làm ở một sở của Mỹ.

Sở nào của Mỹ cũng có khối người Việt. Việc ít nhưng lương nhiều. Cảm ơn người bạn đồng minh tốt.

Cô ấy ở đó được chừng ba tháng, thì một buổi sáng, vào sở thấy trên bàn làm việc có một phong thư ngoài bì đề tên mình.

Mở bì ra, cô thấy một tập giấy đủ một trăm đô-la, và một bức thư:

“Thưa cô, tôi rất lấy làm vinh dự nếu được cô nhận lời đi chơi mát trong thành phố bằng xe hơi với tôi độ nửa giờ, sau buổi làm việc chiều mai 19-4. Nếu cô đồng ý tôi xin cô nhận chút quà của tôi đính theo đây.

Ký tên (một người Mỹ cùng làm trong sở, mà cô có biết mặt)”

Đọc xong, cô không suy nghĩ lâu, gấp thư và giấy bạc bỏ vào phong bì để nguyên chỗ cũ.

Buổi chiều đến sở, cô không thấy phong thư ấy. Hẳn là người Mỹ này biết cô không đồng ý, nên đã lấy đi.

Nhưng sáng hôm sau, là ngày 19 tháng 4, cô lại thấy chiếc phong bì trên bàn làm việc. Trong cũng có một trăm đô-la, và bức thư vài dòng như hôm trước. Chỉ có ngày hẹn khác, ngày 20 tháng 4. Vẫn tên ký của người Mỹ ấy.

Cũng như hôm trước, cô lại gấp tiền với thư vào phong bì, để lại ở bàn giấy. Nghĩa là cô không đồng ý cho cái anh chàng đó được vinh dự đi chơi phố với cô trong nửa giờ đồng hồ.

Lại cũng như hôm trước, buổi chiều cô không trông thấy chiếc phong bì ở trên bàn.

Nhưng rồi đến sáng ngày 21, cô lại thấy chiếc phong bì đặt ở trước mặt. Cũng đô-la và bức thư, nhưng đổi ngày hẹn là ngày 22.

Cô lại không nhận lời. Và cứ như vậy suốt một tuần, buổi sáng, bức thư để lại, buổi chiều, bức thư lấy đi và buổi sáng hôm sau, thư lại tới, chỉ đổi ngày hẹn thôi.

Việc này, cô chẳng cho các bạn đồng sự biết. Và cũng chẳng nói chuyện với chồng.

Ở Sài Gòn thường cô nghe thấy nhiều người khen Mỹ là lịch sự, là hào phóng. Dễ người Mỹ này lịch sự và hào phóng đây. Cô lại nghe nói Mỹ là bạn của Việt Nam, họ thường đi chơi với mình. Đối vẫn người Việt, họ lễ độ, nhã nhặn và đứng đắn. Nhất là đối với phụ nữ. Cho nên, buổi sáng thứ bảy, nhận được thư, cô có suy nghĩ. Suy nghĩ về cái con người quá xá là kiên tâm này đối với cô.

Hàng ngày, đi làm, cô đạp xe đạp mất chừng mười lăm phút. Cô mong dành tiền sắm chiếc Hon-đa, đi cho khỏi mất sức và mất thì giờ.

Nay một người Mỹ chỉ mời mình đi chơi có nửa giờ mà biếu mình một trăm đô-la. Hay là nhận lời quách.

Có làm sao? Nếu sáng thứ hai, cô vẫn thấy người ấy mời đi chơi, thì cô đừng nên từ chối nữa. Cô nghĩ thế.

Thì quả nhiên, trên bàn làm việc, cô lại thấy chiếc phong bì.

Cô đọc thư, nhận tiền, bỏ vào túi.

Chiều ngày thứ ba, biết là được hẹn, người Mỹ đợi cô ở cửa sở. Thấy cô ra, hắn lễ phép cúi chào. Cô giơ tay ra bắt. Hắn mở cửa xe, mời cô vào. Rồi nhanh nhẹn, hắn mở máy.

Trong khi đi các đường, hắn nói chuyện. Hắn hỏi thăm gia đình cô, hỏi tất cả những cảnh, những việc nhìn thấy trước mắt mà hắn chưa hiểu. Hắn nói về gia đình hắn, và hắn rất kính phục người Việt Nam, vì người Việt Nam có nhiều đức tính và rất thân thiện với người Mỹ. Giọng nói của hắn cho thấy hắn quả là lịch sự lễ độ và nhã nhặn. Hắn đưa cô đến đầu hẻm (vì nhà cô ở trong hẻm) thì vừa đúng nửa giờ. Từ giã hắn, cô giơ tay ra bắt. Hắn đứng thẳng, cúi đầu chào, như chào một người trên.

Việc này bẵng đi, đến mười hôm sau, cô ấy lại được tên Mỹ ấy mời đi chơi trong nửa giờ. Hắn hẹn ngày giờ đón cô, và cũng biếu cô một trăm đô-la.

Nửa giờ đồng hồ nói chuyện với một người dân nước văn minh mà còn được tiếng tội gì mà không nhận?

Thế là cô lại đi chơi với hắn. Và cũng vẫn nhưng thái độ cử chỉ đúng đắn như lần trước.

Vậy là cô có dư tiền để sắm chiếc Hon-đa. Chồng cô hỏi tiền nào, cô chỉ mỉm cười, nói là đi vay.

Năm hôm sau, cô lại nhận thư và tiền của người bạn Mỹ mời cô đi chơi. Giờ thì phải dùng tiếng “bạn” mới đúng.

Rồi đến nửa tháng, cô không thấy hắn mời. Cô đã có ý mong.

Thì một hôm, cô nhận được phong thư. Đập ngay vào mắt cô, là tập dày những hai trăm đô-la. Hắn mời cô dùng bữa cơm thân mật với hắn ở khách sạn X. Cô có nghĩ đến cái ý “tầm gửi lấn ngành”. Cô từ chối bằng cách để lại phong bì ở bàn giấy. Nhưng rồi buổi chiều, chiếc phong bì thư mời ăn biến đi để rồi sáng hôm sau lại xuất hiện ở trước mặt cô.

Ba lần như vậy. Đến lần thứ tư, cô cho phong bì vào túi. Nghĩa là cô nhận lời.

Bữa tiệc chiêu đãi thật trang trọng. Và vẫn những cử chỉ lời nói lễ độ và thân mật như mấy lần trước.

Bốn hôm sau, cô lại được mời, và cô không chối từ.

Và lại một lần nữa: Chả sao có bạn là người nước văn minh, mình học thêm được sự văn minh. Lại có lợi nữa. Đời cô thật may mắn hơn các chị em khác. Cô sắm ti-vi tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, may mặc cho mình, cho chồng. Cô còn muốn có chiếc xe hơi, để chủ nhật; vợ chồng đi chơi với nhau. Giá mà đủ tiền tậu được biệt thự thì hoàn toàn sung sướng.

Mười hôm sau nữa, cô ấy nhận được thư của người bạn mời ăn, nhưng lần này ăn ở nhà hắn. Có lẽ hắn cho là yêu cầu khó khăn đối với một người phụ nữ, nên hắn biếu cô những ba trăm đô-la.

Vì muốn có tiền để thoả mãn đời sống vật chất với chồng, nên cô không từ chối người Mỹ.

Bữa cơm hôm ấy cũng sang trọng không kém bữa cơm ở khách sạn. Chuyện trò còn có vẻ thân mật hơn.

Ăn xong, hắn tiễn xe cho cô về nhà.

Rồi một lần nữa, hắn lại biếu cô ba trăm đôla để mời cô về nhà ăn cơm với hắn.

Trong độ hơn một giờ đồng hồ, xe đón, xe đưa, chẳng mất công khó nhọc, còn được ăn ngon, được tiền nhiều, buôn gì lời bằng?

Hắn thuộc tính cô thích ăn gì, và không quen uống rượu mạnh, nên biết chiều ý cô và cũng chỉ dùng rượu bia. Hắn tỏ vẻ hân hoan và cảm ơn cô là tấm gương cho hắn bắt chước, nay hắn bớt được mấy thứ rượu có hại cho sức khoẻ.

Lần thứ ba, hắn mời cô đến nhà để ăn cơm. Lần này, hắn khoe rằng mẹ hắn vừa gửi cho hắn một thứ nước ở bên Mỹ mới chế ra. Chỉ cần một giọt tí xíu nhỏ vào rượu bia, thì thấy có mùi thơm lạ lùng, thơm đến mấy giờ đồng hồ ở cổ họng, và chất men lại dịu hẳn đi.

Cô uống bia với thứ nước ấy, thì quả nhiên thấy thế thật.

Nhưng cơm ăn xong, lạ quá, cô không muốn về nhà vội. Rõ ràng là một dục vọng của thú vật nó làm cô cồn cào không yên. Hẳn là tại giọt nước nhỏ vào rượu: Bởi vậy người bạn quý của cô đòi hỏi, cô chẳng từ chối tý nào: Cô vào buồng ngủ của nó. Và cửa đóng kín lại.

Đêm hôm ấy, khi về nằm cạnh chồng, cô ân hận, cô xấu hổ, cô nhục nhã. Cô muốn khóc, nhưng phải cố nhịn. Sợ chồng biết, cô càng không dám thú tội với người bạn trăm năm.

Lần sau tên Mỹ lại mời cô đến nhà chơi, nhưng không phải để ăn. Nó vẫn kèm theo ba trăm đô-la như trước. Cô hiểu là từ nay, cô biến thành đồ chơi của nó.

Nó thuê bằng tiền. Nghĩ vậy, nhưng cô cứ đi. Không phải đi cho nó thoả dục vọng, mà là để mắng nó là đồ xỏ lá, đồ khốn nạn, miệng nói kính phục người Việt Nam, nhưng chính là khinh miệt ngươi Việt Nam, dùng tiền, dùng thủ đoạn để cám dỗ cô, lừa đảo cô, làm hại đời cô. Cô sẽ ném trả tiền vào mặt nó.

Cô mắng nó thế thật, mà còn dùng nhiều lời đáo để hơn nữa để chửi rủa nó, đặng trút hết nỗi căm thù của cô đối với con quỷ dâm dục ấy.

Thằng Mỹ chỉ cười. Nó không cãi. Nó còn mời cô xem chiếu cuốn phim nó mới quay được.

Ối trời đất ôi! Thì ra cuốn phim nó đã quay lúc cô vào buồng với nó, từ lúc cô lên giường nằm đến lúc cô mặc xong quần áo.

Cô la hét như điên như cuồng. Cô đòi nó phải đưa cô cuốn phim để cô huỷ đi. Nó không thể từ chối. Cô châm lửa đốt ngay trước mặt nó. Rồi cô về. Yên tâm.

Một tháng sau, cô nhận được thư của nó. Không kèm theo tiền. Cô hiểu là nó không dám bắt cô làm thú vật.

Thư nhiều chữ hơn những thư trước.

“Thưa cô,

Tôi sắp được về nước, nên cần bán những đồ đạc để lấy tiền. Tôi biết rằng cô cần mua lại một thứ, nên tôi viết thư này. Ấy là cuốn phim hôm nọ cô đã đốt. Cuốn cô đốt chỉ là bản in lại. Còn bản chính, tôi vẫn giữ để đợi đến ngày tôi rời Việt Nam sẽ bán lại cho cô. Vì là cuốn duy nhất và quý giá vô cùng, nhưng lại vì đối với cô là người mà tôi mang ơn, nên tôi chỉ bán tính bằng giá rẻ, là hai ngàn đô-la thôi.

Tôi đợi cô một tuần lễ để được nghe sự đồng ý của cô. Xin giao hẹn trước, là tôi không thể biếu không cho cô thứ quý giá này. Quá một tuần, nếu tôi không nhận được trả lời của người mà tôi dành quyền ưu tiên, tức là cô thì xin cô cho phép tôi để lại cho người khác.

Cùng lắm, nếu không ai có đủ tiền để lấy lại cuốn phim mà tôi bắt buộc phải cho không, thì người được tôi biếu phải là chồng cô.

Kính xin cô trả lời, và xin cô nhận những lời cảm ơn trước của tôi.

Ký tên”

Đọc xong thư, ấy bàng hoàng, tái mét mặt, suýt ngã. Các bạn đồng sự tưởng cô bị cảm, vội vàng cứu chữa cho cô. Cô nghiến răng, đập chân tay nguyền rủa hết lời thằng khốn nạn. Cô đã nhận của nó bao nhiêu tiền, thì lần này nó đòi lại tất cả. Và thằng ở cái nước có óc con buôn, còn buôn sự đểu cáng để lấy thêm hai trăm đô-la làm lãi nữa. Mà biết đâu lại không phải là thằng khốn nạn đã buôn sự hào phóng đối với cô bằng tiền của cục tình báo Mỹ CIA thuê nó khai thác một loại tài liệu cần thiết.

Cô nghĩ nhiều. Cô lo nhiều. Cô phát ốm.

Cô thú tội với chồng, mong chồng trả thù cho cô.

Không thể đội trời chung với chúng nó. Chồng cô tha thứ cho cô. Cô chỉ đáng thương, vì mắc mưu của nó.

Nhưng cô không thể chịu nổi nhục.

Cô đã tự sát.

Sài Gòn, 20 tháng 10 năm 1975

Nguyễn Công Hoan / (Nguồn : butsen.net)

Nhắc lại cuộc đời vua Bảo Đại và kết cục buồn cho Việt Nam

Vua Bảo Đại
Chụp lại hình ảnh,Vua Bảo Đại (đứng, bìa trái) ngày còn đi học tại Pháp với gia đình người đỡ đầu, và hoàng thân Vĩnh Cẩn (phải)

Giáo sư Hán nôm Tạ Trọng Hiệp lúc sinh thời ở Paris có kể cho tôi câu chuyện ông Trần Trọng Kim nói với học giả Hoàng Xuân Hãn sau lần tiếp xúc với vua Bảo Đại:

”Người ta nói, vua Bảo Đại chỉ biết ăn chơi, nhưng không đơn giản như vậy.

Đa số chỉ biết vế đầu của câu nói. Song, như nửa chiếc bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nửa sự thật thì không còn là sự thật.

Định mệnh gắn Vua Bảo Đại với con số 13. Ông sinh năm 1913, lên ngôi ở tuổi 13, là vị vua thứ 13, ngôi nhà khi sang Pháp học ở số 13, Hoàng hậu Nam Phương cũng sinh năm 1913 và ông có 13 người con.

Công của ông trước hết phải được nhìn nhận trong việc gạch khỏi vương triều của ông 13 phẩm hàm, liên quan đến hình mẫu Hoàng Đế Gia Long lập ra năm 1802: Những thang bậc ban phát ngẫu hứng cho các cung phi, mỹ nữ vốn như sự trang điểm của các triều đại, đồng thời vùi dập bao nhiêu số phận.

Lần đầu tiên trong lich sử các triều đại phong kiến Việt Nam, một Hoàng đế chỉ có một vợ chính thức.

Lần đầu tiên, nhân phẩm nữ giới được coi trọng, ghi thành văn bản.

Khi lên chín, Bảo Đại đến Paris cũng đi theo chuyến hải hành ghé qua Pondichéry của Ấn Độ như Hoàng tử Cảnh năm 1875.

Sự mất đi của Hoàng tử Cảnh đồng thời làm tiêu tan những hy vọng của nước Pháp có một người kế vị nhiều hứa hẹn vun đắp cho quan hệ hai nước. Lần này họ đặt hy vọng vào một ông vua mới.

Vị thế của nước Pháp sau giai đoạn trị vì của Hoàng Đế Nguyễn Ánh đáng báo động, đỉnh điểm là ba vua Nguyễn liên tiếp đều chống Pháp ra mặt: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.

Nam Phương Hoàng hậu
Chụp lại hình ảnh,Hoàng hậu Nam Phương trong album gia đình

Nước Pháp có hai bài học và một giải pháp cần tìm sau năm 1883.

Bài học đầu là sự khai phá thành công Cochinchine (Nam Kỳ).

Năm 1881, Cochinchine đã có đại biểu trong Quốc hội Pháp tại Paris. Phần đất này trở thành trung tâm công nghiệp và xuất khẩu có tầm vóc ở châu Á, xuất khẩu cao su, lúa gạo, đường…

Giới tư bản người Việt hình thành, phát triển. Những đảng phái chính trị như Đảng Lập Hiến Đông Dương, Đảng Dân Chủ Đông Dương có mặt trong đời sống chính trị. Đạo Cao Đài, Hòa Hảo khai sinh, thu hút con chiên, phát triển bên cạnh Thiên Chúa giáo, Phật giáo.

Tờ báo đầu tiên ‘Nông cổ mín đàm’ ra đời tại Việt Nam năm 1901 ở Sài Gòn.

Lĩnh vực tư pháp được đồng hóa và triển khai. Thẩm phán Cochinchine là một người Pháp ưu tú, ông Gaston Doumergue. Ông trở thành Tổng thống Cộng hòa Pháp 1924-1931.

Có đến ba chính trị gia Pháp khởi đầu sự nghiệp chính trị tại Đông Dương để rồi sau này trở thành tổng thống Pháp.

Bài học thứ hai là Huế.

Paris giữ sự lựa chọn có ý nghĩa quyết định với triều đình Huế: không phải là chế độ cai trị mà là chế độ bảo hộ dân sự, một hệ thống được coi là ít tốn kém và có hiệu quả. Bắc Kỳ và Trung Kỳ sẽ không trở thành thuộc địa. Hai miền đất này sẽ là môi trường ngoại giao Pháp mà chính quyền Huế là một đối tác ‘partenaire’. Phải làm cho các vùng đất trở thành một Cochinchine thứ hai.

Nước Pháp cần một vị vua mạnh mẽ và một Đông Dương sát cánh với Pháp trong việc xẻ thịt Trung Hoa. Hay nói cách khác, một hậu phương, một tàu sân bay không thể đánh chìm trong chiến lược toàn cầu.

Nước Pháp chọn hai trường cho vua Bảo Đại tại Paris. Các ngôi trường sẽ để lại dấu ấn trong cách hành sử của ông sau này.

Vị vua tương lai học gì, ở đâu?

Trường thứ nhất là Cours Hattemer, hoạt động theo nguyên tắc thế tục “secularism”.

Tổng thống Jacques Chirac, Hoàng tử Rainier III của công quốc Monaco, ca sĩ Michel Polnareff, Veronique Sannson, nhà triết học cánh tả Jean Paul Sartre… đều là học sinh cũ của trường.

Đạp xe xuyên Việt
Chụp lại hình ảnh,Du khách chụp hình ở Huế ngày nay

Họ mang đủ mầu sắc sặc sỡ, từ tả sang hữu, từ làm chính trị, kiếm tiền trở thành tỷ phú, đi hát, hay cãi tay đôi với triết gia Trần Đức Thảo. Ngoài việc dạy chữ khá đặc biệt, còn có những tiết giảng về mô hình xã hội thế tục, sự tôn trọng những tôn giáo không cùng mầu sắc và cùng chung sống thiện lương.

Trường thành lập năm 1885, đón đầu cả luật hành pháp tách thần quyền khỏi nhà nước chính thức có hiệu lực năm 1905.

Nước Pháp có nhiều vấn đề xã hội và tôn giáo hơn Việt Nam. Họ giải quyết các mâu thuẫn không giống cách hành xử của các triều đại vua chúa Việt Nam. Đây là điều nền giáo dục Pháp muốn gợi mở cho chàng thanh niên châu Á. Bài học vẫn có giá trị đến tận hiện tại.

Lịch sử người Việt là lịch sử thanh gươm nhảy múa. Các vương quốc Chàm, Chân Lạp bị xóa sổ và chẳng ai để mắt tới thân phận các sắc dân vốn làm chủ các vùng lãnh thổ trước đó.

Việt Nam bây giờ đã mất hết ảnh hưởng trên vùng đất cũ của Liên bang Đông Dương, một việc nước Pháp làm tốt hơn.

Ngôi trường thứ hai vua Bảo Đại theo học trường Khoa học Chính trị ELSP.

Trường là nơi chuyên đào tạo những tinh hoa hàng đầu của nước Pháp, là một nhánh của Viện Nghiên cứu Chính trị Paris và Quỹ Khoa học Chính trị Quốc gia, được gọi chung là trường “Sciences Po”. Lịch sử thành lập trường là bài học lịch sử rút ra sau thất bại.

Năm 1870, nước Pháp gây chiến trước với Phổ và thua.

Pháp tụt hậu về kỹ thuật quân sự, bị đại bác chế tạo bằng thép Krups nghiền nát các binh đoàn. Mà hỡi ôi, trước đó pháo binh Napoleon I vốn là nỗi khiếp đảm của cả châu Âu.

”Họ vẫn rất dũng cảm, luôn lao lên tuyến đầu với lưỡi gươm tuốt trần. Song những chiến thắng dễ dàng giành được ở Trung Hoa, An Nam, các nước châu Phi đã ru ngủ tầng lớp tướng lĩnh, sĩ quan Pháp”. Thủy sư đô đốc Courbet, người tham gia các chiến dịch ở Trung Hoa và An Nam đã viết hồi ký về giai đoạn này như vậy.

Hoàng đế Napoleon III bị bắt sống nhục nhã. Wilhem I lấy Cung điện Versailles ở Pháp để làm lễ đăng quang Đại đế của Đức ngày 18/1/1871. Pháp mất Alsace, Lorraine, phải bồi thường chiến phí 5 tỷ francs vàng.

Ngay sau chiến bại, Trường Khoa học Chính trị ELSP được thành lập năm 1871. Nước Pháp nhận thấy cần cấp tốc cải cách giáo dục, đào tạo những tinh hoa lãnh đạo mới, có tư duy mới.

Trường quy tụ những nhà khoa học và công nghiệp xuất sắc phục vụ cho việc giảng dạy như Hippolyte Taine, Ernest Renan, Albert Sorel, Paul Leroy-Beaulieu, René Stour… hợp tác nghiên cứu với các trường đại học nước ngoài trong các lĩnh vực sâu rộng của xã hội đương đại.

Thành viên của Hội đồng Nhà nước, các quan chức cấp cao, các bộ trưởng nắm chức vụ then chốt trong điều hành nhà nước Pháp đều được mời đóng góp cho việc giảng dạy. Giáo dục thể chất là chương trình bắt buộc với tất cả sinh viên. Năng lượng tích cực đến từ cơ thể khỏe mạnh.

Bảo Đại được học trong môi trường như thế.

Ông sẽ so sánh tình trạng nước Pháp sau chiến tranh Pháp – Phổ và số phận của Vương quốc Annam. Ông sẽ đánh giá đường hướng vua Minh Mạng với ‘Thập điều giáo huấn’ sẽ giúp gì cho đất nước ông.

Mô hình kinh tế và lãnh đạo mà nước Pháp áp dụng thành công ở giải đất Nam Kỳ chắc chắn sẽ được ông nhìn nhận khác với các bậc ‘tiên hiền’ trước kia của nhà Nguyễn.

Chắc hẳn ông loại bỏ sự hằn học và nghi kỵ với người Pháp và cầu tiến. Ông đã thấy chiếc cầu Paul Dumer vượt sông Hồng đã làm nước Trung Hoa run lên trước sức mạnh trị thủy và kỹ thuật xây dựng, những tuyến đường sắt, đường thủy đã làm đất nước thay đổi ra sao.

Đối thủ ‘tiềm tàng’ của chủ nghĩa Lenin ở Việt Nam

Những người cộng sản biết kết cục con đường đào tạo ấy sẽ đưa vị vua trẻ đi về đâu. Họ sợ con đường mà Bảo Đại sẽ cùng đi với nước Pháp. Những con số biết nói làm họ lo lắng.

Ngay trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, con số tù nhân ở Cochichine tụt giảm chóng mặt. Năm 1929 con số đó là 32 451, năm 1931 :15 645, năm 1932 :11 028 và năm 1933 chỉ còn 6 150.

Dân sống hạnh phúc, đầu óc mở mang dễ nhận ra bánh vẽ. Động cơ vĩnh cửu chưa ra đời thì thiên đường ‘làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu’ chỉ dành cho những ai ” ra công viên, mắt em ngây tròn, lung linh nắng thủy tinh vàng.” Dễ chịu và tha thiết.

Hồ sơ mật thám Pháp lưu trữ tại Fontainebleau dưới mật danh “Người Nga” có ghi nội dung cuộc họp bí mật của ban Thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp tại 120 rue Châteaudun quận 9 Paris.

Bảy người Việt và một người Âu đã trù liệu cho kế hoạch: “Hoàng đế về nước và việc ám sát Bảo Đại”.

Phạm Văn Điều được trao nhiệm vụ ám sát Bảo Đại ở Paris. Kế hoạch ám sát lần thứ hai được lên khuôn tại Marseille, khi Nhà vua bước lên cầu tàu thuỷ. Nguyễn Đình Tính tức “Blinov” có trách nhiệm thực hiện.

Moscow dạy cộng sản Paris khoái chơi chó lửa, sau này họ có học trò xuất sắc hơn là Bắc Kinh. Để nắm quyền họ cần những kẻ nghe lời mù quáng. Họ vẽ ra thiên đường cho tầng lớp công nông thiệt thòi về kiến thức là phải cầm súng, làm một phép cộng trừ thô thiển ‘trí thức, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ’ thì chẳng còn giai cấp bóc lột, của cải sẽ đầy đường.

Nhà cải cách Paul Dumer không còn. Ông bị ám sát đúng thời điểm Bảo Đại rời Paris về nước. Tổng thống Pháp không được sống để làm những điều ông nghĩ :

Dân tộc này (chỉ Việt nam) cần phải sống trong điều kiện an ninh đảm bảo và lao động để trở lại là một dân tộc đẹp đẽ và mạnh mẽ như họ hẳn đã từng như thế trước khi những thất bại khiến họ kiệt quệ và suy thoái.

Bảo Đại về nước sẽ phải đối đầu với tình thế đó. Ông sẽ gặp Phạm Khắc Hòe. Ông sẽ không tưởng tượng người ông nghĩ là tin được ngay khi đã hạ cánh nhẹ nhàng còn không dám nói thật. Đến năm 1983, ông sẽ đọc những câu chuyện Phạm Khắc Hòe viết, ông sẽ rùng mình.

Có thể, nếu bớt cả tin và cứng rắn hơn, nhiều khả năng Bảo Đại tránh cho vương quốc khỏi những cuộc chiến tranh sau này?

Ông đã nhường ngôi cho Hồ Chí Minh, một người xứ Nghệ ông cho là yêu nước và xứng đáng. Ông đã từ nhiệm quá sớm, khi Định mệnh đặt lên đôi vai những thử thách?

Nếu không, chỉ trong hai ngày, tướng Charles de Gaulle sẽ không thể thuyết phục nổi Tổng thống Roosevelt, một người kiên quyết xóa bỏ chế độ thuộc địa :

”Tôi không hiểu được ý định của Ngài, thưa Tổng thống. Ngài muốn một nhà nước của chúng tôi trở thành một liên bang điều khiển bởi nước Nga ? Ngài biết rằng nước Nga đang ồ ạt tiến lên. Sau khi nước Đức đã và đang sụp đổ, là đến lượt chúng tôi. Nếu người dân ở đây biết rằng Ngài chống lại chúng tôi, thì điều đó sẽ là một thất vọng khủng khiếp và ai biết điều gì sẽ xảy ra ? Chúng tôi không muốn trở thành một nước cộng sản, chúng tôi không muốn quỹ đạo của Nga. Hy vọng Ngài cũng sẽ không đẩy chúng tôi vào quỹ đạo ấy”.

Hồ Tá Khanh
Chụp lại hình ảnh,Nhận xét của ông Hồ Tá Khanh, cựu Bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ Trần Trọng Kim ghi trên cuốn sách ‘Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc

Ông chứng minh rằng ông dám chơi tay ngang với các nhà ngoại giao, những kẻ trong chiếc cặp mang theo chỉ có đôi găng boxing và cặp súng lục.

Hiệp định Hạ Long và những thỏa thuận khác mà Bảo Đại có với Pháp đều sở hữu khung hình pháp lý khỏe hơn Hiệp định 6/3/1946 ông Phạm Văn Đồng đến ngày cuối trên đất Pháp mới với được.

Ông đặt nền móng sơ khai cho chính thể VNCH sau này.

Bắc Hàn, hay CHDC Đức là những hình mẫu mà lời giải lịch sử đã có rồi.

Những điều học được từ Cours Hattemer và trường trường Khoa học Chính trị ELSP chỉ cho ông con đường ấy.

Bác sĩ Hồ Tá Khanh, thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, người biết rõ ông Hòe viết bên lề cuốn sách in bằng giấy xấu, đen bẩn ‘Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc’ như nấc lên: ”Quan trường mà như thế, Hòe ơi.”

Nay thật khó nhận định về vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là ‘công dân tự do’ đầu tiên, số một của nước Việt Nam cố gắng giành độc lập sau Thế Chiến 2.

Nhưng những gì ông trải qua trong học hành, trong chính trường Đông – Tây với số phận dân tộc nhỏ bé cần được trân trọng, thay vì thái độ phủ nhận để đòi có chính nghĩa duy nhất làm thay, cố làm khác đi, gây tàn phá nhiều hơn mà cái đạt được chưa chắc đã tốt hơn.

  • Phạm Cao Phong / BBC

Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo tự do sống tại Paris, Pháp.