Gần chục ngày nay, người dân trong những con hẻm ở quận 1 trang trí nơi mình ở thành đường hoa mini ngập sắc xuân.
Dài khoảng 100 m, đường hoa mini của hẻm 153, đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1 đã được trang hoàng rực rỡ từ một tuần trước nhờ kinh phí đóng góp của hơn 100 hộ dân.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm, trưởng khu phố 6 cho biết: “Đây là năm thứ hai hẻm trang trí Tết nhưng với quy mô lớn hơn, kinh phí khoảng 15 triệu đồng”.
Con hẻm rộng khoảng 5 m với điểm nhấn là mái nhà tranh rộn ràng mùa xuân với tiểu cảnh cây đào, nhành mai, bánh chưng, mâm ngũ quả…
Bà Cẩm đính thêm một vài bông hoa đào vào chậu cây. Theo trưởng khu phố, con hẻm này an ninh, ngay lối vào là chốt dân phòng nên cũng không sợ bị mất cắp tiểu cảnh.
Trưa 19/1 đi ngang qua hẻm 153, hai mẹ con chị Yên dừng xe chụp vài ảnh kỷ niệm. “Ở đây trang trí đẹp quá, cảm giác Tết đang đến thật gần”, người phụ nữ 32 tuổi nói.
Một góc khác trong hẻm 153 được treo nhiều cây xanh trồng trong những vật liệu tái chế. Trồng cây làm xanh hẻm là hoạt động thường niên của bà con sống trong khu vực này.
Cách đó 3 km, con hẻm 100, đường Trần Hưng Đạo cũng được trang hoàng với chủ đề “đoàn kết, yêu thương, chống Covid-19”.
“Đợt dịch ở đây cũng nhiều người mắc Covid-19 nên dịp Tết bà con trong cùng góp sức làm cho hẻm ấm cúng hơn, mong năm mới bình an”, bà Hoàng Thị Hảo, trưởng khu phố 3 cho biết.
Hình ảnh quen thuộc ngày Tết với nồi bánh chưng, bánh tét, bao lì xì… Theo trưởng khu phố, năm nay hẻm làm quy mô lớn hơn trước nhưng kinh phí lại ít đi vì tận dụng nhiều mô hình cũ để trang trí lại hẻm.
Nhà bà Phi ở ngay đầu hẻm nên mỗi chiều thường tranh thủ tưới các chậu hoa. Bà cho biết, nhìn nơi sống đẹp đẽ nên ai cũng ra sức giữ gìn, chăm sóc cho góc phố xuân của mình.
Khoảng 100 m ở đầu hẻm 358 đường Phạm Ngũ Lão cũng đỏ rực một tuần nay. Đầu hẻm rộng khoảng 6m được bà con chừa một khoảng nhỏ làm góc xuân cho khu phố
Ở phía đối diện các tiểu cảnh là bức tranh khổ lớn về Phố đi bộ Bùi Viện; điểm tham quan thu hút nhiều khách nước ngoài ở khu phố này.
Tại hẻm 162 đường Bùi Thị Xuân, ông Đinh Xuân Dư (trưởng khu phố 5) ngày nào cũng ở đây để tiện trông coi tiểu cảnh xuân của khu mình. Ông cho biết do hẻm nhỏ hẹp nên phải trang trí ngay đầu đường.
“Chúng tôi tận dụng mảng xanh sẵn có và dựng mái nhà tranh, trang trí đơn giản để bà con cùng đón Tết”, ông Dư nói
Con hổ – linh vật năm 2022 được ông Dư đeo khẩu trang như một cách nhắc nhở mọi người phòng chống dịch bệnh.
Nhà sử học A.Roger Ekirch tại Virginia Tech, Mỹ nghiên cứu về các giấc ngủ cổ đại và cho rằng giấc ngủ là một hằng số sinh học.
Thế nhưng, trong khi nghiên cứu về cuộc sống về đêm ở châu Âu và châu Mỹ thời tiền công nghiệp, ông đã phát hiện ra bằng chứng đầu tiên cho thấy nhiều người từng ngủ theo các phân đoạn – giấc ngủ đầu tiên và giấc ngủ thứ hai với khoảng thời gian nghỉ giữa chừng vài giờ để quan hệ tình dục, cầu nguyện, ăn uống, trò chuyện và uống thuốc.
Ekirch cho biết: “Đây là một kiểu ngủ chưa từng được biết đến trong thế giới hiện đại”.
GIẤC NGỦ HAI PHA
Cuốn sách tiếp theo của Ekirch, “At Day’s Close: Night in Times Past”, đã khai quật hơn 500 tài liệu tham khảo về những gì kể từ đó được gọi là giấc ngủ hai pha. Ekirch hiện đã tìm thấy hơn 2.000 tài liệu tham khảo bằng hàng chục ngôn ngữ và quay ngược thời gian về thời Hy Lạp cổ đại. Cuốn sách năm 2004 của ông sẽ được tái bản vào tháng Tư tới.
Hình ảnh một cặp vợ chồng đang ngủ trên cửa kính của nhà thờ.
Nghiên cứu cho thấy việc huấn luyện giấc ngủ cho người lớn ngăn ngừa trầm cảm.
Việc ngủ suốt đêm không thực sự tồn tại cho đến chỉ vài trăm năm trước. Nó chỉ phát triển nhờ sự lan rộng của ánh sáng điện và cuộc Cách mạng Công nghiệp, với niềm tin rằng giấc ngủ là một sự lãng phí thời gian có thể được dành cho làm việc tốt hơn.
LẦM TƯỞNG VỀ GIẤC NGỦ 8 GIỜ?
Tài liệu tham khảo đầu tiên về giấc ngủ hai pha mà Ekirch tìm thấy là trong một tài liệu pháp lý năm 1697 từ một tòa án lưu động “Assizes” được chôn trong một văn phòng thu âm ở London. Lời kể của một cô bé 9 tuổi tên là Jane Rowth đề cập rằng mẹ cô đã thức dậy sau “giấc ngủ đầu tiên” để đi ra ngoài. Người mẹ sau đó được tìm thấy đã chết.
Ekirch sau đó tìm thấy nhiều tài liệu tham khảo về giấc ngủ “đầu tiên” và “thứ hai” trong nhật ký, văn bản y học, tác phẩm văn học và sách cầu nguyện. Sách hướng dẫn của bác sĩ từ thế kỷ 16 ở Pháp khuyên các cặp vợ chồng rằng thời điểm tốt nhất để thụ thai không phải là vào cuối một ngày dài mà là “sau giấc ngủ đầu tiên”, khi “họ thích thú hơn” và “làm chuyện ấy tốt hơn”.
NẰM BÊN PHẢI, RỒI QUAY SANG TRÁI
Tuy nhiên, cuộc sống tiền công nghiệp không phải là thời đại Halcyon khi tổ tiên của chúng ta trải qua một ngày được nghỉ ngơi và trẻ hóa tốt, không bị mất ngủ hoặc các vấn đề về giấc ngủ khác, dễ dàng đồng bộ với chu kỳ đêm và ngày, các kiểu thời tiết và mùa. Sasha Handley, một giáo sư lịch sử tại Đại học Manchester ở Vương quốc Anh, người nghiên cứu cách các gia đình tối ưu hóa giấc ngủ của họ ở Anh, Ireland và các thuộc địa Mỹ của Anh từ năm 1500 đến năm 1750, cho biết.
Handley cho biết nghiên cứu của cô cho thấy, giống như ngày nay, giấc ngủ có liên quan đến sức khỏe thể chất và tinh thần và là một chủ đề khiến mọi người lo lắng và ám ảnh.
Các bác sĩ khuyên những người ngủ nên nằm về bên phải trước, rồi quay sang bên trái trong nửa sau của đêm. Nằm bên phải, có lẽ trong giấc ngủ đầu tiên, được cho là để cho phép thức ăn đi đến dạ dày, nơi nó được tiêu hóa. Quay sang trái, bên mát hơn, hơi thoát ra và tỏa nhiệt đều khắp cơ thể.
CHỨNG MẤT NGỦ
Russell Foster, giáo sư khoa học thần kinh sinh học tại Đại học Oxford, đã thực hiện các thí nghiệm về giấc ngủ đã chỉ ra rằng, khi con người có cơ hội ngủ lâu hơn, giấc ngủ của họ có thể trở thành hai pha hoặc thậm chí nhiều pha.
Tuy nhiên, Foster, đồng thời là giám đốc của Sir Jules Thorn Sleep và Viện Khoa học Thần kinh Circadian tại Oxford, nghi ngờ rằng đó là một thói quen ngủ có thể xảy ra với tất cả mọi người.
Ông nói thêm, không ai nên áp đặt một chế độ ngủ theo từng giai đoạn, đặc biệt nếu nó làm giảm tổng thời gian ngủ. Foster nói, giấc ngủ bị gián đoạn được coi là ít có vấn đề hơn trong quá khứ, nhưng giấc ngủ ngon suốt 8 tiếng ở thời hiện đại không phải lúc nào cũng hữu ích.
Nghiên cứu của Foster cho thấy, nếu chúng ta thức dậy vào ban đêm, giấc ngủ có khả năng trở lại, nếu giấc ngủ không bị chi phối bởi mạng xã hội hoặc hành vi khác khiến bạn tỉnh táo hơn hoặc kích hoạt phản ứng căng thẳng.
Các chuyên gia về giấc ngủ khuyên, bạn nên rời khỏi giường nếu bạn không thể ngủ trở lại và tham gia vào một hoạt động thư giãn trong ánh sáng đèn ở mức thấp.
Thú thật, trong đời, chả nghĩ lại có thể được gặp Du Tử Lê bằng xương bằng thịt. Thi thoảng nghe bạn bè đi Mỹ về kể Du Tử Lê thế này Du Tử Lê thế kia lại thấy… thèm, rồi lại nghĩ, ông ấy lắc lơ thế, nghìn trùng thế, thôi thì, nghe Khúc Thụy du để thấy ông ấy.
Thế hệ chúng tôi hầu như rất ít biết về Du Tử Lê, cả trong đọc và học. Đơn giản vì ông ở bên kia vĩ tuyến, rồi khi thống nhất thì ông lại… sang Mỹ. Nghe thêu dệt cũng có, kể trực diện cũng có, tài liệu cũng có… về ông thì thấy cái cơ duyên ông trở về Việt Nam có vẻ khó. Thế rồi ông trở về, năm ngoái Nhà xuất bản Hội Nhà văn lại in sách của ông nữa. Đọc mấy bài báo kể về việc ông xuất hiện ở Hà Nội càng thấy tò mò. Nào là không cách gì gặp được, gặp được thì lại không nói chuyện được, nói chuyện được thì lại… rất thiếu thông tin. Càng tò mò tợn.
Nhà thơ Du Tử Lê. Tranh của họa sĩ Lê Sa Long
Thế mà rồi tôi có ngày đã gặp ông bằng xương bằng thịt, còn “kề vai sát cánh” với ông 2 ngày 2 đêm nữa, trong đó có mấy tiếng đồng hồ tung hoành với nhau trên sân khấu trong một đêm “Khúc thụy du với Pleiku” ngay tại thành phố Pleiku.
Ông hiền lành đến độ khó có thể hiền hơn. Nhưng ẩn trong ấy là sự thông minh, trí tuệ và lịch lãm. Tôi đến gặp ông trong một cữ cà phê sáng, cữ cà phê đầu tiên sau bốn mươi năm ông trở lại Pleiku. Nhìn nét mặt khoan khoái của ông khi trịnh trọng nâng ly cà phê hít hà trước khi nghiêng nhẹ vào môi cho giọt cà phê lăn vào rồi từ từ tan trong miệng mới thấy độ xúc cảm thiêng liêng khi gần nửa thế kỷ ông mới được nhấp lại ly cà phê cao nguyên thứ thiệt. Cũng chả muốn tả cái sự khác nhau giữa cà phê Pleiku với cà phê Mỹ làm gì, bởi uống cà phê chỉ là thói quen thôi. Nhưng ai đã uống những phin cà phê đen Pleiku đen nhánh và đặc sánh rồi thì rất khó quên, bởi vậy tôi hình dung sự khoan khoái của ông khi xơi liền… 2 ly trong buổi sáng ấy rồi thốt lên “Pleiku của tôi tuyệt vời quá”…
Ông đang kiên nhẫn nghe và trả lời bốn, năm ông bà uống cà phê trong quán nhận ra ông, hỏi thăm ông về thơ và về cả đời ông. Nhỏ nhẹ và từ tốn, pha chút hài hước, ông trả lời rất ngắn nhưng đầy đủ. Lạ là cũng còn nhiều người hỏi ông về những bài thơ cụ thể, họ thuộc vanh vách. Thuộc thơ yêu thơ giờ đã hiếm, mà lại thơ của người 40 năm mới xuất hiện lại thì những khách uống cà phê hôm ấy cũng thuộc hàng thượng thặng.
Thập niên 60 của thế kỷ trước, ông là phóng viên chiến trường của quân đội Việt Nam cộng hòa, thường xuyên bay lên Pleiku tác nghiệp. Cô giáo người Huế xinh đẹp Hạnh Tuyền mới tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế có cảm tình với thơ ông, rồi với ông. Rồi trở thành hôn thê của ông. Để dễ gần nhau, bằng mối quan hệ của mình, ông đã xin cho bà lên dạy ở trường Phạm Hồng Thái, Pleiku. Lớp học trò của bà thời ấy giờ cũng đã nên ông nên bà, và họ đang tíu tít với cô giáo cũ ở một bàn cà phê bên cạnh.
Để lên Pleiku chuyến này, ông đã khuyên bà bỏ một cuộc đi Mã Lai hay Miến Điện gì đấy, để về Việt Nam. “Quỹ thời gian ít lắm rồi, nên chiều người… già hơn”, ông hóm hỉnh nói với vợ và bà đã đồng ý, từ nay mỗi năm sẽ có một cuộc về Việt Nam, về nhà.
Cái cách ông bà chiều nhau cũng tài. Cái nhà hàng Ngói nâu của ông nhà thơ Miên Di dạy nhân viên chăm sóc khách rất kỹ. Mỗi khi mang món mới ra thì nhân viên lại lấy một bát mới cho khách, bỏ thức ăn mới vào đấy trong khi miệng giới thiệu món ăn. Có những món ông không ăn được, chỉ liếc qua bà biết và lặng lẽ khéo léo đổi bát cho ông. Còn khi ngồi xa ông thì bà nhờ người ngồi cạnh: món ấy anh ăn không được, đừng gắp cho anh, gắp cho anh món kia. Mà quả ông chả ăn bao nhiêu, mút mát tí rồi ngồi. Đáp lại ông cũng ga lăng không kém. Mỗi lần ra ngoài hút thuốc, dù tư thế chả có cớ để có thể nghiêng, ông cũng cố vịn vào vai bà, có lần còn thơm nhẹ lên tóc. Trời ơi cái đám trẻ ngồi cứ tròn xoe mắt… Có lúc có ai đó hỏi ông lần đầu tiên ông lên Pleiku là năm nào, ông lẩm nhẩm rồi nói năm 1961. Bà để ông nói xong một lúc rồi rất khẽ hỏi lại, hình như anh quên, răng mà năm 61 được. Bà nhớ thì không thể sai rồi, vì bà… hiểu rõ ông hơn ông, và cái sự lên Pleiku nó gắn tới bà. Ông cười xòa, thì bà tính hộ tôi!
Cái bài hát Khúc Thụy du mà nhạc sĩ Anh Bằng phổ và rất nổi tiếng ở Việt Nam ấy, té ra nó là một bài thơ khá dài, toàn về chiến tranh. Nhạc sĩ đã “gắp” ra những câu thơ về tình yêu rải rác trong bài thơ rồi liên kết lại thành một bài hát hay. Trường hợp này lại khiến tôi nhớ tới bài hát Khúc hát sông quê của Nguyễn Trọng Tạo và Lê Huy Mậu. Bài thơ rất dài, có lần tôi nói đùa với cả 2 bác Mậu và Tạo: ông Tạo đã rất tài khi lấy ra những câu thơ dở nhất trong bài thơ hay để phổ nên một bài hát hay. Trước mặt cử tọa và cả chị Hạnh Tuyền, ông nói khơi khơi khi bị hỏi Thụy là ai? Chính là một trong những người yêu của tôi. Nếu hỏi thì số người thích Khúc Thụy du chiếm đa số trong giới thích nghe nhạc, nhưng hỏi ông thích ca khúc nào nhất trong số thơ của ông được phổ thì ông lại để Khúc Thụy du ở rất xa phía sau. Có người đã tính, ở Việt Nam có hai người có thơ được phổ nhạc nhiều nhất là Tạ Hữu Yên và Du Tử Lê. Tôi có hỏi ông và ông ngơ ngác một lúc rồi bảo cũng không biết nữa?
Tôi cũng nói với ông rằng, lần đầu khi đọc bài thơ “khi tôi chết hãy mang tôi ra biển” tôi đã sởn hết gai ốc. Bởi nó đụng đến những điều rất thiêng liêng. Nó từ cá nhân nhưng đã gói được cả số phận cộng đồng, từ cảm xúc rất riêng nhưng lại nói hộ được bao người.
Cái đêm mà tôi được chuyện trò với ông ấy, một số anh em đứng ra tổ chức tại một quán cà phê Vương Cát mà bà chủ cũng rất yêu Du Tử Lê. Cũng phải tập tành, ráp nhạc để thể hiện 7 bài hát phổ thơ ông, đọc gần chục bài thơ của ông. Hơn bốn mươi năm, và thơ ông cũng không được nhắc đến nhiều ở trong nước, thế mà hôm ấy, quán cà phê hết chỗ, mọi người rất im lặng, và ngồi đến phút cuối cùng, dù ai vào là phải trả tiền, tiền nước uống, tất nhiên, quán không phụ thu như thông lệ.
Tôi là người được chọn để cùng ông trò chuyện, trò chuyện nhưng lại phải ngồi trên sân khấu, “qua loa” để mọi người cùng nghe. Và bản thân tôi cũng chưa bao giờ gặp ông, đọc ông cũng không nhiều bằng các nhà thơ trong nước khác, bởi đến tận năm ngoái thì tập thơ đầu tiên của ông mới được xuất bản ở trong nước sau khá nhiều trầy trật, tập “Giỏ hoa tuổi mới lớn” của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Thế mà ngồi nói chuyện với ông, với tư cách cầu nối ông với khán giả phía dưới, cứ như… đúng rồi.
Cái sự kết nối ấy, cái sự thân quen ấy, mến mộ ấy… nó xuất phát từ thơ. Ông là tác giả của rất nhiều bài thơ hay, mà chỉ nhắc đến tên đã rất nhiều người biết, vậy nên, chả cần ông hiện diện, chả cần bằng xương bằng thịt, dẫu nghìn trùng đâu đó, người ta vẫn đọc ông, và yêu ông, và nghe nói ông về thì rủ nhau đi gặp ông. Có gia đình cả vợ chồng con cái đều đi. Xong rồi mua sách và kiên nhẫn đứng chờ ông ký.
Có một anh chàng tên là Phúc, quê gốc ở Quảng Trị, lên Pleiku lập nghiệp từ thời nào, rồi sau đó xuống Sài Gòn định cư. Thông qua facebook (cuộc cà phê nhạc gặp gỡ Du Tử Lê ở Pleiku chỉ được thông báo trên facebook của anh Nguyễn Sơn, người tổ chức cuộc này) bèn làm một cuộc vô tiền khoáng hậu là… chạy xe máy từ Gò Vấp, Sài Gòn lên Pleiku, vẫn kịp vào xem các ca sĩ ráp nhạc, và tối ấy anh lặng lẽ ngồi từ phía sau ngắm và nghe Du Tử Lê, cho đến hết chương trình lại lặng lẽ xếp hàng đợi xin chữ ký vào tập thơ “Giỏ hoa tuổi mới lớn” anh mua tại chỗ. Sáng hôm sau anh lại đến quán cà phê mà những người bạn mời Du Tử Lê uống cà phê để ngồi với ông một lát, uống một ly cà phê rồi lại chạy xe máy về lại Sài Gòn. Nghìn cây số cả đi và về chỉ để gặp thần tượng của mình một lúc, kể cũng là loại yêu thơ phi phàm. Nhân đấy tôi kể với Du Tử Lê giai thoại chuyện thơ của người Việt. Một là có ông dán bảng trước cửa nhà: Xin để dép và thơ ở ngoài. Hai là thiên hạ đồn mỗi khi tôi về quê (Huế) đều mang theo 2 ống nứa. Các nhà thơ gặp nhau là hay đọc thơ mới cho nhau nghe. Khi đọc cứ nhắm tịt mắt lại, tay nắm chắc tay đối phương, thế là đối phương lẳng lặng rút tay mình ra khỏi ống nứa và… chạy. Đọc cho ông nghe câu thơ vui nữa, chả biết của ai: Gặp nhau tay bắt mặt mừng/tặng gì thì tặng xin đừng tặng… thơ… ông cứ ha hả cười khiến tôi quên hỏi ông rằng bên Mỹ người ta có hay… đọc thơ khi gặp nhau không?
Và thế mới thấy, thơ không có biên giới, không rào cản, chỉ có những trái tim đến với trái tim, truyền xúc động sang nhau, và giữ nhau lại ở vùng xúc động ấy, như một cách lưu giữ cái đẹp, tình yêu, cái làm nên hồn cốt của dân tộc, để những đứa con dẫu lắc lơ đâu đó vẫn đau đáu mà tìm về… Làm sao em biết khi xa bạn/ Tôi cũng như chiều tôi mồ côi… Và: Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ Đời lưu vong không cả một ngôi mồ/ Vùi đất lạ thịt xương e khó rã/ Hồn không đi, sao trở lại quê nhà/ Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ Nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi/ Bên kia biển là quê hương tôi đó/ Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì/ Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ Và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi/ Cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối/ Biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi...
Sau một loạt kiểm các kiểm duyệt trong ngành xuất bản liên quan đến các ấn phẩm viết về hai nhân sĩ lừng danh Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, nay Đảng Cộng sản Việt Nam lại ra công văn hướng dẫn các địa phương “không xem xét lấy tên hai nhân vật nêu trên (Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký) đặt tên cho đường, phố, công trình công cộng”. Giới nghiên cứu nhận định với VOA rằng văn bản này của Ban Tuyên giáo Trung ương đi ngược lại sự thật của lịch sử và gây hoang mang trong nhân dân, “sĩ nhục tiền nhân”, và “kỳ thị” trí thức miền Nam.
Phan Thanh Giản (1796-1867), một đại thần triều Nguyễn, làm quan trải qua 3 đời vua, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là một nhân vật lịch sử, nhà thơ, nhà sử học, đỗ Đại khoa tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa.
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), là một nhà bác học, nhà ngôn ngữ học tiêu biểu của Việt Nam trong thế kỷ XIX, người am tường và có cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực lịch sử, ngôn ngữ học, văn học, báo chí.
Văn bản gây tranh cãi
“Cho đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký đối với lịch sử Việt Nam”, công văn đề ngày 5/1 do Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Phan Xuân Thủy ký, nêu lý do.
“Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì xem xét chưa đặt tên đường, phố và công trình công cộng,” công văn có đoạn.
Hai nguồn tin thân tín với các cấp ủy trong ban tuyên giáo ở các tỉnh, nơi tiếp nhận văn bản này, cho VOA biết rằng công văn này là có thật.
Ban Tuyên giáo Trung ương chưa phản hồi yêu cầu bình luận của VOA.Sự đánh giá này là sự đánh giá mang tính chính trị. Dường như họ không đọc những nghiên cứu cả 100 năm nay về cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký và những đóng góp của họ đối với đất nước.GS Ngô Vĩnh Long
Có lẽ các cấp chính quyền và các bộ ngành đã “quen” với việc tiếp nhận “chỉ đạo” kiểu này từ Ban Tuyên giáo Trung ương vì Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo “toàn diện” và “sát sao”, cho dù có phần lấn át vai trò của hội đồng nhân dân cấp tỉnh – cơ quan duy nhất có thẩm quyền theo luật định ra nghị quyết về việc đặt tên đường, đổi tên đường ở Việt Nam.
Công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương ngày 5/1/2022. Photo Sachhiem.
Ông Ngô Vĩnh Long, Giáo sư khoa lịch sử của Đại học Maine, Hoa Kỳ, nêu nhận định với VOA về công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương:
“Sự đánh giá này là sự đánh giá mang tính chính trị. Dường như họ không đọc những nghiên cứu cả 100 năm nay về cụ Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký và những đóng góp của họ đối với đất nước.
“Có thể họ cho rằng Phan Thanh Giản ký hiệp định với Pháp là bán nước, nhưng ông chỉ là người được vua cử đi đàm phán. Trong khi đó ông Trương Vĩnh Ký là một nhà khoa học lỗi lạc, biết bao nhiêu thứ tiếng, dịch nhiều sách và đóng góp rất lớn cho đất nước. Tại sao nói là “chưa rõ ràng”?
Giáo sư sử học nhận định rằng Phan Thanh Giản không thể tự mình làm trái ý vua, và vì vậy không thể quy tội “bán nước” hay “phản bội Tổ quốc”.
“Rõ ràng đây là hành động chính trị chưa được suy xét đàng hoàng. Nó làm mất mặt chính quyền hiện tại và mất mặt cho giới trí thức Việt Nam, trí thức Việt Nam đã thực hiện biết bao nghiên cứu, bài viết về hai ông mà họ bỏ qua hết.”
Từ California, nhà giáo Nguyễn Trung Quân, cựu hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản ở thành phố Cần Thơ trước năm 1975, nói với VOA rằng công văn của Ban Tuyên giáo vừa “không đúng đắn” về nội dung vừa “không có tính lịch sử”. Ông nói:
“Đó là một điều phi lý. Cụ Phan Thanh Giản mất tính đến nay là 155 năm, cụ Trương Vĩnh Ký mất tính đến nay là 124 năm, người Cộng sản chiếm miền Nam tính đến nay là gần 47 năm. Vậy cái cơ quan đó làm cái chi mà không làm sáng tỏ được những vấn đề liên quan đến hai nhân vật Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản.
“Từ mấy mươi năm nay, qua các cuộc hội thảo ở Việt Nam và ở ngoại quốc, chúng tôi đã có những nghiên cứu đề cập đến vấn đề đó. Viện sử học Việt Nam trong văn thư ngày 20/1/2008 nói rất rõ rằng: Cụ Phan Thanh Giản có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên lĩnh vực văn học, sử học. Về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, nhiều cuộc hội thảo khoa học được tổ chức để đánh giá một cách khách quan về cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến của ông đối với lịch sử dân tộc. Với nhận định mới trên quan điểm cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau.”
Nỗi đau xuyên thế kỷ
Các nhà nghiên cứu cho biết rằng chính quyền cách mạng ở miền Bắc từ sau Hiệp định Gevene 1954 đã không có thiện ý đặt tên đường mang tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, và quan điểm này cũng kéo theo sự thay đổi tên đường, phá vỡ hay di dời tượng đài của hai nhân vật lịch sử này sau khi chính quyền Nam Việt Nam bị mất năm 1975.
Thời Pháp thuộc, Hà Nội đã có đại lộ Phan Thanh Giản từ năm 1949, và đến năm 1954 thành phố Hải Phòng cũng có đại lộ Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sau khi miền Bắc “tiến lên” chủ nghĩa xã hội từ 1955 ở Hải Phòng con đường này được đổi tên thành Cù Chính Lan, và tại Hà Nội con đường mang tên Phan Thanh Giản cũng đổi tên thành Nguyễn Hữu Huân từ năm 1964.
Khi Đô thành Sài Gòn có tên mới là thành phố Hồ Chí Minh thì những con đường mang tên Phan Thanh Giản cũng không còn. Vào tháng 8/1975, Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn – Gia Định quyết định đổi tên đường Phan Thanh Giản ở quận 3, có từ năm 1955, thành đường Điện Biên Phủ. Vài năm sau đó, một con đường Phan Thanh Giản ở quận Gò Vấp bị thay đổi tên thành Nguyễn Thái Sơn.
Tại Cần Thơ, từ năm 1917 đã có ngôi trường trung học mang tên Phan Thanh Giản (dành cho nam sinh) tọa lạc ngay trên đường Phan Thanh Giản. Sau năm 1975, trường này bị đổi tên thành trường cấp 3 An Cư và đến năm 1985 lại đổi tên thành trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm.
Một góc trường Châu Văn Liêm ở Cần Thơ vào năm 2018, trước đây là trường Phan Thanh Giản. Photo Sunny Doan
Nhà giáo Nguyễn Trung Quân chia sẻ nỗi đau khi ngôi trường mang tên Phan Thanh Giản do ông làm hiệu trưởng bị đổi tên và bức tượng Phan Thanh Giản ở giữa sân trường bị chính quyền mới phá vỡ. Sự việc xảy ra cách nay hơn 45 năm, nhưng đối với ông, “nỗi đau vẫn day dứt.”
“Từ khi những người cộng sản vào miền Nam vào tháng 4/1975, thì sang đến tháng 5/1975, họ đập vỡ tượng cụ Phan Thanh Giản ở giữa sân trường của chúng tôi. Họ hạ bảng tên để đổi tên trường nhằm như rằng để dằn mặt trí thức miền Nam.Từ khi những người cộng sản vào miền Nam vào tháng 4/1975, thì sang đến tháng 5/1975, họ đập vỡ tượng cụ Phan Thanh Giản ở giữa sân trường của chúng tôi. Họ hạ bảng tên để đổi tên trường nhằm như rằng để dằn mặt trí thức miền Nam.Nhà giáo Nguyễn Trung Quân, cựu hiệu trưởng trường Phan Thanh Giản Cần Thơ
“Lối hành động đó chúng tôi biết là sai, chúng tôi mấy mươi năm nay đã liên lạc thẳng với họ chỉ rõ sự sai lầm lịch sử của họ… Chúng tôi gửi văn thư cho chính quyền Cần Thơ, chính quyền Trung ương hơn 20 năm nay.
“Cụ Phan Thanh Giản là một người yêu nước, tuẫn tiết để giữ vẹn chữ trung.
“Ông Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một người cộng sản mà còn tặng tượng cụ Phan Thanh Giản cho tỉnh Vĩnh Long để dựng tượng lên. Ông cũng cho rằng cụ Phan Thanh Giản là người yêu nước.
“Còn chúng tôi và những học sinh gắn bó với trường, chỉ yêu cầu làm theo đúng lịch sử – trả lại tên trường. Thế nhưng đến nay, họ vẫn có thái độ lập lờ, bởi vì họ dùng chính trị, chứ không phải lịch sử, nhằm mục đích hạ bệ cụ Phan Thanh Giản.”
Cũng sau năm 1975, đường Phan Thanh Giản ở Cần Thơ bị đổi tên thành đường Phan Đăng Lưu và không lâu sau lại đổi tên thành đường Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Từ thời Pháp, ở Sài Gòn có trường Collège Pétrus Trương Vĩnh Ký (Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký) được thành lập từ năm 1927, còn được gọi là trường Pétrus Ký, là nơi mà các ông Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang… từng theo học, sau này đi theo cách mạng và trở thành những nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1937, nhân lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của Trương Vĩnh Ký, trường đặt tượng bán thân bằng đồng của ông tại giữa sân trường. Đây là tác phẩm của nhà điêu khắc người Pháp, thực hiện từ năm 1889, khi nhà bác học Trương Vĩnh Ký còn tại thế, theo báo Tuổi Trẻ.
Sau biến cố 1975, trường bị đổi tên, thay tượng. Tên mới của trường là Lê Hồng Phong, Tổng bí thư Đảng giai đoạn 1935-1936; và bức tượng đồng của nhà bác học Trương Vĩnh Ký cũng bị dời đi.
Trong khi đó, một bức tượng đồng toàn thân của cụ Trương Vĩnh Ký, đúc năm 1927, được nhân dân Nam Bộ góp tiền xây dựng nên và đặt ở vườn hoa trước Dinh Độc Lập, gần đường Alexandre de Rhodes ở quận Nhất, đến năm 1975 bị chuyển vào một góc hẹp ở Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh.
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhận định rằng người có công đầu trong việc sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ là Alexandre de Rhodes, nhưng để chữ Quốc Ngữ phát triển như hiện nay phải kể đến công lao của Pétrus Trương Vĩnh Ký.
Ông Trương Minh Đạt, chắt của Trương Vĩnh Ký, người quản lý và trông coi khu lăng mộ Trương Vĩnh Ký trên đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, nói với Luật khoa tạp chí: “Người ta luôn nghĩ ông Trương Vĩnh Ký là Việt gian, vì cái tên Petrus Trương Vĩnh Ký nên người ta nghĩ Petrus là Pháp rồi nhưng thật sự theo đạo thì tên thánh đi trước, chứ ông đi xứ với Phan Thanh Giản vẫn mặc áo dài khăn đóng bình thường, ông không mặc đồ Tây. Pháp kêu theo quốc tịch Pháp vẫn không theo”.
“Ai công nhận thì cảm ơn, ai không công nhận thì thôi. Xấu cũng được, tốt cũng được, người sau hậu thế sẽ nhận xét. Như ông Trương Vĩnh Ký đã viết, về sau hãy để hậu thế nhận xét ông có tội hoặc không có tội,” Trương Minh Đạt nói.
Phan Thanh Giản và vụ án “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân”
Luật sư Phan Đào Nguyên ở California, tác giả khảo cứu “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân’”, nói với VOA rằng các sử gia tại miền Bắc Việt Nam đã sử dụng câu này liên tục từ thập niên 1950 đến nay, nhân danh “nhân dân” để kết tội bán nước cho hai đại thần triều Nguyễn là Phan Thanh Giản (Phan) và Lâm Duy Hiệp (Lâm); với sự chú trọng đặc biệt vào Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ.
Câu trên có nghĩa là Phan (Thanh Giản), Lâm (Duy Hiệp) bán nước, Triều đình bỏ rơi dân chúng. Lâm Duy Hiệp (1806-1863) là một quan đại thần triều Nguyễn.
Nghiên cứu của Luật sư Phan Đào Nguyên đưa ra kết luận, sau năm 1975 thì câu “Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” đã được đem từ miền Bắc vào phổ biến ở miền Nam. Rồi từ đó, nó được coi như “một sự thật lịch sử trong cả nước”.
“Theo sự nghiên cứu của tôi thì “cái tội” lớn nhất mà các sử gia miền Bắc đã gán cho Phan Thanh Giản là “tội bán nước”, và họ dùng câu “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân” như là một bằng chứng mà họ cho rằng nhân dân miền Nam đã gán cho Phan Thanh Giản sau khi ông ký hòa ước Nhâm Tuất năm 1862.
“Theo nghiên cứu của tôi, câu “Phan Lâm mãi quốc, Triều đình khí dân” không có nguồn gốc từ nhân dân miền Nam, và cũng không phải đã được dùng để đề lên trên lá cờ khởi nghĩa của Trương Định như các sử gia miền Bắc đã nói, mà câu này là một sản phẩm được chế tạo ra bởi ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện Sử học ở miền Bắc vào thập niên 1950-1960. Sau đó câu này được đem vào nhà trường dạy cho trẻ con ở miền Bắc và sau 1975 thì được dạy cho khắp cả nước.
Khi được hỏi liệu nghiên cứu của ông có phải là nguyên nhân, hay một phần nguyên nhân, đưa đến văn bản gần đây của ban Tuyên Giáo hay không, luật sư Phan Đào Nguyên nói, tám chữ nêu trên chính là nguồn gốc cho sự lên án Phan Thanh Giản trong suốt mấy mươi năm qua, và là “căn bản cho cái gọi là “ý kiến trái chiều” về Phan Thanh Giản”.
“Câu này đã tạo nên cái mà chúng ta có thể thấy trong công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương, trong đó có ghi “ý kiến trái chiều hay những đánh giá khác” về Phan Thanh Giản,” ông Phan Đào Nguyên nhận định.
Nhà giáo Nguyễn Trung Quân nêu nhận định tương tự:
“Quyển sách dài 384 trang của nhà nghiên cứu Phan Đào Nguyên đã khiến cho họ không thể trả lời được. Nó cho thấy rõ gian kế của người cộng sản và thực tế cách thức làm việc của người mà họ cho là “sử gia” miền Bắc.
“Hai vị Phan, Trương là hai học giả lớn của miền Nam, bị họ dồi dập lên xuống, rồi ra cái văn thư theo kiểu đòn thù thì thật không xứng đáng với cách thức làm lịch sử. Mà thật vậy, họ làm chánh trị, chứ không làm lịch sử.”
Trường trung học tư thục Phan Thanh Giản ở Đà Nẵng (1969 – 1975). Photo Thuong mai truong xua.
Làn sóng mới từ sau Đại hội Đảng XII?
Tác giả Phan Đào Nguyên bắt đầu nghiên cứu về hai nhân vật Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký trong vài năm gần đây và biết rằng chính quyền Việt Nam đã dùng “mệnh lệnh” miệng để cấm phát hành hai quyển sách viết về hai nhân vật này.
“Có hai quyển sách về hai nhân vật lịch sử này: Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ và Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc và người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời đã được in ra ở bên Việt Nam nhưng rồi đã bị cấm, và theo tôi hiểu trong đó có quyển bị cấm mà không có công văn gì cả.”
Vào tháng 8/2017, cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ” do nhà nghiên cứu lão thành Nguyễn Đình Đầu chủ biên, một công trình tập hợp các bài viết của nhiều tác giả xưa và nay, nói về học giả Trương Vĩnh Ký (1837-1898), bị thu hồi khỏi các hiệu sách và bị cấm phát hành ở Việt Nam.
Quyển sách trên được Cục Xuất bản cấp giấy phép với đầy đủ các thủ tục giấy tờ và đã qua thời hạn lưu chiểu theo luật định để lưu hành, được dự trù ra mắt tại Đường Sách Sài Gòn, nhưng đã bị hủy theo “một chỉ thị miệng” và báo chí được tin nhận cảnh báo không đưa tin về cuốn sách này, trang BBC dẫn lời tác giả Nguyễn Đình Đầu cho biết.
Cuối 2019 đầu 2020, cuốn sách “Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc và người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời (1862-1867)” của hai tác giả Phan Thị Minh Lễ và Pierre Ph. Chanfreau, do dịch giả Phan Tín Dụng chuyển ngữ từ tiếng Pháp, đã phải tạm dừng phát hành, theo trang Người Đô thị.
Trang này dẫn nội dung công văn số 09/CV/XBHN của nhà xuất bản Hà Nội viết: “Trong quá trình rà soát lại, NXB Hà Nội nhận thấy một vài nội dung cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể chỉnh sửa cho phù hợp hơn”, đồng thời đề nghị tạm dừng phát hành quyển sách công phu về nhân vật “gây tranh cãi” Phan Thanh Giản để hai bên cùng thống nhất và tổ chức chỉnh sửa.
Cuốn sách này về Phan Thanh Giản từng được nhà xuất bản L’Harmattan (Paris, Pháp) ấn hành vào năm 2002 có tựa đề “Phan Thanh Gian: patriote et précurseur du Vietnam moderne. Ses dernières années 1862-1867”.
Từ thành phố Hồ Chí Minh, tác giả trẻ Tôn Phi, người có ấn phẩm phát hành trên mạng Amazon, nêu nhận định với VOA:
“Cho dù hai ông Trương Vĩnh Ký và Phan Thanh Giản có như thế nào đi chăng nữa thì đó là những tên tuổi rất lớn, có nhiều đóng góp cho lịch sử và tiến trình văn hóa của nước nhà.
“Việc đặt tên đường phải thực hiện theo nguyện vọng của nhân dân và khi nhân dân yêu cầu trả lại tên đường thì chế độ cầm quyền buộc phải trả lại tên đường, nhất là tên những con đường đó vô hại đối với văn hóa xã hội.
“Ban Tuyên giáo Trung ương cố tìm mọi cách để thao túng tâm lý của một bộ phận dân chúng, song ngày nay với sự tiến bộ của Internet, không ai có thể giấu được bất kỳ điều gì, vì người dân đã rất ý thức về điều này”.
Đường Phan Thanh Giản ở Mỹ Tho, Tiền Giang, tháng 12/2021. YouTube Mytho Around.
Giữ nguyên trạng? và ‘rút kinh nghiệm’?
Hiện tại ở miền Nam, vẫn có những ngôi trường và con đường mang tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, nhưng hầu hết là trường tư thục hay dân lập và là tên của những con phố nhỏ, ví dụ như đường Phan Thanh Giản ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, hay đường Trương Vĩnh Ký ở thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận.
Các nhân viên tại hai trường dân lập Trương Vĩnh Ký ở Tp. Hồ Chí Minh và ở Đồng Nai nói với VOA rằng nhà trường không có kế hoạch phải đổi tên và cũng không biết gì về công văn của Ban Tuyên giáo.
Có lẽ ngôi trường công lập duy nhất hiện tại mang tên Trương Vĩnh Ký ở Việt Nam là một ngôi trường trung học ở xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, sinh quán của nhà bác học.
Trường trung học công lập Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre. Photo Bao Dong Khoi
Trường được Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập vào năm 2009, sau khi thừa nhận kết luận của một cuộc tọa đàm của các nhà khoa học về những đóng góp to lớn của Trương Vĩnh Ký, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và ngôn ngữ. Vào cuối năm 2010, bức tượng đồng tạc nhà bác học Trương Vĩnh Ký do tạp chí Xưa & Nay quyên góp, được khánh thành tại ngôi trường này.
Trước đó, vào năm 2008, chính quyền tỉnh Bến Tre thành lập giải thưởng mang tên Trương Vĩnh Ký, do hội khuyến học đề nghị, để vinh danh các học sinh trung học xuất sắc trên toàn tỉnh.
Vào năm 2008, chính quyền tỉnh Vĩnh Long tổ chức lễ rước và an vị tượng Phan Thanh Giản tại Khu Di tích Văn Thánh Miếu Vĩnh Long – nơi Kinh lược sứ đại thần Phan Thanh Giản tuẫn tiết. Pho tượng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụng hiến. Tượng đúc bằng đồng, cao 85cm, nặng 250 kg, được tỉnh Vĩnh Long đặt trang trọng tại nơi thờ trong Văn Thánh Miếu.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng viết: “Tôi khẳng định rằng Phan Thanh Giản là một người yêu nước, thương dân mà lo không tròn bổn phận, Cụ đã tự làm án cho chính mình: đó là cái chết. Một cuộc đời thanh sạch, thật đáng để lại gương soi cho hậu thế… Tôi đã về thăm mộ cụ Phan Thanh Giản và đốt nhang lạy hương hồn cụ. Và tôi cũng quyết định sửa sang lại khu mộ phần và nhà thờ cụ bởi mộ đã bị thời gian bào mòn quá nhiều.”
Một nguồn tin cấp ủy thân tín với ban tuyên giáo nói với VOA rằng chính quyền có thể sẽ cho giữ nguyên trạng những gì đã có, và sẽ “rút kinh nghiệm” trong việc lấy tên hai cụ để đặt tên đường, công trình công cộng trong tương lai.
Với công văn mới này của Ban Tuyên giáo Trung ương, có lẽ trường THPT Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre sẽ là ngôi trường công lập cuối cùng ở Việt Nam mang tên này, và cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng là lãnh đạo cộng sản duy nhất và cuối cùng chính thức tôn vinh công lao của nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản. Nhưng Thủ tướng Kiệt đã qui tiên cùng hai cụ Phan, Trương mất rồi!
Vụ tham nhũng Việt Á, vụ cổ phiếu FLC ở Việt Nam gần đây cho thấy dường như có một thế lực vô hình đang thao túng chính sách, lũng đoạn thị trường mà nếu không được vạch mặt chỉ tên và có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì đất nước sẽ suy sụp.
Vụ Việt Á: Ai điều binh khiển tướng?
Đã một tháng trôi qua kể từ ngày “đại án” tham nhũng ở công ty công nghệ Việt Á bị phanh phui hôm 17 Tháng Mười Hai, 2021, vẫn còn nhiều câu hỏi bức bối chưa có lời đáp.
Thông tin từ cuộc điều tra của công an càng ngày càng cho thấy đây là một vụ lũng đoạn nhà nước quy mô lớn, có sự thông đồng của các bộ ngành trong chính phủ CSVN để trục lợi trên xương máu người dân núp bóng việc chống dịch COVID-19, trong đó công ty Việt Á và tổng giám đốc là ông Phan Quốc Việt chỉ là một quân tốt đen làm bình phong cho một thế lực vô hình nào đó hết sức hùng mạnh.
Việt Á khởi đầu chỉ là một công ty cò con, vốn sở hữu 80 triệu đồng ($3,500) do ba cổ đông đóng góp. Công ty không có nhà xưởng sản xuất, không có văn phòng làm việc mà chỉ treo một tấm biển ghi danh trên cổng một nhà dân ở Sài Gòn.
Thế nhưng khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Việt Á bỗng lớn nhanh như Thánh Gióng, vốn đăng ký tăng lên 1,000 tỷ đồng ($43.9 triệu). Vốn góp của ba cổ đông nguyên thủy Phan Quốc Việt, Đồng Sĩ Huy và Hồ Thị Thanh Thúy tăng đột ngột từ 80 triệu đồng ($3,500) lên 200 tỷ đồng ($8.7 triệu), chiếm tỉ lệ cổ phần lần lượt là Việt 10.2%, Huy 5% và Thúy 4.8% – cộng 20%. Số vốn còn lại 800 tỷ đồng ($35.1 triệu), tương đương 80% thuộc về ai thì chính quyền CSVN “giấu như mèo giấu cứt.” Ngay đến truyền hình báo Nhân Dân trong một phóng sự mới đây có tiêu đề giật gân “Nhận diện số 2 (Một liên minh ma quỷ): Những cá lớn nào đứng sau công ty Việt Á” cũng chỉ nói số vốn này “chưa rõ chủ sở hữu.”
Theo thông lệ trong một công ty cổ phần, quyền điều hành và quyết định thuộc về người nắm nhiều cổ phiếu nhất, có tỉ lệ từ 51% vốn trở lên, những cổ đông khác chỉ phụ thuộc. Với suy luận đó, trong “đại án” Việt Á, Phan Quốc Việt – đã bị bắt giam – chỉ là người thừa hành, thực hiện mệnh lệnh của một “kẻ vô hình” là người nắm 80% vốn của công ty Việt Á. Báo chí trong nước dẫn nguồn tin từ cơ quan điều tra cho biết chỉ trong mấy tháng hoạt động, Việt Á đã có doanh số 4,000 tỷ đồng ($175.9 triệu); trong đó dùng để hối lộ 800 tỷ đồng ($35.1 triệu) và thu lợi nhuận 500 tỷ đồng ($21.9 triệu) – con số thực chắn phải cao hơn nhiều. Xét theo tỉ lệ góp vốn, “kẻ vô hình” phải bỏ túi được ít nhất 400 tỷ đồng ($17.5 triệu) trong khoản tiền lời đó, một con số đáng kể.
“Kẻ vô hình đó” tuy chưa rõ mặt mũi thế nào nhưng hẳn là có thế lực khuynh đảo ghê gớm khi vạch ra kế hoạch lôi kéo các Bộ Khoa Học và Công Nghệ, Bộ Y Tế, Học Viện Quân Y thực hiện đề án lừa đảo “nghiên cứu” và “sản xuất” bộ kit xét nghiệm COVID-19.
Theo sự điều khiển của kẻ vô hình này, quan chức lãnh đạo các bộ nói trên cúc cung tận tụy đề ra đề án nghiên cứu khoa học về sản phẩm kit xét nghiệm, phê duyệt kết quả, cấp phép đăng ký lưu hành tạm thời và chính thức, hiệp thương giá sản phẩm với công ty Việt Á và buộc các cơ sở y tế khắp cả nước phải mua nó với giá trên trời. Kẻ vô hình còn điều khiển hệ thống báo đài của nhà nước đồng loạt tung hô sản phẩm kit xét nghiệm của Việt Á “được Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) công nhận và cho phép sử dụng khẩn cấp” để lấy lòng tin của người dân. Hơn thế nữa, kẻ vô hình còn có thể sai khiến ông Phạm Minh Chính, thủ tướng, trưởng Ban Chỉ Đạo Quốc Gia Về Phòng Chống COVID-19, ban hành từ sắc lệnh này tới chỉ thị khác buộc toàn bộ dân Việt phải “ngoáy mũi” để tiêu thụ hàng triệu bộ kit mà Việt Á cung cấp.
Chỉ để thu được 400 tỷ đồng ($17.5 triệu) tiền lời mà một kẻ vô hình nào đó có thể khuynh loát cả guồng máy chính phủ từ ông thủ tướng trở xuống, lũng đoạn cả một chương trình phòng chống dịch cấp quốc gia và đến bây giờ vẫn được guồng máy đó che giấu nhân thân, không bị lộ mặt, thì quả y là kẻ có thế lực nghiêng trời, không ai đụng tới được. Không có một kẻ giật dây như vậy, Phan Quốc Việt chỉ là tên tép riu, không làm nên trò trống gì.
Nhà cầm quyền Việt Nam, từ Tướng Tô Ân Xô, phát ngôn viên Bộ Công An, tới ông Vương Đình Huệ, chủ tịch Quốc Hội, cứ liên tục lải nhải: “Xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ sức ép và sự can thiệp trái pháp luật nào.” Nhưng buồn cười là tới nay họ vẫn không dám chỉ mặt đặt tên kẻ vô hình đứng trong bóng tối để giật dây điều khiển các con rối là các quan chức bộ ngành thực hiện kế hoạch của y.
Tìm ra “kẻ vô hình” sở hữu 80% vốn của công ty Việt Á không phải là chuyện khó vì mọi công ty đều có hồ sơ chi tiết về chủ sở hữu, vốn liếng, ngành nghề kinh doanh và mọi biến động khác nộp cho ngành kế hoạch-đầu tư của nhà nước, cụ thể là Sở Kế Hoạch và Đầu Tư ở Sài Gòn. Nếu ở các nước có tự do, các nhà báo điều tra sẽ nhanh chóng lôi ra ánh sáng họ tên, mặt mũi của những kẻ giấu mặt như vậy; nhưng ở Việt Nam không có báo chí độc lập nên khi chính quyền cố bao che, dung túng thì công chúng không tài nào biết được. Còn tại sao suốt một tháng qua cơ quan điều tra không làm việc với ngành kế hoạch đầu tư để truy tìm tông tích ông chủ thật sự của công ty Việt Á thì đó lại là một câu hỏi không lời đáp khác.
Một câu hỏi lớn khác của vụ Việt Á là công ty này lấy đâu ra hàng triệu bộ xét nghiệm COVID-19 để bán cho các Trung Tâm Kiểm Soát Dịch Bệnh (CDC) 62/63 tỉnh thành phố và nhiều bệnh viện, cơ sở y tế khác. Thông tin trên truyền hình, báo chí cho biết Việt Á không có nhà xưởng sản xuất; nơi gọi là phòng bào chế chỉ là một nhà kho rộng chưa tới 10 mét vuông, bừa bộn nhếch nhác và không có thiết bị gì đáng kể.
Khi vụ án bắt đầu bị phanh phui, truyền thông đã nói tới việc hải quan Việt Nam làm việc với hải quan Trung Quốc để truy tìm tài liệu, hồ sơ liên quan tới hoạt động của các công ty Việt Nam nhập cảng bộ xét nghiệm và sinh phẩm y tế từ Trung Quốc. Thông tin đó làm dấy lên nghi ngờ hợp lý rằng Việt Á nhập cảng sản phẩm từ Trung Quốc rồi bán ra thị trường dưới nhãn mác Việt Nam và sự bảo kê của Bộ Y Tế. Nhưng đến nay không thấy có thông tin gì khác từ Hải Quan, không thấy cơ quan điều tra vụ Việt Á làm việc với hải quan cho nên rất có thể hướng điều tra nguồn gốc xuất xứ bộ kit xét nghiệm của Việt Á đã bị bít lại.
Nhưng thông tin tiết lộ từ cơ quan điều tra cho thấy Việt Á dường như không chỉ nhập cảng sản phẩm xét nghiệm rồi dán nhãn Việt Nam đem đi tiêu thụ mà kẻ vô hình trong bóng tối còn thực hiện cả một kế hoạch tinh vi nhằm “hợp pháp hóa” sản phẩm đó bằng một đề án “nghiên cứu khoa học” do Học Viện Quân Y chủ trì, sử dụng nguồn ngân sách 19 tỷ đồng được chính phủ cấp. Nhóm thực hiện đề án có tới 15 giáo sư tiến sĩ của học viện, cùng với bốn thành viên của Việt Á có trình độ cử nhân và cao học. Đề án bắt đầu rất sớm, từ Tháng Ba, 2020, khi dịch COVID-19 mới xuất hiện, và hoàn thành “nghiên cứu,” ra sản phẩm chỉ trong… một tháng. Quả là thần tốc chưa từng có.
Cũng thần tốc như vậy, Bộ Khoa Học Và Công Nghệ lập hội đồng “nghiệm thu” kết quả nghiên cứu, với 100% ý kiến chấp nhận và ngay sau khi được “nghiệm thu,” sản phẩm bộ xét nghiệm Việt Á được Bộ Y Tế phê chuẩn cho phép bán ra thị trường. Nhưng cũng từ ngày phê chuẩn đó người ta không còn thấy bóng dáng của Học Viện Quân Y ở đâu, không thấy ai đề cập tới phí “bản quyền,” “sở hữu trí tuệ” của một sản phẩm thương mại hình thành từ nguồn “ngân sách nghiên cứu” mà lẽ ra Học Viện Quân Y phải thu hồi, trả lại tiền đóng thuế của dân. Hóa ra, cái đề án nghiên cứu dường như chỉ là màn khói mù, khoác bộ vỏ “khoa học” cho một sản phẩm nhập lậu rất đáng ngờ về xuất xứ, độ an toàn và phẩm chất. Một số quan chức cấp vụ trưởng của Bộ Y Tế và Bộ Khoa Học Công Nghệ đã bị công an bắt giam nhưng câu hỏi về nguồn gốc của bộ xét nghiệm Việt Á vẫn chưa có lời đáp, dù đây là sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn tới việc chống dịch, tới sức khỏe và sinh mệnh của hàng triệu người dân.
Ai sẽ nắm tập đoàn FLC?
Sẽ không đầy đủ nếu nói tới “kẻ vô hình” ở công ty Việt Á mà không đề cập tới “kẻ vô hình” trong phi vụ bán chui 75 triệu cổ phiếu của ông Trịnh Văn Quyết, chủ tịch tập đoàn FLC, có hỗn danh Quyết Còi, trong phiên giao dịch ngày 10 Tháng Giêng vừa qua.
Diễn biến của sự việc là ngày 5 Tháng Giêng, ông Quyết nộp đơn xin lên Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước đề nghị được bán 175 triệu cổ phiếu tập đoàn FLC. Sau khi đề nghị được duyệt, ông Quyết đã không hề thông báo bằng văn bản cho Sở Giao Dịch Chứng Khoán trước khi bán ba ngày như quy định của Luật Chứng Khoán và các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu FLC hoàn toàn không biết ông Quyết được duyệt bán 175 triệu cổ phiếu FLC, và cũng không biết ông Quyết đã lặng lẽ bán chui 74.5 triệu cổ phiếu FLC trước khi truyền thông công bố thông tin. Cú “đánh úp” của ông Quyết làm hàng ngàn nhà đầu tư nhỏ lẻ điêu đứng, thị trường chứng khoán Việt Nam chao đảo, mất hơn 170,000 tỷ đồng ($7.4 tỷ) trong các phiên giao dịch tuần qua.
Ông Trịnh Văn Quyết là người sáng lập tập đoàn FLC – một tập đoàn kinh doanh đa ngành, chủ yếu là bất động sản nghỉ dưỡng, sân golf và hãng máy bay Bamboo Airways. Ông ta hiện nắm giữ 215 triệu cổ phiếu của FLC, tương đương 30.34% tổng vốn của tập đoàn. Nếu bán được 175 triệu cổ phiếu, tỉ lệ sở hữu của ông Quyết tại FLC chỉ còn 5.7% (40 triệu cổ phiếu), có nghĩa là ông ta từ bỏ quyền điều hành một doanh nghiệp mà ông đã cất công xây dựng bao năm nay.
Nên để ý tập đoàn FLC và doanh nhân Trịnh Văn Quyết khởi nghiệp từ một công ty đầu tư nhỏ, không có tên tuổi gì, vốn liếng chỉ 18 tỷ đồng ($791,500), hoạt động từ năm 2008 và đổi tên thành tập đoàn FLC từ năm 2010, ngành nghề chủ yếu là kinh doanh bất động sản. Nhưng FLC sau khi đổi tên đã lớn nhanh như thổi; hiện có giá trị tài sản lên tới 10,650 tỷ đồng ($468.3 triệu), với 710 triệu cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường chứng khoán ở mức giá 14,000 đồng (62 cent) mỗi cổ phiếu. (Ông Quyết đã “bán chui” 75 triệu cổ phiếu FLC với giá 24,100 đồng ($1.05) trong phiên giao dịch ngày 10 Tháng Giêng, từ đó đến nay mỗi cổ phiếu FLC giảm giá 10,000 đồng).
Cái gây bất ngờ của tập đoàn FLC và ông Quyết là tuy sinh sau đẻ muộn so với các tập đoàn bất động sản lớn khác như Vingroup của ông Phạm Nhật Vượng, FLC lại thâu tóm được những lô đất vàng rộng lớn, có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh quốc phòng trên dải bờ biển nước Việt Nam, từ Hạ Long, Sầm Sơn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang, Sa Đéc, tới Kon Tum, Đắk Nông trên cao nguyên Trung Phần. FLC nhắm mở khu du lịch, khu nghỉ dưỡng, sân golf ở đâu thì chính quyền địa phương đó lập tức đáp ứng; có nơi như ở Quảng Ngãi, chính quyền địa phương phải di dời đồn biên phòng để FLC lấy đất ven biển xây khu nghỉ dưỡng FLC Quảng Ngãi. Hoạt động kinh doanh của FLC trong 10 năm qua chẳng những gần như không bị cản trở dù nhiều lần tập đoàn này vi phạm pháp luật mà còn được ưu tiên ưu đãi các doanh nghiệp khác không thể có được.
Từ lâu dư luận trong nước đã hoài nghi rằng Quyết Còi chỉ là người đại diện, “là bình phong” cho một thế lực tài chính và chính trị hùng mạnh nhưng giấu mặt nào đó.
Vụ “bán chui” 75 triệu cổ phiếu của ông Quyết gây chấn động dư luận, nhưng không ai biết được ai là người mua số cổ phiếu đó, nghĩa là sẽ có một kẻ nào đó thay ông Quyết đứng ra thâu tóm tập đoàn FLC trong tương lai sau khi đã gom đủ 175 triệu cổ phiếu mà ông chủ tịch “còi” này bán ra. Người mua cổ phần của ông Quyết đã không xuất đầu lộ diện, nhưng việc điều tra tìm hiểu không phải là khó vì mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là hoạt động minh danh, hồ sơ mua bán được ghi nhận đầy đủ tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Sài Gòn. Vấn đề là cơ quan điều tra của Việt Nam có công bố tên tuổi của các nhà đầu tư “ẩn danh” đó hay không.
Hành động bán cổ phiếu, chịu phạt 1.5 tỷ đồng ($66,000), bị hủy giao dịch và bị cấm giao dịch chứng khoán trong vài tháng của ông Quyết làm dấy lên nhiều nghi vấn. Có người đặt câu hỏi, tại sao ông Quyết phải liều “bán chui” gần hết số cổ phiếu đang nắm giữ, trong khi FLC không có dấu hiệu quẫn bách phải thoái vốn. Không loại trừ khả năng ông Quyết bị ép phải “chuyển giao” số cổ phiếu của FLC cho những kẻ giấu mặt nào đó là những kẻ muốn thủ đắc những lô đất vàng, có vị trí quan trọng về an ninh của Việt Nam. “Người ta đồn nguồn gốc tài sản của Quyết đến từ phương Bắc, nay đến lúc phải trả lại. Chỉ có cơ quan điều tra mới có thể làm rõ nghi vấn này,” ông Nguyễn Quang Dy, một nhà bình luận chính trị ở Úc, nhận định trên trang Viet-studies.
***
Nghi vấn về những kẻ giấu mặt mua cổ phiếu của ông Trịnh Văn Quyết hay điều hành kế hoạch lũng đoạn nhà nước trong vụ Việt Á và nhiều nghi vấn khác nữa cho thấy chính trường và thị trường Việt Nam luôn bị những thế lực trong bóng tối rất mạnh thao túng. Đó có thể là các quan chức lãnh đạo cao cấp nhất trong guồng máy cai trị của đảng Cộng Sản và bè cánh của họ, có thể là thế lực “thiên triều” phương Bắc thông qua bàn tay bí mật của Cục Tình Báo Hoa Nam. Dù xuất phát từ đâu thì những thế lực đen tối này cũng không ngừng lèo lái, thao túng chính sách và hành động của nhà cầm quyền Việt Nam, từ nhân sự đến kinh tế, theo hướng phục vụ cho lợi ích và mưu đồ của họ, bất chấp số phận của hàng triệu người dân và tiền đồ phát triển của đất nước.
“Giặc” không còn ngồi sau lưng nhà vua như lời Thần Kim Quy nói với An Dương Vương năm xưa mà đã thượng lên đầu, lũng đoạn từ chính trị, kinh tế đến luật pháp. Tình trạng này càng kéo dài, đất nước càng lụn bại và người dân càng khốn cùng. Muốn đất nước phát triển không thể không dẹp giặc nội xâm, thay đổi thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập để kiểm soát quyền lực – càng thay đổi sớm thì người dân càng bớt khổ đau.
Một nghiên cứu phơi bày nhiều góc khuất của giới tinh hoa chính trị Việt Nam.
LEE NGUYEN
Tháng 12/2020, một tuyển tập nghiên cứu đặc biệt về Việt Nam được IDE cho ra mắt, mang tên: “Con đường dẫn đến sự thịnh vượng ở Việt Nam: Bất bình đẳng về cơ cấu và sự chuyển tiếp trong việc phân bổ cơ hội” (Special Issue: Pathways to Prosperity in Vietnam: Structural and Transitional Inequality in the Distribution of Opportunity). [1]
IDE (Institute of Developing Economies) – Viện Nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển – là nơi chuyên nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội ảnh hưởng đến các nước và khu vực đang phát triển. Viện này trực thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản.
Ấn phẩm đặc biệt này có một nghiên cứu rất đáng chú ý về giới tinh hoa chính trị tại Việt Nam của tác giả Futaba Ishizuka – một học giả xuất sắc đã có nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam. Nghiên cứu mang tên “Giới tinh hoa chính trị Việt Nam đương đại: Nguồn gốc và sự phát triển của tầng lớp thống trị” (Political Elite in Contemporary Vietnam: The Origin and Evolution of the Dominant Stratum).
“Nomenklatura”: Từ Liên Xô đến Việt Nam
Tác giả Futaba Ishizuka liên hệ tình hình Việt Nam với khái niệm “nomenklatura”, vốn được dùng để nói về giai cấp thống trị của Liên Xô. Theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “một bản danh sách những cái tên”. Đặt trong bối cảnh chính trị của Liên Xô lúc bấy giờ, nó có nghĩa là danh sách các vị trí chủ chốt và những người được bổ nhiệm vào các vị trí đó. [2]
Có ba đặc điểm chính của cơ chế nomenklatura thời Liên Xô.
Thứ nhất, các nomenklatura nắm giữ quyền lực nhà nước tuyệt đối dưới chế độ độc đảng toàn trị.
Thứ hai, quyền lực chính trị sinh ra quyền lực kinh tế. Tất cả các phương tiện sản xuất chủ chốt đều nằm dưới sự kiểm soát của nomenklatura, do đó tạo ra một đế chế siêu độc quyền không nhà tư bản nào sánh bằng. Họ được miễn trừ trách nhiệm pháp lý và chính trị cho hành vi tham nhũng, miễn là hành vi đó phục vụ lợi ích cho tầng lớp của mình.
Thứ ba, mô hình nomenklatura tạo ra một hệ thống nhân sự theo thứ bậc, mọi vị trí đều cần được người nắm giữ vị trí cao hơn chấp thuận. Do vậy, một người không thể tự mình thăng tiến trong hệ thống này. Người muốn leo lên vị trí cao thì phải gia nhập các phe phái để có được sự bảo trợ.
Theo tác giả, Việt Nam cũng theo mô hình nomenklatura, nhưng mức độ tập trung của cải và quyền lực thì không bằng so với Liên Xô hoặc Đông Âu, một phần là do chiến tranh. Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, giới tinh hoa chính trị Việt Nam đã nhanh chóng tích lũy của cải.
Đặc quyền của giới tinh hoa chính trị Việt Nam
Tác giả dẫn các nghiên cứu chỉ ra rằng, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh, các đặc quyền dành cho cán bộ cấp cao đã tồn tại.
Hệ thống phân chia khẩu phần thời bao cấp (rationing system) là một ví dụ điển hình. Khẩu phần gạo mà nhà nước phát cho dân chúng thường không đủ đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ. Việc phân phát có thể bị chậm trễ, người dân phải xếp hàng từ sáng sớm ở những cửa hàng của nhà nước để nhận gạo. Đây là nguyên nhân khiến người dân thường xuyên sống trong tình trạng lo âu và căng thẳng.
Ngược lại, các cán bộ cấp cao đã được phát quá nhiều gạo với chất lượng tốt nhất mà không bị chậm trễ hay phải xếp hàng. Họ còn được phép mua sắm trong các cửa hàng đặc biệt để mua thêm thực phẩm, quần áo và hàng ngoại.
Các ủy viên trung ương đảng có xe hơi và tài xế riêng, nên họ và gia đình có thể đi chơi thư giãn trong những ngày cuối tuần và nghỉ hè. Mỗi ủy viên Bộ Chính trị hoặc Ban Bí thư còn có thể thuê máy bay đi dự hội nghị hoặc đi nghỉ mát ở các khu nghỉ dưỡng. Thậm chí, các cán bộ cấp cao đã tận dụng các chuyến công du để buôn lậu hàng hóa số lượng lớn và nhận các món quà quý giá của những người đồng cấp nước ngoài. Tại thời điểm đó, công nhân cùng cán bộ cấp thấp và trung bình chỉ có thể sử dụng xe đạp cũ để đi làm. [3] [4]
Địa vị của giới tinh hoa chính trị Việt Nam lúc bấy giờ hầu như là do cha truyền con nối. Con cái của các tầng lớp ưu tú của đảng được tạo điều kiện học tập ở các trường danh giá cả trong và ngoài nước. Do đó, họ đủ điều kiện để vào bộ máy hành chính và đảm nhận các vị trí ưu tú. Con cái của các cán bộ đảng hiếm khi trở thành công nhân hoặc nghệ nhân. [5]
Sau Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển từ kinh tế quốc doanh và tập thể chi phối sang một nền kinh tế nhiều thành phần. Trợ cấp dành cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nhìn chung là bị cắt giảm. Các tư liệu sản xuất phần lớn thuộc sở hữu tư nhân, được hiến pháp bảo đảm. Những thay đổi này đem đến một bước tiến lớn cho kinh tế Việt Nam. Một số doanh nhân đã được tạp chí Forbes công nhận là tỷ phú đô-la toàn cầu.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, cho đến tận ngày nay, các DNNN vẫn chiếm nhiều ưu thế hơn khu vực tư nhân về khả năng tiếp cận các nguồn lực thiết yếu như tín dụng và đất đai. Bà dẫn chứng, tính đến năm 2017, khu vực nhà nước vẫn chiếm gần 30% GDP của cả nước, và trong số 10 doanh nghiệp có doanh thu lớn nhất tại Việt Nam, có đến chín DNNN. Doanh nghiệp còn lại có vốn đầu tư nước ngoài (Cập nhật: Đến năm 2020, đã có hai doanh nghiệp tư nhân lọt vào danh sách này là tập đoàn Vingroup và công ty cổ phần Thế giới Di động). [6]
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân lớn trở thành sân sau của các quan chức, hoặc hoạt động kinh doanh của họ có liên kết và móc nối với lợi ích của các quan chức đảng và nhà nước. Mặc dù Luật Cán bộ, Công chức nghiêm cấm công chức tham gia thành lập hoặc quản lý doanh nghiệp tư nhân, nhưng trên thực tế, không ít công chức vẫn tham gia bằng cách này hay cách khác. [7]
Tham nhũng tràn lan trong tầng lớp đặc quyền
Futaba Ishizuka cho rằng giới tinh hoa chính trị Việt Nam là một tầng lớp đặc quyền (privileged class). Nhận định này dựa trên hai khía cạnh: mức độ tích lũy của cải và khả năng độc quyền nắm giữ các vị trí trong bộ máy nhà nước.
Về mức độ tích lũy của cải, học giả người Nhật Bản đã trích dẫn các nghiên cứu chứng minh rằng các hộ gia đình ở nông thôn có anh em họ hàng là quan chức chính phủ thì có khả năng tiếp cận tín dụng tốt hơn. Những người này đã đầu tư nhiều hơn vào đất đai so với những hộ gia đình không có họ hàng làm cán bộ, quan chức. [8] [9]
Bà cũng trích dẫn nghiên cứu của Kerkvliet (2014), trong đó tác giả đưa ra số liệu về tài sản mà các cựu lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước chiếm đoạt được, với con số lên tới hàng tỷ USD mỗi người. [10] Khối tài sản có giá trị vượt xa mức thu nhập của cán bộ này thỉnh thoảng vô tình được tiết lộ trong các bản tin riêng lẻ trên báo. Các bản tin có thể gây phẫn nộ tức thời, nhưng chuyện quan chức cấp cao giàu có thì không phải là điều xa lạ gì với người dân Việt Nam. [11]
Về khả năng độc quyền nắm giữ các vị trí trong bộ máy nhà nước, Futaba Ishizuka cho rằng do chính sách giới hạn tuổi và nhiệm kỳ đối với các chức vụ, nên ngày nay không còn nhiều lãnh đạo tham quyền cố vị như thời kỳ trước Đổi mới (xem biểu đồ bên dưới). Tuy nhiên, bà cũng dẫn một nghiên cứu năm 2014 cho thấy tác động đáng kể từ tấm thẻ đảng của người cha đối với việc con mình được bổ nhiệm vào các vị trí trong chính quyền. [12]
Nguồn: Tác giả Futaba Ishizuka, dựa vào số liệu công bố trên trang web chính phủ Việt Nam.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Coxhead và Phan (2013, 2020) cho thấy khoảng cách ngày càng lớn trong đầu tư giáo dục và thành tích giữa con em của các hộ gia đình có người làm cán bộ và những hộ gia đình không có. Điều này dẫn đến tình trạng “con ông cháu cha” dễ tiếp cận với giáo dục đại học hơn, cũng như có thể kiếm được những công việc béo bở trong bộ máy nhà nước. [13]
Sau khi chỉ ra nạn tham nhũng tồn tại trong hệ thống, tác giả cũng phân tích các chiến dịch chống tham nhũng của các nhà lãnh đạo đảng, đặc biệt trong nhiệm kỳ 12. Tác giả kết luận rằng chiến dịch này chỉ thành công trong việc trừng phạt một số cá nhân, nhưng không thay đổi được về mặt tổng thể. Mục tiêu cuối cùng vẫn là để bảo vệ hệ thống đảng – nhà nước, chứ không phải phá vỡ nó..