Ngày thường đã hoành tráng, đến Tết, các căn biệt thự này càng lung linh hơn khi có “trăm hoa khoe sắc”.
Trong những ngày Tết, nhìn đâu cũng thấy nhà cửa được trang hoàng rực rỡ với đủ loại hoa rực rỡ và nhiều đồ decor ngập tràn hương vị Tết. Nổi bật nhất phải kể đến những căn biệt thự được các gia chủ cầu kỳ đầu tư không ít để phủ hoa khắp mọi ngóc ngách.
Căn nhà phố 450m2 của chị Phạm Quỳnh được trang trí với rất nhiều chậu hoa bề thế. Trong phòng khách bài trí nào cành mận trắng tinh, nào lan tím, lan xanh da trời. Những chậu hoa cũng góp phần làm tôn thêm những món đồ gỗ vốn được gia đình cực kỳ tâm đắc. Đồ gỗ trong nhà chủ yếu làm từ gỗ óc chó, được sưu tầm từ nhiều nơi và do cả bạn bè, đối tác gửi tặng. Ngoài ra, phòng khách còn bày nhiều tranh và những bức tượng gỗ mang ý nghĩa phong thuỷ, ví dụ như tượng Di Lặc, tượng Quan Vũ… Hoa tươi trong nhà ngoài trung tâm phòng khách cũng được đặt cạnh các bức tượng này.
Cạnh bức tượng Quan Vũ trong phòng khách là cành mận trắng treo nhiều câu đối ngày Tết
Nổi bật trong không gian tiếp khách còn có những bình hoa phong lan lớn, đẹp mắt
Trên bàn bày những chậu hoa nhỏ xinh xắn
Gia chủ có niềm đam mê với nhiều loại lan khác nhau
Bình ly lớn bày trong bàn bếp, phía đằng sau là bức tranh gỗ tùng hạc diên niên
Phía ngoài ban công là cây đào lớn ngay cạnh bàn ăn ngoài trời
Chị Trần Thương đang sống ở Indonesia nhưng đã kịp trang hoàng biệt thự của gia đình để đón chờ năm mới. Sau 3 tuần chờ hoa giả nhờ người nhà vận chuyển từ Việt Nam sang, căn biệt thự đã được phủ sắc đỏ rực rỡ đậm không khí Tết. Từ cửa đến bàn ăn lớn và phòng khách sang trọng đều có những bình hoa đỏ và vòng hoa đặc trưng của Tết Việt Nam.
Ngay từ cửa đã ngập tràn không khí Tết
Bình hoa đỏ nổi bật dưới ánh đèn vàng
Các góc nhỏ khác cũng được decor khéo léo Mặc dù không có hoa tươi nhưng vẫn toát lên không khí ngày Tết Biệt thự của 1 đại gia ở Quảng Ninh cũng chiếm spotlight năm nay. Không chỉ sáng lung linh về đêm, càng đi vào trong dân tình càng phải trầm trồ về độ hoành tráng vì hoa giăng khắp nhà, dọc từ sảnh vào đến các lối đi. Hai bên cầu thang đi lên tầng 2 bày kín các chậu hoa trạng nguyên, và đón ở ngay sảnh chờ là cây đào siêu to với hoa lá sum suê. Một góc khác không kém phần rực rỡ là ở hành lang rộng: ngay phía dưới chiếc đèn chùm lộng lẫy là chậu lan khổng lồ, nhìn qua cũng đoán được có giá trị không hề nhỏ.
Hoa trạng nguyên đỏ rực dọc hai bên cầu thang Chậu lan 5 “tầng” nổi bật ở hành lang lớn, ngay phía dưới chiếc đèn chùm sang trọng Cây đào rực rỡ ở sảnh chờ tầng 2 Không gian sân vườn lung linh ngày Tết Căn biệt thự sang trọng mang phong cách tân cổ điển, nội thất hiện đại, đắt đỏ Ở các góc khác cũng rất rực rỡ với phong lan và thanh liễu
Lịch sử hình thành và phát triển của một quốc gia gắn liền với những cuộc tương tranh liên miên với các quốc gia khác, thậm chí cả trong nội bộ quốc gia. Thông thường, trong cuộc chiến, bên nào thắng cũng cướp phá, tịch thu một phần hay toàn bộ kho tàng của bên bại trận.
Các thỏi vàng và tiền trong kho báu triều Nguyễn.Nguồn Francois Thierry
Kho báu chính là chiến lợi phẩm bậc nhất của các nhà nước phong kiến ngày xưa. Thời nhà Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tông nhiều lần mang quân đi đánh nước Chiêm Thành ở phía nam, đưa về hàng ngàn tù binh và nhiều vàng bạc, châu báu (Đại Việt sử ký toàn thư).
Thời Trần, năm 1371, quân Chiêm Thành sang đánh nước ta, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, ngọc lụa đem về, vua Trần Nghệ Tông phải đi thuyền lánh giặc. Tám năm sau (1379), đề phòng quân Chiêm lại tấn công và cướp phá kho báu, nhà Trần sai quân dân chở tiền đồng vào giấu ở núi Thiên Kiện (H.Thanh Liêm, Hà Nam) và một tầng tháp ở Lạng Sơn.
Một trong những cuộc đánh chiếm kho báu lớn nhất đã diễn ra dưới đời vua Lê Thánh Tông (1441 – 1497). Năm 1471, nhà vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, tấn công vào thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn và niêm phong toàn bộ của cải, kho tàng.
Đồng tiền Song long thời Thiệu Trị(1841-1847)
“Kho dự trữ bao la” ở Huế
Dưới thời các chúa Nguyễn, khi cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn kéo dài hơn 30 năm (1771 – 1802), ba anh em Tây Sơn đã lấy kinh đô cũ của Chiêm Thành là Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn, nay thuộc tỉnh Bình Định) làm bản doanh của phong trào và không ít của báu của người Chiêm đã rơi vào tay họ.
Một người Pháp duy nhất có mặt trong lãnh địa dưới quyền kiểm soát của nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian giữa những năm 1770 và 1786 là giáo sĩ Jean Pierre Joseph d’Arcet có kể lại trong một lá thư rằng trong một lần rút quân từ Đồng Nai về cứ địa Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc ghé lại chỗ ở của một vị tiểu vương Chiêm Thành, đòi xem những của báu của vương quốc này. Trong những đồ trân quý ông được xem, có một cây quyền trượng bằng vàng, chạm trổ tinh vi, với hình 14 chiếc sừng, tượng trưng cho 14 thế hệ đã nắm quyền cai trị kể từ ngày vương quốc này được thành lập. Nguyễn Nhạc giữ lấy cây quyền trượng và nói với vị tiểu vương Chiêm Thành mới chừng 10 – 12 tuổi mà ông coi như một người con: “Ta sẽ trả nó lại cho con”. Tất nhiên, của báu chẳng bao giờ được hoàn lại khổ chủ và vị tiểu vương kia phải ngậm đắng nuốt cay gật đầu ưng thuận, vì dù sao, mạng sống cũng quý hơn cây quyền trượng (theo George Dutton – The Tây Sơn uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn), bản dịch của Lê Nguyễn, NXB Tổng hợp TP.HCM – 2019, trang 182 – 183).
Dutton cũng ghi nhận rằng trong khoảng thời gian kể trên, quân Tây Sơn đã tịch thu nhiều trang phục cùng biểu chương của các triều đại Chiêm Thành và những bảo vật đó đã góp phần vào việc long trọng hóa sinh hoạt cung đình cùng các nghi thức của nhà Tây Sơn.
Sang thời Nguyễn, sau khi thống nhất sơn hà vào năm 1802, người khai sáng triều Nguyễn là vua Gia Long (1762 – 1820) đã chấn chỉnh việc đúc tiền và các quý kim (vàng, bạc…). Việc đúc tiền được giao cho một cơ quan có tên là Bảo tuyền cục, việc quản lý vàng thuộc độc quyền của Nội vụ phủ, đặt dưới sự kiểm soát của Nội các gồm thành viên là người trong hoàng tộc và quan chức ở Bộ Hộ. Riêng việc đúc bạc được giao cho các xưởng đúc tại các trấn (sau là tỉnh).
Khối lượng vàng bạc đúc ra vào nửa đầu thế kỷ 19 là một phần không nhỏ trong kho báu triều Nguyễn được nhắc tới trong loạt bài này.
Vào thập niên 1860, cùng với việc đánh chiếm Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp phát triển kinh tế khu vực phía nam Việt Nam và bắt đầu dòm ngó khối của cải do triều đình Huế nắm giữ. Tháng 1.1885, Thống đốc dân sự đầu tiên của vùng đất Nam kỳ lục tỉnh là Charles le Myre de Vilers đề cập đến một “kho dự trữ bao la” ở Huế. Ông ta đánh giá thấp khối lượng vàng do triều đình cất giữ, cho rằng chỉ trị giá tương đương 2 triệu franc, nhưng nhiều tài liệu sau đó đã ước tính số vàng này trị giá đến 7 triệu franc. Trong khi đó, de Vilers lại nâng cao quá đáng khối lượng bạc với trị giá 11 triệu franc, thay vì giá trị thực sự của kim loại này chỉ vào khoảng 6,5 triệu franc. Lý do là vào thập niên 1880, chưa ai ước tính được khối lượng vàng bạc mà vua Minh Mạng (1820 – 1841) đã chôn giấu tại nhiều nơi trong kinh thành, về sau bị người Pháp phát hiện một phần.
Đây là một câu chuyện khá nhỏ và mờ nếu đặt trong bối cảnh sinh hoạt phê bình văn chương Việt Nam những năm 1930. Song đọc lại, vẫn thấy ít nhiều dư vị của một thời. Thời mà giới phê bình văn chương Việt Nam không ngại công khai bày tỏ quan điểm, thái độ của mình trước thiên hạ. Thời mà dũng khí trong phê bình không phải là thứ của hiếm.
Nhà văn Trương Tửu
Năm 1939, ở cái tuổi hai mươi ba đầy măng tơ, Trương Chính cho xuất bản tập sách phê bình có cái tên rất dễ gây cho người đọc cảm giác về một sự ngạo mạn của người viết: “Dưới mắt tôi”. Tập sách này là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất Trương Chính bộc lộ thái độ nhập cuộc với văn chương cùng thời.
Ông viết về mười hai tác giả văn xuôi (Hoàng Ngọc Phách, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn Khắc Mẫn, Lê Văn Trương, Từ Ngọc, Trương Tửu) với xác tín rõ ràng: “Nhiệm vụ nhà phê bình không những là phải biết lựa lọc để tìm nâng giấc những tài năng mới phát triển và đánh đổ những định kiến thiên lệch, những dư luận sai lầm, những lời bình phẩm nông nổi của một số người đối với những kiệt tác. Nhà phê bình còn phải trừ thải những cây bút không tương lai, sắp đặt lại thứ bậc đích đáng cho các nhà văn”
Quả thực, ở “Dưới mắt tôi”, Trương Chính đã “trừ thải” không thương xót một vài người, trong đó có cả những người rồi đây sẽ được coi là tác giả lớn của văn chương sau năm 1945, như Nguyễn Công Hoan và Nguyên Hồng. Đồng thời, ông cũng hăm hở đến độ trong việc “đánh đổ những định kiến thiên lệch, những dư luận sai lầm, những lời bình phẩm nông nổi của một số người đối với những kiệt tác”.
Ông viết về “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh: “Nó công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt, cường tráng… “Đoạn tuyệt” không chỉ có một giá trị xã hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được… Đọc xong trang cuối cùng quyển “Đoạn tuyệt”, nhà phê bình bằng lòng và sung sướng gặp được một cuốn văn hay.
Trong đời văn chương của ông Nhất Linh chắc ta sẽ đếm được nhiều kiệt tác nữa”. Về “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng, Trương Chính nhận định: “Không kèn không trống, ông Khái Hưng đã đổi mới văn chương, từ bản cách đến thể chất – hay nói khiêm tốn hơn – ông đã đem vào văn chương một nghệ thuật mới, sắc sảo và huyền diệu”.
Và đây, nhận định của Trương Chính về “Gia đình”: “…là nhát búa cuối cùng vào bức tượng khổng lồ nhưng đã mục nát của thế hệ trước: chế độ đại gia đình. Và “Gia đình” cũng là một công trình văn chương đích đáng của ông Khái Hưng… Nghệ thuật của Khái Hưng mỗi ngày mỗi lão luyện trông thấy. “Gia đình” có thể xem như một tác phẩm không tì vết”.
Khen ngợi Nhất Linh và Khái Hưng nồng nhiệt đến như thế, cho nên, thật tự nhiên và dễ hiểu cái việc Trương Chính công khai kình chống Trương Tửu, người đã liên tục tung ra những lời “kết án” Tự lực văn đoàn. Về tiểu thuyết “Nửa chừng xuân”, trên báo “Loa” số 76 (1.8.1935) Trương Tửu chê Khái Hưng: “vội vàng và cẩu thả”, “chưa hiểu kỹ những đứa con của trí tưởng ông”. Bởi thế mà mặc dù nhà văn luôn nhắc nhở độc giả rằng đời nhân vật cô Mai là một tràng dài những sự hy sinh, nhưng thực ra: “suốt đời Mai, nàng chẳng hy sinh cái gì, lần nào hết”.
Trong trường hợp này, nếu nhận định của Trương Tửu là không còn gì để phải bàn cãi, thì quả thực Khái Hưng đã rơi vào tình cảnh của một phù thủy (nhà văn) non tay không trấn áp được âm binh (nhân vật) nổi loạn. Nhưng thật may mắn, đã có Trương Chính lên tiếng biện hộ: “Tất cả những hành vi của người con gái này chỉ do một ý định: gây hạnh phúc cho em nàng, dẫu cần phải phí bỏ đời nàng đi cũng vậy.
Sự hy sinh ấy dưới ngòi bút của Khái Hưng không thành ra quái gở. Hy sinh của Mai là một lòng hy sinh lặng lẽ, không ồn ào, nhẹ nhàng và êm dịu”. Dẫu sao, va chạm Trương Chính/ Trương Tửu từ “Nửa chừng xuân” chỉ là một va chạm nhẹ. Gay gắt, phải là va chạm từ tiểu thuyết “Lạnh lùng” và tiểu thuyết “Đời mưa gió” (Nhất Linh và Khái Hưng viết chung tác phẩm này). Trên báo “Ích hữu” số 95 (15.12.1938), Trương Tửu nhận định rằng trong “Lạnh lùng”, với nhân vật cô Nhung, Nhất Linh đã: “chủ trương tự do phát triển của xác thịt”, “làm ngưng trệ sự tiến bộ tinh thần của phụ nữ”; và nhà phê bình đanh thép cảnh báo độc giả: “Tất cả những bậc phụ mẫu muốn con gái khỏi bị sự phóng đãng quyến rũ, nên cấm tiệt không cho đọc quyển Lạnh Lùng”. Trương Chính đáp trả thẳng thừng rằng: “ông Trương Tửu đã ngụy biện và đã phê bình một cách độc đoán”, rằng nhân vật cô Nhung của Nhất Linh thật ra đứng cao hơn hẳn những lời luận tội ác ý: “Nhung không chứng tỏ một tâm hồn trụy lạc.
Trái lại, Nhung đã giác ngộ. Nàng thấy “không thể vì một cái tiếng suông bắt một người đàn bà chịu đau khổ một cách khốn nạn” như thế được. Nàng chỉ muốn đặt nhân đạo lên trên luân thường”. Và khi Trương Tửu, trên “Ích hữu” số 97 (29.12.1938), bảo rằng các tác giả của “Đời mưa gió” đã mắc cái tội “thi vị hóa nghề làm đĩ” khi dựng lên nhân vật Tuyết, một cô gái sống cuộc đời giang hồ phóng đãng, thì Trương Chính cãi băng: “Đời mưa gió” là một kiệt tác, dẫu nhiều người đã dựa vào luân lý, dựa vào đạo đức, tìm cớ kết án nó… Không, Nhất Linh và Khái Hưng không thi vị hóa nghề làm đĩ. Hai ông chỉ tả một gái đĩ thông minh và thi vị”. (Cái sự bênh chằm chặp ấy, quả thật, đáng là một chứng lý để người đời sau có thể căn cứ vào đó mà luận rằng ông, Trương Chính, chính là vị hộ pháp của Tự lực văn đoàn).
Cần phải nhắc lại: va chạm Trương Chính/ Trương Tửu trên thực địa văn chương Tự lực văn đoàn là va chạm chỉ đến từ một phía, phía Trương Chính. Vì sau khi “Dưới mắt tôi” xuất hiện, cả hai ông Trương đều không một lời nào nói qua nói lại về chuyện này nữa, mỗi người chuyên chú đi một con đường riêng của mình.
Tuy thế, va chạm thoáng qua này vẫn có thể cho ta thấy ít nhiều tính chất phức tạp, chồng chéo của những tranh luận văn chương trong thập niên 30 của thế kỷ XX, mà hiện thể rõ nhất, là sự nhập nhằng giữa quan điểm ý thức hệ và quan điểm nghệ thuật trong các diễn ngôn phê bình. Trương Tửu đề cao một thứ văn chương “khỏe”, “tranh đấu”, tức một thứ văn chương mang sức mạnh của một lợi khí trong công cuộc xóa bỏ chế độ phong kiến/ tư sản, đặng thiết lập trật tự xã hội mới, lấy giai cấp cần lao làm chủ nhân ông.
Cũng bởi thế, ở những bài đầu tiên viết về Tự lực văn đoàn, năm 1935, Trương Tửu rất ủng hộ tinh thần chống Khổng giáo, chống chế độ đại gia đình và xiển dương chủ nghĩa cá nhân trong “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh, trong “Hồn bướm mơ tiên” và “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng. Nhưng rồi ông nhận thấy đó cũng là điểm dừng của Tự lực văn đoàn: họ chống phong kiến nhưng không chống tư sản, vì họ chính là tư sản, do đó họ cũng cần phải bị “kết án”. Loạt bài gay gắt Trương Tửu viết năm 1938, kết án “Lạnh lùng” và “Đời mưa gió”, đã cho thấy sự chuyển hướng trong thái độ đối với Tự lực văn đoàn của ông.
Trương Chính chống Trương Tửu chính là chống ở thái độ này, ở quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” mang tính giai cấp một cách khá cực đoan này. Trên thực tế, khi phê bình tập truyện ngắn “Tối tăm” của Nhất Linh, Trương Chính đã đặt ra một đòi hỏi rất “vị nhân sinh” đối với nghệ thuật và người nghệ sỹ: “Bổn phận của ta là phải soi sáng những óc cổ hủ, ngu dốt… nghệ thuật sẽ là một sự mỉa mai nếu mục đích của nó không phải là nâng cao trình độ sinh hoạt của nhân loại”. Ủng hộ, đề cao thứ văn chương tranh đấu xã hội, song Trương Chính không biến văn chương thành thuần túy tôi mọi cho cái ngoài văn chương, mà ông vẫn tính đếm đến đặc thù và kiểu thức “vị nhân sinh” riêng có của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ.
Văn chương tranh đấu xã hội không nhất thiết cứ phải tạo dựng cái cảnh huống một bên căm phẫn xông lên hừng hực đè nuốt một bên, mà có thể, nó chỉ cần giúp người ta sống cho ra sống, sống cho đẹp, sống cho thật Người, bằng những vẻ đẹp đa dạng của chữ nghĩa. Bởi thế ông bảo vệ Nhất Linh và Khái Hưng đồng thời với sự xét nét riết róng đến điều trước những non, vụng, thô trong “cái viết” của Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Vũ Trọng Phụng, Từ Ngọc…
Rõ nhất là khi Trương Chính phê bình tiểu thuyết “Một chiến sỹ” của chính Trương Tửu: “Đành rằng nghệ thuật phải phụng sự nhân sinh, nhưng nghệ thuật phải cho ra hồn nghệ thuật đã. Nếu nghệ thuật kém cỏi thì những tư tưởng rất hay của tác giả cũng không có một ảnh hưởng nào hết”. Với cú đánh trực diện này của nhà phê bình trẻ tuổi Trương Chính, quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã một lần nữa phản đòn, đã vùng lên để đòi lại quyền tự trị đích đáng cho nghệ thuật. Nhìn suốt cục diện lịch sử phê bình văn chương Việt Nam, vị tất nó đã thua?
Bốn quan chức Bộ Ngoại giao VN bị bắt về tội nhận hối lộ liên quan đến “chuyến bay giải cứu”, 27/1/2022.
“Lỗi hệ thống” là khái quát chính xác mức độ đe dọa an toàn của chế độ. Trên đà tha hoá của quyền lực thể chế, lỗi hệ thống hiện đang lũng đoạn nhiều mặt đời sống đất nước và là mối nguy hiểm số một của quốc gia. Đó là thế lực nội xâm nham hiểm và đáng sợ không kém gì so với kẻ xâm lược trực tiếp.
Tại cuộc họp báo Bộ Ngoại giao ngày 20/1/2022, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng đã trả lời phóng viên về các chuyến bay giải cứu có nghi vấn tiêu cực: “Quan điểm của chúng tôi rất rõ ràng: Những hành vi trục lợi tiêu cực, thay đổi tính chất nhân đạo của các chuyến bay giải cứu cần bị lên án trừng trị nghiêm khắc theo quy định của pháp luật”. Một tuần sau, ngày 27/1, Bộ Công an đã khởi tố, bắt tạm giam 4 bị can để điều tra về tội “Nhận hối lộ”: Cục trưởng Cục Lãnh sự Nguyễn Thị Hương Lan, Phó Cục trưởng Cục Lãnh sự Đỗ Hoàng Tùng, Chánh Văn phòng Cục Lãnh sự Lê Tuấn Anh, Phó Phòng Bảo hộ công dân Cục Lãnh sự Lưu Tuấn Dũng.
Trước đó, Bộ Ngoại giao cũng cho biết, trong cùng ngày 27/1, Bộ đã ra quyết định đình chỉ công tác đối với 4 cán bộ nói trên để phục vụ điều tra. Thông cáo BNG còn nêu rõ: “Xác định đây là hành vi trục lợi cá nhân, với tinh thần vi phạm đến đâu sẽ đâu xử lý đến đó, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không bao che, không dung túng, bất kể người đó là ai, Bộ Ngoại giao sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để làm rõ toàn bộ vụ việc, xử lý đúng người, đúng hành vi vi phạm và theo đúng các quy định của pháp luật”. Thông cáo này mạnh mẽ nhưng thận trọng. “Vi phạm đến đâu xử lý đến đó”. Có thể hiểu đây là câu chuyện chỉ mới bắt đầu? Nghĩa là chưa thể biết toàn bộ câu chuyện rồi đây sẽ đi về đâu? Liên quan như thế nào cả trong lẫn ngoài Bộ. Song nếu gõ danh tính bị can đầu tiên, chỉ trong 0.48 giây, Google đã cho hơn 90 triệu kết quả.
Các bài tường thuật, phân tích và bình luận quả là thiên hình vạn trạng, là sự bùng nổ của các phản ứng đa chiều và dữ dội về một vấn đề nóng bỏng, nhất là nó liền kề với vụ kit test Việt Á. Cơn bão truyền thông bởi hai scandal dường như “sinh đôi” gây ra, nhưng đặc biệt là vụ của bị can Nguyễn Thị Hương Lan, chắc chắn sẽ còn kéo dài. Trong khi các cơ quan chức năng đang phải làm việc xuyên Tết, dư luận theo sát từng ngày vụ bê bối ở Cục LSBNG. Mọi cáo buộc đối với những người bị bắt sẽ phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ, trên nguyên tắc suy đoán vô tội trong mọi bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, ngay bây giờ vụ bê bối “trục lợi tiêu cực, thay đổi tính chất nhân đạo các chuyến bay giải cứu” đã đặt ra một số vấn đề rất nghiêm trọng sau đây mà các cơ quan đảng và chính quyền không thể không bão não (brain storming):
Thứ nhất, nhiều khả năng cá nhân Hương Lan chỉ là một mắt xích trong đường giây. Bởi vì, những quyết định có liên quan từ A dến Z nhiệm vụ thực hiện các chuyến bay giải cứu này đều vượt mọi thẩm quyền của một Bộ. Trong những quyết định cuối cùng như vậy ở phạm vi BNG, Ban Cán sự Đảng Bộ thường có tiếng nói cuối cùng trước khi nó trở thành quyết định chung của liên Bộ hoặc trình lên cấp cao hơn nữa. Từ hàng chục năm trước đây, câu hỏi “Ban Cán sự là ai?” từng được nêu ra. Và bây giờ cũng thế, hễ xảy ra các vụ kỷ luật nào thì “Ban Cán sự” bao giờ cũng là người chịu trách nhiệm về mọi sai lầm xảy ra. Thế nhưng Ban cán sự hầu như lại là một thực thể vô hình. Tồn tại mà không tồn tại! Ai cũng biết, nhưng không biết là ai! Hệ thống ĐCS có cái “ưu việt” như thế! Giả sử vụ CLS cũng đi tới khiển trách hay kỷ luật ban bệ nào đấy một cách chung chung thì mọi việc lại “vũ như cẩn”. Khi ngồi lại rút “sợi dây kinh nghiệm” thì rút mãi rồi vẫn như cũ, không bao giờ hết.
Thứ hai, còn một thực thể vô hình khác nằm ngay trong BNG. Mà các Bộ, các Ngành khác cũng không là ngoại lệ, đó là đại diện của các bên An ninh. Các đại diện này vẫn khoác áo Ngoại giao hay các áo “bình phong” và đều có tiếng nói trong quá trình lấy quyết định. Đây nhiều khi là “bí mật công khai”. Nghĩa là, nếu “quy trình tham nhũng” ở Cục Lãnh sự BNG bị Bộ Công an vừa bóc trần thì chính “các anh bên An ninh” ngay từ đầu đã nắm tường tận “mọi chuyện bếp núc” của cái quy trình ấy. Sóng yên bể lặng thì các anh an ninh “chung sống hòa bình” trong mọi sự vui vui vẻ. Còn khi công chuyện bị vỡ lỡ thì nhiều khúc quanh khác xuất hiện. Dích dắc và nhiều khi bí ẩn, không ai biết đâu mà lần. Một khi đấu tranh quyền lực được khởi động ở đâu đó, thì việc “xe pháo” bị thí là “chuyện thường ngày ở huyện”.
Thứ ba, với scandal “giải cứu công dân” nói trên, thêm một nhành nữa của hệ thống “vào cuộc” tham nhũng. “Mồm Tuyên giáo, áo Ngoại giao”. Ngoại giao vẫn thường được coi là “mặt trước cái tủ kính” của chế độ. Phải chăng vì vậy, mọi đồn đãi về các vụ tiêu cực ở BNG ít khi bị đưa lên mặt báo. Lãnh sự là một cục nghiệp vụ đối ngoại, nó rất mạnh về mặt chuyên môn (tham mưu quản lý nhà nước chuyên về công tác lãnh sự và di dân…). Nhưng CLS không phải lúc nào cũng hội tụ đủ các thành phần elites nhất. Trong quá trình tư vấn chính sách cho lãnh đạo Bộ và trên nữa, vai trò của nó không phải bao quát như các vụ tổng hợp và các vụ khu vực. Nhân vụ bê bối trong CLS hiện nay, không nên và càng không được “vơ đũa cả nắm”! Nhiều thành phần elites khác trong BNG làm việc rất nặng nhọc nhưng sự đãi ngộ, quyền lợi vật chất họ hưởng thụ chẳng thấm bao nhiêu.
Thứ tư, phá đường dây tham nhũng ở Cục Lãnh sự, ít khả năng các cơ quan chức năng sẽ đánh tràn lan (chỗ này hơi khác với vụ Việt Á hiện nay). Nhiều đơn vị trong BNG chắc chắn vô can trong các chiến dịch “giải cứu” trục lợi. Họ ngày đêm “đổ mồ hôi sôi nước mắt” nghiên cứu, nắm bắt và tổng hợp tình hình thế giới, quan hệ giữa các nước lớn, tác động đến khu vực, ảnh hưởng đến Việt Nam ra sao và kiến nghị các đối sách phù hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ cống hiến không mệt mỏi. Nhiều người trong số họ say mê nghiên cứu, hàng chục năm không đi luân chuyển. Các đơn vị tác chiến ấy coi bảo vệ quyền lợi quốc gia – dân tộc là nhiệm vụ thiêng liêng nhất và phấn đấu hết mình trong công việc hàng ngày. Nếu vơ đũa cả nắm, đánh cả các mảng này, “đối phương” của Việt Nam sẽ hả lòng hả dạ, quốc gia và dân tộc sẽ chịu hậu quả khôn lường.
Thứ năm, qua các Đại hội XI, XII và XIII, đấu tranh chống tham nhũng là ưu tiên số một của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Lãnh đạo đã ban hành không biết bao nhiêu là Nghị quyết, Chỉ thị liên quan đến vấn đề này. Nhưng một thực tế ai cũng thấy là càng chống thì tham nhũng giống như đầu Phạm Nhan (tướng quân Nguyên Mông), chém đầu này mọc đầu khác, thậm chí, mọc ra nhiều đầu khác. Gần đây Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng còn đặt câu hỏi, đại ý là tại sao tham những cứ “trơ” ra? Mà nó không chỉ tăng về lượng, tham nhũng ngày leo sâu trèo cao lên những cấp bự hơn, thậm chí can thiệp vào cả quá trình xử lý các vụ tiêu cực (đã phải bỏ tù nhiều kẻ chạy án). Điều này nói lên mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm của quá trình thao túng chính sách và lũng đoạn quyền lực nhà nước ở những cấp cao trong hệ thống. “Lỗi hệ thống” là sự khái quát hoàn toàn chính xác mức độ đe dọa an toàn của hệ thống. Hơn bao giờ hết, trên đà tha hoá quyền lực thể chế, lỗi hệ thống hiện đang lũng đoạn nhiều mặt đời sống đất nước và là mối nguy hiểm số một của quốc gia. Đó là thế lực nội xâm nham hiểm và độc ác đáng sợ không kém gì so với kẻ xâm lược khác!
Hổ được mệnh danh là chúa sơn lâm, là vua của các loài vật. Đối với người Việt Nam, những năm Hổ (năm Dần) cũng là mốc thời gian về nhiều sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc.
Năm Giáp Dần 714, khởi nghĩa của nghĩa quân Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thắng lợi, lật đổ chính quyền đô hộ nhà Đường, giải phóng đất nước.
Năm Bính Dần 906, Khúc Thừa Dụ đứng ra lãnh đạo nhân dân nổi lên đánh đuổi bọn đô hộ nhà Đường, chiếm thành Đại La, dựng quyền tự chủ cho đất nước. Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ. Ngày 11 tháng Giêng (tức 7/2/906), trước hành động quyết liệt của nhân dân Giao Châu, nhà Đường buộc phải phong chức “Đồng bình chương sự” cho Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ, thừa nhận người Việt cai quản đất Việt, chấm dứt về cơ bản thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm.
Năm Bính Dần 966, nhân lúc triều đình Trung ương nhà Ngô suy yếu, các thủ lĩnh địa phương nổi dậy, mỗi người chiếm giữ cát cứ một vùng đất riêng, tạo nên hiện tượng cát cứ với chế độ loạn 12 sứ quân.
Năm Nhâm Dần 1002, vua Lê Đại Hành thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm chấn chỉnh và cải cách chính trị – hành chính như ban hành pháp luật, đổi tên đơn vị hành chính lãnh thổ, chia tướng hiệu làm 2 ban (văn-võ), tổ chức và trang bị lại cho quân đội …
Năm Mậu Dần 1038, vua Lý Thái Tôn đích thân ra cày ruộng (cày tịch điền) ở cửa Bố Hải để làm gương cho dân chúng. Tục lệ đẹp này được các triều đại sau đó duy trì và phát huy.
Năm Mậu Dần 1158, Nguyễn Quốc khuyên vua Lý Anh Tôn nên đặt hòm kính ở triều đình để ai có điều gì cần tâu trình, đề nghị, khiếu tố… thì viết giấy bỏ vào. Vua nghe theo và chỉ trong vòng một tháng, đơn, thư, sớ đã đầy hòm. Đây là phương thức tiếp nhận ý kiến nhân dân rất hiệu quả, tiện lợi và tiến bộ.
Năm Canh Dần 1230, nhà Trần ban hành các bộ sách đồ sộ quy định cách thức tổ chức, hoạt động của chính quyền. Cũng năm này, mức hình phạt trong luật sửa đổi và kinh thành Thăng Long được đại tu về mọi mặt.
Năm Nhâm Dần 1242, nhà Trần tiến hành cải cách hành chính địa phương với quy mô lớn: chia lại đơn vị hành chính lãnh thổ, tổ chức lại hệ thống quan lại địa phương, làm sổ hộ khẩu, phân loại dân đinh, ấn định cặn kẽ mức tô thuế…
Năm Giáp Dần 1374, bắt đầu tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ, lấy đỗ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp, cập đề, đồng cập đề, gồm 50 người (lệ cũ: thi thái học sinh 7 năm một lần, lấy đỗ 30 người). Cũng năm này, nhà Trần áp dụng nhiều biện pháp để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như cấm nhân dân mặc áo kiểu người phương Bắc, cấm bắt chước tiếng nói các nước Chiêm, Lào…
Năm Mậu Dần 1398, Tể tướng Hồ Quý Ly tiến hành cải cách ruộng đất toàn diện.
Năm Bính Dần 1506, nhà Lê tổ chức cuộc thi quân dân rất lớn ở sân điện Giảng Võ với 2 môn: viết và toán. Hơn 3 vạn người dự thi, lấy đỗ 1519 người.
Năm Giáp Dần 1614, chữ quốc ngữ Việt Nam (do các giáo sĩ Bồ Đào Nha sáng tạo ra) bắt đầu hình thành và phát triển.
Năm Canh Dần 1650, lái buôn các tàu thuyền Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Nhật Bản khi tới Kẻ Chợ (Hà Nội) được phép lưu trú tại làng Thanh Trì, Khuyến Lương (ngoại thành Hà Nội). Quan hệ ngoại thương của nước ta bắt đầu phát triển mạnh.
Năm Mậu Dần 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, quyết định lập phủ Gia Định để quản lý 2 huyện Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông). Sài Gòn coi như được thành lập từ đó.
Năm Nhâm Dần 1782, khởi nghĩa Tây Sơn do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ phát động từ năm 1771 đã lớn mạnh, lãnh đạo nhân dân tấn công mãnh liệt vào cả chính quyền chúa Nguyễn ở miền Nam lẫn chính quyền Lê – Trịnh ở miền Bắc, giành thế chủ động trên khắp đất nước. Chúa Nguyễn Ánh đại bại, phải chạy trốn và cầu viện ra nước ngoài. Năm Bính Dần 1806, Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế (Gia Long), trở thành vị vua đầu tiên của triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Năm Canh Dần 1830, nhà Nguyễn cử nhiều đoàn sứ thần đến các nước trên thế giới để thiết lập và phát triển quan hệ ngoại giao.
Năm Giáp Dần 1854, Cao Bá Quát nổi dậy chống lại sự áp bức của triều đình nhà Nguyễn. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng và được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ. Sau đó, bị nhà Nguyễn đánh bại.
Năm Bính Dần 1866, nghĩa quân Trương Quyền liên kết với nghĩa quân Pokum Pao chống Pháp xâm lược, làm nên nhiều chiến thắng vang dội ở Việt Nam và Campuchia.
Năm Canh Dần 1950, chiến dịch Biên giới thắng lợi, quân ta giải phóng dải biên cương Việt – Trung dài 750 km, phá tan hành lang chiến lược và thế bao vây của thực dân Pháp.
Năm Bính Dần 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra và khởi đầu đề ra công cuộc đổi mới và phát triển toàn diện đất nước.