Nét độc đáo của nhà thờ Phủ Cam

THỪA THIÊN – HUẾ Khác với các lăng tẩm, đền đài hay công trình tôn giáo cổ kính ở Huế, nhà thờ Phủ Cam mang phong cách kiến trúc hiện đại và ấn tượng.

Nhà thờ Phủ Cam nằm trên ngọn đồi nhỏ có tên là Phước Quả, thuộc phường Phước Vĩnh, ở bờ nam sông Hương, TP Huế. Công trình có một vị trí đẹp, với không gian rộng lớn, xung quanh có nhiều công trình khác của Giáo hội. Đây là một trong những giáo đường lớn nhất, nổi tiếng nhất xứ Huế và có lịch sử khá lâu đời.

Nhà thờ Phủ Cam là một công trình có giá trị cao về lịch sử và nghệ thuật kiến trúc; và đây cũng là một tác phẩm tiêu biểu, quý giá của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ để lại cho thành phố Huế, cùng với những công trình khác như Viện Đại học Huế, Đại học Sư phạm Huế, Khách sạn Hương Giang, Khách sạn Century. Công trình là một dấu ấn kiến trúc hiện đại và xứng đáng là một di sản thời đại mới của Huế.

Ban đầu nhà thờ Phủ Cam là nhà nguyện Phủ Cam được xây dựng bằng tranh tre tại Xóm Đá, sát bờ sông An Cựu, do Linh mục Langlois (1640-1770) thực hiện vào năm 1682. Chỉ hai năm khi có điều kiện thuận lợi, chính Linh mục này đã và mua đất trên đồi Phước Quả để xây dựng công trình mới bằng đá to lớn và kiên cố hơn. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), nhà thờ cũ ấy đã bị triệt giải hoàn toàn vào năm 1698.

Sau hai thế kỷ với bao thăng trầm của lịch sử, năm 1898, Giám mục Eugène Marie Allys cho xây dựng nhà thờ Phủ Cam mới bằng gạch lợp ngói khá đồ sộ. Công trình hoàn thành xây dựng vào năm 1902, theo phong cách kiến trúc Gothic. Tuy nhiên, nhà thờ này lại bị thay thế vào thập niên 60 của thế kỷ 20, bởi nhiều lý do như công trình ngày càng chật hẹp so với số lượng giáo dân địa phương tăng cao.

Năm 1960, Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục từ Vĩnh Long về nhận chức Tổng Giám mục Huế, ông đã lập kế hoạch xây nhà thờ Phủ Cam mới. Đầu năm 1963, ông cho triệt giải nhà thờ cũ và xây dựng nhà thờ mới rộng hơn theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Đó chính là nhà thờ chính tòa Phủ Cam hiện tại.

Trải qua những biến động thăng trầm của thời cuộc và chiến tranh, tới tháng 5/2000, nhà thờ Phủ Cam do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế mới thực sự hoàn thành.

Nhà thờ có mặt bằng kinh điển hình cây thánh giá, đỉnh cây thánh giá hướng về phía nam, chân cây thánh giá hướng về phía bắc là hướng chính của nhà thờ. Mặt chính nhà thờ có bố cục đăng đối với khối sảnh và thánh đường ở giữa, hai tháp chuông vươn cao hai bên. Nhà thờ được xây dựng theo kỹ thuật hiện đại với vật liệu bê tông cốt thép. Hệ kết cấu chịu lực cũng chính là yếu tố chủ đạo của kiến trúc, nội thất công trình.

Cùng với hệ kết cấu bê tông cốt thép là các vật liệu truyền thống như đá, gỗ, ngói đất nung. Cửa sổ tường biên nhà thờ được tổ hợp từ những vòm cuốn cùng cây thánh giá.

Các yếu tố địa phương, khí hậu được nghiên cứu kỹ với những vòm cửa và hiên sâu tránh nắng mưa.

Các trụ đỡ mái thánh đường được bố trí sát chân tường biên, uốn cong vươn lên tạo thành vòm mái, mềm mại như đôi bàn tay chắp lại khi cầu nguyện. Lòng nhà thờ rộng kê những dãy ghế dài có thể chứa được 2.500 người dự lễ. Hai bên tường nhà thờ được trang trí bằng những bức tranh khung gỗ thể hiện về cuộc đời của Chúa Giêsu.

Công trình không có những trang trí rườm rà như những nhà thờ cổ điển thường thấy song không vì thế mà khô cứng. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã tài tình khi kết hợp kết cấu và kiến trúc, kiến trúc và nội thất, hình khối và đường nét, hình khối và vật liệu… tạo nên một nhà thờ hiện đại, khoáng đạt mà vẫn gần gũi.

Những cây thánh giá trên các vòm cửa được viền kính màu xanh nổi bật và tăng sự huyền ảo của ánh sáng khi chiếu từ ngoài vào sảnh.

Ban thờ chính được đặt sát vào phần lõm phía sau của lòng nhà thờ và nằm trên một bệ cao trang nghiêm. Cây thánh giá được làm bằng một cây thông già trên đồi Thiên An có tượng Chúa bị đóng đinh.

Ở hai phía ban thờ chính là hai không gian tưởng niệm. Bên trái là nơi thiết lập bàn thờ Thánh tử vì đạo Tống Viết Bường, người gốc Phủ Cam bị giết năm 1833. Bên phải là phần mộ cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền (1921-1988), người có nhiều công lao nhất trong việc xây dựng nhà thờ này.

Hà Thành / Vietnam Express

Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh

Nam Phong (1917-1934) là một trong những tạp chí có công rất lớn trong việc cổ động cho văn học quốc ngữ, cho nền quốc học Việt Nam. Đặc biệt cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam trên cơ sở kết hợp, dung hòa hai nền văn chương, học thuật, tư tưởng Đông – Tây.

Các biên tập viên giữ các chuyên mục của tạp chí đều là những cây bút vững vàng, sắc sảo, nhạy bén với những vấn đề văn hóa, trong đó phải kể đến ông chủ bút là Phạm Quỳnh.

Học giả Phạm Quỳnh

Khi đất nước mất về tay thực dân Pháp, việc giành lại chủ quyền lãnh thổ tạm thời bị thất bại, thì việc đặt ra hồn nước được giới sĩ phu đặc biệt quan tâm. Các nhà nho thập niên đầu thế kỷ XX đều có những bài thơ thức tỉnh hồn nước, tiêu biểu là Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc. Tuy nhiên, chữ hồn của các nhà nho này chỉ cái gì đó vô hình, thiêng liêng, có khả năng tồn tại lâu dài đối lập với thể xác. Bởi vậy, khái niệm hồn nước vẫn chưa được giải thích rõ như là bản sắc văn hóa dân tộc.

Phạm Quỳnh, với tư cách là một người làm học thuật, trên Nam Phong (số 164, 7/1931), đã viết bài Bàn về tinh thần lập quốc đề cập đến vấn đề này. Ông dẫn ý của văn hào Pháp Ernest Renan trả lời câu hỏi “Thế nào là một nước?” mà cho rằng: “Cái nguyên tố dựng nên một nước không chỉ ở thổ địa, cư dân mà thôi, cốt là ở cái ý nguyện chung của người ta muốn cùng nhau sum vầy sinh hoạt, cùng nhau cộng thích đồng hưu, nhìn về trước thì cùng nhau chung một cuộc lịch sử để tạo gian nan, ngó về sau thì cùng nhau chung một lòng hy vọng vẻ vang rực rỡ, nói tóm lại là ở cái mối vô hình nó ràng buộc người ta lại, làm thành cái đoàn thể thiên nhiên mà bền chặt, trăm nghìn vạn mớ người ta cùng nhau như một người, lâm thời có thể răm rắp đứng lên mà đối với mọi sự ngoại hoạn. Cái vô hình, tức là cái tinh thần lập quốc, tức gọi là quốc hồn”.

Như vậy, theo tác giả, quốc hồn chính là văn hóa: văn hóa cổ truyền là phần hương hỏa cha ông mà chúng ta phải gìn giữ; còn văn hóa hiện đại là cái chúng ta phải xây dựng, bồi đắp. Nhưng, cụ thể văn hóa Việt Nam là gì? Theo nghĩa căn cốt nhất, đó là quốc học. Nhưng trước khi đặt ra vấn đề quốc học Việt Nam như thế nào thì phải xem (cho đến thời điểm bấy giờ) chúng ta đã có quốc học chưa? Nếu chưa hoặc đã có thì làm thế nào để xây dựng hoặc tài bồi?

Vấn đề này đã làm nổ một cuộc tranh luận. Có người cho là có, như Sở Cuồng Lê Dư chẳng hạn. Thậm chí ông này còn lập ra tủ sách “Quốc học tùng thư”. Nhưng cũng có người cho là không, như Phan Khôi. Thực ra, chuyện có hay không có cũng khó phân định, vì mỗi người hiểu quốc học một cách khác nhau. Bởi thế, khi vào cuộc, Phạm Quỳnh đã phải đưa ra định nghĩa về quốc học. Theo ông, nó “gồm những phong trào học thuật trong một nước, có đặc sắc với nước khác, và có kết tinh thành những sự nghiệp trước tác, lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy”. Sau đó, tuy không trả lời trực tiếp, nhưng ông lại đưa ra một nhận xét khá xác đáng và không kém phần hóm hỉnh: “Sở dĩ phải khơi ra câu hỏi đó, đủ biết rằng nếu nước ta đã từng có một nền quốc học, thì cái quốc học ấy cũng nhỏ nhen, eo hẹp, không có gì đủ đem khoe với thiên hạ”.

Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, Phạm Quỳnh cho rằng ấy là do “cái học của ta”, cụ thể hơn cách học. Một nước nhỏ lại đứng cạnh một nền văn minh lớn thì dù muốn dù không việc học là tất yếu. Nhưng hơn hai mươi thế kỷ học Tàu mà nền quốc học của ta chưa có “môn hộ” (tức trường phái học thuật) riêng, học vấn thì chưa thoát “vòng giáo khoa” (tức tri thức học đường, kiến thức phổ thông) để lên “cõi học thuật”, con người thì chưa thoát nổi “tư cách học trò”, “tâm lý học trò”. Kìa như Nhật Bản, ông so sánh, người ta cũng học Tàu nhưng lại có tư tưởng học thuật riêng, bởi thế có quốc học. Có nhiều nguyên nhân, ông giải thích, nhưng có lẽ chủ yếu là do người Nhật không học theo chế độ khoa cử Tàu, còn ta “học Tàu lại chỉ thuần một phương diện cử nghiệp, là cái học rất thô thiển, không có giá trị gì về nghĩa lý tinh thần cả, mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc bị tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa”.

Dĩ nhiên, nỗi đau này không phải lỗi của riêng ai. Phạm Quỳnh đã phân tích các tình thế địa lý, lịch sử và chính trị giữa ta (khác với Nhật) và Tàu đã dẫn đến cách học ấy. Điều này, một mặt mở ra một khả năng có thể thay đổi cách học một khi tình thế đổi thay, mặt khác cho thấy một di căn của nó đến cả thời đại Tây học. Nội dung học thì mới, nhưng cách học vẫn cũ như cũ. Bởi vậy, nói như Phan Chu Trinh xưa, hủ Nho thì nay hủ Tây. Mà với tư cách học trò, nhất là trò hủ, thì vẫn thường xảy ra “cái tệ con chiên theo đạo người thường hay ngoan đạo hơn chính người nước phát hành ra đạo ấy”. Hơn nữa, mọi học thật (thuật) một khi đã mang tính cách tôn giáo (dù dưới hình thức nào) thì cũng dễ thành học giả.

Thức nhận được thảm họa của cách học cũ (dù có thể mang lốt mới), Phạm Quỳnh đã đặt một cơ sở khoa học cho cách học mới để từ đó dựng xây một nền quốc học chân chính, một nền văn hóa mới. Đó là sự tổng hợp văn hóa Đông Tây. Thực ra, định đề này không mới, nhưng cách đặt và phân tích vấn đề thì khá thuyết phục, nhất là với tư duy bấy giờ. Thoạt tiên, Phạm Quỳnh phân biệt văn hóa Đông Tây ở hai đặc trưng lớn của nó là đạo học và khoa học. “Khoa học ở đây là nói về cái phương pháp, cái tinh thần của sự học của người Thái Tây, khởi xướng ra khoa học là lối học phân ra khoa loại, đặt thành phương pháp, để cầu lấy kết quả đích xác, tìm lấy chân lý sự vật. Khoa học là phép học chỉ châu tuần trong cõi thực tế, không mơ tưởng những sự huyền vi. Khoa học là sự học lấy lý luận làm tiên phong, lấy thực nghiệm làm hậu kính, lấy sự thật hiển nhiên làm căn cứ, lấy lẽ phải tất nhiên làm mục đích”. Lối học khoa học này thật mới mẻ và cũng thật khác xa với đạo học. Một đằng thì học cho đời (ứng dụng), khách quan, một đằng thì học cho mình (thụ dụng), chủ quan; một đằng thì chuộng mới, một đằng thì nệ cũ; một đằng thì càng học càng giàu có, một đằng càng học thì càng quy giản, rút lại chỉ còn mấy điều cốt yếu đủ để tự mình giác ngộ mình…

Nhưng để xây dựng một nền quốc học, để thoát khỏi cảnh suốt đời làm học trò người, dù là trò giỏi, thì phải xây dựng cho được một nền quốc văn. “Nước ta sở dĩ không có một nền quốc học chân chính, phần nhiều là bởi không có một nền quốc văn xứng đáng”. Nhưng quốc văn là gì? Theo Phạm Quỳnh, đó là ngôn ngữ dân tộc (langue nationale), mà sự phát triển của nó được biểu hiện ở văn chương và học thuật. Văn chương thì chúng ta có, nhưng học thuật thì chưa. Để làm rõ kết luận này, trong bài Quốc học với quốc văn (1919), Phạm Quỳnh chia văn chương thành văn chơi và văn có ích. Trước đây, cha ông ta mới chỉ có văn chơi bằng tiếng Việt, còn văn có ích thì đều làm bằng chữ Hán cả. Bởi thế mà tiếng ta chỉ mới phát triển phần “hình nhi hạ”, tức những từ cụ thể, giàu hình ảnh để biểu đạt tình cảm, mà không phát triển phần “hình nhi thượng” để có thể có tư duy trừu tượng, lôgíc. Ở ta, do đó, thơ ca dồi dào đến mức lạm phát, còn văn xuôi, nhất là văn luận lý, thì không có. Tiếng Việt như con chim mới chỉ bay bằng một cánh.

Đó là lỗi của việc học và dùng Hán văn (sau này là Pháp văn) làm ngôn ngữ chính thức. Học một tử ngữ là học một tử văn (culture morte). Mà, “xưa nay ở Đông phương cũng vậy, ở Tây phương cũng vậy, nước nào còn tôn sùng một cái văn hóa cổ thì không thể nào có quốc văn, có quốc học được”. Hơn nữa, quốc học là bản thể (mục đích), quốc văn là hình chất (phương tiện), nên chỉ có sự thống nhất, sự đồng bộ giữa thể và chất, cứu cánh và phương tiện thì văn hóa dân tộc mới phát triển. Dùng Hán văn hoặc Pháp văn để dựng xây quốc học thì hình chất sẽ làm hại bản thể. Bởi, ngôn ngữ không chỉ là vỏ của tư duy, mà xét cho cùng chính là tư duy. Vì thế, suy nghĩ bằng ngôn ngữ ngoại quốc thì hoặc là anh chỉ lặp lại những tư tưởng có sẵn trong ngôn ngữ đó, hoặc là anh sẽ tư duy y như người ngoại quốc. Trường hợp đầu anh sẽ trở thành một ông đồ chính hiệu (chữ đồ theo nguyên nghĩa là tô lại, lặp lại). Có thể anh cũng trở thành một người học rộng biết nhiều (bác học quảng văn), nhưng đó chỉ là cái học ký ức, chứ không phải là học tri thức; nó không làm đầu óc ta phát triển, lòng ta say mê kiến thức, ngoài việc nhớ dai, nhất là nhớ máy móc. Trường hợp sau là của những tài năng. Học ngoại ngữ mà tư duy như người bản ngữ là tài năng. Nhất là những người sáng tác được bằng ngoại ngữ. Nhưng với họ cũng sẽ xảy ra một tình trạng: một là dù giỏi đến đâu cũng không bằng người bản ngữ giỏi (thơ chữ Hán Cao Bá Quát không thể hay hơn thơ Đỗ Phủ, tiểu thuyết tiếng Pháp của Phạm Văn Ký không thể hay hơn tiểu thuyết Camus), hai là một khi đã giỏi bằng họ thì sẽ không còn là mình nữa, dẫu rằng các dấu hiệu nhân chủng vẫn vậy (trường hợp các nhà văn gốc Việt thế hệ F2, F3 ở nước ngoài). Đây là những trường hợp chảy máu tài năng đáng tiếc nhất. Bởi lẽ, họ dần dần trở nên xa lạ với đồng bào, với nền văn hóa gốc của họ. Vì thế, phải phát triển ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là xây dựng một nền văn xuôi, để chắp thêm một cánh bay nữa cho nền quốc học.

Với một sự phân tích rạch ròi, sâu sắc, với một cái nhìn nhiều dự phóng tương lai, Phạm Quỳnh đã là một trong những người đầu tiên cổ vũ và xây dựng nền quốc ngữ. Nam Phong dần dần chỉ còn là tạp chí quốc ngữ. Chữ quốc ngữ với sự giản tiện của nó đã làm báo chí phát triển, phổ cập hóa rất nhanh tư tưởng và tri thức. Rõ ràng đó là một công cụ hữu hiệu. Tuy nhiên, Phạm Quỳnh vẫn chủ trương phải học chữ Hán, phải tận dụng những chữ Hán trong tiếng Việt, nhất là các thuật ngữ, để làm phong phú tiếng Việt.

Như vậy, tư tưởng chính của Phạm Quỳnh là muốn xây dựng một nền văn hóa Việt Nam không giống Tàu cũng không giống Tây, tuy có tiếp thu tinh hoa cả hai. Và, nếu nhìn đường dây tư tưởng của ông: quốc học -> quốc văn -> quốc ngữ, thì sẽ thấy ông không lấy quá khứ, mà tương lai làm chuẩn. Bởi vậy, nó mới chỉ là định hướng, một định hướng chiến lược, mà phải biết bao công sức nữa thì mới định hình. Phạm Quỳnh và các đồng chí của ông trong Nam Phong đã đi đầu trong việc xây đắp hình hài này.

Là người dung hòa văn hóa Đông Tây, nhưng căn cốt Phạm Quỳnh, có lẽ, vẫn là một nhà Nho, một ông đồ Tây. Nên, cũng như một nhà Nho, ông muốn hành đạo đến cùng. Điều đó hẳn đã gây cho ông một ảo tưởng là nếu làm quan (Thượng thư bộ Học, rồi bộ Lại) thì sẽ dễ dàng đưa vào cuộc sống những tư tưởng tâm huyết của ông về việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam. Người ta cũng tiếc là ông vì việc làm quan này đã bỏ tạp chí Nam Phong để nó phải chết vào năm 1934. Nhưng thực ra, vai trò của Phạm Quỳnh và tạp chí do ông làm chủ bút với tư tưởng dung hòa văn hóa Đông Tây đã đến vãn hồi. Xã hội Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, với một tầng lớp tri thức Tây học, muốn đoạn tuyệt với quá khứ, đưa xã hội Việt Nam nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, theo con đường hiện đại hóa kiểu phương Tây. Họ không làm khảo cứu nữa, mà bằng những sáng tác của mình, khẳng định điều đó.

ĐỖ LAI THÚY

Báo Tia Sáng

Tại sao người Đức thích khỏa thân nơi công cộng

  • Krystin Arneson
  • BBC Travel
Getty Images

Sau bốn năm sống ở Berlin, tôi đã học cách đón nhận tinh thần mọi thứ đều phải ra đi và cách tiếp cận bình dân hơn của người Đức đối với vấn đề khoả thân, so với nơi tôi lớn lên ở miền Trung Tây Hoa Kỳ.

Mặc dù khỏa thân trong văn hóa chính thống của Mỹ nói chung được nhìn nhận là gợi dục, nhưng ở Đức, việc cởi đồ không phải là hiếm trong một số tình huống hàng ngày nhất định.

Tôi đã quen với các phòng tắm hơi mà theo quy định phải khỏa thân; nhảy xuống hồ bơi mà trên mình không mặc gì cả; và làm một chuyên viên massage ngạc nhiên khi tôi tự động cởi quần áo mà không cần nhắc trước khi được massage, khiến anh chàng cảm thán mà nói rằng người Mỹ thường cần phải được nhắc mới cởi hết đồ.

‘Truyền thống lâu đời’

Tuy nhiên, như người ta thường nói, bạn sẽ không bao giờ quên lần đầu tiên mình gặp cảnh khỏa thân nơi công cộng.

Tôi lần đầu gặp tình huống này trong một lần chạy bộ qua Hasenheide, một công viên ở quận Neukölln phía nam Berlin, nơi tôi bắt gặp một đám người khỏa thân đang sưởi nắng chiều chói chang.

Sau đó, sau khi nói chuyện với bạn bè và đọc được những câu chuyện đáng ngờ qua việc tìm kiếm trên Google, tôi phát hiện ra rằng việc tình cờ bắt gặp một ổ theo chủ nghĩa tự nhiên trong công viên hoặc trên bãi biển trong thành phố trên thực tế là một dấu ấn quan trọng ở Berlin.

Tuy nhiên, những gì tôi thấy không phải là một phần của khía cạnh khoái lạc ở Berlin, mà là một dẫn chứng về Freikörperkultur, hay ‘văn hóa tự do thân thể’.

Getty Images

FKK, như cách nó được viết tắt, gắn chặt với cuộc sống ở Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức), nhưng chủ nghĩa khỏa thân ở Đức với tư cách là tập quán công cộng đã có từ cuối thế kỷ 19.

Và không giống như, chẳng hạn, cởi trần trên một bãi biển ở Tây Ban Nha, FKK bao trùm một phong trào rộng lớn hơn ở Đức với một tinh thần riêng biệt, khi mà cởi bỏ hết quần áo chỉ còn thân thể trần trụi giữa tự nhiên về mặt lịch sử là một hành động vừa là phản kháng vừa là cảm giác nhẹ nhõm.

“Chủ nghĩa khỏa thân đã có một truyền thống lâu đời ở Đức,” Arnd Bauerkämper, phó giáo sư lịch sử hiện đại tại Đại học Freie ở Berlin, nói.

Bước sang thế kỷ 20, phong trào Lebensreform (tức ‘cải cách cuộc sống’) đã xuất hiện. Đó là triết lý cổ súy cho thực phẩm hữu cơ, giải phóng tình dục, dược liệu khác và lối sống đơn giản hơn, gần gũi với thiên nhiên.

“Chủ nghĩa khỏa thân nằm trong phong trào rộng lớn này, vốn phản kháng lại xã hội hiện đại công nghiệp, chống xã hội mới vốn xuất hiện vào cuối thế kỷ 19,” Bauerkämper giải thích.

Theo Hanno Hochmuth, sử gia tại Trung tâm Leibniz về Lịch sử Đương đại Potsdam, phong trào cải cách này đặc biệt có sức hút các thành phố lớn, bao gồm cả Berlin, mặc dù nó lãng mạn hóa cuộc sống đồng quê.

Trong Kỷ nguyên Weimar (1918-1933), các bãi biển FKK nơi vốn chỉ có ‘thiểu số rất, rất ít’ người trong giới tư sản đi tắm nắng, đã mọc lên. Theo Bauerkämper, có một “cảm giác tự do mới theo sau xã hội chuyên chế và các giá trị bảo thủ ngột ngạt của Đế quốc Đức (từ 1871 đến 1918)”.

Nở rộ dưới thời Cộng sản

Năm 1926, Alfred Koch thành lập Trường Khỏa thân Berlin để khuyến khích thực hành khỏa thân hỗn hợp nam nữ, tiếp tục niềm tin rằng khỏa thân ngoài trời thúc đẩy sự hòa hợp với thiên nhiên và lợi ích sức khỏe.

Tuy học thuyết của Đức Quốc xã lúc đầu cấm FKK, coi nó là sự nảy nở của tính phi đạo đức, nhưng đến năm 1942, Đệ tam Đế chế đã nới lỏng các lệnh cấm khỏa thân nơi công cộng – tuy nhiên, sự khoan dung đó không áp dụng cho các nhóm bị Đức quốc xã đàn áp, như người Do Thái và cộng sản.

Nhưng mãi cho đến hàng chục năm sau khi nước Đức tách ra thành Đông Đức và Tây Đức sau Thế chiến, FKK mới thực sự nở rộ, đặc biệt là ở Đông Đức – mặc dù đón nhận khỏa thân không còn chỉ giới hạn ở tầng lớp tư sản.

Đối với những người Đức sống ở Cộng hòa Dân chủ Đức, nơi việc đi lại, tự do cá nhân và buôn bán hàng tiêu dùng bị hạn chế, FKK đóng vai trò một phần như là ‘van an toàn’, theo Bauerkämper – một cách để giải tỏa căng thẳng ở một nhà nước kiểm soát chặt chẽ bằng cách đem đến một chút “hành động tự do”.

Hochmuth, vốn đã đến các bãi biển khỏa thân cùng cha mẹ khi còn nhỏ ở Đông Berlin, đồng ý. “Có cảm giác thoát ly,” ông nói. “[Người Đông Đức] luôn phải đối mặt với tất cả những đòi hỏi của Đảng Cộng sản và những việc họ bị bắt phải làm, như đi dự các cuộc mít tinh của đảng hoặc được yêu cầu thực hiện các công việc cộng đồng vào cuối tuần mà không được trả lương.”

Trong khi những người dân Đông Đức bất hảo vẫn tiếp tục tắm truồng trong những năm đầu của nhà nước Đông Đức – vừa làm vậy vừa phải canh chừng cảnh sát tuần tra – thì mãi đến sau khi Erich Honecker lên nắm quyền vào năm 1971, FKK mới chính thức được cho phép trở lại.

Theo Bauerkämper, dưới thời Honecker, Cộng hòa Dân chủ Đức đã bắt đầu quá trình cởi mở các chính sách đối ngoại và đối nội, một chiến thuật nhằm làm cho họ trở nên dễ gần hơn đối với thế giới bên ngoài.

“Đối với Cộng hòa Dân chủ Đức, sẽ rất có ích khi lập luận rằng: ‘Này, chúng tôi cho phép và thậm chí khuyến khích khỏa thân, chúng tôi là xã hội tự do’,” Bauerkämper nói.

Getty Images

Kể từ khi Đông Đức hợp nhất với phương Tây vào năm 1990 và các hạn chế được dỡ bỏ ở nhà nước cựu cộng sản này, văn hóa FKK đã suy tàn.

Trong những năm 1970 và 80, hàng trăm nghìn người khỏa thân tràn ngập khu cắm trại, bãi biển và công viên. Vào năm 2019, Hiệp hội Văn hóa Cơ thể Tự do của Đức chỉ có hơn 30.000 thành viên đăng ký – nhiều người trong số này ở độ tuổi 50, 60.

Tinh thần cởi mở

Tuy nhiên, ngày nay FKK tiếp tục để lại dấu ấn tượng trong văn hóa Đức, đặc biệt là ở Đông Đức trước đây. Đôi khi, thậm chí nó còn trở thành những tít báo nóng sốt, chẳng hạn như khi một người đàn ông trần truồng trong khu vực dành cho FKK tại một hồ nước ở Berlin vào mùa hè này buộc phải đuổi theo một con lợn rừng bỏ chạy, cắp theo chiếc túi bên trọng đựng chiếc máy tính xách tay của ông.

Trên thực tế, FKK và truyền thống khỏa thân lâu đời của nước Đức đã tạo sự khoan dung rộng rãi trên khắp đất nước đối với không gian không quần áo, và khỏa thân nơi công cộng được coi như một hình thức chăm sóc sức khỏe.

Tôi khám phá ra rằng có các điểm FKK có sẵn mà ta không cần mất nhiều công tìm kiếm, và chúng thường gắn liền với các hoạt động sức khỏe.

Trang Nacktbaden.de cung cấp danh sách các bãi biển và công viên quy củ trên khắp nước Đức, nơi bạn có thể khỏa thân tắm nắng; cởi quần áo trong phòng tắm hơi và dịch vụ spa; hoặc lội bộ đường dài mà không phải mặc đồ, như Dãy núi Harz, Bavarian Alps hoặc rừng Saxony-Anhalt.

Hoặc nếu bạn muốn trang trọng hơn một chút, câu lạc bộ thể thao FSV Adolf Kochoffers có lớp yoga, bóng chuyền, cầu lông và bóng bàn khỏa thân ở Berlin.

Theo nhiều cách, di sản FKK đem đến cho khách du lịch sự thấu hiểu về các giá trị vẫn gắn kết nhiều người Đông Đức.

Đối với Sylva Sternkopf, người từ nhỏ đã đi đến các bãi biển FKK ở Đông Đức, văn hóa tự do thân thể của đất nước vừa phản ánh vừa truyền thụ những giá trị nhất định mà bà sẽ truyền lại cho con cái của bà, nhất là tư tưởng cởi mở đối với cơ thể.

“Tôi nghĩ điều này vẫn còn bám rễ rất sâu trong thế hệ của tôi ở Đông Đức,” bà nói. “Tôi cũng cố gắng truyền lại cho các con tôi, để nuôi dạy chúng theo cách cởi mở với cơ thể của chính mình và không xấu hổ khi là chính mình và khi khỏa thân, khi để người khác thấy cơ thể trần trụi của mình.”

Đối với Sternkopf, nhìn thấy cơ thể khỏa thân theo cách không nhục dục cũng giúp mọi người học cách nhìn người khác sâu hơn là hình dáng bề ngoài. Bằng cách lột trần trụi, bạn sẽ dễ dàng nhìn thấy không chỉ là cơ thể mà còn là một cá nhân.

“Nếu bạn đã quen nhìn người khỏa thân, bạn sẽ không nghĩ nhiều về ngoại hình,” bà cho biết. “Tôi nghĩ đây là điều phổ biến hơn ở Đông Đức nói chung: chúng tôi cố gắng đánh giá người khác không phải bằng ngoại hình của họ, mà chúng tôi luôn tìm cách nhìn vào bên trong.”

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Travel.

‘Quan hệ dễ hối lộ’ kéo dài biến quan chức tử tế ở VN thành kẻ tham nhũng

Nhìn lại năm 2021, công cuộc ‘chống tham nhũng’ của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có tiến triển bằng một số vụ xử án lớn.

Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI của Việt Nam năm 2021 theo tổ chức Minh Bạch Quốc tế
Chụp lại hình ảnh,Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI của Việt Nam năm 2021 theo tổ chức Minh Bạch Quốc tế

Nhưng như một nghiên cứu của nhóm tác giả từ Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, công bố tháng 9/2021 quan hệ nảy sinh hối lộ ở Việt Nam là hiện tượng sâu rộng hơn dư luận tưởng.

Nghiên cứu đăng trên tạp chí tiếng Anh có tựa đề “The perpetuation of bribery-prone relationships: A study from Vietnamese public official” nói về quan hệ dễ trao và nhận hối lộ không ngừng của giới chức VN được đăng trên ‘Public Administration and Development, 41(5), 244-256 (nguồn tại đây).

Nhóm tác giả nghiên cứu quan hệ hối lộ ở Việt Nam dựa trên quá trình tâm lý của người trao và người nhận ‘lời mời hưởng lợi’ (favour – được hiểu là sự hối lộ), trong đó người nhận là nhóm công chức.

Quan hệ “bribery-prone” tạm dịch là “quan hệ dễ nảy sinh hối lộ, được đánh giá trên khảo sát thực tế.

Ở giai đoạn đầu, “khi một đối tác muốn bắt đầu mối quan hệ hối lộ, nghĩa là trao ra một lời mời hưởng lợi, công chức sẽ trải qua quá trình ‘đánh giá tính toán’ [calculative judgment]. Trong quá trình đánh giá này, công chức phải cân nhắc lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của mối quan hệ, dựa trên thông tin không đầy đủ và không chắc chắn.”

“Một mặt, lợi ích/cơ hội trao đổi [hối lộ] chủ yếu bắt nguồn từ các lỗ hổng quy định, thực thi yếu kém và nền kinh tế tiền mặt. Tương tự, hệ thống chính phủ điện tử [Việt Nam] kém phát triển không thể theo dõi thực giá bất động sản tại các địa điểm khác nhau, tạo cơ hội cho các quan chức địa phương ấn định giá có lợi cho đối tác [hối lộ] của họ.”

“Mặt khác, rủi ro chủ yếu là về lòng nhân từ và/hoặc kỳ vọng của người đưa ra đề xuất, cũng như sự trừng phạt pháp luật.”

Tuy vậy, mối quan hệ hối lộ không thể duy trì nếu chỉ dựa vào những lời mời hưởng lợi món quà có giá trị.

Đầu tư công
Chụp lại hình ảnh,Đầu tư công. Các dự án đấu thầu và xây cất, mua sắm dùng ngân quỹ quốc gia được dư luận chú ý nhiều vì các vụ thất thoát, biển thủ, hoặc ăn tiền công trắng trợn.

“Thay vào đó, công chức thường đánh giá cao nỗ lực của người đưa ra lời mời ưu đãi (offeror) trong việc xây dựng mối quan hệ và xem xét sự an toàn của công chức,” nghiên cứu chỉ ra.

Những lời mời hưởng lợi thường được thể hiện dưới nhiều dạng với cách gọi khác nhau như “quà”, “thể hiện tinh cảm” hay “để ra mắt”…

Thậm chí, nó có thể được tạo ra cẩn thận hơn, chẳng hạn như tạo cơ hội cho công chức thắng giải ở một cuộc thi golf hoặc tổ chức chuyến đi lễ cho vợ của quan chức. Tinh vi hơn, đó có thể là một “món hàng” được “bán” cho công chức với giá chỉ bằng một phần nhỏ so với giá thị trường.

Nghiên cứu cũng tiết lộ thông tin “một công ty có thể ‘nuôi’ một quan chức trong 5 năm trước khi nhận được hợp đồng”.

Nhân dịp cuối năm 2021, BBC News Tiếng Việt điểm lại một số vụ việc, con số được nêu ra tại Việt Nam liên quan đến hệ tham nhũng:

corruption

Vali tiền đô đem tới Trung ương Đảng

Đầu năm 2021, TBT Nguyễn Phú Trọng kể ra một cách thoải mái rằng Trung ương Đảng của ông là đối tượng của quan hệ hối lộ.

Theo lời kể của ông Nguyễn Phú Trọng hôm 1/2/2021 thì ‘ai đó’ mang một vali chứa đô la hối lộ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, và bị ông ra lệnh ‘kiểm tra’ rồi không rõ người đem tiền đến có bị truy cứu gì không.

“Về trường hợp hối lộ, xách vali tiền đến Ủy ban Kiểm tra Trung ương để biếu xén, lấp liếm. Theo đó, đồng chí cán bộ kiểm tra mở vali xem đã thấy toàn tiền USD. Tôi yêu cầu khóa vali lại, niêm phong và lập biên bản”, TBT Trọng hồn nhiên kể, theo báo Công an Nhân dân.

Thái độ dễ dãi của nhà lãnh đạo cao cấp nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam cho thấy văn hóa hết sức bao dung với “đồng chí” của mình phần nào được phản ánh trong nghiên cứu nói trên về quan hệ “dễ nảy sinh hối lộ”.

Tiền tham nhũng thu lại chỉ đạt 5%, và thấp hơn 2020

Số liệu nêu ra tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam hôm 23/10/2021 cho thấy tổng số tiền ‘phải thu hồi’ từ các vụ án tham nhũng ở quốc gia này là 72 nghìn tỉ VND, tương đương 3,2 tỷ USD.

Nhưng ngân sách nhà nước chỉ thu được 5% con số đó, bằng 176,5 triệu USD.

Theo báo Thanh Niên, vấn đề này được một đại biểu QH của tỉnh Bến Tre, bà Nguyễn Thị Lệ Thủy, nêu ra và đề nghị làm rõ, vì sao “số tiền từ các vụ án, vụ việc tham nhũng là 72.000 tỉ đồng, song đến nay mới thu được trên 4.000 tỉ đồng, thấp hơn nhiều so với năm 2020”.

Hợp đồng công và lại quả ‘tiền tỉ’ trong vụ Công ty Việt Á

Vào những ngày cuối năm 2021, cái tên Công ty Việt Á và cụm từ khóa ‘bộ xét nghiệm Covid-19’ gây ‘sốt’ ở Việt Nam, cả ngoài đời thực lẫn trên mạng, cả trên truyền thông chính thức lẫn mạng xã hội.

Qua điều tra bước đầu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an VN (C03) cho biết công ty Việt Á đã chi % ngoài hợp đồng cho Giám đốc CDC Hải Dương Phạm Duy Tuyến số tiền gần 30 tỉ đồng.

Dù chưa nêu tên hết các tỉnh thanh và bệnh viện có liên quan, cơ quan điều tra Việt Nam cho biết công ty này đã chi rất nhiều tiền để “bôi trơn” cho các cán bộ, lãnh đạo các đơn vị mua hàng.

Những khoản tiền khổng lồ này có thể hiểu là tiền hối lộ.

Việt Á bị cho là đã nâng giá sản phẩm quá cao, trong lúc chất lượng các bộ xét nghiệm mà công ty cung ứng cho các cơ sở y tế trên 62 tỉnh thành bị đặt câu hỏi.

Điều quan trọng hơn, Bộ Y tế VN và các cơ quan truyền thông nước này, gồm cả trang Đảng Cộng sản, đưa tin bộ xét nghiệm Việt Á ‘đạt tiêu chuẩn quốc tế’, điều không đúng với điều tra của BBC.

Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long trong một lần lên hình của đài báo VN
Chụp lại hình ảnh,Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long trong một lần lên hình của đài báo VN. Hiện dư luận VN đặt câu hỏi về vai trò của ông trong vụ Việt Á

Thông tin này sau đó đã được rút đi khỏi các trang chính thức ở Việt Nam nhưng dư luận nước này đặt câu hỏi cả về vai trò của các bộ liên quan và ngành Quân y của Bộ Quốc phòng trong vụ án thế kỷ.

Dịch vụ công ở miền Bắc ‘tham ô nhiều hơn miền Nam’

Tháng 1/2020, Tổ chức Hướng tới Minh bạch, một tổ chức tư vấn phi lợi nhuận Việt Nam, công bố 

Họ phỏng vấn 1.085 người dân tại 19 tỉnh, thành phố trên cả nước trong tháng 7, 8 và 11/2019.

Các tỉnh, thành phố được lựa chọn khảo sát bao gồm Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Lạng Sơn, Sơn La, Thái Nguyên, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam, Phú Yên, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Vũng Tàu, Cần Thơ, Bến Tre, và Cà Mau.

Người dân tham gia khảo sát được hỏi xem trong vòng 12 tháng qua họ có liên hệ/tiếp xúc với bất kỳ lĩnh vực dịch vụ công nào trong số 7 lĩnh vực được đưa ra hay không (bao gồm trường học công, bệnh viện hoặc phòng khám công, làm giấy tờ, dịch vụ tiện ích (điện, nước…), công an, cảnh sát giao thông và tòa án)

Và nếu có liên hệ/tiếp xúc thì họ có phải đưa hối lộ hay không.

66% người được hỏi có liên hệ/tiếp xúc với ít nhất một lĩnh vực dịch vụ và cứ 5 người thì lại có 1 người – tương đương 18% phải đưa hối lộ ít nhất một lần.

Khảo sát cho hay việc hối lộ ở miền Bắc dường như xảy ra nhiều hơn ở miền Nam.

Kết quả cho thấy, khi tiếp xúc với các cán bộ, công chức thuộc một trong 7 lĩnh vực dịch vụ công được khảo sát những người sử dụng dịch vụ công ở miền Bắc, đặc biệt ở vùng Đồng bằng Sông Hồng đưa hối lộ nhiều hơn.

Theo BBC

Ổn định và không ổn định ở nước Việt Nam cộng sản, cơ chế lãnh chúa và loại trừ

Nguyễn Khoa

Đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam hiện nay thường xuyên nói là cần thiết phải có sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế xã hội, và cho tới nay họ làm khá tốt điều đó. Lý do này cũng thường xuyên được đưa ra để biện minh cho việc Đảng đàn áp, nặng là bỏ tù, nhẹ là cho ra rìa xã hội, những tiếng nói chỉ trích.

Chính trị Việt Nam rất ổn định, theo nghĩa là không có biểu tình thường xuyên trên đường phố, không có các tranh cãi chính trị kéo dài, dẫn tới các bế tắc chẳng hạn như lập chính phủ, đưa ra chính sách,… ở các quốc gia dân chủ.

Nhưng liệu sự ổn định chính trị có đảm bảo sự ổn định xã hội hay không?

Ổn định chính trị dựa trên hệ thống các lãnh chúa địa phương

Đảng Cộng sản Việt Nam, cho tới nay là đảng chính trị Việt Nam duy nhất xây dựng được hệ thống chân rết bao trùm toàn bộ đất nước.

Hệ thống này được xây dựng từ khi đảng này mới thành lập, qua cả hai cuộc chiến tranh lớn, 2 cuộc chiến Đông Dương. Thấy rõ nhất là sự thành lập một chính phủ trong bóng tối trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, hay còn gọi là chiến tranh Việt Nam. Tại toàn bộ các địa phương nằm dưới quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Đảng Cộng sản Việt Nam đều có một hệ thống đảng bộ và chính quyền, có nơi họ đủ mạnh tới mức có thể thu thuế, bắt lính. Có nơi họ tạo nên cả một hệ thống hành chánh riêng của mình.

Hệ thống chính phủ trong bóng tối này dựa vào những người địa phương là chủ yếu, đôi khi có những nhân vật từ trung ương (tức là từ miền Bắc), được bổ sung vào, nhưng người địa phương là quan trọng hơn, và nắm tình hình địa phương của họ rất chặt chẽ, cả những vấn đề tâm lý, xã hội, phong tục,… và hoạt động rất hữu hiệu. Có thể nói không ngoa là hệ thống này hữu hiệu hơn các viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng hòa rất nhiều.

Sự so sánh này là một vấn đề rất lý thú, tại sao các viên chức hành chánh Việt Nam Cộng hòa, dựa trên cả nền khoa học về hành chánh theo kiểu phương Tây, lại thất bại trước các viên bí thư tỉnh ủy bí mật của Đảng Cộng sản (thật ra thì trường Quốc gia hành chánh tại Sài Gòn chỉ đào tạo được người vào giai đoạn cuối)? Có thể lý do quan trọng là việc sử dụng chủ nghĩa dân tộc rất có hiệu quả của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành công trong việc làm cho dân chúng miền Nam Việt Nam nghĩ rằng Việt Nam Cộng hòa là “ngụy”, nhưng bên cạnh đó, việc thông hiểu địa phương, kể cả những hủ tục, có lẽ cũng đóng vai trò quan trọng, chính phủ trong bóng tối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh gần dân hơn, họ là một cơ cấu từ dưới lên. Hay có thể nói cách khác là thực tế xã hội Việt Nam là một thách thức với những lý tưởng ngoại lai?

Sự thách thức này có vẻ cũng vẫn tồn tại đến tận hôm nay.

Đã có lúc Việt Nam Cộng hòa khá thành công trong việc triệt hạ chính phủ trong bóng tối này, qua chiến dịch Phượng Hoàng, nhưng có lẽ chiến dịch này cũng dựa trên nguồn tài chánh từ Mỹ nên nó đã không được tiếp tục, trong bối cảnh chung của màn hạ trong cuộc chiến Việt Nam.

Việc thông hiểu và nắm giữ chặt chẽ địa phương tiếp tục sau chiến tranh cho đến nay, các vùng được cho là “trắng”, tức là bị đánh sập cơ sở chi bộ, như Gò Công, Long Xuyên,… được xây dựng trở lại nhanh chóng.

Các biến động ngoài tầm tay các lãnh chúa

Các viên chức cộng sản địa phương đang thực sự quản lý đất nước chính là khoảng 200 ủy viên trung ương, một loại quốc hội de facto, hiện nay.

Trong số 200 vị này, có những vị nắm các bộ hay cơ quan trung ương, và các vị trí này thường là sự thương lượng để thỏa mãn sự cân bằng địa phương. Việc thương lượng này ngày càng quan trọng từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa làm ăn buôn bán, để nhằm vào các bộ nhiều lợi lộc như y tế, vận tải, và sau này cả bộ giáo dục, chưa kể hai bộ nhiều lợi lộc nhất là công an và quốc phòng, với nguồn đất đai rẻ mạt, và những ưu đãi chính sách.

Hiện thực của một nền kinh tế quốc gia bình thường có những đòi hỏi khác hơn so với một quốc gia áp dụng kinh tế bao cấp. Những vấn đề khác bắt đầu xuất hiện mà các viên bí thư tỉnh ủy không am tường, đó là những vấn đề về an sinh, môi trường,… có tầm mức quốc gia, thậm chí liên quốc gia. Ngoài ra, các viên lãnh chúa được chia chác các bộ nhiều lợi lộc cũng không thể cố vấn cho chính phủ những chính sách có tầm nhìn xa.

Có thể đưa ra những sự kiện để minh chứng cho việc các lãnh chúa đã bất lực ra sao trong những năm vừa qua.

Chính phủ trung ương và các viên chức địa phương đã thất bại trong cả chính sách môi trường và thực thi các luật lệ môi trường. Hậu quả là đã xảy ra vụ ô nhiễm Formosa vào năm 2016 làm cá chết hàng loạt ở vùng biển miền Trung, dẫn đến những cuộc biểu tình lớn có khi đến 10 ngàn người.

Trong cuộc biểu tình chống luật đặc khu vào mùa hè năm 2018, có xảy ra việc đốt trụ sở hành chính và đồn công an ở tỉnh Bình Thuận. Đây chính là sự tức giận của dân chúng vùng Bình Thuận (Tuy Phong), vì khu vực này bị ô nhiễm do các nhà máy điện chạy than, phá hủy khu vực nuôi tôm và đánh cá lớn nhất Việt Nam.

Nhưng rõ ràng nhất, chính là việc chạy loạn của hơn 1 triệu công nhân để trốn đại dịch covid vừa qua, trong đó các lãnh chúa địa phương đã không biết làm cách nào để chống dịch, mỗi nơi một phách, gây điêu đứng cho hàng triệu người trong một thời gian dài.

Với chính sách bán sức lao động rẻ mạt, cộng với đất đai, sau hơn 20 năm công nghiệp hóa, tầng lớp nông dân bỏ quê lên thành làm thợ, không thể sống nỗi qua hơn 1 tháng đóng cửa. Số tiền thu được từ việc bán, cho thuê đất làm khu công nghiệp, chạy vào túi các đại gia như Vingroup, thay vì đi vào ngân sách quốc gia để tái phân phối, giúp đỡ cho những người dễ tổn thương nhất là công nhân, nông dân, buôn bán nhỏ ở thành thị.

Giữa đại dịch, lại xảy ra sự kiện công ty Việt Á, móc ngoặc với các lãnh chúa địa phương, và có thể là cả lãnh chúa trung ương (bộ quốc phòng?) để bán bộ xét nghiệm covid dỏm, với giá rất mắc. Có thể nói đây là một vụ nhũng lạm có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.

Nguyên nhân của sự thất bại của các lãnh chúa cộng sản, nằm chính ở cơ cấu làm cho các lãnh chúa thắng trong cuộc chiến tranh, đó là cơ cấu từ dưới lên, nhưng không thông qua việc tuyển chọn công bằng, mà là do các phe cánh. Trong bối cảnh không có chiến tranh, việc lựa chọn người đi sau của các lãnh chúa thường nhắm vào những người thân tín ít có khả năng hơn người đi trước, tạo nên một sự suy thoái di truyền trầm trọng. Hệ thống đại học Việt Nam, dù tệ nhưng cũng có đào tạo một số nhân lực nào đó, nhưng những thành phần này không đi vào được hệ thống các lãnh chúa như thế.

Hệ thống tư pháp vốn nằm dưới cái bóng của Đảng, càng bị suy thoái nặng nề hơn vì bị bắt buộc phải tìm người trong hệ thống lãnh chúa. Có thể bây giờ tình trạng có khá hơn một chút, nhưng cách đây hơn 10 năm, ngay tại thành phố lớn nhất nước là Sài Gòn, rất đông các thẩm phán cấp quận vừa làm việc, vừa đi học bổ túc văn hóa.

Đây chính là cơ chế loại trừ của xã hội toàn trị, bắt đầu là hệ thống lý lịch trong tuyển sinh đại học sau năm 1975, với khoảng 14 đối tượng khác nhau. Hiện nay không còn hệ thống đối tượng này nữa, nhưng sự loại trừ có tính chất thể chế vẫn tồn tại. Những thành phần giỏi không có thế lực lãnh chúa bị loại trừ, rất đông người bỏ chạy ra nước ngoài, hoặc tệ hơn, những người phản kháng và chỉ trích thì bị bỏ tù. Cơ chế loại trừ này không hẳn là độc tôn của mô hình cộng sản, mà nó có thể dính tới các xã hội “truyền thống” phi dân chủ, mà Việt Nam là một.

Cơ chế lãnh chúa, rất hiển nhiên, tạo điều kiện cho sự nhũng lạm vô phương cứu chữa.

Tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có lẽ cũng ý thức được tình trạng suy thoái di truyền của hệ thống lãnh chúa, nên trong những năm gần đây họ đưa ra hai chủ trương là thi tuyển công chức, và luân chuyển cán bộ. Chủ trương đầu được thực hiện đầu voi đuôi chuột, đánh trống bỏ dùi. Chủ trương thứ hai thường chỉ để làm công cụ cho việc đấu đá nội bộ, ví dụ rõ ràng nhất là tại hội nghị trung ương trước đại hội đảng 12, việc luân chuyển cán bộ đã tạo thuận lợi cho ông Nguyễn Phú Trọng loại bỏ ông Nguyễn Tấn Dũng.

Để kết luận tôi tạm lấy lịch sử của cuộc chiến tranh lạnh. Trong cuộc đối đầu phương Tây và khối Liên Xô cộng sản, các điệp vụ gián điệp, các cuộc chiến tranh ủy nhiệm hay đem đến phần thắng cho phe cộng sản, nhưng họ chỉ thắng những trận đánh mà không thắng được cuộc chiến tranh vì cơ cấu xã hội chính trị xã hội của họ lạc hậu.

Nay nước Việt Nam “cộng sản” vẫn đang giữ vững “ổn định chính trị”, nhưng liệu với cơ chế lãnh chúa và loại trừ, họ có thể giữ vững ổn định và phát triển xã hội?

Việt- Studies