TP HCM-Với những đường cong và gam màu ấm áp, căn hộ 62 m2 đáp ứng đầy đủ mong muốn về tổ ấm trong mơ của đôi vợ chồng trẻ.
Căn hộ 62 m2 ở quận Bình Thạnh là tổ ấm của vợ chồng Trần Thị Tú Quyên. Sau ba năm ở chung với bố mẹ, thấy tài chính đã ổn định, họ quyết định chuyển ra ở riêng.
Căn hộ gồm một phòng khách thông với bếp, một phòng ngủ master, một phòng ngủ nhỏ, một phòng vệ sinh của gia đình có sẵn, cho thuê đã lâu nên cũ và xuống cấp.
“Khi nhận lại nhà để ở riêng, mình muốn cải tạo, thay áo mới hoàn toàn”, Tú Quyên, sinh năm 1994, chia sẻ.
Ngân sách có hạn nên gia chủ dành nhiều thời gian tham khảo các đơn vị thiết kế. Mất một năm, từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021, họ mới tìm được kiến trúc sư ưng ý.
Dựa vào sở thích của vợ chồng Tú Quyên, các kiến trúc sư đã đưa ra thiết kế hiện đại và nhiều đường cong.
So với trước, căn hộ không đập tường và thay đổi bố trí, chỉ làm lại hệ thống điện trong nhà, làm mới lại các ổ cắm theo công năng và dùng đèn âm trần thay vì đèn ống dài.
Bằng cách sơn lại toàn bộ nhà, nhấn nhá các đường cong bằng thạch cao, lót sàn gỗ và gạch terrazzo, căn hộ nhìn khác hẳn ban đầu.
Gia chủ muốn nhà có nhiều đường cong để không gian thêm phần nhẹ nhàng nên nhóm thiết kế bố trí đường cong trên tường, trần và nội thất.
Cũng theo đề bài của gia chủ, nhà trang trí theo tone màu trung tính nhằm đem tới cảm giác hạnh phúc, đầm ấm và tạo cảm hứng cho đôi vợ chồng hay làm việc từ xa. Tú Quyên chia sẻ những mảng màu trên tường khiến cô đặc biệt ấn tượng.
Tú Quyên ưng ý khi thấy bếp và phòng khách không bị phân chia như những thiết kế xưa mà tạo nên một không gian mở, thoáng. Với căn bếp rộng, đẹp và đủ thiết bị, cô thỏa sức nấu những món ăn ngon.
Phòng ngủ master được thiết kế đồng bộ với không gian bên ngoài.
Màu sắc trung tính và những đường cong được nhắc lại.
Căn hộ dự kiến thi công trong một tháng rưỡi nhưng do giãn cách xã hội nên đến tháng 11, vợ chồng Tú Quyên mới dọn về.
Tổng chi phí bao gồm tiền thiết kế, thi công và điện máy là 465 triệu đồng.
Một số người nhận định căn hộ giống homestay hoặc studio song đây chính là điều gia chủ hướng đến.
“Tình hình như hiện nay chắc sẽ khó đi du lịch nên mình muốn biến ngôi nhà thành nơi thư giãn, nghỉ dưỡng”, Quyên nói. “Vợ chồng mình cũng mới kết hôn ba năm, ngân sách không nhiều nên chỉ cần một ngôi nhà xinh xắn, đầy đủ công năng theo nhu cầu”.
Minh Trang / Ảnh: Phú Đào / Thiết kế: 1618 Design Studio
Triết gia Hy Lạp này vào năm 500 trước Công nguyên đã chỉ ra rằng mọi thứ liên tục chuyển động và trở nên khác đi so với nó trước đó.
Giống như một dòng sông, cuộc sống trôi chảy mãi về phía trước, và mặc dù chúng ta có thể bước từ trên bờ xuống sông, dòng nước đang chảy qua chân ta sẽ không bao giờ là dòng nước đã chảy qua trước đó, dù chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi.
Heraclitus kết luận rằng vì bản chất của cuộc sống là biến đổi, nên việc chống lại dòng chảy tự nhiên này là chống lại chính bản chất của sự tồn tại. “Không có gì vĩnh cửu ngoại trừ sự biến đổi,” ông nói.
Hãy chấp nhận thay đổi
Hay như tiểu thuyết gia Elena Ferrante mới đây nói rằng: “Chúng ta không việc gì phải sợ thay đổi, và không nên hoảng sợ trước những điều khác biệt.”
Nếu học được cách xử lý dòng chảy vô tận này, chúng ta có thể xoay sở được chính bản thân cuộc đời – điều mà, sau Heraclitus vài thiên niên kỷ, trong thời đại vốn bất định và thay đổi nhanh chóng của chúng ta lúc này, đang đặc biệt có sức cộng hưởng.
Kể từ khi loài người xuất hiện, nhiều nghệ sĩ, nhà văn và triết gia vĩ đại đã đau đầu với ý niệm về sự thay đổi, và cả với sự bốc đồng của chúng ta trong việc phản kháng lại những thay đổi.
“Có cái gì đó bên trong khiến chúng ta mong muốn mãi là một đứa trẻ… từ chối mọi thứ xa lạ,” Carl Jung, nhà tâm lý học và là tác giả thế kỷ 20 viết trong cuốn ‘Các giai đoạn cuộc đời’, suy ngẫm về lời của Heraclitus.
Đối với các nhà tư tưởng này, việc không chịu chấp nhận rằng thay đổi chính là một phần tất yếu và bình thường của cuộc sống sẽ gây ra rắc rối, đau đớn và thất vọng. Nếu chúng ta chấp nhận rằng mọi thứ liên tục thay đổi và thoáng qua, họ nói, mọi thứ đều diễn ra suôn sẻ hơn.
Chụp lại hình ảnh,Nhà triết học Heraclitus (ngồi cạnh chiếc bàn) trong kiệt tác The School of Athens của danh họa Raphael
Vậy thì lý thuyết ‘cuộc sống là dòng chảy’ có hàm ý chúng ta phải cam chịu, coi là định mệnh trước tất cả những thách thức, thay đổi và khủng hoảng mà cuộc sống đưa đẩy chúng ta hay không?
Không nhất thiết phải vậy, John Sellars, tác giả cuốn sách mới ‘Những bài học về chủ nghĩa khắc kỷ’ đồng thời là giảng viên triết học tại trường Royal Holloway, Đại học London, nói.
Theo Sellars, lý thuyết của Heraclitus không phải là ‘buông xuôi’ mà là ‘chấp nhận’.
Thay đổi là chủ đề yêu thích của Chủ nghĩa Khắc kỷ, một trường phái triết học Hy Lạp (một phần được khơi nguồn cảm hứng từ Heraclitus) dựa trên một hệ thống lý luận và quan điểm về thế giới tự nhiên.
‘Khắc kỷ’ trong trí tưởng tượng của mọi người là chịu gian khổ mà không phàn nàn, ‘mỉm cười và cam chịu’.
Nhưng triết lý này có nhiều khía cạnh hơn thế. Trong cuốn sách của mình, Sellars kết hợp những suy nghĩ của ba nhà Khắc kỷ – Seneca, Epictetus và Marcus Aurelius – cho thấy ý tưởng của họ có thể giúp ích cho chúng ta ngày nay như thế nào.
Thể hiện trong văn học
“Những người theo thuyết khắc kỷ tin rằng không có gì là ổn định và chúng ta cần đối mặt với điều đó. Thế giới tự nhiên được cấu thành từ một loạt các chu trình luôn biến đổi, nhưng nếu chúng ta muốn sống hạnh phúc với thiên nhiên, chúng ta phải hòa hợp với nó.”
Thật ra, ông nói, khắc kỷ chú trọng vào việc đối mặt chứ không phải là phản kháng những thay đổi. “Tất cả mọi thứ đều thay đổi, câu hỏi đặt ra là chúng ta có thay đổi theo hay không?” Sellars nói. “Những người khắc kỷ nói rằng chúng ta không có bất kỳ lựa chọn nào, chúng ta không thể chiến đấu chống lại nó.”
Ý tưởng này được hưởng ứng trong nghệ thuật và văn học.
Tác giả người Anh Virginia Woolf, người được biết đến nhiều với phong cách viết độc thoại nội tâm, qua đó lột tả được những biến đổi trong suy nghĩ của nhân vật, viết rằng: “Một bản ngã luôn thay đổi là bản ngã tiếp tục sống.”
Trong một trong những tác phẩm lạ đời nhất của bà, bài văn vần ‘The Waves’, (1931), Woolf lần theo hướng tư duy ý thức của sáu người bạn, bắt đầu từ thời thơ ấu của họ.
Các nhân vật bước vào giai đoạn mới của cuộc đời với đầy những điều mới lạ và bất định. Giọng kể chuyện trôi chảy luân chuyển một cách tinh tế giữa các quan điểm khác nhau của họ, vì tất cả bọn họ đều phải vật vã trong việc xác định bản thân dù bằng cách này hay cách khác.
Ngòi bút của Woolf trình bày tất cả những điều này trong một quá trình thay đổi và biến chuyển vô tận xuyên suốt câu chuyện, giống như tất cả chúng ta trong cuộc sống.
Thay đổi là một trong những ám ảnh của Woolf.
Trong tiểu thuyết vui tươi trước đó, Orlando (1928), bà thuật lại câu chuyện về một nhà quý tộc thời Nữ hoàng Elizabeth ở Anh (từ giữa thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17). Vào giữa truyện, người này tỉnh giấc và phát hiện ra mình đã trở thành phụ nữ.
Woolf viết trong tiểu thuyết: “Thay đổi diễn ra không ngừng, và thay đổi có lẽ không bao giờ chấm dứt. Những tường luỹ bảo vệ cho tư tưởng và thói quen tưởng chừng như vững chắc như bàn thạch hoá ra lại đổ sụp tan tành khi bị tư tưởng khác chạm vào, để lại một khung trời trống không và những ngôi sao mới lấp lánh.”
Woolf là người rất tích cực chép nhật ký và viết ra những suy nghĩ sâu kín nhất trong lòng nhằm để thấu hiểu cảm xúc của mình.
Đây cũng là thói quen của nhiều nhà văn và nhà tư tưởng lớn, trong đó có Susan Sontag, Joan Didion, Oscar Wilde – và nhà văn khắc kỷ Marcus Aurelius.
Trên thực tế, những người thực hành khắc kỷ ngày nay vẫn khuyên là cần phải ghi nhật ký.
Họ cho rằng điều này là để tự rèn luyện trước bất cứ điều gì có thể xảy ra trong tương lai, và để trong ngày có thể kiểm điểm lại hành động bản thân, qua đó tôi luyện bản thân và sẵn sàng tâm thế ở mức tốt nhất để trước những biến chuyển có thể phát sinh trong cuộc sống.
Có lẽ đây là lý do tại sao những người khắc kỷ nổi tiếng là ‘môi trên cứng đơ’ – không nói chuyện nhảm nhí.
“Quả thực là có cơ sở thực tế,” John Sellars thừa nhận. “Một phần đó là nhờ kiên cường tôi luyện, bởi vì học cách ứng phó với nghịch cảnh có nghĩa là làm sao để ta đừng cảm thấy nghịch cảnh đó là quá khắc nghiệt. Nhưng mà đó không phải là kiểm soát hay kìm nén – vấn đề ở đây, đó là khắc kỷ là chuyện cương quyết tiếp tục bỏ qua điều gì đó quan trọng.”
Chân lý vĩnh cửu duy nhất
Vậy thì lý trí lạnh lùng có phải là chìa khóa để nắm bắt thay đổi không?
Chụp lại hình ảnh,”Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông,” triết gia Heraclitus nói
“Mục tiêu là hướng tới một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc,” Sellars nói, “tận hưởng niềm vui thực sự ở đúng chỗ chứ không phải là để có cảm xúc phẳng lặng.”
Những người khắc kỷ khuyên rằng hãy trân trọng những thứ trong hiện tại nhưng cũng cần nhận thức được rằng chúng không tồn tại vĩnh viễn.
“Đừng sợ bất trắc.” Theo nghĩa này, Sellars nói, chủ nghĩa khắc kỷ có sự tương đồng rộng rãi với Phật giáo. “Mọi thứ đều đổi thay, hãy sống trong giây phút hiện tại, đừng phụ thuộc vào ngoại cảnh.”
Điều này nghe có vẻ vô cảm, thậm chí là lạnh lùng – nhưng nó không phải vậy, Sellars nhấn mạnh. “Bởi vì giống như Phật giáo, chủ nghĩa khắc kỷ cũng khuyên rằng hãy có lòng thương đối với tất cả các loài hữu tình và gắn bó với thiên nhiên chứ không phải vô cảm hay vô tình.”
Trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng mang tính ước đoán ‘Ngụ ngôn về người gieo trồng’ (1993), Octavia E Butler viết về nhân vật chính, Lauren. Nhân vật là người sáng lập ra một tôn giáo mà bà gọi là Earthseed, và là người coi thay đổi là lực khuấy động vũ trụ.
Quan điểm của tác giả được nêu ra dưới dạng những câu nói trào phúng, thông qua Lauren: “Tất cả những gì bạn chạm vào, bạn làm chúng Thay đổi. Tất cả những gì bạn Thay đổi sẽ Thay đổi bạn. Chân lý vĩnh cửu duy nhất là Thay đổi. Thượng đế là Thay đổi.”
Bà cũng chỉ ra mối liên hệ tương tự giữa cuộc sống, thay đổi và tự nhiên như Heraclitus đã làm trong thuyết ‘cuộc sống là dòng chảy’ của ông.
Butler viết: “Hạt thành cây, cây thành rừng; Mưa thành sông, sông ra biển; Ấu trùng thành ong, ong thành đàn. Một thành nhiều; Nhiều thành một; Luôn hợp nhất, phát triển, tan biến – luôn thay đổi. Vũ trụ là bức chân dung tự họa của Thượng Đế.”
Và tầm nhìn của Lauren về thế giới là nơi mà thiện thắng ác và nơi mà lòng tốt chiến thắng sự nhẫn tâm.
Như tác giả và học giả Mỹ Rebecca Raphael ghi nhận trong bài luận về tác phẩm của Butler: “Lauren kết hợp những ý tưởng kiểu Heraclitus này với các mệnh lệnh đạo đức để phụng sự tốt và định hình một cách có ý thức sự thay đổi mà ai đó dính mắc. Không có gì siêu nhiên về quan niệm về thay đổi trong đạo Earthseed, không phải là mệnh trời hay thuyết mạt thế lạ lẫm, đó là lời kêu gọi có trách nhiệm đối với quy luật biến đổi trong thế giới của ai đó.”
Tôn giáo của Lauren, Earthseed, có các khía cạnh của cả chủ nghĩa khắc kỷ và Phật giáo.
Như Raphael chỉ ra: “Các ý tưởng cấu thành của Earthseed không phải là mới. Nó có các yếu tố siêu hình Phật giáo, có sự định hình thế giới của Do Thái giáo thông qua hành động đạo đức, và có sự tập trung của chủ nghĩa khắc kỷ vào những gì chúng ta có thể thực sự làm được ngay lúc này dù nhỏ. Nó không có sự khinh miệt đối với một nhóm xã hội hoặc tôn giáo khác bên ngoài, mà thay vào đó nuôi dưỡng lòng nhân ái trong một thế giới bạo lực, để chuẩn bị con người cho cuộc sống trên các hành tinh khác.”
Vậy trong cuộc khủng hoảng hiện tại của chúng ta, các nhà khắc kỷ sẽ khuyên chúng ta tiếp cận sự thay đổi như thế nào – không chỉ ở hiện tại mà còn trong tương lai, điều gì vẫn đúng?
“Chúng ta phải phân biệt giữa những thứ chúng ta kiểm soát và những thứ không kiểm soát được,” Sellars nói. “Bạn có thể tự cách ly, giãn cách xã hội và làm những việc này một cách thận trọng, bình tĩnh, có lý trí, không bị thúc đẩy bởi sự hoảng loạn, sợ hãi hoặc lo lắng.”
Phong trào Khắc kỷ Hiện đại tổ chức Tuần lễ Khắc kỷ hàng năm.
Trong thời gian đó, những người tham gia được thử thách về khả năng tập trung vào quá trình chứ không phải kết quả, và đối mặt với thực tế rằng nghịch cảnh là một phần của cuộc sống bình thường; rằng chúng ta có thể học hỏi từ nghịch cảnh và học hỏi từ thất bại. Nói cách khác, nghịch cảnh là một trải nghiệm để học hỏi.
“Điều này rồi cũng qua đi”
Một nhà tiên tri thời Trung Cổ hỏi một nhà thông thái về thông điệp để giữ thân an toàn.
Chụp lại hình ảnh,’Hãy sống trong thời hiện tại giữa thế giới không ngừng thay đổi’ cũng là triết lý trong Phật giáo
Câu trả lời là gì? “Điều này rồi cũng qua đi.”
Đó là cụm từ được nam tài tử Tom Hanks dùng trong những tháng gần đây để nói về đại dịch virus corona, và đó cũng là tên một cuốn sách được xuất bản gần đây của nhà trị liệu tâm lý Julia Samuel.
Trong cuốn ‘Điều này rồi cũng qua đi: Những câu chuyện về thay đổi, khủng hoảng và khởi đầu hy vọng’, Samuel kể lại câu chuyện của một số khách hàng của bà.
“Mỗi người bước qua cánh cửa của tôi đều có nỗi khổ với sự thay đổi,” bà nói với BBC Culture. “Thay đổi là điều chắc chắn của cuộc sống, và nỗi đau là tác nhân tạo ra thay đổi, nó buộc bạn phải thức tỉnh và nhìn thế giới một cách khác, và nỗi đau của sự thay đổi buộc bạn phải nhìn ra thực tế của nó. Chính nhờ nỗi đau chúng ta mới học được, ở cấp độ cá nhân và cũng như phổ quát.”
Samuel nói rằng khi đại dịch hiện tại bùng nổ vào lúc đầu, rất nhiều người trong chúng ta trở nên “tê liệt, sốc và lo lắng. Nó giống như âm nhạc đáng sợ của phim ‘Hàm cá mập’ đang đến gần, bạn có thể chặn nó lại nhưng cuối cùng bạn phải để ý, bạn phải biến chuyển và thay đổi”.
Bà chọn cụm từ ‘Điều này rồi cũng qua đi’ cho tựa đề cuốn sách của bà bởi vì “chúng ta phải đi cùng sự thay đổi và những cuộc khủng hoảng để thoát ra được sang phía bên kia”. Bạn có thể không tin rằng nó sẽ kết thúc. “Vào mùa đông, bạn có thể không tin rằng hè sẽ đến, nhưng nó sẽ đến.”
Chấp nhận thay đổi cũng giúp bạn đối phó thay đổi tốt hơn, bà nói. “Có một nghịch lý là càng cho phép bản thân chấp nhận rằng thay đổi là không thể tránh khỏi, thì ta càng có khả năng thay đổi có chủ đích và thích ứng.” Thay đổi có thể là động lực để tiến bộ.
Samuel hoàn toàn chấp nhận dòng chảy của cuộc sống và tự nhiên, cũng như chấp nhận đối mặt với thay đổi lớn lao nhất mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẽ trải qua: cái chết của chính mình.
“Tôi nghĩ những gì chúng ta không nhìn thấy sẽ lớn dần bên trong chúng ta, vì vậy chúng ta cần nói chuyện với nhau về cái chết. Những điều bạn không nói có thể gây ám ảnh và khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn. Cuộc sống là quý giá nhưng cần chấp nhận rằng nó có giới hạn.”
Đã hơn nửa thế kỷ kể từ khi ca sỹ, nhà hoạt động nhân quyền Sam Cooke đưa ra khẩu hiệu nhân quyền đầy sức mạnh và lạc quan: Sự Thay Đổi Sẽ Xảy Ra. Ca khúc có tựa đề A Change is Gonna Come vẫn còn nguyên tính hợp thời như ngày nào.
Và đã gần 40 năm kể từ khi nghệ sỹ Mỹ theo trường phái nghệ thuật khái niệm Jenny Holzer tạo ra những bản poster tính biểu tượng – Inflammatory Essays (Những bài luận đầy thôi thúc) – trong đó in những tuyên bố được lấy cảm hứng từ các lãnh tụ chính trị nổi tiếng như Lenin và Mao Trạch Đông, đem dán đầy khắp nơi ở New York trong thời 1979-1982. Một trong các thông điệp trên đó viết rằng: “Thay đổi là nền tảng căn bản của toàn bộ lịch sử, là bằng chứng cho thấy sức mạnh”.
Cuộc khủng hoảng hiện tại – và cuộc chiến vì bình đẳng xã hội và sắc tộc – khiến lời của Holzer càng trở nên có tiếng vang.
Và với nhiều cộng đồng bày tỏ đoàn kết và ủng hộ, có vẻ như những phẩm chất như lòng dũng cảm, sự kiên cường, lòng trắc ẩn, sự thấu cảm – và ý thức công bằng và công lý – vẫn tồn tại.
Chúng ta sẽ nhìn lại quãng thời gian đầy xáo trộn, thay đổi và biến động này như thế nào? Liệu chúng ta có ra khỏi tình trạng này với hiểu biết sâu sắc hơn và cái nhìn sâu hơn về nhân loại, các ưu tiên và giá trị của chúng ta? ‘Sức sống’ của chúng ta liệu đã được chứng minh?
Theo một bài viết đăng trong mục Vitals của trang mạng MSNBC, các nhà nghiên cứu ở Ý khi khảo sát nơi đàn ông có đời sống một vợ một chồng với những người hay sống lang chạ, họ nhận thấy người thuộc nhóm sau có nhiều nguy cơ bị chết vì suy tim.
Quả không sai, một người đàn ông tuổi trung niên có quan hệ tình dục với phụ nữ, mà người đó không phải là vợ mình, thường có khuynh hướng “chết trên lưng ngựa”.
Bác sĩ Marc Gillinov, không tham gia vào cuộc nghiên cứu này, là y sĩ giải phẫu tim tại bệnh viện Cleveland Clinic và cũng là đồng tác giả cuốn “Heart 411,” khảo sát về cái chết bất đắc kỳ tử trong khi giao cấu trong số những trường hợp về tim mạch khác, và xác nhận điều như nói trên.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại Học Florence bên Ý, xem xét tài liệu y khoa liên quan đến những trường hợp dối gạt như “thiếu chung thủy,” “ngoại tình,” và “phản bội.” Tuy nhiên họ khó có thể tìm thấy thống kê đáng tin cậy vì hầu hết đàn ông đều tránh không muốn nói đến chuyện này với các nhà khoa học.
Các tác giả của những nghiên cứu báo cáo rằng có từ 15% đến 25%, thậm chí lên đến từ 30% đến 50% đàn ông từng lừa phỉnh vợ ít nhất một lần trong đời. Kế đó các nhà nghiên cứu xét đến những yếu tố khác biệt về sức khỏe thể chất lẫn tinh thần, và mức độ nơi đàn ông sống một vợ một chồng với đàn ông sống lang chạ.
Từ lâu các bác sĩ được biết đàn ông sống thọ hơn nếu họ duy trì đời sống sinh lý đến tuổi già, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi sự quan hệ đó xảy ra giữa vợ chồng trong cùng một không khí gia đình. Đột tử thường xảy ra nhiều nhất khi người đàn ông có quan hệ tình dục với một người đàn bà không phải là người bạn trăm năm của mình.
Trong khi các bà vợ bị lừa phỉnh tin đây là kết quả của nghiệp báo, thì các tác giả của nghiên cứu cho đây là điều bất ngờ. Thông thường các ông lừa dối vợ đều có thân thể cường tráng và nhiều kích thích tố nam hơn, có nghĩa là họ trông mạnh khỏe hơn đàn ông sống chung thủy với vợ mình. Tuy nhiên, các tác giả tin rằng cái hành động cố giữ kín chuyện tình ái lăng nhăng của mình có thể dẫn đến nguy cơ bị đứng tim mà chết.
BS Gillinov nói: “Khi cố giữ bí mật chuyện ngoại tình người ta phải sống trong trạng thái căng thẳng nhiều hơn. Quí vị phải làm thêm điều mà bình thường bạn không phải làm.”
Đàn ông ngoại tình thường có quan hệ với phụ nữ trẻ tuổi hơn và họ cảm thấy cần phải hút thuốc, uống rượu và ăn nhiều hơn để theo kịp với đào nhí. Những thứ đó hợp lại đủ gia tăng nguy cơ bị cao máu, tim đập nhanh hơn và sống phập phồng lo âu, mà kết quả là dễ dẫn đến suy tim.
Nghiên cứu này được đăng trên tập san The Journal of Sexual Medicine. / Thân Trí
Chính sự kết hợp giữa lòng quyết tâm, khối óc tư duy độc lập, cùng với đạo đức nghề nghiệp, đã giúp Schultz đạt được những sự thành công rực rỡ như ngày hôm nay!
Schultz là Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Starbucks từ năm 1986 đến năm 2000 và một lần nữa từ 2008 đến 2017.
Tháng 4 năm 2017, Schultz từ chức CEO của Starbucks và trở thành chủ tịch điều hành của công ty này.
Sau đó, vào tháng 6 năm 2018, Schultz đã nghỉ hưu với tư cách là chủ tịch điều hành và trở thành chủ tịch danh dự của Starbucks.
Theo tạp chí Forbes, Howard Schultz hiện có khối tài sản ròng lên đến 3,3 tỷ USD.
Chính sự kết hợp giữa lòng quyết tâm, khối óc tư duy độc lập, cùng với đạo đức nghề nghiệp, đã giúp Schultz đạt được những sự thành công rực rỡ như ngày hôm nay!
Xuất phát điểm khiêm tốn!
Howard Schultz được sinh ra vào ngày 19 tháng 7 năm 1953, tại Mỹ. Ông xuất thân trong một gia đình vô cùng nghèo khó và thiếu thốn về mọi mặt, và vì vậy, tuổi thơ của ông cũng chẳng được êm đềm như bao đứa trẻ khác.
Cả gia đình ông cùng sống trong căn hộ giá rẻ được chính phủ trợ cấp. Cha của ông, Fred, chưa từng học xong trung học và phải làm rất nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, trong đó có tài xế xe tải, công nhân nhà máy và tài xế taxi. Dù lăn lộn với cuộc sống như vậy, nhưng người đàn ông này chưa bao giờ kiếm được quá 20.000 USD một năm và với việc phải nuôi đến ba đứa con, Fred không bao giờ có đủ khả năng để mua nổi một căn nhà.
Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, “Dốc hết trái tim”, Howard vẫn mô tả về cha của mình theo một hướng tích cực nhất, rằng ông là một người đàn ông trung thực, làm việc chăm chỉ, hay chơi bóng với các con vào cuối tuần và rất hâm mộ đội bóng chày Yankees.
Tuy nhiên, ở cha ông cũng có những khuyết điểm khác. Schultz đã chia sẻ với tạp chí “60 Minutes” rằng, cha của ông là một người tốt, nhưng ông ta đã lạm dụng sức khỏe của mình quá nhiều. Howard Schultz cũng từng mô tả về cha của mình như “một kẻ bị vùi dập”, một người “đã cố gắng hòa nhập vào một hệ thống, nhưng chính hệ thống đó đã bóp chết ông ta. Vì thiếu lòng tự trọng, Fred đã không bao giờ có thể leo ra khỏi cái hố đó và cải thiện cuộc sống của mình”.
Schultz kể thêm:Vào năm 1961, trong khi làm việc, cha của ông đã gặp tai nạn và bị vỡ mắt cá chân. Điều này đồng nghĩa với việc Fred sẽ không thể đi làm và cũng không có thu nhập nữa. Lúc đó mẹ của Schultz thì lại đang mang thai được 7 tháng. Gia đình ông đã rơi vào hoàn cảnh khốn đốn khi không có tiền. Thậm chí để đối phó với nhân viên thu tiền điện nước, cha mẹ của Schultz đã dặn những đứa con của mình, khi nhấc điện thoại phải giả vờ rằng, bố mẹ không có ở nhà.
Schultz chia sẻ: “Lúc đó, cả gia đình chúng tôi không có thu nhập, không có bảo hiểm y tế, không có tiền bồi thường cho người lao động, và chẳng còn gì để mất”.
Khi đó ông không dám nghĩ mình sẽ trở thành một doanh nhân như bây giờ. Và ông cũng không nghĩ rằng, chính ông lại là người có thể tạo ra việc làm cho người khác. Tuy vậy, Howard luôn tâm niệm một điều rằng: “Từ rất lâu rồi, trong thâm tâm tôi luôn có một ý niệm đó là nếu tôi ở một vị trí mà tôi có thể tạo ra sự khác biệt, tôi sẽ không bỏ lại bất kỳ ai ở phía sau”
Schultz đã nhận được học bổng bóng đá toàn phần và thuận lợi tốt nghiệp Đại học Bắc Michigan. Ông trở thành người duy nhất trong gia đình tốt nghiệp đại học và ông có chia sẻ rằng: “Đối với cha mẹ tôi, tấm bằng tốt nghiệp chính là giải thưởng lớn nhất mà tôi đã đạt được”
Trước khi tham gia vào Starbucks, Schultz đã từng làm việc trong bộ phận bán hàng và tiếp thị tại Xerox, trong 3 năm. Sau đó ông trở thành phó chủ tịch, kiêm tổng giám đốc của Hammarplast U.S.A, một công ty sản xuất đồ gia dụng của Thụy Điển.
Vươn lên từ những cấp bậc thấp nhất đến cao nhất!
Vào năm 1982, Schultz chuyển từ New York đến Seattle để tham gia vào Starbucks, với tư cách là Giám Đốc Vận Hành và Tiếp thị. Khi đó, công ty Starbucks mới chỉ có khoảng 4 cửa hàng.
Năm 1983, Schulz đã đến Ý du lịch, và thứ ông thích nhất ở nơi này chính là các quán cà phê ở Milan. Chúng mang đậm phong cách đường phố, nơi mọi người có thể gặp gỡ và trò chuyện cùng nhau, ngoài văn phòng và ngôi nhà của họ. Đây cũng là lý do vì sao, trong cùng một năm đó, ông đã rời Starbucks và thành lập công ty riêng, có tên là Il Giornale.javascript:if(typeof(admSspPageRg)!=’undefined’){admSspPageRg.draw(2020664);}else{parent.admSspPageRg.draw(2020664);}
Đến năm 1987, với sự giúp đỡ của vài nhà đầu tư, Schultz đã trở lại Starbucks để mua lại các cửa hàng cà phê của công ty này. Ông cũng đảm nhận vị trí giám đốc điều hành tại Starbucks. Tại thời điểm đó, toàn bộ hệ thống của công ty đã có khoảng 17 cửa hàng.
Schultz đã giúp Starbucks phát triển vượt bậc, nhưng bên cạnh đó, ông cũng không quên việc đảm bảo quyền lợi của đội ngũ nhân viên của mình. Năm 1988, Schultz cam kết cung cấp bảo hiểm y tế cho những người lao động bán thời gian và toàn thời gian, nếu họ có đủ các điều kiện cần thiết. Năm 1991, Starbucks bắt đầu phát hành cổ phiếu, và tạo điều kiện cho các nhân viên của mình có cơ hội để trở thành đối tác của công ty.
Tuy nhiên, Schultz cũng đã phải trải qua rất nhiều khó khăn khi điều hành doanh nghiệp này. Vào năm 2015, Schultz đã lập một kế hoạch để các nhân viên pha chế, viết dòng chữ “Race Together” trên các cốc cà phê của Starbucks. Tuy vậy, kế hoạch này đã khiến nội bộ công ty xảy ra mâu thuẫn, và vì thế, Schultz đã hủy bỏ kế hoạch này sau vài ngày triển khai.
Vào tháng 4 năm 2015, có một sự kiện hy hữu đã khiến Starbucks bị chỉ trích rất nhiều. Tại một cửa hàng của Starbucks ở Philadelphia, người quản lý đã báo cảnh sát vì 2 người đàn ông da đen, trong lúc chờ đối tác, đã sử dụng nhà vệ sinh mà chưa mua gì. Sau đó, Schultz đã tạm đóng cửa tất cả các cửa hàng ở Hoa Kỳ, ngay lập tức đào tạo lại các nhân viên và giúp họ thay đổi thành kiến đối với vấn đề phân biệt chủng tộc.
Khi nói về sự việc này, Schultz cho biết: “Đây là nghĩa vụ về mặt đạo đức mà một công ty như Starbucks buộc phải có trách nhiệm với nó”
Vì thế không có gì ngạc nhiên khi Starbucks đã thành công như vậy. Ngày nay, hệ thống các cửa hàng của Starbucks đã có mặt ở hơn 77 quốc gia, với hơn 350.000 nhân viên.
Một nhà lãnh đạo đầy khiêm tốn!
Schultz thật sự là một nhà lãnh đạo rất khiêm tốn.
Ông chia sẻ với đài CNBC rằng: “Starbucks đã kinh doanh được hơn 45 năm. Bạn biết đấy, tôi không đặt mình ngang hàng với Tom Brady hay bất kỳ vận động viên xuất sắc nào khác. Với tôi, kinh doanh là một môn thể thao đồng đội. Điều này luôn đúng dù thế giới này có thay đổi như thế nào đi chăng nữa. Và bạn thấy đấy, Starbucks có một đội ngũ lãnh đạo rất tuyệt vời, và chính vì thế, những gì mà tôi đã đạt được còn nhiều hơn tất cả những thứ mà tôi đã đầu tư vào nó”
Nhưng có một điều mà ai trong chúng ta cũng sẽ phải hiểu chính là, Schultz mới thật sự là người đóng một vai trò vô cùng quan trọng đằng sau thành công và quá trình phát triển rực rỡ của Starbucks.
Howard Schultz cũng đã nhận được rất nhiều giải thưởng lớn và danh giá như, giải thưởng “Lãnh đạo Xuất sắc” của Trường Quản lý Kellogg thuộc Đại học Northwestern, giải thưởng của Horatio Alger dành cho những người đã vượt qua nghịch cảnh để đạt được thành công, giải thưởng của “Rev. Theodore M. Hesburgh về Đạo đức Kinh doanh” do Trường Kinh doanh Mendoza của Đại học Notre Dame trao tặng, giải thưởng của “Botvinick về Đạo đức Kinh doanh” do Trường Kinh doanh Columbia trao tặng. Ông cũng là người đầu tiên nhận được giải thưởng “Lãnh đạo Toàn cầu của John Wooden” do Trường Quản lý UCLA Anderson trao tặng.
Ngoài ra Schultz cũng là một trong những nhà văn có cuốn sách bán chạy nhất. Sau khi cuốn sách đầu tiên của mình được đón nhận nồng nhiệt, Schultz đã xuất bản thêm 3 cuốn sách nữa bao gồm: cuốn “For Love of Country: What Our Veterans Can Teach Us About Citizenship, Heroism, and Sacrifice”, xuất bản vào năm 2014, cuốn “Onward: How Starbucks Fought for Its Life without Losing Its Soul”, xuất bản vào năm 2011 và cuốn “From the Ground Up: A Journey to Reimagine the Promise of America”, được xuất bản vào năm 2018.
Và có lẽ chẳng còn bao lâu nữa, Schultz sẽ thật sự trở thành một ứng cử viên tổng thống rất nặng ký trong tương lai.
Schultz thừa nhận rằng, hành trình gây dựng sự nghiệp của ông có một chút may mắn, nhưng quá trình đó cũng cần một sự quyết tâm mãnh liệt và sự bền bỉ không ngừng.
Ông chia sẻ: “Tôi nắm lấy cuộc sống của mình trong tay, học hỏi từ bất kỳ ai, nắm lấy mọi cơ hội và từng bước tạo nên thành công cho bản thân mình”
Khi Schultz tuyên bố rời Starbucks vào tháng 6 năm 2018, ông cũng đã có những dòng suy ngẫm về sự khởi đầu khiêm tốn của mình rằng: “Tôi vẫn cảm thấy mình như một đứa trẻ lớn lên trong một ngôi nhà công cộng tại Brooklyn. Tôi đang sống trong Giấc mơ của nước Mỹ và tôi vẫn còn sẽ có nhiều ước mơ khác dành cho Starbucks và cho tất cả mọi người”.
Già hóa dân số , tỷ lệ sinh giảm kỷ lục đã trở thành một vấn đề tại những nền kinh tế lớn của châu Á. Các nước Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản đều đang đối diện với bài toán khó này. Đây đều là các nước có tỷ lệ già hóa dân số cao nhất tại châu Á.
“Địa chấn dân số” là một thuật ngữ được đặt ra bởi tác giả và nhà nhân khẩu học người Anh Paul Wallace. Ông đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ sức tàn phá của quá trình già hóa dân số đối với một quốc gia với những hậu quả còn lớn hơn nhiều so với thảm họa tự nhiên như một trận động đất.
Dân số Trung Quốc sẽ giảm đến 50% trong vòng 45 năm tới
Tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng ngày 1-10 dẫn một nghiên cứu mới công bố dự báo dân số Trung Quốc sẽ giảm nhanh trong 45 năm tới. Dự báo dựa trên tỷ lệ sinh 1,3 con/phụ nữ vào năm ngoái, dưới mức 2 con/phụ nữ cần thiết để duy trì ổn định dân số hiện tại hơn 1,4 tỉ người. Nếu tỷ lệ sinh giảm xuống 1, dân số sẽ giảm 50% trong 29 năm. Theo các nhà nghiên cứu, những thông tin này đã cho thấy những thay đổi và xu hướng phát triển dân số trong tương lai ở Trung Quốc.
Theo kết quả điều tra dân số, năm 2020, số người từ 60 tuổi trở lên của Trung Quốc lên tới 264 triệu người, chiếm 18,7% dân số, trong đó số người từ 65 tuổi trở lên đạt 190 triệu người, chiếm 13,5% dân số. Đáng nói là ở thời điểm có tỉ lệ người già như Trung Quốc hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của Mỹ, Nhật Bản, hay Hàn Quốc đều cao gấp 2,5 – 3 lần so với Trung Quốc. Mặt khác, dự kiến năm sau, Trung Quốc sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số nghiêm trọng, khi tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm trên 14% dân số. Như vậy, tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên tăng từ 7% lên 14% dân số chỉ trong 21 năm, mức nhanh nhất trên thế giới từ trước tới nay.
Từ nay đến năm 2050 được dự báo là thời kỳ cao điểm già hóa dân số ở Trung Quốc. Và đây cũng là thời kỳ then chốt của quá trình hiện đại hóa đất nước. Do đó, vấn đề già hóa dân số được xác định là một trong những thách thức lớn nhất của Trung Quốc trong quá trình thực hiện mục tiêu 100 năm lần thứ hai, trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ.
Khoảng 15% tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua, được cho là nhờ sự đóng góp của lý do “dân số vàng” này. Có thể nói Trung Quốc đã rất thành công trong khoảng thời gian qua nhờ tận dụng rất tốt lợi thế về quy mô và cơ cấu “dân số vàng”. Chính vì vậy, những lo ngại về mất cân đối cơ cấu dân số, sự già nhanh của xã hội, đang đặt áp lực lớn cho nước này. Bắc Kinh đang chịu áp lực cần thực hiện những biện pháp gồm từ bỏ các chính sách kế hoạch hóa gia đình, thay đổi mô hình kinh tế vốn dựa vào dân số khổng lồ và lực lượng lao động dồi dào, đồng thời lấp đầy những khoảng trống trong y tế và lương hưu.
Đại dịch COVID-19 có thể ảnh hưởng đến việc sinh con, nhưng các chuyên gia cho rằng nhìn chung khó có khả năng tỷ lệ sinh tăng trở lại tại Trung Quốc, nhất là do số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm. Sau hơn 35 năm thực hiện chế độ sinh 1 con, năm 2016 Trung Quốc cho phép sinh 2 con. Nhưng liên tiếp 4 năm, nước này ghi nhận trẻ em ra đời giảm mạnh theo từng năm.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các yếu tố kinh tế là lực cản chính với tỷ lệ sinh. Người dân không dám sinh con vì áp lực kinh tế gia tăng. Các dịch vụ nuôi con và chăm sóc con cũng thiếu nghiêm trọng. Nghiên cứu cho thấy ở Trung Quốc, cứ mỗi mét vuông đất tăng 1.000 nhân dân tệ thì tỷ lệ người dân sinh 1 con giảm 2%, sinh 2 con giảm 5%.
Lãnh đạo Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia cho biết Trung Quốc sẽ ban hành một loạt các giải pháp hỗ trợ kinh tế – xã hội mạnh mẽ hơn để khuyến khích sinh 3 con. Các chính sách đưa ra sẽ nhắm đến giảm chi tiêu trong thai sản, khám chữa bệnh, học hành. Ngoài ra, một dự án phát triển các trung tâm cộng đồng tại 150 thành phố để tạo ra 500.000 chỗ giữ trẻ cũng nằm trong kế hoạch 5 năm tới.
Hàn Quốc lần đầu tiên suy giảm dân số tự nhiên
Hồi tháng 2, Cơ quan Thống kê Hàn Quốc công bố dữ liệu cho thấy nước này lần đầu tiên ghi nhận suy giảm dân số tự nhiên trong năm 2020 trong bối cảnh phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng và tỷ lệ sinh thấp kéo dài. Theo số liệu sơ bộ, Hàn Quốc ghi nhận số trẻ chào đời trong năm 2020 ở mức thấp kỷ lục là 272.400 trẻ, giảm 10% so với năm 2019, trong khi số người tử vong lại ở mức cao kỷ lục là 305.100 người, tăng 3,4% so với năm 2019.
Do vậy, dân số nước này giảm 33.000 người trong năm 2020, đánh dấu năm đầu tiên Hàn Quốc ghi nhận suy giảm dân số tự nhiên kể từ năm 1970 khi Cơ quan Thống kê nước này bắt đầu thu thập dữ liệu. Suy giảm dân số tự nhiên là tình trạng số người chết nhiều hơn số trẻ được sinh ra trong cùng một thời điểm
Ngoài ra, tổng tỷ suất sinh (TFR), tức là số con trung bình mà một phụ nữ sinh ra trong đời, tại Hàn Quốc trong năm 2020 ở mức thấp kỷ lục mới là 0,84 con/phụ nữ, giảm so với 0,92 con/phụ nữ trong năm 2019. Đây là năm thứ 3 liên tiếp, tổng tỷ suất sinh ở Hàn Quốc giảm dưới 1%.
Hàn Quốc cũng là nước duy nhất trong số 37 nước thành viên của Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD) có tổng tỷ suất sinh dưới 1%. Kể từ năm 2018, tổng tỷ suất sinh trung bình ở các nước thành viên OECD là 1,63 con/phụ nữ. Tổng tỷ suất sinh thấp báo động nhiều vấn đề về nhân khẩu học, trong đó có sự sụt giảm lực lượng lao động do tỉ lệ sinh thấp.
Theo dự báo, Hàn Quốc sẽ vượt qua ngưỡng của một “xã hội siêu già hóa” vào năm 2025. Khi đó, số người già từ 65 tuổi trở lên sẽ chiếm 20% dân số. Trong một tuyên bố đăng tải trên Twitter ngày 23/6, Phó thủ tướng Hàn Quốc Hong Nam-ki nhấn mạnh: “Nếu không có phản ứng triệt để, Hàn Quốc dự kiến sẽ trải qua một cơn địa chấn dân số từ năm 2030 – 2040”.
Các nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy dân số già sẽ kéo tụt năng lực sản xuất của một nền kinh tế, dẫn tới Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sụt giảm. Đối với Hàn Quốc, tỷ lệ sinh thấp và dân số già hóa đặt ra mối lo ngại về thiếu hụt nguồn nhân lực, làm tăng chi phí trợ cấp xã hội, đồng thời giảm triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ 4 châu Á.
Theo Nikkei Asian Review, trong thập kỷ qua, dù đã dành 130.000 tỷ won (tương đương 116 tỷ USD) để ngăn chặn sự suy giảm tỷ lệ sinh nhưng Chính phủ Hàn Quốc vẫn chưa thu được kết quả đáng kể. Hàn Quốc đang vật lộn với tỉ lệ sinh giảm do ngày càng có nhiều người trẻ kết hôn muộn, lựa chọn độc thân hoặc không muốn có con do kinh tế trì trệ kéo dài.
Để khắc phục tình trạng trên, các chuyên gia cho rằng, Hàn Quốc nên đưa ra những chính sách dài hạn và toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội đang cản trở phụ nữ mang thai, sinh đẻ và chăm sóc con cái. Để thực hiện Kế hoạch cơ bản lần thứ 4 về mức sinh thấp và già hóa giai đoạn 2021 – 2025, chính phủ Hàn Quốc đã quyết định đầu tư tổng cộng 196.000 tỷ won (172,3 tỷ USD) từ nay cho đến năm 2025. Phó Thủ tướng Hong Nam-ki cũng cho biết chính phủ sẽ tiếp tục thảo luận về vấn đề này.
Dân số Nhật Bản giảm năm thứ 8 liên tiếp
Dữ liệu công bố hôm 4-8 của Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản cho thấy dân số nước này tiếp tục chứng kiến mức giảm với biên độ lớn nhất kể từ năm 2014. Kết quả điều tra dựa trên số lượng đăng ký thường trú cơ bản từ ngày 1-1 đến 31-12-2020 cho thấy, tổng dân số Nhật Bản đã giảm xuống còn hơn 126,65 triệu người – tức giảm gần 484.000 người, tương đương 0,38% so với năm 2019, đây là mức giảm lớn nhất và là năm giảm thứ 8 liên tiếp kể từ năm 2014.
Trong khi đó, theo dữ liệu được Bộ Nội vụ Nhật Bản công bố ngày 20-9, số người trên 65 tuổi tại nước này đã tăng thêm 220.000 người so với cùng kỳ, lên tới 36,4 triệu người. Nhật Bản hiện là nước đứng đầu thế giới về tỉ lệ người cao tuổi trong tổng dân số với 29,1%.
“Tăng trưởng kinh tế” và “phúc lợi xã hội” đang trở thành 2 vấn đề lớn từ hiện tượng già hóa. Tăng trưởng kinh tế bị chi phối bởi lực lượng lao động, song nguồn dân số này lại đang giảm thiểu nhanh chóng do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh. Ngoài ra, lực lượng lao động giảm cũng khiến thị trường nội địa bị thu hẹp, sức hấp dẫn đầu tư giảm. Tiềm năng tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, tiêu biểu là kinh tế cũng giảm sút theo.
Còn về phúc lợi xã hội, theo một báo cáo của Chính phủ Nhật Bản công bố vào tháng 6-2019 đã thừa nhận hệ thống lương hưu công cộng của nước này sẽ quá tải và không thể đảm bảo mức sống ổn định cho người dân nếu số người già tiếp tục gia tăng. Chi phí an sinh xã hội, trong đó phần lớn dành cho người cao tuổi, chiếm tới 1/3 ngân sách đã chi của Chính phủ Nhật Bản trong năm tài khóa 2018.
Để thực hiện chính sách an sinh xã hội và đảm bảo nguồn lao động trong bối cảnh dân số giảm, Chính phủ Nhật Bản đang nỗ lực đảm bảo cơ hội việc làm cho những người cao tuổi có nguyện vọng. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua dự luật kêu gọi các doanh nghiệp cho phép người lao động làm việc đến 70 tuổi. Dự luật này có hiệu lực từ tháng 4-2021.
Trên thực tế, số người cao tuổi có việc làm tại Nhật Bản tiếp tục kéo dài mạch tăng liên tục từ năm 2004. Tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên có việc làm đạt 25,1%, cao thứ 2 trong số các nền kinh tế lớn, theo số liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Các công ty Nhật Bản ngày càng phụ thuộc vào những người đến tuổi nghỉ hưu để lấp đầy vị trí tuyển dụng. Một nhà bán lẻ thậm chí còn loại bỏ giới hạn độ tuổi của nhân viên.
Ngoài ra, thu hút lao động nước ngoài cũng là một biện pháp giúp Nhật Bản giải quyết tình trạng khan hiếm lao động ở một số ngành nghề cần nhiều sức khỏe mà người cao tuổi không đáp ứng được. Nhiều quốc gia đang khuyến khích lực lượng lao động nhập cư để giải quyết vấn đề về dân số, nhưng đó vẫn chỉ là giải pháp tình thế nếu tỷ lệ sinh tiếp tục không có dấu hiệu cải thiện.
Bên cạnh việc ứng phó với thách thức thiếu hụt lao động, trước sức ép từ dân số già, Chính phủ Nhật Bản đang thúc đẩy tăng tỷ lệ sinh đẻ tại nước này thông qua chương trình trợ cấp để khuyến khích giới trẻ ở Nhật Bản kết hôn và sinh con. Theo khảo sát do Viện Nghiên cứu dân số và An sinh xã hội quốc gia Nhật Bản thực hiện, 17,8% phụ nữ và 29,1% nam giới Nhật Bản độc thân từ 25 đến 34 tuổi cho biết lý do họ chưa kết hôn là vì tài chính. Trong khi đó, tài chính cũng là trở ngại lớn nhất khiến các cặp vợ chồng ngại sinh con dù Chính phủ Nhật Bản đã miễn học phí đối với giáo dục mầm non từ năm 2019.