Cảnh quan đặc trưng của Ustyurt là những khối núi đá vôi cao khoảng 200 m bị bào mòn, được người dân địa phương gọi là chink. Tại đây còn xuất hiện các hồ muối lớn trong thời gian ngắn ngủi sau những trận mưa hiếm hoi vào mùa đông và mùa hè.
Cao nguyên Ustyurt là sa mạc đất sét xuyên biên giới trải dài qua Turkmenistan, Kazakhstan và Uzbekistan. Vùng đất rộng khoảng 200.000 km2, gần bằng diện tích của Anh và Scotland cộng lại, nhưng có lượng mưa ít ỏi và nhiệt độ theo mùa dao động từ âm 40 độ C đến 40 độ C. Những công trình cổ xưa còn sót lại là bằng chứng cho thấy các bộ lạc du mục đã sống sót giữa thiên nhiên khắc nghiệt. Ảnh: Brodyaga.
Cảnh quan đặc trưng của Ustyurt là những khối núi đá vôi cao khoảng 200 m bị bào mòn, được người dân địa phương gọi là chink. Tại đây còn xuất hiện các hồ muối lớn trong thời gian ngắn ngủi sau những trận mưa hiếm hoi vào mùa đông và mùa hè. 21 triệu năm trước, cao nguyên Ustyurt là một phần của biển Tethys, nơi được cho đã phân tách nên biển Đen, Aral và Caspi ngày nay. Do vậy, du khách có thể dễ dàng tìm thấy những mảnh hóa thạch của sinh vật biển cổ đại khi đến Ustyurt. Ảnh: Behance.
Khu bảo tồn thiên nhiên Ustyurt nằm ở vùng Mangystau, phía tây nam Kazakhstan. Khu bảo tồn được thành lập vào năm 1984, có diện tích khoảng 223.000 ha và trở thành nơi sinh sống của gần 300 loài sinh vật bao gồm nhím Brandt, chồn hôi cẩm thạch, chim ô tác Houbara, lợn rừng … Đặc biệt, đây là “ngôi nhà” của một cá thể báo Ba Tư, loài động vật quý hiếm đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Ảnh: Pinterest.
Nằm rải rác xung quanh các vách đá của cao nguyên Ustyurt là những công trình bằng đất, đá được gọi là cánh diều sa mạc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các phi công quân sự Pháp và Anh, những người đầu tiên phát hiện ra công trình bí ẩn vào thập niên 1920. Hiện nay, ước tính có hơn 5.800 cánh diều sa mạc tồn tại trên thế giới, trong đó có khu vực thuộc Kazakhstan và Uzbekistan của cao nguyên Ustyurt. Ảnh: SeenThis.
Trong những năm qua, các nhà khảo cổ học cho rằng cánh diều sa mạc là nơi để nuôi động vật trong nhà của người cổ đại cách đây hơn 2.000 năm. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng gần đây cho thấy cấu trúc hình phễu này được sử dụng để bẫy linh dương Saiga, loài động vật nguy cấp từng hiện diện ở khắp vùng thảo nguyên Trung Á. Số ít bộ lạc du mục hiện vẫn sử dụng cánh diều sa mạc để nhốt cừu Urial hay linh dương Jairan trước khi làm thịt chúng. Ảnh: Pinterest.
Theo giáo sư Alison Betts, cao nguyên Ustyurt là địa điểm yêu thích của người du mục để lưu trú vào mùa đông từ thời kỳ đồ sắt đến đầu thế kỷ 20. Đồng bằng châu thổ sông Amu Darya tiếp giáp với phía đông Ustyurt còn trở thành nơi nhiều nền văn minh hình thành và phát triển. Đây là khu vực nằm trên Con đường Tơ lụa, nhờ đó hình thành mạng lưới buôn bán nhộn nhịp ở Âu-Á. Ảnh: dreamstime.
Các nhà khoa học đang kiến nghị mở rộng diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Ustyurt của Kazakhstan qua phần lãnh thổ của Turkmenistan và Uzbekistan. Theo tiến sĩ Crassard, việc này sẽ giúp họ tiếp tục công việc nghiên cứu hệ sinh thái của sa mạc đất sét, cũng như hiểu hơn cách con người trong quá khứ và hiện đại tương tác với môi trường tự nhiên. Đồng thời, sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia tạo nên cách quản lý thống nhất, có thể đệ trình UNESCO công nhận cao nguyên Ustyurt là di sản thế giới trong tương lai. Ảnh: 123rf.
Khán giả tôn thờ Charlie Chaplin (ở Việt Nam ông được biết tới với tên Vua hề Sác lô), nhưng với vợ con và bạn diễn, ông là con quỷ tàn nhẫn. Những chi tiết thú vị như thế vừa tiết lộ trong một cuốn tiểu sử viết về Chaplin.
“Xin chào mừng bạn tới với thế giới của Nam London trong thập kỷ cuối của thế kỷ 19” – cuốn tiểu sử của Peter Ackroyd viết về Charlie Chaplin mở màn bằng những lời như thế – “Mùi hương tràn ngập trong không khí tới từ dấm, phân chó, khói thuốc, bia… kết hợp thành cái mùi kinh tởm của đói nghèo”.
Tuổi thơ khốn cùng
Hai chữ “đói nghèo” ấy đã ám ảnh gần như toàn bộ tuổi thơ của Charlie Chaplin, xuất phát từ một gia cảnh vô cùng đặc biệt. Cha ông chết vì nghiện rượu ở tuổi 38. Mẹ ông bị tống vào trại thương điên trong 17 năm trời.
Cậu bé Chaplin không nơi nương tựa phải tự bấu víu lấy cuộc đời mà sống. Năm lên 7 tuổi, ông ở trong trại cứu tế. Năm lên 8, ông ở trường dành cho trẻ vô gia cư. Năm 9 tuổi, ông ngủ vạ vật trên các con phố ở Nam London.
Nhưng năm 26 tuổi, Chaplin trở thành một trong những người nổi tiếng nhất Trái đất. Với mức thu nhập 670.000 USD mỗi năm, ông còn là người kiếm được nhiều tiền nhất và giàu nhất khi đó.
Số phận dường như sẽ khiến Chaplin phải gia nhập hàng ngũ những kẻ vô gia cư, lang thang sống ở Nam London. Nhưng cuộc đời rẽ sang hướng khác nhờ một lần ông nhận được vai diễn một người hầu nhỏ tuổi trong gánh hát chuyên diễn vở Sherlock Holmes.
Dù vai diễn của Chaplin chỉ rất nhỏ, ông vẫn tìm cách thu hút sự chú ý của khán giả. “Cậu ấy thành công trong việc biến vai một người hầu nhỏ tuổi thành nhân vật được khán giả ưa thích” – một nhà phê bình nhận xét.
Chaplin đã gạch chân các nhận xét như thế về mình và lưu lại mọi bài phê bình trong suốt cuộc đời. Gánh hát trên mở đường để ông được gia nhập một gánh hát hài kịch quy mô lớn hơn và thêm lần nữa ông lại chinh phục khán giả với lối diễn rất tự nhiên không gượng gạo.
“Nước Mỹ, ta đang tới để chinh phục ngươi”
Ngoài sân khấu, cá tính dữ dội, không chấp nhận thỏa hiệp của Chaplin đã hình thành hoàn chỉnh. Ông chỉ trích toàn bộ gánh hát là kém cỏi và dù mới 14 tuổi, đã khiến họ cáu giận khi liên tục chỉ đạo, nói rằng họ phải diễn như thế nào để tạo tác động tốt hơn. Nhưng trên sân khấu, khán giả yêu mến Chaplin và ông cũng biết rất rõ cách thu hút sự chú ý của họ bằng những cách như trượt ngã hay khiến quần mình tụt xuống, thường là khi có ai đó đang diễn trên sân khấu.
Tham vọng của ông vô cùng lớn lao. Khi tới Mỹ cùng một gánh hát vào năm 1910, ông đã hét lớn với công chúng: “Nước Mỹ, ta đang tới để chinh phục ngươi. Mọi người đàn ông, đàn bà và trẻ em sẽ nhắc tới tên ta – Charles Spencer Chaplin!’
Và ông đã làm được điều mình nói. Trong vòng chỉ 1-2 năm, ông đã chuyển từ gánh hát sang Công ty hài kịch Keystone, tham gia vô số bộ phim, có lúc tới 4 phim trong 1 tháng. Chỉ vài tháng kể từ khi gia nhập Keystone, ông đã được trao quyền thủ diễn chính trong phim. Rồi khi các bộ phim của mình bán chạy hơn hẳn những phim khác của Keystone, ông đòi quyền đạo diễn.
Vào năm 1915, Chaplin đã trở nên vô cùng nổi tiếng. Đã có những con búp bê, mũ, tất, bộ bài và kẹo cao su mang hình ông. Chúng được bán ở mọi ngóc ngách trên toàn cầu.
Truyện tranh thi nhau viết về ông. Trẻ em trên thế giới hát các bài hát về ông ở sân chơi. Người ta đồn rằng từ tiếng Anh duy nhất mà nhiều người sống ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ biết là “Charlee!”.
“Ông ấy, giống Shakespeare, đã không thể đánh giá được thế mạnh của việc là một nghệ sĩ (tài giỏi) do bản năng, trong những năm sơ khai của một loại hình nghệ thuật mới” – Ackroyd nhận xét.
Đã có lúc Ackroyd dành nhiều trang viết chỉ để so sánh Chaplin với văn hào Charles Dickens. Cả 2 đều có tuổi thơ cay đắng, đều trách mẹ, đều thích đàn đúm nhưng lại cực kỳ cô độc, đều khó kiểm soát bản thân, đều cực giàu nhưng sống trong nỗi sợ đột nhiên thành nghèo khó.
Trong một đoạn khác, Ackroyd so sánh giữa Chaplin và trùm phát xít Adolf Hitler, với 2 người sinh cách nhau có 4 ngày trong tháng 4/1889. Cả 2 đều có những ông bố nghiện rượu, từng sống đời lang thang, đều là những người có khả năng trình diễn gây hớp hồn kẻ khác, tiến lên nhờ động cơ thương thân, cáu giận rất nhanh và có chút hoang tưởng trong tính cách.
Họ còn giống nhau ở bộ ria mép, dù của Hitler là thật và Chaplin là giả. Chaplin từng đóng vai Adolf Hitler trong phim hài The Great Dictator của ông. Hitler được cho là đã xem phim một mình và xem lại rất nhiều lần.
Chaplin kết thúc bộ phim đó với một bài phát biểu nổi tiếng cổ súy cho tình yêu và sự khoan dung: “Chúng ta muốn sống vì hạnh phúc của người khác, chứ không phải sự khổ đau. Chúng ta không muốn sự thù ghét và khinh miệt người khác. Sự hiểu biết khiến chúng ta trở nên cay độc. Sự khôn ngoan làm chúng ta cứng rắn và tàn nhẫn. Chúng ta suy tính quá nhiều và cảm nhận quá ít”.
Cuộc sống chìm trong cô độc
Nói vậy nhưng trong đời tư, Chaplin lại là một “con quỷ” không khoan dung. Vợ đầu của ông, một cô gái trẻ mới 16 tuổi, đã ly hôn vì chồng quá tàn bạo. Khi bị buộc phải cưới người vợ thứ 2, một cô gái 16 tuổi khác đã lỡ mang bầu với mình, Chaplin từng nói rằng cô nên nhảy ra khỏi chuyến tàu đưa họ đi trăng mật để tự sát và qua đó sẽ “giải thoát cho nỗi khổ đau của bản thân”.
Phía sau nhân vật Charlie Chaplin dễ mến trên màn bạc là một người đàn ông không bao giờ sống ở nhà.”Ông ấy luôn sống trong vai diễn và không có vai diễn, ông trở nên lạc lối” – một người bạn cùng thời từng nhận xét – “Ông ấy không thể tìm thấy sự tĩnh tâm và trong những khoảnh khắc đau khổ, ông không có gì để dựa vào”.
Tất cả những người đàn ông nổi tiếng cùng thời, từ Thủ tướng Anh Winston Churchill cho tới thủ lĩnh chính trị Ấn Độ Mahatma Gandhi đều đã từng ăn tối cùng Chaplin. Ông thảo luận nghệ thuật với Picasso và vấn đề thất nghiệp với David Lloyd George. Nhà văn Pháp Marcel Proust từng tỉa ria mép theo phong cách Chaplin và V.I. Lenin từng nói Chaplin là người đàn ông duy nhất trên thế giới ông muốn gặp.
Nhưng với những người làm việc cùng, Chaplin là kẻ thật khó ưa. Trong mắt Chaplin, chẳng ai là đủ giỏi. Trong các phim làm cuối đời, ông cấm việc quay cận cảnh vào các diễn viên phụ bởi việc này sẽ khiến khán giả ít chú ý tới hoạt động diễn xuất của ông.
Minh tinh Marlon Brando, người từng làm việc với Chaplin trong phim A Countess From Hong Kong đầy thảm họa, gọi ông là “con người tàn nhẫn, đáng sợ… có thể là người ác độc nhất tôi từng gặp”.
Con cái trong cuộc hôn nhân thứ 4 tương đối hạnh phúc của Chaplin cũng sợ gặp ông. Chúng thường bị ông phạt nếu chỉ phạm một trong rất nhiều quy định ông đặt ra. Chúng không được xem TV và các bộ phim duy nhất được chiếu trong nhà là phim của ông. Theo Ackroyd, Chaplin còn không cho phép con cái coi nhẹ các thành tựu kiệt xuất của mình.
“Thói coi mình là trung tâm đó đã khiến ông ấy bị lưu đày vĩnh viễn (trong cuộc sống riêng) ” – Ackroyd nhận xét. Và như thế cuộc sống của “Vua hề Sác lô” đã không thể thoát nổi sự bất hạnh, nỗi buồn và cô độc như thời ông còn thơ ấu ở Nam London, bất chấp việc đã có tất cả.
MỸKhi đại dịch giải phóng nhân viên khỏi check in văn phòng và những những cái nhìn soi mói của đồng nghiệp, nhiều người đã nhìn thấy cơ hội tăng lương gấp đôi.
Đây là bí mật của một nhóm nhỏ những người làm trong ngành công nghệ, ngân hàng hay bảo hiểm. Họ tìm ra cách để tăng gấp đôi lương: Làm hai công việc toàn thời gian, từ xa.
Làm việc tại nhà, họ chuyển đổi giữa hai máy tính, cố gắng tránh các cuộc họp kéo dài. Đôi khi họ đăng nhập cả hai cuộc họp cùng lúc và đôi khi phải sử dụng đến ngày nghỉ phép để tập trung cho dự án ở công ty kia.
Một kỹ sư phần mềm 29 tuổi (giấu tên) tiết lộ, anh đang đồng thời làm việc cho một công ty truyền thông và một công ty tổ chức sự kiện từ tháng 6. Anh ước tính chỉ đăng nhập hệ thống 3-10 giờ làm việc mỗi tuần khi làm hai việc. “Phần còn lại chủ yếu tham gia các cuộc họp và giả vờ có vẻ bận rộn”, anh nói.
Ý tưởng này đến với anh trong một lần vô tình biết tới Overemployed – một trang web góp phần thúc đẩy hiện tượng làm hai việc cùng lúc, thành lập vào tháng 4/2020 bởi một người tự xưng là “Isaac”. Trên đó, Isaac viết anh đã định nghỉ việc sau khi nhận ra bị đối công ty đối xử bất công. Nhưng sau khi đọc một cuốn sách, anh quyết định vẫn giữ công việc cũ và đã kiếm thêm được một công việc mới cách đó 10 km. Làm hai việc cùng lúc như một “hàng rào chống lại sự không chắc chắn trong đại dịch.
Một số người làm trong các lĩnh vực công nghệ, bảo hiểm, truyền thông hay ngân hàng đang làm hai công ty cùng lúc nhờ WFH. Ảnh minh họa: Raconteur
“Chiến lược này đã mang lại cho tôi hơn 300.000 USD thu nhập bổ sung. Đây là khoản thu nhập tôi sẽ bỏ qua nếu chỉ đơn giản là bỏ việc”, anh viết. Thông điệp của trang web là “Làm hai việc từ xa, đạt tự do tài chính”..
Một người đồng sáng lập khác 38 tuổi đang làm việc cho hai công ty công nghệ ở khu vực vịnh San Francisco. Cùng với Isaac, anh đưa ra các mẹo cho người khác trong việc qua mặt sếp, đồng nghiệp và giữ hồ sơ LinkedIn.
Tờ Wall Street Journal đã phỏng vấn gần chục người làm hai công việc toàn thời gian trong đại dịch. Hầu hết giấu tên vì sợ bị sa thải, nhưng tất cả nói họ đang đi đúng hướng để kiếm được tổng cộng từ 200.000 USD đến gần 600.000 USD một năm, bao gồm cả tiền thưởng. Họ đã trả hết những khoản nợ vay sinh viên, tích lũy tài khoản tiết kiệm đại học cho con cái và mua mọi thứ từ nhẫn đính hôn đến một chiếc xe thể thao…
Kỹ sư phần mềm 29 tuổi nói rằng, số tiền thu được thật đáng kinh ngạc và sự căng thẳng cũng vậy: “Tôi sẽ thức dậy vào buổi sáng và thường nghĩ “đây là ngày mình sắp bị bại lộ”.
Nhờ làm việc từ xa, đại dịch đã cho nhiều người những cơ hội mới để kiếm tiền. Một kỹ sư phần mềm ở châu Âu, cho biết đã làm cùng lúc hai việc đầu tiên vào năm 2018. Khi đó anh nói với công ty ban đầu rằng sẽ tham gia một khóa học về an ninh mạng ở London trong vài tuần nên làm từ xa. Khi đến đây, anh dành những giờ lên lớp không tồn tại để làm công việc mới và kiếm thêm 350 USD mỗi ngày. Kể từ đó, anh đã thực hiện một số công việc kép từ xa khác. Anh dùng hai máy và chuyển sang chế độ âm thanh. Một lần, anh mở loa quá nhanh trước khi tắt âm thanh trên máy tính kia. Trong năm giây, cuộc họp một có thể nghe thấy cuộc họp hai. Anh co rúm người lại. May mắn không ai để ý.
Một nhà khoa học dữ liệu ở Richmond, Virginia đã rất hoảng khi sếp đột ngột gọi video, giữa lúc anh đang dạy một lớp lập trình – công việc bí mật. Anh vội bảo sinh viên nghỉ 10 phút, trong lúc đó đăng nhập một máy tính khác.
Anh kể, từ lâu đã chán công việc tại ngân hàng lớn. “Tôi cứ cảm giác như đang không làm gì cả”, anh nói. Anh muốn được làm công việc như hiện tại nhưng sự bó buộc của văn phòng không cho phép. Đại dịch bùng nổ tháng 3/2020 cho anh thấy cơ hội của mình và từ lúc đó làm 3 công ty khác nhau.
Cuối cùng, anh đã rời bỏ công việc ở ngân hàng lớn và nhận một công việc toàn thời gian, tại một trong những công ty đang làm, đồng thời thương lượng một hợp đồng lao động giúp anh có thể làm một công việc khác nữa. “Bây giờ tôi cảm thấy hoàn toàn tự do, “anh nói.
Theo các luật sư, phương pháp này không vi phạm luật liên bang hoặc tiểu bang, nhưng nó có thể vi phạm hợp đồng hoặc nêu ra các vấn đề liên quan đến tính bảo mật. Và một khi bị lộ chắc chắn có thể dẫn đến việc nhân viên bị chấm dứt hợp đồng.
Claire Deason, luật sư việc làm của Minneapolis thuộc Littler Mendelson PC, cho biết nếu một công nhân vi phạm hợp đồng khi làm việc cho một công ty khác, chủ lao động có thể kiện anh ta. Về mặt lý thuyết, một công ty cũng có thể kiện một nhân viên làm việc “hai mang” vì lý do như “tiết lộ thông tin bí mật”.
Tuy nhiên các luật sư cũng nói đôi khi cũng không cần quá lo lắng khi bị phát hiện, bởi giữa thời điểm lao động eo hẹp như hiện nay, không ai muốn mất những nhân viên xuất sắc. Người lao động thường chiếm thế thượng phong.
Anh Chris Hansen, một giám đốc công nghệ sống ở Cape Cod (đông bắc Mỹ), đang làm việc cho một công ty khởi nghiệp kể, năm ngoái anh nhận thấy một trong những lập trình viên của mình có hành vi kỳ quặc, sau đó nhận ra người này vẫn chưa nghỉ công việc ban đầu.
Hansen lo lắng về việc đạt được mục tiêu công việc của mình, cũng như thất vọng và hụt hẫng. Nhưng anh quyết định “lờ đi”. “Tôi có thể ngăn chặn anh ta, nhưng điều đó có thể đã cắt đứt cánh tay của chính tôi. Tốt hơn là có ai đó hơn là không có ai”, anh nói.
Một kỹ sư máy tính đã làm việc nhiều giờ trong nhiều năm và hiện leo lên bậc thang để trở thành một trong những kỹ sư cao cấp nhất của công ty. Ban ngày anh dành cho các cuộc họp và chiến lược, đêm và cuối tuần để viết code. Năm ngoái anh đã nhận thêm công việc thứ hai và tính toán sẽ tận dụng thời gian nghỉ thai sản của vợ ở cả hai công ty. Tuy nhiên, ngay cả khi con sinh ra anh anh vẫn không rút chân được khỏi công việc. Hiện anh kiếm được khoảng nửa triệu đôla mỗi năm và làm việc tới 100 giờ mỗi tuần.
“Tôi không biết có thể làm thế này được trong bao lâu. Nhưng vào mỗi lúc nhận lương, tôi như hồi sinh và vợ tôi thì rất thích”, anh nói.
Có bạn vào hỏi mua sách và nhân tiện nói chuyện chút về Nhật Bản. Ngẫm ra Nhật Bản là đất nước rất kì lạ. Ví dụ như Nho giáo ở Nhật chẳng hạn.
Ở Việt Nam trong suốt hơn nghìn năm Nho giáo được học và tôn sùng như sản phẩm của thánh hiền còn ở Nhật nó được tiếp cận như học thuyết nên có vô vàn trường phái, cách giải thích khác nhau.
Việt Nam khoa cử sống cực dai và cực mạnh. Đầu thế kỉ XX nó mới chết.
Ở Nhật thì không có khoa cử. Viết một vài bài văn, bài thơ, làm được vài câu đối hay ho rất khó có thể làm quan hay thành tướng lĩnh ở Nhật. Muốn làm quan ở Nhật hoặc là phải là quý tộc hoặc là phải võ nghệ, binh pháp siêu quần hoặc ít ra cũng phải là dòng dõi thân hào có thế lực. Khua môi múa mép ăn kiếm liền!
Nhưng thú vị không dừng lại ở đó.
Thú vị nữa là sau khi nắm quyền xong, thiên hoàng Minh Trị và các hoàng đế sau đã lợi dụng các giá trị quan của Nho giáo khá tinh vi và hiệu quả để tạo ra con người “trung quân ái quốc”. Đỉnh cao là Nho giáo trở thành công cụ của chủ nghĩa phát xít (người Nhật hay gọi là quân phiệt).
Sau 1945, Nho giáo trở thành nhạy cảm nên môn Tu thân bị cấm vĩnh viễn, giáo dục đạo đức như là môn học trong trường học bị phế bỏ. Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ (1950), thế lực cựu hữu phục hoạt giáo dục đạo đức trong trường hoc và vấp phải sự chống đối dữ dội. Trận chiến này kéo dài đến tận nay với nhiều thay đổi vi tế dẫn đến năm 2017 bộ giáo dục Nhật đưa được môn Đạo đức chính thức vào trường với tên gọi “Môn giáo khoa đặc biệt”.
Tuy nhiên, thú vị nhất là sau khi Nhật Bản giàu có lên với các tập đoàn xuyên quốc gia thì những ông chủ tập đoàn này, những người có ảnh hưởng lớn trong và ngoài nước lại là những người rất đánh giá cao những giá trị-quy phạm của Nho giáo.
Người sáng lập Panasonic, Kyocera và vô số doanh nhân tên tuổi khác đều bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với “Luận ngữ”. Họ viết sách giải thích “Luận ngữ” và cho rằng những cuốn sách như vậy đã giúp họ thành công trong kinh doanh.
Họ cũng bày tỏ sự kính trọng rất đặc biệt với những nhân vật lịch sử như Saigo Takamori-nhân vật tập trung tinh hóa văn hóa phương Đông, người chịu ảnh hưởng lớn của Vương Dương Minh.
Có cái gì đó rất tự tin trong tư thế của họ. Nó gợi nhắc đến tư thế của người võ sĩ trước đối thủ: “Này! Lại đây đi!” (Oi, Koi!).
Sẽ rất gợi và thú vị khi ta so sánh với tư thế của người Nho sĩ-ông đồ của ta trước đối thủ Tàu, Tây! Hoặc là khúm núm hoặc là ném gạch cật lực mà chưa cần biết đối thủ là người thế nào.
Điều đáng tiếc nhất của tôi là trong suốt nhiều năm học ở Nhật chưa một lần được tới Kagoshima và Nagasaki để xem ảnh hưởng của Saigo Takamori cũng như dấu vết mà các chí sĩ thời Mạc mạt còn để lại.
Có một chuyện đọc lâu tôi quên nguồn thế này. Một học giả Hán học nổi tiếng của Nhật khi dạy học có đặt ra câu hỏi cho học trò: “Nếu bây giờ Khổng tử làm tiên phong dẫn đại binh từ Trung Quốc qua đây đánh Nhật Bản thì ta sẽ phải làm sao?”. Các học trò suy nghĩ giây lát rồi nhất loạt nói rằng: “Thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa, cầm gươm mà ra trận vì làm như vậy mới xứng đáng là học trò của Khổng Tử”.
Có lẽ câu chuyện này thể hiện khá rõ tư thế-tâm thế của các học giả Nhật và giới võ sĩ. Ở Việt Nam có lẽ chưa từng có ông thầy nào học Nho dám đặt ra câu hỏi như thế đối với học trò thậm chí là cả trong ý nghĩ!
MỘT SỐ QUỐC GIA GIÀU CÓ ĐÃ PHẢI VẬT LỘN ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NHỮNG KẾT QUẢ MÀ CHÚNG TA THẤY NGÀY NAY.
Một số quốc gia giàu có ngày nay đã bắt đầu con đường của họ bằng việc vượt qua những khó khăn và điều kiện sống tồi tệ. Đến một ngày, vận may đã đến với những quốc gia này và họ trở nên giàu có, trở thành nơi đáng sống với nhiều người. Dưới đây là danh sách 7 quốc gia điển hình:
1. Na Uy
Một trong những quốc gia giàu có nhất vùng Scandinavi đã trải qua thời kỳ khó khăn trong quá khứ. Vào thế kỷ 19, người dân sống trong điều kiện khó khăn khi làm việc trong các ngành đánh bắt cá và nông nghiệp. Tuy nhiên, trong thế kỷ 20, chính phủ quyết quyết định phát triển ngành công nghiệp thủy điện và chính điều này đã thay đổi cả quốc gia và giúp tăng GDP.
Ngay cả sau Chiến tranh Thế giới, Na Uy cũng không phải trải qua thời kỳ khắc nghiệt vì nước này được nhận viện trợ từ Mỹ, điều giúp đất nước đứng vững. Dường như Na Uy cũng trúng một tấm vé may mắn nhờ vào trữ lượng dầu ở Biển Bắc năm 1969. Khi giá dầu tăng trong những năm 1970, GDP của Na Uy thậm chí tăng cao hơn. Và ngày nay, nước này phát triển thành một quốc gia có nhiều phúc lợi xã hội với mức sống cao.
2. Tây Ban Nha
Tây Ban Nha, một nước nông nghiệp vào thời điểm đó, đã phải trải qua nội chiến khốc liệt vào năm 1930. Đất nước này đã chịu sự cai trị của nhà độc tài Francisco Franco, người đã khiến nền kinh tế thụt lùi nhiều thập kỷ.
Vì thế, những năm 1940 – 1950 là giai đoạn tồi tệ đối với Tây Ban Nha. Nước này đã phải đóng cửa, không cho phép nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt trầm trọng, tăng trưởng âm và đồng tiền mất giá.
Nhưng đến năm 1959, nền kinh tế đã được tự do hóa. Công nghiệp hóa bắt đầu và du lịch bùng nổ. Kỷ nguyên độc tài kết thúc vào năm 1975 và năm 1986 Tây Ban Nha gia nhập EU.
3. Luxembourg
Đây là một quốc gia nhỏ bé thuộc một trong những nước giàu nhất thế giới. Quốc gia này đã từng có một quá khứ đầy khó khăn. Trong thế kỷ 19, khoảng 80% dân số sống trong điều kiện nghèo nàn và chỉ làm nông nghiệp. Người dân thường đi tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn ở nước ngoài, Nhưng tất cả đã thay đổi 180 độ khi trữ lượng quặng sắt được phát hiện.
Ngành công nghiệp thép bắt đầu phát triển, các hầm mỏ và nhà máy được xây dựng. Thậm chí Luxembourg còn trở thành nhà sản xuất thép dẫn đầu châu Âu. Điều này đã mang lại nhiều cơ hội việc làm cho người dân và một cuộc sống mới phát triển khởi sắc.
Trong những năm 1960, các ngành khác cũng phát triển sôi nổi, như ngân hàng và các ngành sản xuất tiên tiến. Ngày nay, quốc gia nhỏ bé ở châu Âu này là một trong những nước giàu nhất thế giới. GDP có thể đạt tới 68,50 tỷ USD cho đến cuối năm 2021.
4. Thụy Sĩ
Đây là quốc gia ở châu Âu có điều kiện sống cao nhất châu lục nhưng quốc gia này từng ở dưới đáy của khó khăn. Vì có địa hình đồi núi, Thụy Sĩ không thể phát triển và ngành công nghiệp của nước này tương đối sơ khai.
Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 19, nền kinh tế của quốc gia này bắt đầu phát triển, đặc biệt là ngành du lịch và ngân hàng. Một thứ tài sản khác nữa là nhờ chính sách trung lập nổi tiếng. Nó giúp quốc gia này thoát khỏi hai trận thế chiến. Và hơn thế, Thụy Sĩ còn phát triển hơn nhờ vào cho vay ngân hàng và xuất khẩu vũ khí.
5. Ireland
GDP bình quân đầu người của Ireland những năm đầu 1990 chỉ là 14.000 USD. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp và lạm phát, người dân phải sống trong điều kiện nghèo nàn. Tuy nhiên, những tiêu cực này đã kết thúc vào cuối những năm 2000 với khoảng thời kỳ “Celtic Tiger”.
Từ năm 1995 cho đến 2007, nền kinh tế của Ireland phát triển vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 9,4%. Khoảng thời gian bùng nổ này nhờ vào đầu tư nước ngoài, tư cách thành viên của EU và trợ cấp.
Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc gia này. Nhưng nhờ vào vốn đầu tư nước ngoài và chi tiêu tiêu dùng tăng, kinh tế của Ireland đã nở rộ. Ngày nay, Ireland là một nơi hấp dẫn để kinh doanh.
6. Hàn Quốc
Hàn Quốc đã từng trải qua cuộc nội chiến năm 1950 và bị Nhật Bản chiếm đóng. Khi chiến tranh kết thúc, Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã được thực hiện vào năm 1962, dẫn tới việc công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng. Thời gian này bắt đầu có sự nổi lên của Samsung và LG. Nhờ đó, ngành công nghiệp thép và điện tử phát triển và kéo theo trình độ kinh tế cao.
7. Saudi Arabia
Được thành lập năm 1932, Saudi là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nền kinh tế của quốc gia này hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập từ nông nghiệp và từ những người hành hương Hồi giáo.
Nhưng mọi thứ đã thay đổi mạnh mẽ kể từ năm 1938 khi trữ lượng dầu mỏ được phát hiện. Khi giá dầu tăng vào năm 1973, quốc gia này trở nên giàu có hơn. Thậm chí là khi giá có giảm, Saudi Arabia phải trả nợ nước ngoài, người dân vẫn được sống trong điều kiện tốt cho đến ngày nay.
Thật khó để nói cuộc sống này có công bằng hay không, nhưng rất nhiều điều phụ thuộc vào may mắn và tiền bạc. Những quốc gia trên chính là minh chứng cho điều đó.