Những điểm du lịch từ đồi núi đến thành thị rồi xuống biển hiện lên đầy sắc màu qua góc nhìn chim bay của Đặng Văn Hải.2
Đặng Văn Hải (28 tuổi), quê ở huyện Phù Cát, Bình Định là một người thích khám phá, quay video và chụp ảnh bằng thiết bị drone trên những nẻo đường Việt Nam. Vì có thân hình nhỏ nhắn, nên mọi người gọi Hải là Hải Ròm.
Một trong những điểm đến Hải ấn tượng là Hà Giang, với chuyến đi vào tháng 4 trải nghiệm cung đường từ đèo Mã Pì Lèng xuống thôn Tà Làng, xã Pải Lủng, huyện Mèo Vạc dẫn xuống hẻm vực Tu Sản. Từ trên mỏm đá của đèo có thể nhìn xuống dòng Nho Quế có màu nước xanh rêu, điểm nhấn vẻ đẹp mềm mại cho miền cao nguyên đá.
Từ năm 2012, khi còn là sinh viên tại Quy Nhơn, Hải đã thực hiện những chuyến du lịch đầu tiên bằng xe máy tại các tỉnh miền Trung và đến nay đã đặt chân lên khắp mọi miền Việt Nam.
Trên hình là khung cảnh mùa vàng tại ruộng bậc thang đồi mâm xôi tại Mù Cang Chải, Yên Bái được 9x chụp vào đầu tháng 10/2020.
Thị xã Sa Pa, Lào Cai trong màn sương sớm huyền ảo chụp vào tháng 11/2020.
“Từ nhỏ, tôi thích xem cảnh đẹp thiên nhiên qua truyền hình và lớn lên tìm hiểu nhiếp ảnh, thực hiện ước mơ chu du Việt Nam. Tuy nhiên, đến năm 2019, tôi mới bắt đầu chú tâm vào săn ảnh nghệ thuật, quay phim tại các điểm du lịch trên hành trình. Các video tôi thực hiện đều được đăng tải trên kênh Youtube Ròm Discovery”, Hải nói.https://05cee884db167250f786c273d695870c.safeframe.googlesyndication.com/safeframe/1-0-38/html/container.html
Sông Son hiền hòa được người bản địa gọi là sông Tróc chụp vào tháng 7/2020. Sông có khởi nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy ngầm trong các núi đá vôi ở VQG Phong Nha – Kẻ Bàng và chảy ra cửa động Phong Nha thuộc địa phận phận làng Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Sau đó, sông uốn lượn qua những thửa ruộng, đồi ngô xanh mướt trước khi hòa vào sông mẹ là dòng sông Gianh ở thị xã Ba Đồn.
Ban đầu, gia đình lo lắng cho Hải khi trải nghiệm các chuyến xê dịch đường dài, leo núi. Trải qua quá trình sau khi xem các video, bộ ảnh Hải thực hiện nên gia đình dần ủng hộ cho đam mê của anh.
Mỗi chuyến đi đều để lại cho Hải những kỷ niệm khó quên, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và tình yêu đất nước của chàng trai gốc Bình Định, trong đó có nhiều tác phẩm Hải chụp tại quê nhà.
Hoàng hôn trên tháp Bánh Ít tại xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước chụp vào tháng 8/2021. Đây là một cụm các tháp Chăm Pa với 4 công trình kiến trúc cổ, gồm tháp Cổng, tháp Hỏa, tháp Bia và tháp Chính được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 11 đầu thế kỷ 12.
Mùa rong biển thường bắt đầu vào tháng 4 và kết thúc vào cuối tháng 6 trên đảo Hòn Khô, Nhơn Hải, cách trung tâm phố biển Quy Nhơn khoảng 30 km. Rong mơ thường sống bám vào các rạn san hô, tảng đá ngầm dưới biển, khi phát triển dài và già nổi lên mặt nước tạo thành bãi lớn.
Hải cho biết đang chèo SUP ở Hòn Khô vào một ngày đẹp trời tháng 5 năm nay, thấy có ngư dân chèo thuyền thúng kéo lưới dưới thảm rong biển thì dùng drone chụp lại ngay. Bức ảnh vừa được chọn để triển lãm tại Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực Nam Trung Bộ – Tây Nguyên năm 2021, là khởi đầu cho những đam mê chơi nhiếp ảnh.
Ngư dân cất vó mưu sinh trên đầm Thị Nại, đầm nước mặn lớn nhất của Bình Định, chụp vào tháng 8 năm nay. Đầm này có diện tích trên 5.000 ha thuộc địa phận 4 phường, xã của TP Quy Nhơn và 4 xã của huyện Tuy Phước và đổ ra cửa Thị Nại.
Mùa kéo lưới vây ở hòn Yến, Phú Yên chụp vào tháng 6/2020. Nhìn từ trên cao, vũ điệu kéo lưới vây bung tỏa thành nhiều hình dạng, như hình tròn, trái tim mang đến tác phẩm ảnh độc đáo.
Mây trôi trên tháng Hang Én (hay thác K50), nơi đầu nguồn sông Côn nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Gia Lai và Bình Định, thuộc địa phận huyện K’bang, Gia Lai.
Hải cùng bạn bè đã trekking băng rừng vào năm 2017 để chinh phục thác hang Én, các năm sau anh quay lại thác nhiều lần hơn do địa phương đã làm đường bêtông. Nhưng may mắn nhất là vào tháng 5 vừa rồi, anh bắt gặp khung cảnh mây bay trên thảm rừng và thác.
Hồ Tà Đùng chìm trong mây, chụp vào tháng 1/2020. Hồ này được mệnh danh “vịnh Hạ Long của Tây Nguyên”, có cảnh quan hài hòa của biển, rừng, trời, mây và các hòn đảo là điểm tham quan không thể bỏ qua khi đến Đắk Nông.
Hải và những người bạn trekking cung đường Tà Năng – Phan Dũng, Lâm Đồng đầu tháng 10/2020, ấn tượng với đồi cỏ xanh mướt và các khu rừng thông thơ mộng.
TP HCM với điểm nhấn tòa nhà Landmark 81 rực rỡ và nhộn nhịp trong đêm 30 Tết (ngày 4/2/2019).
“Từ leo núi, vào rừng đến lênh đênh trên biển tôi đều đi, chụp ảnh và quay lại để lưu lại kỷ niệm của tuổi trẻ, thỏa sức với đam mê trải nghiệm. Trước khi đi du lịch cần lên kế hoạch cụ thể đi đâu, nơi cần đến để đỡ tốn chi phí, thời gian và lưu ý thực hiện các biện pháp phòng chống Covid-19 đúng quy định”, Hải nói.
Cuộc sống giống như một chiếc cầu bập bênh, một đầu là sự nóng nảy, một đầu là phúc phận. Càng hay nóng nảy thì phúc khí càng giảm, càng từ tốn thì phúc phận càng nhiều. Giữ được tính khí mới có thể níu giữ phúc phận.
Cổ nhân có câu: “Bất nghi bạo nộ, bất nghi khinh khí”, ý là không nên tức giận, cũng không nên coi thường sự việc. Nước sâu chảy chậm, người tôn quý nói năng từ tốn, nước sâu nên tĩnh lặng, lời từ tốn không tức giận mới có thể sâu xa. Sự từ tốn không chỉ là tấm áo đẹp nhất trong giao tiếp, mà còn là tài phú của một đời người.
Nghệ thuật của sự từ tốn. (Ảnh minh họa qua The Westin Miyako, Kyoto, Flickr) Không cướp lời người khác, không tự cho mình thông minh hơn người Cổ nhân có câu: “Thập ngữ cửu trung vị tất xưng kỳ, nhất ngữ bất trúng, tắc khiên vưu biền tập”, ý là nói mười lời đoán trúng chín lời chưa hẳn đã tài giỏi, bởi một lời không trúng chẳng khác chi lỗi lầm. Biết nhưng không nhất thiết cứ phải nói ra, có một số lời không phù hợp để bạn nói ra, có một số trường hợp không cần bạn mở lời.
Không ít người có thói quen xấu là cướp lời người khác. Họ thường tự cho rằng mình thông minh tài trí, nhưng lại đem đến sự khó chịu cho người khác. Thói quen cướp lời này không chỉ khiến người chán ghét, mà còn dễ gây ra hiểu lầm. Nhiều việc hỏng chỉ vì không chịu nghe đối phương nói xong.
Không cướp lời người khác là người khiêm nhường, không tự coi mình là thông minh, hiểu biết, không xét đoán nội tâm người khác bằng suy nghĩ của mình. Đây cũng là phép xã giao cơ bản, cũng là biểu hiện của một người có hàm dưỡng.
Không cướp lời người khác sẽ không hấp tấp, nóng vội Khi gặp việc gấp, việc khó trong tâm sốt sắng lại càng dễ cướp lời người khác. Lời nói ra như bát nước đổ đi, nói mà không nghĩ thường thì trước sau bất nhất, thậm chí chẳng thể vãn hồi, rất dễ xôi hỏng bỏng không.
Khi xảy ra chuyện, mục đích của việc giao lưu bằng lời nói là giải quyết vấn đề. Những tranh luận vô nghĩa cuối cùng thường chỉ khiến đôi bên đều bị tổn thương.
Có câu rằng: “Tâm loạn, tĩnh trung loạn, tâm tĩnh, loạn trung tĩnh”, ý là tâm loạn thì ở trong tĩnh cũng vẫn loạn, tâm tĩnh thì ở trong loạn nội tâm cũng vẫn tĩnh tại.
Người có tu dưỡng thì dẫu nhất thời trong lòng nổi sóng cũng sẽ nhanh chóng bình tĩnh trở lại. Vẻ ngoài bình thản trước sóng dữ sẽ để lại cho người khác ấn tượng về một người trưởng thành, trầm ổn.
Các nhà tâm lý học chỉ ra rằng: Nếu một người trong tâm lo lắng thì phải dốc hết bầu tâm sự của mình họ mới có thể quay sang lắng nghe ý kiến của người khác. Cho nên muốn giải quyết vấn đề, trước tiên cần học cách lắng nghe người khác.
Cổ ngữ có câu: “Trí giả tiên tư nhi hậu ngôn, ngu giả tiên ngôn nhi hậu tư”, ý là bậc trí giả ngẫm trước mới nói sau, kẻ ngốc nghếch nói trước mới nghĩ sau.
Người thông minh sẽ không cướp lời người khác, bởi họ phân rõ nặng nhẹ, nhanh chậm, không tranh hơn thua nhất thời.
Cướp lời người khác, chi bằng suy nghĩ mạch lạc trước, nghĩ trước xem nói thế nào, một lời trúng đích đã có thể giải quyết được vấn đề.
Không cướp lời người khác, trong tâm ắt biết nghĩ đến người khác Nói năng chậm rãi từ tốn, nói hết những lời muốn nói quả là một việc khiến con người vui vẻ, nhưng cần dựa trên cơ sở tôn trọng người khác. Khi thượng đế sáng tạo ra con người, Ngài chỉ ban cho con người một cái miệng, nhưng lại có đến hai cái tai, chính là muốn chúng ta hãy nói ít lại và lắng nghe nhiều hơn.
Khi lắng nghe, chúng ta phải vứt bỏ lập trường của bản thân, hoàn toàn tiến nhập vào thế giới của đối phương, tập trung sự chú ý vào đối phương.
Trong chữ chính thể, chữ “Thính” (聽 – lắng nghe) có hàm ý sâu xa. Chữ này gồm bộ “Nhĩ” (耳 – tai), bộ “Vương” (王 – vua), chữ “Thập” (十 – mười), chữ “Mục” (目 – mắt), chữ “Nhất” (一) và chữ “Tâm” (心 – tim). Ý rằng khi lắng nghe một ai đó, cần khiến họ cảm thấy mình quan trọng như một vị vua (chữ Vương), lắng nghe bằng đôi tai (bộ Nhĩ), tập trung mọi ánh nhìn (chữ Thập, chữ Mục) và trọn vẹn bằng cả trái tim mình (chữ Nhất, Tâm).
Còn trong chữ giản thể, chữ “Thính” (听 – lắng nghe) lại có nội hàm hoàn toàn trái ngược, thiếu mất đôi tai, chỉ còn lại mỗi cái miệng (口 – bộ Khẩu) chát chúa như đang băm bổ người khác (cái rìu – 斤 – bộ Cân). Đây chính là nguyên nhân của việc khó khăn khi phải lắng nghe của con người hiện đại.
Có một giai thoại đáng suy ngẫm như thế này: Tại một thôn làng nọ của Mỹ, một cậu bé nhảy lò cò dưới ánh trăng. Mẹ cậu hiếu kỳ hỏi: “Con đang làm gì thế?”
Cậu bé chỉ vào ánh trăng hào hứng nói: “Con muốn lên mặt trăng!” Mẹ cậu rất kinh ngạc, nhưng vẫn lặng lẽ nghe cậu con trai bé bỏng nói về giấc mơ cưỡi ngựa trời bay lên không trung của mình.
Sau khi cậu bé nói xong, mẹ cậu bảo: “Rất tuyệt, nhưng con phải nhớ về nhà ăn cơm tối đấy”.
Nhiều năm sau, Neil Armstrong đã trở thành người đầu tiên rời khỏi trái đất đặt chân lên mặt trăng. Cậu ấy chính là cậu bé dưới ánh trăng năm xưa.
Có câu rằng “Khẩu nãi tâm môn”, miệng là cánh cửa của tâm hồn. Người có tu dưỡng trong tâm thường biết nghĩ đến người khác, nên sẽ không cướp lời, sẽ biết lắng nghe. Người được lắng nghe sẽ không cần bạn phải làm gì cho họ, giây phút bạn chăm chú lắng nghe ấy trong tâm họ đã vô cùng thoả mãn.
Thiên thượng cấp cho chúng ta phúc phận như nhau, có người vì tức giận mà làm tiêu hao phúc khí, có người lại có thể tu dưỡng tâm tính mà gìn giữ được phúc phận.
Bạn càng tốt tính phúc phận càng sâu dày. Hãy nhìn thế giới bằng tâm thái an hoà, đối đãi với thân bằng cố hữu bằng thái độ thiện lương. Bớt nóng nảy đi, nhiều hơn một chút từ tốn, phúc khí tự nhiên sẽ đến nhiều hơn một chút.
Theo Sound Of Hope / Thiên Cầm biên dịch / Trí thức VN
Hình 1: trái, BS Nguyễn Tường Bách; phải, cô giáo Hứa Bảo Liên trong cuộc phỏng vấn của LS Lâm Lễ Trinh, ngày 24.09.2005. [nguồn: Little Saigon TV, hình ảnh Đinh Xuân Thái] [6]
Dẫn nhập: Việt Nam Một Thế Kỷ Qua, Nguyễn Tường Bách và Tôi là tên hai tác phẩm hồi ký của bác sĩ Nguyễn Tường Bách và cô giáo Hứa Bảo Liên, người bạn trăm năm của Nguyễn Tường Bách. Đây là hai bộ hồi ký đặc sắc về cuộc tình lãng mạn của một chàng trai Việt và một cô gái người Hoa ở Hà Nội cùng nổi trôi theo vận nước cho tới khi họ gặp lại nhau trên đất Côn Minh Vân Nam và trở thành đôi vợ chồng sắt son thuỷ chung với bao nhiêu tận tuỵ và hy sinh – nhưng quan trọng hơn thế nữa, đây chính là một phần của lịch sử sinh động và đầy biến động trong ngót một thế kỷ qua trong những cơn bão táp của Cách Mạng Việt Nam và cả lục địa Trung Hoa.
TIỂU SỬ
Nguyễn Tường Bách sinh ngày 26 tháng 3 năm 1916, tại Cẩm Giàng một huyện lỵ nhỏ thuộc tỉnh Hải Dương, nhưng gốc từ một gia đình làng Cẩm Phô, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đã ra miền Bắc từ hai đời trước. Gia đình Nguyễn Tường có bảy anh em: Nguyễn Tường Thuỵ, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam – Nhất Linh, Nguyễn Tường Long – Hoàng Đạo, Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân – Thạch Lam, và Nguyễn Tường Bách – Viễn Sơn.
THỜI NIÊN THIẾU TỪ CẨM GIÀNG LÊN HÀ NỘI
Nguyễn Tường Bách bắt đầu học tiểu học ở Hải Dương, rồi Thái Bình, sau đó lên Hà Nội học trường Hàng Vôi. Vào học trung học trường Bưởi một thời gian, rồi bỏ trường vì không thích không khí bảo hộ thực dân Pháp. Ở nhà mua sách tự học rồi đi thi. Đậu tú tài 1, nhưng sau đó trượt tú tài 2 do học không đủ môn. Năm cuối trung học, Nguyễn Tường Bách trở lại trường, lần này vào học Albert Sarraut, sau đó thi đậu tú tài 2 ban Triết với ưu hạng. Sẵn có máu nghệ sĩ không thích y khoa mà Nguyễn Tường Bách cho là khô khan nhưng rồi vẫn theo học trường Y Hà Nội theo lời khuyên của gia đình. [6] Sau bảy năm học, Nguyễn Tường Bách tốt nghiệp bác sĩ hạng xuất sắc năm 1944, cùng năm với các BS Vũ Văn Cẩn (Bộ trưởng Y tế Hà Nội), Đặng Văn Chung (Giáo sư Y khoa), Nguyễn Trinh Cơ ở lại ngoài Bắc và các BS Trần Đình Đệ (Bộ trưởng Y tế Sài Gòn), Nguyễn Đình Cát (Giáo sư Y khoa), Nguyễn Đình Hào sau 1954 di cư vào Nam.
Thế hệ sau có lẽ chỉ biết tới Nguyễn Tường Bách qua hình ảnh một nhà cách mạng lão thành nhưng vẫn có đó một Nguyễn Tường Bách tuổi niên thiếu rất vui nhộn. Cho dù lúc ấy đã là sinh viên trường Thuốc, nhưng mỗi khi về thăm quê ở trại Cẩm Giàng vào những ngày giỗ Tết, thì vẫn cứ là một Chú Bẩy – con thứ bảy trong một gia đình bảy anh em, rất vui tính nghịch ngợm, và đã được cô cháu Nguyễn Tường Nhung, con gái của nhà văn Thạch Lam mô tả sinh động qua những dòng hồi tưởng mới đây:
“Thời gian chúng tôi sống ở trại Cẩm Giàng với Bà Nội, những ngày lễ Tết hay cúng giỗ đều có chú về tham dự. Chú vui tính, hay đùa với các cháu. Mỗi khi Bà sai chú đem lễ vật ra mộ cụ Huyện bà, dưới gốc một cây đa cổ thụ, có hình dáng xòe tròn như cái mâm (dân làng thường gọi là cây đa Mâm Xôi), không cách xa trại mấy. Lễ vật thường có: xôi, gà, hoa, quả, hương, và những hình người cao to như người thật, giấy tiền, áo quần, mũ mãng, để cúng ông Thần Đất. Tất cả đều làm bằng giấy màu ngũ sắc, óng ánh rất đẹp. Vừa ra khỏi trại, chú tôi nghịch lấy mũ giấy đội lên đầu, rồi chia mỗi đứa cầm một thứ, cả lũ cháu đi theo chú ca hát vang vang. Phận sự là đem lễ vật để cúng cụ bà, nhưng chúng tôi không có một ý niệm gì về cụ, chỉ biết cụ là cụ Huyện bà. Cũng không biết cụ mất năm nào, chỉ nhớ ngày giỗ cụ là ngày mùng 5 tháng Giêng âm lịch.
Bà Nội tôi người miền Trung. Việc cúng giỗ bà rất kỹ. Những thức ăn để cúng, lúc nấu không được nếm, vì vậy phải liệu mà nêm cho vừa, mặn, nhạt đó là những đầu bếp được đánh giá khéo hay vụng, do con dâu, con gái, thực hiện. Trước giỗ mấy ngày chỉ có cô Năm (bà Nguyễn Thị Thế, là mẹ của Duy Lam và Thế Uyên – ghi chú của người viết) về phụ với mẹ tôi để lo sắp đặt. Còn các người dâu ở Hà Nội chỉ gửi thực phẩm khô như nấm hương, bóng cá v.v… Các bác dâu chỉ về trước giỗ một ngày. Trong lúc đó Mẹ tôi phải lo thức dậy từ bốn, năm giờ sáng cả tuần lễ trước để lo liệu, ngâm, rửa, những vật liệu khô để nấu cỗ, sắp đặt, sai bảo người làm chùi đánh lư đèn, dọn dẹp nhà cửa, vườn tược.
Sinh hoạt của trại thật vui nhộn. Mấy ngày đó có các anh chị theo bố mẹ về. Tôi lại được nghỉ học. Mấy chị em gái chơi đùa với nhau. Còn các anh trai thì thường chơi ở trong vườn hoặc chạy ra ngoài đồng ruộng. Đồ vật cúng lễ trên bàn thờ, phải đợi tàn ba tuần hương, khoảng hơn hai giờ đồng hồ mới được hạ xuống. Mặc dù tất cả đã đói, nhưng cũng phải đợi khi hạ cỗ mới được ăn. Tuy là ngoài thức ăn đã đơm lên cúng, còn lại nhiều ở trong bếp, nhưng Bà Nội cũng cấm không được ăn trước khi hạ cỗ. Có một lần chú kéo tụi tôi vào buồng thờ, chú ra hiệu đi trong yên lặng. Rồi chú lấy đĩa xôi đang cúng trên bàn thờ, lật ngửa lên lấy tay móc xôi từ mé dưới. Nhìn đĩa xôi chỉ vơi đi nhưng bề mặt thì vẫn như còn nguyên. Chú chia cho chúng tôi mỗi người cũng được một nắm bằng quả trứng gà. Tuy chưa thấm tháp gì lúc bụng đói, nhưng chúng tôi rất thích thú về cách ăn vụng xôi mà Bà Nội không biết. [trích hồi ký, Tháng ngày qua, Nguyễn Tường Nhung]
Hình 2: Tác phẩm sơn mài Trước Cơn Giông, của nhà cách mạng / họa sĩ Nguyễn Gia Trí, có hình một cây đa cổ thụ, dáng xòe tròn như cái mâm nên dân làng thường gọi là Cây Đa Mâm Xôi. [sưu tập của Nguyễn Tường Giang]
Nguyễn Tường Bách tốt nghiệp y khoa, nhưng đã chọn bước sang con đường khác – cầm bút để chiến đấu! Ngay từ thời trai trẻ, rất sớm Nguyễn Tường Bách đã cùng các anh như Nguyễn Tường Tam – Nhất Linh, Nguyễn Tường Long – Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Lân – Thạch Lam hoạt động viết báo, viết văn, làm thơ chủ yếu đăng trên hai tờ báo Phong Hoá và Ngày Nay, cơ quan ngôn luận của Tự Lực Văn Đoàn. Khi Thạch Lam qua đời (1942), Nguyễn Tường Bách thay anh trông coi nhà xuất bản và tờ báo Ngày Nay. Các thành viên Tự Lực Văn Đoàn lúc đó gồm bảy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu, nhưng không có Nguyễn Tường Bách. Có thể nói Nguyễn Tường Bách là một trong số bác sĩ thế hệ tiên phong của thập niên 1940 đã đi vào lĩnh vực báo chí và văn nghệ sớm như vậy.
Nguyễn Tường Bách hoạt động chính trị rất sớm (1939) tham gia đảng Đại Việt Dân Chính cùng với Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Gia Trí, Trần Khánh Giư / Khái Hưng, Nguyễn Tường Long / Hoàng Đạo… qua các giai đoạn: Đại Việt Dân Chính kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng (1943), Việt Nam Quốc Dân Đảng kết hợp với Đại Việt Quốc Dân Đảng và sau đó với chung một danh xưng Quốc Dân Đảng (1945).
Tháng Ba năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Nguyễn Tường Bách vẫn làm Giám đốc báo Ngày Nay bộ mới, với sự cộng tác của Hoàng Đạo, Khái Hưng…[2]
Tháng Tám năm 1945, Nhật đầu hàng, Việt Minh cướp chính quyền, Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Cách Mệnh Đồng Minh Hội cùng ra hoạt động công khai. Nguyễn Tường Bách là uỷ viên trung ương, phụ trách công tác tổ chức đảng, và tuyên truyền, ra mắt tờ Việt Nam Thời Báo sau đổi thành tờ Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng với quan điểm công khai chống đối chính sách của đảng Cộng sản, đồng thời sáng lập Quốc Gia Thanh Niên Đoàn.
Tình trạng rất khẩn trương với đầy rẫy những khó khăn, các phe phái Việt Minh và quốc gia xô xát nhau, mỗi khi ra ngoài Nguyễn Tường Bách phải có người bảo vệ, và phải ở luôn trong tòa báo làm việc ngày đêm. Tháng Năm, 1946, tình hình biến chuyển bất lợi cho phe quốc gia, trước nguy cơ khủng bố của Việt Minh, Nguyễn Tường Bách cùng với các đồng chí bỏ Hà Nội rời lên chiến khu – Đệ Tam Khu của VNQDĐ, để tiếp tục cuộc chiến đấu.
Đệ Tam Khu là một vùng khá rộng lớn bao gồm từ Vĩnh Yên lên tới Lào Cai. Tại đây, Nguyễn Tường Bách cùng với Vũ Hồng Khanh là đảng trưởng phụ trách bộ chỉ huy quân sự (theo Nguyễn Tường Thiết, Vũ Hồng Khanh từng tốt nghiệp Trường Quân Sự Hoàng Phố). Do VNQDĐ chỉ trấn giữ được các vùng thành thị, trong khi Việt Minh thì kiểm soát được nông thôn, họ tiếp tục bao vây gia tăng tấn công vũ trang vào Đệ Tam Khu. Để bảo toàn lực lượng VNQDĐ, phải rút lên Việt Trì, rồi Yên Báy, Lào Cai. Cuối cùng, theo quyết định của Trung ương Đảng bộ VNQDĐ, thì Vũ Hồng Khanh ở lại Đệ Tam Khu, Nguyễn Tường Bách đi Côn Minh để cùng với Nguyễn Tường Tam phụ trách hải ngoại vận.
CUỘC HÀNH TRÌNH GIAN TRUÂN
Tháng Tám năm 1946, đoàn Nguyễn Tường Bách gồm tám người, từ Lào Cai đi qua cây cầu sắt trên sông Nam Khê sang Hà Khẩu / Hekou – một vùng tự trị của sắc tộc Dao, là cửa ngõ để đi vào phía Nam tỉnh Vân Nam. Vân Nam có diện tích lớn hơn Việt Nam. Hành trang mỗi người chỉ đeo theo một túi dết – loại túi vải lớn và cũng từ đây bắt đầu những bước chân lưu vong trên đất khách quê người. Và chẳng thể nào ngờ được rằng đây là khởi điểm cho một cuộc hành trình lưu lạc kéo dài hơn 40 năm của chàng trai nước Việt Nguyễn Tường Bách trên một đất nước Trung Hoa loạn lạc trầm luân [1946-1988].
Chặng đường dài hơn 1,500 cây số từ Hà Khẩu / Hekou tới Côn Minh là một cuộc hành trình đầy gian truân. Do cuộc chiến tranh Trung Nhật, đa số đường sắt đã bị bóc, họ di chuyển chủ yếu bằng đôi chân. Các chàng trai ấy đã phải trèo đèo, lội suối, băng sông, leo núi cao, xuống lũng sâu, qua những thảo nguyên, qua bao nhiêu thôn bản, các vùng dân cư với những sắc dân: Người Hán, người Mán, người Hui – là người Hoa theo đạo Hồi, rồi thỉnh thoảng đoàn còn được gặp đôi ba gia đình người Việt tha phương lưu lạc sang đây không biết tự bao giờ.
Họ đi ngày, nghỉ đêm, tá túc dưới những mái nhà xa lạ, không biết an ninh ra sao nên đêm ngủ anh em phải cắt phiên thay nhau canh gác. Để rồi hôm sau lại lên đường, có chặng họ ráp theo các đoàn ngựa thồ, nhưng hiểm nguy vẫn thường trực nếu gặp phải các nhóm thổ phỉ hay bọn quân phiệt có vũ trang cướp bóc và cả giết chóc.
“Cảnh tượng rùng mình khi thấy bên cạnh đường, trong hốc đá một xác chết co ro, chỉ còn là một bộ xương vẫn còn mặc bộ quần áo rách tả tơi, cái nón lá còn quẳng bên cạnh…”[3]
Đi mãi rồi họ cũng tới được đoạn đường còn đường sắt, nhưng lại được biết vùng phía trước đang bị ngập lụt và không biết đến bao lâu tàu mới lại lưu thông trở lại. Không thể chờ, chỉ còn cách đi bộ tiếp theo con đường tắt cho dù biết trước là vô cùng khó khăn. Dân làng cho biết nếu may mắn đi thông suốt cũng phải đi thêm 4-5 ngày đường mới tới được Bình Biên / Pingbian trước khi có con đường cái để đi Mông Tự / Mengzi.
Tuổi trẻ tự tin, họ đã chọn con đường gai góc để đi, nhưng không thể tưởng tượng được là khó khăn gian nan đến thế nào. Phải vượt qua những đoạn đường nhỏ hẹp, với những dốc cao cheo leo, phải bám lấy từng gốc rễ cây để trèo lên từng bậc, có chỗ phải phạt cỏ, chặt cây để mở đường. Gần như kiệt sức, phải tới mấy ngày hôm sau đoàn mới tới được một vùng đồi núi thấp dần, để từ đây, từ cao nguyên xuống được vùng đồng bằng.
Rồi đoàn cũng tới được Bình Biên / Pingbian, trạm lớn đầu tiên của cuộc hành trình. Sáng hôm sau, tám “chinh nhân” lại dậy sớm để kịp gia nhập đoàn ngựa thồ đi Mông Tự / Mengzi – địa danh nổi tiếng với những trái đào Mông Tự. Từ đây sẽ có đường xe lửa đi Khai Viễn / Kaiyuan, nơi có Chi bộ Việt Quốc, nhưng cả đoàn ai cũng nôn nóng mong sớm tới được Côn Minh / Kunming. [Hình 3]
Hình 3a: [định vị các địa danh được đánh số trên bản đồ] hành trình đường bộ của Nguyễn Tường Bách cùng bảy “chinh nhân” đi từ (1) Lào Cai qua (2) Hà Khẩu / Hekou, (3) Bình Biên / Pingbian, (4) Mông Tự / Mengzi, (5) Khai Viễn / Kaiyuan, (6) Côn Minh / Kunming. [source: The Contemporary Atlas of China (Boston : Houghton Mifflin Co., 1988), p. 31.]Hình 3b: một phần bản đồ Việt Nam – Trung Hoa và trục hoạt động chính của Nguyễn Tường Bách và Hải ngoại vụ VNQDĐ: Côn Minh / Kunming – tỉnh Vân Nam / Yunnan, Quảng Châu / Guangzhou – tỉnh Quảng Đông / Guangdong, Hồng Kông, Thượng Hải / Shanghai.
Chàng thanh niên Nguyễn Tường Bách, gốc dân thành thị, vừa tốt nghiệp trường thuốc, chưa đầy tuổi 30, mà đã phải trải qua những bước phong trần của cuộc hành trình hơn 1,500 cây số gian nan. Nhìn nhau, cả đoàn ai trông cũng gầy và nước da thì đen sạm. Trên thềm ga Côn Minh, ra đón đoàn có Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, Trần Đức Thi, Xuân Tùng và nhiều anh em khác thuộc đảng bộ Côn Minh, đặc biệt có cả cô bạn gái nhỏ người Hoa Hứa Bảo Liên đang là sinh viên khoa Văn của Đại học Vân Nam.
Như một cuộc “kỳ ngộ”, một ngẫu nhiên của lịch sử, Hứa Bảo Liên gọi đó là “duyên tiền định” khi đôi bạn được gặp lại nhau và đến cuối năm 1946, Nguyễn Tường Bách chính thức lập gia đình với Hứa Bảo Liên tại Côn Minh – thành phố của Bốn Mùa Xuân.
“Chúng tôi gặp nhau trên đất xa lạ này, thực là không ngờ. Sự trùng phùng nhanh chóng này làm tôi không khỏi nghĩ đến nhiều khi người ta chỉ khác nhau ở một bước đi, mà cuộc đời đã thay đổi hẳn… Cuối năm đó chúng tôi đã thành hôn với hình thức đơn giản, không thủ tục và cũng không có nhẫn cưới. Chỉ có lòng tin ở nhau, can đảm cùng bước vào tương lai còn mờ mịt.” [5]
Trong Thế chiến Thứ Hai, Côn Minh từng được biết như “một thị trấn Đông phương hẻo lánh im ngủ” như ghi nhận của viên tướng không quân huyền thoại Claire Chennault của phi đoàn Flying Tigers từng trú đóng ở đây.
Nhưng trên thực tế, Côn Minh chẳng phải là an toàn khu cho những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam, do người Pháp vẫn còn ảnh hưởng ở Vân Nam. Vẫn còn đó một toà Lãnh sự Pháp, với cả mật thám Pháp thường xuyên theo dõi hoạt động của các nhà cách mạng Việt Nam chống Pháp để tìm cách phá hoại lung lạc hay cả mua chuộc. Ngoài ra, còn hiện diện nơi đây một bệnh viện Paul Doumer của người Pháp. Nguyễn Tường Bách viết:
“Một điều kỳ cục, là có người định giới thiệu tôi vào làm bác sĩ cho nhà thương đó, và cũng có vài bạn học ở trường Y khoa Hà Nội đương hành nghề ở đây. Nghĩ cũng lạ, nếu là người khác vào làm ở đó cũng tốt, đủ sống phong lưu trong cảnh êm ả ở đây.” [3]
Nhưng bả vinh hoa trước mắt và trong tầm tay ấy đã không lay chuyển được chàng trai trẻ Nguyễn Tường Bách khi ông đã chọn bước đường cách mạng gian nan như hai câu thơ của Thế Lữ:
Ta là một khách chinh phu
Dấn bước truân chuyên khắp hải hồ
Hơn ai hết, Nguyễn Tường Bách hiểu rằng, đặt chân tới Côn Minh, tuy được gọi là căn cứ địa của Cách Mạng Việt Nam, nhưng cũng chỉ là bước tạm thời để bắt đầu một cuộc hành trình khác. Mục đích trước mắt của Hải ngoại bộ VNQDĐ Côn Minh là tranh thủ sự hỗ trợ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa cho công cuộc giải phóng Việt Nam. Chặng đường “ngoại vận” ấy sẽ kéo dài bao lâu, có thành công hay không, không sao lường trước được.
CÔ GÁI TRUNG HOA TRƯỜNG HÀNG BUỒM
Hứa Bảo Liên, sinh ngày 8 Tháng Tư năm 1925, cha mẹ người Hoa, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Bố là một bang trưởng người Hoa giàu có nhưng ông có thêm một gia đình khác với cơ ngơi làm ăn ở Nam Định. Suốt tuổi thơ Bảo Liên sống trong một gia đình vắng vẻ chỉ với mẹ và bà ngoại. Tới tuổi đi học, được mẹ gửi vào trường tiểu học Hoa Kiều Hàng Buồm. Liên rất thích đi học, tuy là con gái nhưng lại rất ưa chuộng các môn thể thao nhất là bóng bàn, Liên đã từng đoạt nhiều giải thưởng với những chiếc cúp bày la liệt trong nhà.
Có được một bà mẹ hết lòng lo cho con, quý cả những bạn học của con nên được tụi nó gọi là mẹ. Lên đến bậc trung học, nhà trường mời được các thầy cô giáo có danh tiếng từ Hồng Kông hay Quảng Đông qua dạy. Và khi quân Nhật xâm lăng Trung Quốc, thêm nhiều trí thức có bằng cấp đại học đã lánh nạn sang Việt Nam, chủ yếu là Hà Nội và cũng tới dạy học ở trường này. Sau này Hứa Bảo Liên mới được biết trong số các thầy cô, có người là đảng viên Quốc Dân Đảng, có người là đảng viên đảng Cộng Sản.
Học sinh được huấn luyện theo chương trình Hướng Đạo với kỷ luật nghiêm ngặt. Các thầy cô còn du nhập vào trường phong trào “đời sống mới” từ Trung Hoa, vận động cuộc sống lành mạnh, bỏ phong kiến cổ hủ, nam nữ bình quyền, cả quyền tự do luyến ái. Phòng đọc sách của nhà trường luôn luôn có thêm nhiều sách tư tưởng mới, có cả tác phẩm của các nhà văn có tiếng như Lỗ Tấn, Ba Kim… Tất cả những cuộc vận động chính trị lúc đó ở nhà trường đã ảnh hưởng đến tư tưởng, hình thành nhân cách phóng khoáng tự lập và cứng cỏi của Hứa Bảo Liên về sau này. Nhất là từ khi cả hai người thân yêu nhất của Liên là bà ngoại và mẹ đã qua đời. Thời gian mỗi ngày tới bên giường bệnh chăm sóc mẹ trong nhà thương, cô gái nhỏ Hứa Bảo Liên đã trở thành khuôn mặt quen thuộc với bệnh viện Phủ Doãn và cả được nhiều người yêu mến.
Liên sống một mình sau khi mất mẹ và bà ngoại, nhưng sẵn tinh thần hướng đạo, nên cứ mỗi chiều Thứ Bảy hay các ngày nghỉ lễ, thay vì ở nhà hay đi rong chơi, cô học sinh Hứa Bảo Liên thường vào nhà thương Phủ Doãn, như một thiện nguyện viên, được theo chân các bác sĩ vào những phòng bệnh. Có khi còn được ở lại ăn cơm và đánh bóng bàn, mãi đến tối mới về. Hứa Bảo Liên có dịp gặp anh sinh viên trường thuốc Nguyễn Tường Bách trong thời gian này.
Chiến tranh Trung Nhật lan rộng, Hứa Bảo Liên tuy còn ở tuổi vị thành niên nhưng đã nhiệt tình tham gia các đoàn thể tuyên truyền chống Nhật, nhưng khi quân Nhật tiến vào Đông Dương, mọi tổ chức hầu như tan rã, chỉ còn một số ít tiếp tục hoạt động bí mật chống Nhật. Chương trình học ở trường nay có thêm giờ học tiếng Nhật. Hè 1945, trong một hoàn cảnh rất đặc biệt như thế, Hứa Bảo Liên tốt nghiệp ra trường cùng với 13 học sinh khác.
Thêm một sự kiện đáng ghi nhớ: Tháng Tám năm 1945, Hứa Bảo Liên đã thắng giải “Vô Địch Bắc Bộ Việt Nam” về Bóng Bàn mà đối thủ của cô là một nữ danh thủ Việt Nam, sau này là đại diện đội bóng bàn Việt Nam sang thăm Trung Quốc.
VỚI NHÀ THƯƠNG PHỦ DOÃN
Hứa Bảo Liên viết: “Nhà thương này vì định mệnh đã có quan hệ bất bình thường với cuộc sống và ảnh hưởng sâu xa tới tương lai của tôi. Nhiều sự buồn vui, tang tóc đã bắt nguồn từ chỗ này. Dù may rủi hay hạnh phúc, lúc nào tôi cũng nhớ đến giai đoạn này vì đó vẫn là một thời kỳ quyết định đối với tôi. Kỳ ngộ nhất là khi tôi thường lui tới nhà thương để săn sóc cho người thân cũng như trăm nghìn người khác, nhưng các bác sĩ và y tá trong bệnh viện đều có cảm tình với tôi – một cô học trò nhỏ, mới mười mấy tuổi, ngây thơ, chất phác, chân thành biết ơn những người đã hết lòng cứu chữa cho mẹ mình. Với tôi, họ là những người bạn tốt, những người cha, người chú, và là anh chị thân quý của tôi, đã giúp tôi trong những lúc khó khăn, cô đơn và lạc lõng nhất.
Một cô bé người Hoa, bỗng dưng trở thành một thành viên ở đó, như trong một đại gia đình. Từ năm 1942, 1943, ngoài những ngày đi học ra, trong các ngày khác cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ, rỗi rãi tôi thường chạy vào nhà thương chơi. Nhà thương này, vừa là bệnh viện, vừa là nơi các sinh viên trường thuốc thực tập. Tôi được ưu đãi đặc biệt và rất vui vẻ khi được đi cùng với các bác sĩ vào trong phòng bệnh mà không biết là để làm gì.
Các bác sĩ cũng cho tôi một chiếc áo khoác trắng, cho nó ra vẻ sinh viên, nhưng có ai tin trong đám sinh viên trường thuốc lại có một cô bé con như vậy. Có người trố mắt ra khi thấy tôi đi đằng trước cùng với các bác sĩ tiến vào phòng bệnh. Có khi bác sĩ Huard đi đầu, theo sau là một toán sinh viên, đa số là nam sinh, và có một vài cô sinh viên nữ mà thôi. Các anh sinh viên cũng không hiểu tôi là người thế nào, con cháu của bác sĩ nào và thường nói chuyện đùa với tôi: – “Cô là sinh viên năm thứ mấy? Bao giờ tốt nghiệp?” Tôi cũng nghiêm trang trả lời: – “Tôi là sinh viên năm thứ 9, sắp tốt nghiệp rồi, còn tốt nghiệp trước cả các anh nữa đấy.” Tôi không nói bậy, vì thực ra tôi đang học lớp 9 ở trường Trung Học Trung Hoa. Nhiều khi sau giờ làm việc, tôi cùng các bác sĩ về ký túc xá. Sau bữa cơm tối, tôi thường đánh bóng bàn theo lối đánh đôi. Tôi và bác sĩ Tùng (Tôn Thất Tùng) vào một bên, bên kia là bác sĩ Tâm (Phạm Biểu Tâm) và Cơ (Nguyễn Trinh Cơ)… Thường là bên chúng tôi thắng cuộc.
Lúc đó tôi xem bác sĩ Tùng (Tôn Thất Tùng) như cha đỡ đầu. Ông rất quan tâm tới sự học hành của tôi. Lúc đó ông dự tính, sau khi tốt nghiệp ban trung học chữ Hoa, tôi sẽ đổi sang chuyên học chữ Pháp trong ba năm, rồi sau sẽ tìm cơ hội lên học y khoa. Không ngờ thời cục biến chuyển nhanh, quân Nhật chiếm đóng Việt Nam, dự tính theo học y khoa theo chương trình Pháp khó mà thực hiện được.”
Tên các danh y của bệnh viện Phủ Doãn lúc đó và của Việt Nam sau này, được Hứa Bảo Liên kể trong các trang sách của mình: Ngoài bác sĩ Tôn Thất Tùng, Phạm Biểu Tâm, còn có các bác sĩ Hồ Đắc Di, Nguyễn Xuân Chữ. Bác sĩ Huard là một tên tuổi lừng danh mà y giới ở cả hai miền Bắc và Nam đều biết.
“Một bác sĩ người Pháp, Huard* là giáo sư trường Y khoa, vừa là trưởng khoa ngoại tại nhà thương này. Tuy là bác sĩ quyền uy nhất ở đây, nhưng lần nào gặp tôi, ông cũng bắt tay và chào hỏi vui vẻ… Tôi còn nhớ hồi cuối năm 1945, một hôm ông Huard đi xe đạp tới nhà thương làm việc, nửa đường bị dân chúng đánh thâm tím cả mặt mũi, quần áo lếch thếch… vì lúc đó quần chúng tự nổi dậy đánh dân Pháp cho hả dạ.” [5]
*Pierre Huard (1901-1983), vị Giáo sư Khoa trưởng người Pháp cuối cùng của Đại học Y khoa Hà Nội, đã có công đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ ưu tú của nền y học Việt Nam như Tôn Thất Tùng, Phạm Biểu Tâm… Nhưng rồi như một trớ trêu của lịch sử, sau trận chiến Điện Biên Phủ (1954), GS Huard là đại diện Chính phủ Pháp và hội Hồng Thập Tự, BS Tôn Thất Tùng – môn sinh của GS Huard, là đại diện của Việt Minh, nay thầy trò đứng hai bên chiến tuyến đối nghịch, phụ trách việc trao trả thương binh của hai phía.
Cuối năm 1942, Hứa Bảo Liên gặp Nguyễn Tường Bách đang tập sự ngoại khoa ở đây. Nguyễn Tường Bách ra trường năm 1944, như vậy năm đó NTB đã là SVYK 4, với tuổi 25. Mối liên hệ hình như là tình yêu giữa hai người nẩy nở từ đây. Lúc đó Nguyễn Tường Bách đã thích viết văn, viết báo, làm thơ, và đã nổi tiếng ngay với truyện ngắn “Tha Hương” đăng trên Giai Phẩm Xuân Đời Nay 1943, được nhiều bạn gái thầm yêu mến.
Rồi mùa Hè 1943, Hứa Bảo Liên và nhóm bạn học cô bị hiến binh Nhật bắt, bị giam trong hầm của nhà in Ideo ở phố Tràng Tiền. Việc một số học sinh đang học tại trường bị mất tích – trong khi đa số là những học sinh còn tuổi vị thành niên, đã làm chấn động dư luận trong giới Hoa Kiều. Qua bao vận động, và cả để lấy lòng các bang hội Hoa Kiều lúc đó, Hiến binh Nhật đồng ý trả tự do cho đám học sinh còn đang học tại trường. Và một năm sau, tình thế ở Hà Nội hoàn toàn đổi khác khi quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào đất Việt.
Nguyễn Tường Bách đã hết sức sửng sốt khi hay tin Hứa Bảo Liên bị bắt. Rồi Bách được gặp lại người em gái nhỏ sau mấy tháng bị giam cầm, cả hai đều vui mừng, họ như đôi bạn cùng cảnh ngộ cùng chí hướng. Nguyễn Tường Bách tuy rất bận rộn ở trường thuốc, ở tòa báo và cả việc “Hội Kín” – chữ của Hứa Bảo Liên, Bách vẫn cố gắng dạy Liên học để bắt kịp khoảng thời gian bị giam nhất là với hai môn Toán và Pháp văn.
Và rồi, hình như có linh tính báo cho cô gái biết, giữa hai người đã có một cái gì khác với tình bạn, hay tình anh em thuần tuý. Hai người đã thực sự đi tới quyết định gắn bó vận mệnh với nhau, nhưng còn nhiều thử thách ở phía trước mà họ phải vượt qua, khó khăn do định kiến từ gia đình Nguyễn Tường, với thêm hàng rào chủng tộc, vào thời kỳ đó đã có rất ít con gái người Hoa thành hôn với một chàng trai Việt. Đó là vào mùa Hè năm 1945.
MỘT HÀ NỘI TANG TÓC 1945
Sau Nhật đảo chính Pháp, tình hình vô cùng căng thẳng. Máy bay Mỹ bỏ bom Hà Nội và các thành phố miền Bắc. Còi báo động inh ỏi. Bom ném trúng chợ Hàng Da, dân chết và bị thương vô số. Hứa Bảo Liên viết:
“Những chiếc băng ca mang những người bị thương vào nhà thương Phủ Doãn, phải xếp hàng từ cổng nhà thương tới phòng mổ, dài 5, 6 mươi mét. Chính mắt tôi trông thấy nhiều người chưa đợi đến phiên mình mà đã tắt thở! Trên nhà mổ, bên cạnh hành lang cũng nằm la liệt những người bị thương, gồm cả xác chết. Tất cả nhân viên nhà thương đều mệt lử và không biết bao giờ làm mới xong.”
Rồi đến chứng kiến nạn đói năm Ất Dậu:
“Chẳng bao lâu lại nghe tin nhiều nông dân bị chết đói. Thành phố Hà Nội bắt đầu thấy những người dân gầy còm thất thểu trên các đường phố. Họ đói quá phải cướp những bánh trái của những người bán hàng rong. Có người đi ăn xin, số người này càng ngày càng nhiều. Sáng nào tôi cũng thấy có những người kéo chiếc xe bò đi nhặt xác. Vì đói lâu, nên những chiếc xác nhẹ và bé đi. Họ chồng chất trên chiếc xe bò nhỏ, trên xác chết có phủ chiếu, nghe nói là đem tới ngoại ô để vùi.”
Thời gian ấy, Hứa Bảo Liên đang sống ở Hà Nội, rồi tốt nghiệp và ra trường. Liên bắt đầu đi dạy tại hai trường Hoa Kiều: Một ở Ngõ Gạch và một ở Hàng Than. Buổi tối thì ngồi dịch các bản tin từ chữ Hoa ra chữ Việt, viết những bài bình luận về các vấn đề phụ nữ đăng trên tờ Ngày Nay của anh Bách. Công việc bận rộn nhưng vui vì đúng chí hướng với anh Bách. Bảo Liên sống tự lập, vẫn ăn mặc giản dị như thuở học trò: Thân thể khỏe mạnh, mặc áo sơ mi trắng, váy màu lam không trang điểm phấn son, và vững tin vào tương lai. Với tinh thần cầu tiến, Liên nuôi ý định tiếp tục lên học tại một đại học Trung Quốc. Về Nam Định xin phép ông bố và được đồng ý. Trước khi đi xa, Bảo Liên đi thăm mộ mẹ và bà. Thăm anh chị Long Hoàng Đạo. Đi xe hơi, đi thuyền đến Việt Trì, tìm lên chiến khu thăm anh Bách, để báo tin cho anh biết dự tính đi du học Trung Quốc và cả hai cũng không biết bao giờ mới có thể gặp lại nhau. Tháng Bảy năm 1946, Hứa Bảo Liên giã từ Hà Nội. Và cũng chẳng thể ngờ rằng chuyến đi này là vĩnh biệt Hà Nội, không bao giờ còn cơ hội quay trở lại nữa.
NHỮNG NHÂN VẬT CỦA THỜI ĐẠI
Năm 1943, khi ấy Liên vừa 18 tuổi, Nguyễn Tường Bách rủ Liên tới tòa soạn 80 Quan Thánh thăm anh Long tức nhà văn Hoàng Đạo. Toà báo Ngày Nay qua ký ức của Hứa Bảo Liên hơn nửa thế kỷ sau:
“Toà báo Ngày Nay ở bên phải đầu phố Quan Thánh, chung quanh có hàng rào sắt, trên sân nhiều cây hoa, có cả mấy khóm trúc màu vàng nữa. Tầng dưới là nhà in và ban trị sự, và nhiều nhân viên đang làm việc bận rộn chung quanh những máy in lớn, tiếng máy nhịp đều đều, mùi dầu xông lên khắp phòng. Trên gác là toà soạn. Vừa lên gác đã thấy ngay phòng khách rộng, vừa là chỗ hội họp. Ở giữa là chỗ làm việc với một số bàn, bên phải là phòng riêng của anh Khái Hưng.
Bách trỏ vào một người bên bàn, xem ra gần bốn mươi tuổi, cũng mũi cao, mắt sâu, lông mày rậm. Anh nói: “Đây là cô Liên, đây là anh Long.” Anh Long tươi cười mời tôi ngồi. Anh khổ người trung bình, mắt ngang rất sáng, mới trông cũng không biết anh là người cởi mở, không có thành kiến. Không biết lúc đó anh có nghĩ là em mình tại sao lại có bạn nhỏ như vậy không? Anh Long vui vẻ hỏi tôi: “Cô có thích đọc tiểu thuyết không?” “Có, em có thích đọc tiểu thuyết chữ Hoa và chữ Việt. Mẹ em thường mua tờ Phong Hoá, lúc đó em thích nhất là mục vui cười, những tranh hài hước như những lời đối thoại của Lý Toét và Xã Xệ.” Anh nghe nói mỉm cười và còn hỏi tôi về việc học hành sinh hoạt. Trước khi tôi ra về, anh có ký tặng tôi một quyển sách và còn nói đùa một câu: “Chữ ký này, sau này rất có giá trị đấy!”.
Hoàng Đạo (sinh năm 1907) lúc đó mới 36 tuổi. Chẳng thể ngờ rằng chỉ 5 năm sau 1948, chính Hứa Bảo Liên lúc đó đã là em dâu, đang cùng Nguyễn Tường Bách sống thiếu thốn ở Bạch Hạc Động một khu ngoại ô thành Quảng Châu, và cũng chính Bảo Liên đã phải chạy tất bật đi vay từ một người bạn 500 đồng Hong Kong để anh Tam, anh Bách cùng các đồng chí sáng ngày hôm sau có thể đi tới ga Thạch Long lo chôn cất anh Hoàng Đạo mất đột ngột ở tuổi 42.
“Anh Nguyễn Gia Trí có bộ râu quai nón. Lúc đó anh ở cùng nhà với anh Bách, anh thường tiếp xúc với những hộp sơn, những vỏ trứng gà. Có lẽ vì thế nên tuy là hoạ sĩ, anh không thích diện, anh thường vận quần áo xuềnh xoàng với đôi dép cao su cũ kỹ. Tính anh ít nói và thẳng thắn. Hình như anh không để ý gì đến những sự vật chung quanh mình và cũng không thích giao thiệp với nhiều người.”
Nguyễn Gia Trí (sinh năm 1908), lúc đó 35 tuổi, hơn Nguyễn Tường Bách tám tuổi và Hứa Bảo Liên đã phác hoạ được một chân dung và cả phong cách rất trung thực của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, cũng là chiến sĩ cách mạng bôn ba với các đồng chí VNQDĐ cũng bị tù đày ở những năm về sau này. Những tác phẩm hội hoạ cuối đời của Nguyễn Gia Trí ngày nay đã được xem là “quốc bảo”, thuộc tài sản quốc gia.
“Anh Khái Hưngđã hơn bốn mươi tuổi, người gầy gò nhỏ nhắn, nhưng lanh lẹ và rất vui tính, anh thường hay nói đùa với tôi. Trong những ngày làm việc bận rộn thỉnh thoảng tôi có mang cơm đến nhà báo để anh Bách dùng. Nhưng có khi vì bận nên chưa kịp ăn, anh Khái Hưng cùng mấy người cháu của anh Bách như Tường Ánh, Tường Triệu “nếm thử” những món ăn, rồi còn khen là ngon nữa làm tôi không khỏi bật cười.”
Khái Hưng (sinh năm 1896), cao tuổi nhất, lớn hơn Nguyễn Tường Bách 20 tuổi, nhận Tường Triệu con trai Nhất Linh làm con nuôi với tên Trần Khánh Triệu. Khái Hưng nổi tiếng với các tác phẩm Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Tiêu Sơn Tráng Sĩ… là một trong mấy cây bút chủ lực của Tự Lực Văn Đoàn. Hoạt động cách mạng, tham gia Đại Việt Dân Chính Đảng, bị Pháp bỏ tù một thời gian, rồi bị Việt Minh bắt và bí mật thủ tiêu năm 1947.
“Anh Vũ Hồng Khanh, lần đầu tiên tôi gặp, thấy anh người đẫy đà, da ngăm đen, thân thể khỏe mạnh, tiếng nói hùng hồn, có vẻ là một nhà binh hơn là nhà chính trị. Lúc đó, anh rất bình dị, không khách sáo, và vì ở Vân Nam lâu năm, nên anh nói tiếng Vân Nam rất thạo.”
“Anh Xuân Tùng, thì bình dị hơn cả. Lúc nào cũng thấy anh quần áo xuềnh xoàng, kè kè điếu thuốc lào. Nghe nói trước kia anh chuyên làm công tác bí mật trong thời Pháp thuộc. Lúc nào cũng thấy anh vội vội vàng vàng, như có nhiều việc đang đợi anh làm, nên không bao giờ thấy anh ngồi lâu được.”
… Bất cứ nhân vật nào của thời đại mà Bảo Liên gặp qua các thời kỳ, trong những hoàn cảnh khác nhau, đều được ghi lại chỉ với ít dòng đơn sơ nhưng đó là nét phác thảo của những bức chân dung rất có thần. Nguyễn Tường Thiết có lần đã nhận định, bao nhiêu năm sau gặp lại bác Xuân Tùng, ai cũng nhận thấy ngay cái dáng “vội vội vàng vàng” đúng y như thím Bách đã mô tả. Nhà phê bình Nguyễn Mạnh Trinh, khi đọc cuốn hồi ký Nguyễn Tường Bách và Tôi, đã viết: “trong tác phẩm, tôi đã gặp một nhà văn Hứa Bảo Liên, với văn phong đơn giản, thành thật nhưng truyền cảm.”
HỘI NGHỊ HỒNG KÔNG
Năm 1947, khi Nguyễn Tường Bách đang ở Côn Minh, được lệnh “anh Tam” đi dự hội nghị Hồng Kông. Ngay từ đầu, Nguyễn Tường Bách đã không muốn trực tiếp tham dự Hội Nghị đó do không tán thành “giải pháp Bảo Đại với những điều kiện do Pháp đưa ra”, vì như vậy là hợp pháp hoá cho sự tái xâm lăng của người Pháp. Nhưng phải theo quyết định chung, Nguyễn Tường Bách vẫn ra đó để quan sát tình hình và góp ý kiến với các anh về thái độ của những đảng bộ các nơi.
Và đúng như dự đoán, Hội Nghị Hồng Kông đã không đi tới đâu do những rạn nứt rõ rệt của các phe phái quốc gia, trong khi đó Việt Minh không ngừng rêu rao tuyên truyền và “lên án hội nghị Hồng Kông là bán nước và những thành phần tham dự đều bị kết án tử hình vắng mặt.” [3]
Hình 4a: Cựu hoàng Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương chụp chung với các chính khách Việt Nam sang dự Hội Nghị Hồng Kông 1947 (Nguyễn Tường Tam đứng hàng thứ ba, và là người thứ ba từ phải). [tài liệu ORDI / Oriental Research Development Institute – Viện Nghiên Cứu Phát Triển Phương Đông]Hình 4b: Các chính khách Việt Nam tham dự Hội Nghị Hồng Kông 1947 [hình chụp tại Văn phòng cựu hoàng Bảo Đại], hàng trước từ trái, Phan Văn Giáo, Trần Văn Lý, Trần Thành Đạt, Hà Xuân Hải, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung, Trần Quang Vinh, Trương Vĩnh Tống, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Tường Tam – Nhất Linh và Vũ Kim Thành; hàng đứng từ trái, Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Tuyên, Lâm Ngọc Đường, Cung Giũ Nguyên, Cao Văn Chiểu, Trần Ngọc Liễng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Hải, Ngô Xuân Tích, Nghiêm Xuân Việt, Vũ Quốc Hưng, Nguyễn Phước Đáng, Nguyễn Tường Long – Hoàng Đạo. [tài liệu ORDI / Oriental Research Development Institute]
RỜI CÔN MINH DỌN VỀ QUẢNG CHÂU
Đầu năm 1948, do tình trạng tài chính thiếu thốn, Nguyễn Tường Bách cùng anh Tam, anh Long và các anh em khác quyết định dọn về Bạch Hạc Động là một vùng ngoại ô thành Quảng Châu / Guangzhou – là một thị trấn lớn nhất của tỉnh Quảng Đông / Guangdong lúc bấy giờ. Từ Bạch Hạc Động muốn sang Quảng Châu phải đáp tàu qua sông Châu Giang, và còn phải đi thêm một quãng đường xa mới tới.
Nơi dọn tới chỉ là hai căn nhà bỏ trống từ lâu nên tiền thuê rẻ chỉ có 5 đồng HK. “Các anh sống rất thanh đạm, ngày hai bữa cơm do một bà láng giềng thổi thuê. Mỗi bữa có một nồi canh rau, một món xào với tí thịt hay cá. Lúc đó anh Tam vì mắc bệnh đau dạ dày nên thường ăn mì.Anh Long cùng anh Bách ăn rất ít, dù có đồ ăn hay không.
“Tôi còn nhớ, sau hội nghị Hồng Kông, có các anh Vũ Hồng Khanh, Đỗ Đình Đạo từ các nơi khác tới, và anh Phạm Khải Hoàn từ trong nước ra. Các anh họp suốt tuần, tranh luận rất dữ dội. Lúc thường các anh là đồng chí vào sinh ra tử, nhưng trong những công việc chung, mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến mình, tranh luận để đi tới kết luận chung.
Hè năm 1948, trước sau có chị Long, chị Tam sang thăm các anh. Các chị đem lại nhộn nhịp và vui vẻ. Chị Long đi với cháu Ánh, lúc đó độ 12 tuổi. Chị có mang quần áo rét cho anh Long. Chẳng bao lâu thì chị Tam sang thăm, chị đi với cháu Thạch, cũng độ 12 tuổi…” [5]
TANG TÓC KHÔNG NGỜ: CÁI CHẾT CỦA HOÀNG ĐẠO
Năm 1948, Tháng Bảy như một tin sét đánh, có một người Việt Nam đột ngột chết trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu. Ông hành khách ấy đột ngột gục xuống ngay chỗ ngồi trên toa xe lửa khi đang xem báo. Không có cách gì cứu chữa; xác đã được đưa xuống ga Thạch Long.
Người đầu tiên nhận được tin dữ này là Hứa Bảo Liên, nay đã là bà Nguyễn Tường Bách. Người báo tin là một bà chủ tiệm tạp hoá ở Bạch Hạc Động và cũng là trạm phát thư. Hứa Bảo Liên viết:
“Tôi về kể lại, mọi người đều chột dạ, nhưng lại tự an ủi là người Việt họ Nguyễn thì nhiều, không chắc có phải là anh Long. Nhưng hôm đó mọi người đều thắc mắc lo âu. Sáng hôm sau, tôi lại ra chợ, lần này thấy bà chủ tiệm hình như đang đợi tôi, Thấy tôi bà nói luôn: Có người sang nói, người mất trên tàu tên là Nguyễn Phúc Vân (đấy là tên hiệu của anh Long ít người biết). Tôi không để bà ta nói hết, quẳng ngay chiếc rọ, chân dép chân đất, tất tả chạy về. Sau khi nghe tôi kể lại, mọi người đều im lặng, nhưng nước mắt đã tràn xuống… Sau một thời gian ngắn, anh Bách chạy về nói với tôi: ‘Sáng sớm mai, mọi người phải đi, song trong nhà không ai có đủ tiền, mà cũng không biết phải dùng hết bao nhiêu. Nay em sang Quảng Châu vay cô Bình 500 đồng HK (khoảng 60 USD, theo thời giá lúc ấy 1 USD tương đương với 8 HKD), nếu cô ta không có thì nhờ vay hộ, xong việc sẽ trả ngay.’ Tôi biết số tiền này rất cần, nhưng số tiền lớn như vậy, tương đương với hai lạng vàng, không biết có thể vay được không?” [5]
Hứa Bảo Liên đã tất bật chạy ra tới bến, phải lấy tàu qua sông Châu Giang, vừa đi vừa chạy tới nhà cô Bình là bạn học cũ của Liên đang làm ăn buôn bán ở đây, vay được số tiền đó để lo chôn cất cho anh Hoàng Đạo. Cũng để thấy rằng, cả Hải ngoại vụ Việt Nam Quốc Dân Đảng nghèo và đời sống khắc khổ thiếu thốn như thế nào, trong khi đó thì Việt Minh vẫn rêu rao tung tin bôi nhọ Nguyễn Tường Tam đã biển thủ công quỹ, mang theo hai triệu đồng của Bộ Ngoại Giao khi chạy sang Trung Hoa.
Hứa Bảo Liên viết tiếp:
“Sáng hôm sau, các anh dậy sớm lên đường. Tôi vì có con mọn nên các anh khuyên tôi ở lại coi nhà… Hai hôm sau, các anh trở về, người nào người nấy bơ phờ như kẻ mất hồn, hai mắt đỏ hoe. Thật không có gì đau thương bằng trong lúc lưu vong, lại xảy ra sự sinh ly tử biệt này! Anh Bách có cho tôi biết, khi mở quan tài, mọi người đều khóc không ra tiếng, cảnh tượng này không bao giờ quên được. Còn hành lý và giấy tờ trong người anh Long đã được nhà ga trao trả thân nhân chu đáo.” [5]
Và đây là cận cảnh do Nguyễn Tường Bách, người em của Hoàng Đạo ghi lại: “Khi tới nơi, mở nắp quan tài thì mặt người chết đã sưng phù biến dạng nhưng mọi người nhận ngay ra đó là anh Long vì còn nguyên bộ đồ áo tây mà anh vẫn thường mặc. Mọi người đau buồn nhưng người đau đớn nhất là anh Tam. Mấy anh em chỉ còn biết chung tay đào một mộ huyệt sơ sài cho anh Hoàng Đạo, cắm mấy nén hương cuối cùng và một bia đá được đặt trang nghiêm trên đầu mộ, với mấy dòng chữ:
Hình 5: Hoàng Đạo (1907-1948)
NGUYỄN TƯỜNG LONG
Người Việt Nam
Sinh năm 1906*, mất năm 1948
Yên nghỉ nơi đây
[*Năm sinh đúng cùa Hoàng Đạo là 1907 tức năm Đinh Mùi nhưng khai sinh ghi 1906]
Một tháng sau thì chị Nguyễn Tường Long cùng con gái Minh Thu sang thăm mộ, chị đã khóc rất thảm thiết. Sau đó chị Long ra thẳng Hong Kong, Hứa Bảo Liên thì về lại Quảng Châu. Và đó cũng là lần chia tay vĩnh biệt giữa hai chị em.
Nguyễn Tường Bách khi nhớ lại, đã cảm khái viết về người anh của mình: “Trên con đường xa xôi mà chúng tôi đã đi qua, đã bao nhiêu anh em, bao nhiêu người thân ngã xuống rồi, nhưng chúng tôi vẫn không thể tin được là người anh thân mến đã chỉ dẫn tôi từ lúc còn thơ ấu, một nhân tài xuất sắc của đất nước, đã đi tiên phong trong phong trào văn học, đã từng bị giam trong trại tập trung của thực dân Pháp, một người có phẩm chất bình dân, khiêm tốn nhưng cương quyết không thỏa hiệp với đế quốc, với độc tài, không bao giờ mưu toan danh lợi cá nhân, lại đã chết và nằm xuống thầm lặng ở một góc nhà ga xa lạ trên đất khách quê người.” [3]
ĐƯỜNG ĐI NAM KINH / NANJING
Năm 1948, các đảng phái quốc gia ở hải ngoại như đứng trước ngã ba đường. Về khu Pháp chiếm thì phải khuất phục trước thực dân, mà về khu kháng chiến, không có chỗ đứng chân và có nguy cơ bị Việt Minh tiêu diệt. Trong khi đó, ngay trên đất nước Trung Hoa, đại quân Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đang phải lui bước trên khắp các mặt trận trước Hồng quân của Mao Trạch Đông. Tưởng Giới Thạch cầu cứu Mỹ nhưng không được đáp ứng.
Trước tình hình đó, lãnh đạo VNQDĐ quyết định phái Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Bách đi Nam Kinh – là thành trì còn vững vàng của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, để đánh giá tình hình và hoạch định tương lai. Tại Nam Kinh, đoàn Việt Nam được tiếp xúc với các yếu nhân trong ban bí thư QDĐTH, được gặp Phó Tổng thống Lý Tôn Nhân là nhân vật số hai sau Tưởng Giới Thạch. Ông nổi tiếng là viên tướng tài khi cầm đầu Lộ quân thứ 19 đánh thắng quân Nhật tại Đài Nhi Trang. Với ngôn ngữ ngoại giao, Lý Tôn Nhân bày tỏ sự đồng tình với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và hứa hẹn sẽ đưa sang trung ương nghiên cứu về sự giúp đỡ cụ thể.
Đoàn thì đã quá quen với những lời hứa hẹn từ mọi cấp QDĐTH. Trong khi tình hình quân sự của đại quân Tưởng Giới Thạch ngày càng suy sụp, đã phải tính chuyện dời đô Nam Kinh xuống Quảng Châu. Đoàn Việt Nam nhận thức rõ rằng không còn có thể trông mong gì sự giúp đỡ của QDĐTH, khi mà một lực lượng đại quân của Tưởng Giới Thạch – đông hơn Hồng quân của Mao nhưng lại đang trên bờ vực tan rã.
ANH TAM SUY NHƯỢC THẦN KINH
Hoàn cảnh bế tắc, lại thêm cái chết bất ngờ của người em Hoàng Đạo, và sau này thêm sự thay đổi lý tưởng của người em út Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Tường Tam quá đau buồn nên sức khoẻ càng ngày càng suy sụp, anh Tam đã bị đau dạ dày, nay lại mắc bệnh suy nhược thần kinh, không còn khả năng đối phó với những tình huống nghiêm trọng, và mọi người cùng đồng ý để anh Tam rời Quảng Châu ra Hong Kong dưỡng bệnh.
Thời gian đó, ở Hong Kong anh Tam sống chung với gia đình người đồng chí Trương Bảo Sơn có vợ là Nguyễn Thị Vinh. Được sự hướng dẫn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Thị Vinh và thêm cả cô sinh viên Linh Bảo đều trở thành hai nhà văn nữ danh tiếng của Miền Nam sau này.
Hình 6: Bức hình quý hiếm duy nhất và cuối cùng chụp tại Thượng Hải 1947 có đủ mặt ba anh em Nguyễn Tường: hàng trước từ trái, Trần Quang Vinh, Lưu Đức Trung, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam Nhất Linh, Trần Văn Tuyên; hàng sau từ trái, Nguyễn Bảo Toàn, Đỗ Đình Đạo, Nguyễn Tường Long Hoàng Đạo, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Tường Bách Viễn Sơn, Lâm Ngọc Đường. [tư liệu và ghi chú của Nguyễn Tường Thiết]
Sau này, khi nói về cái chết của Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách vẫn còn nhớ tới chứng sầu muộn của anh Tam đã có từ cuối năm 1948, với những đêm mất ngủ, ngồi vắng lặng một mình và tự nhiên bật khóc mà không có lý do, mà người em bác sĩ Nguyễn Tường Bách gọi đó là bệnh trầm cảm / depression.
TÌM CON ĐƯỜNG MỚI: LY KHAI QUỐC DÂN ĐẢNG 1949
Tình hình trong nước biến chuyển quá mau chóng. Quốc Dân Đảng Trung Hoa – vốn là chỗ dựa của VNQDĐ thì nay đã quá nguy ngập. Hồng Quân mở rộng tấn công Bắc ngạn Trường Giang, uy hiếp Nam Kinh, Thượng Hải, bao vây Hán Khẩu. Các tướng lãnh QDĐTH đã chuẩn bị di tản sang Đài Loan, lánh sang Hong Kong hoặc Hoa Kỳ.
Trước nguy cơ Hồng Quân tiến vào Vân Nam, nhiều anh em VNQDĐ phải trở về nước, hay chạy sang Quảng Đông. “Anh Xuân Tùng, người đã vật lộn bao nhiêu năm với cách mạng từ Côn Minh sang và tỏ ý muốn trở về nước, vì theo anh trong nước mới có cơ sở hoạt động. Không đi với cộng sản nhưng anh cũng cam đoan không hợp tác với Pháp. Chia tay nhau trong thương mến, anh chúc cho chúng tôi cũng sớm trở về.” [3]
Ai cũng cảm thấy hoàn cảnh bế tắc. “Do đó, tôi – Nguyễn Tường Bách, và một số anh em quyết tâm cùng nhau thảo luận để tìm ra một con đường mới, không những có thể đưa tới độc lập dân tộc, mà còn đưa tới một xã hội công bằng, không có áp bức và bóc lột, không thể là một chế độ chuyên chính, vô sản.”
Nguyễn Tường Bách đã phải đau xót với nhận định: “Việt Nam Quốc Dân Đảng nay trong thất bại, lại đã chia rẽ thành nhiều nhóm hành động trái ngược nhau. Điển hình nhất là một số công khai ra hoạt động dưới dù bảo hộ của kẻ địch: quân Pháp. Điều này khiến cho đảng mất chính nghĩa và mất tín nhiệm quần chúng.”
Nguyễn Tường Bách mang “ý tưởng mới” này ra Hong Kong để bàn với anh Tam và các anh khác. “Đối với ý kiến của chúng tôi là rời bỏ chủ nghĩa Tam Dân, đi tìm một con đường mới để thoát khỏi bế tắc, anh Tam không biểu lộ ý nghĩ cụ thể, không tán thành hay phản đối việc chúng tôi làm.Xưa nay anh không ép buộc ai phải làm theo ý muốn của mình cả, có thể vì thế mà anh không tổ chức được hàng ngũ đấu tranh có kỷ luật chặt chẽ.” Chúng tôi – Nguyễn Tường Bách và Nguyễn Tường Tam chia tay.
Nguyễn Tường Bách trở về Quảng Châu, vẫn trên con đường xe hỏa định mệnh của Hoàng Đạo ngày nào. “Tôi suy nghĩ rất nhiều. Đây là thời khắc quyết định tương lai của tôi, một xoay chuyển với quá khứ, có thể đưa tới những khó khăn, bất trắc không lường. Nhưng một nam nhi, một chiến sĩ không thể theo vết xe cũ, miễn là có một mục đích cao thượng về độc lập, hạnh phúc của dân tộc.” [3]
Về đến Quảng Châu, “cùng mấy anh em khác, thêm anh Văn Đạo, một cán bộ cũng từ Quảng Châu, qua thảo luận ráo riết, chúng tôi đã đồng ý trên mấy điểm cơ bản như sau:
– Đồng ý về cương lĩnh chính trị: Thực hiện dân tộc độc lập, dân chủ tự do, và công bằng xã hội; tiết chế tư bản, bảo đảm quyền lợi công nông. Phản đối chuyên chính vô sản cũng như sự bóc lột tàn bạo của tư bản. Thực hiện một chế độ “xã hội chủ nghĩa” nhưng không độc tài theo lối của Bắc Âu.
– Về chương trình hành động:Giải trừ chế độ thực dân và giải trừ chế độ chuyên chính của Việt Minh cộng sản. Phương pháp hoạt động chính là truyền bá dần tư tưởng trong dân chúng, tạo nên phong trào quần chúng dần dần đi tới toàn dân nổi dậy cướp chính quyền, trên nguyên tắc, trong giai đoạn này, phải ủng hộ cuộc kháng chiến của toàn dân.
Chúng tôi thành lập một nhóm đấu tranh mới gọi là nhóm “Cách Mệnh Xã Hội”. Để tránh mâu thuẫn, tháng 3 năm 1949, chúng tôi quyết định thoát ly Quốc Dân Đảng, nhưng vẫn giữ quan hệ hữu hảo với Quốc Dân Đảng và các đảng phái quốc gia chống Pháp khác.
QUYẾT ĐỊNH Ở LẠI QUẢNG CHÂU
Chọn con đường mới: Từ bỏ Chủ nghĩa Tam Dân, ly khai Quốc Dân Đảng, nhóm Cách Mệnh Xã Hội Nguyễn Tường Bách hầu như bị đứt liên lạc với trong nước. Trong tình thế cực đoan ấy, báo “Cách Mệnh Xã Hội” vẫn cố gắng ra được mấy số. Mới đầu báo in thạch bản / litho rất khó đọc, sau đó đổi sang lối khắc chữ rõ nét dễ đọc lại in ra được nhiều số hơn để gửi đi các nơi như Vân Nam, Quảng Tây / Guangxi, Hong Kong và anh em mang về trong nước.
Nội dung tờ báo có chỗ mâu thuẫn – do chính Nguyễn Tường Bách nhận định sau này. Chống cộng sản chuyên chế, không thể hợp tác nhưng thừa nhận chính nghĩa kháng Pháp của họ. Không có chỗ đứng giữa hai khu Pháp và cộng sản, lại chưa có thực lực, hướng đi của nhóm Cách Mệnh Xã Hội còn bất định về tương lai của con đường thứ ba.
Trong khi đó, Hồng Quân của Mao đã vượt qua sông Dương Tử / Yangtze, uy hiếp Hồ Nam / Hunan, Lưỡng Quảng / Liangguang. Du kích quân cộng sản cũng hoạt động mạnh ở ngay tỉnh Quảng Đông. Tình hình nguy ngập, các lãnh đạo QDĐTH đã chạy ra khỏi nước, sang Đài Loan hoặc Hong Kong. Người Việt khắp nơi đổ về Quảng Châu, tìm lối thoát sang Hong Kong, một số tìm đường về Việt Nam.
Nguyễn Tường Bách viết:
“Mấy tháng giữa năm 1949 thực là bước ngoặt của cuộc đời chúng tôi và của cả lịch sử Trung Quốc. Những ngày nắng hè là ngày tàn của chế độ Tưởng Giới Thạch.
“Qua bao nhiêu đêm không chợp mắt, suy nghĩ riết ráo, tâm tình bối rối ngổn ngang. Một buổi chiều chúng tôi ngồi đợi thuyền trên khúc bờ sông ở Sa Diện, nơi mà chiến sĩ Phạm Hồng Thái đã gieo mình xuống 25 năm trước đây (1924).Không rõ tại sao, ngày nay chúng tôi lại ngồi ngay đúng chỗ này?
“Ngồi rất lâu trên bến tàu, lúc đứng lên chúng tôi – Nguyễn Tường Bách, đã quyết định: Ở lại đất này để tìm hiểu những cái mới lạ và một mặt sẽ thăm dò khả năng tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp.”
“Không ngờ, sự quyết định này đã thay đổi hẳn cuộc đời và đưa chúng tôi vào một cuộc sống lưu vong dài dằng dặc trong những cảnh ngộ kỳ lạ, hơn cả trong tiểu thuyết phiêu lưu và cuối cùng tới những bờ bến không bao giờ tưởng tượng nổi.” [3]
GIẤC NGỦ MÙA ĐÔNG HƠN 40 NĂM
Đã có quyết tâm ở lại nhưng vẫn mang tâm trạng nặng trĩu như sắp đi vào một tương lai bất định. Hứa Bảo Liên lúc đó thì đang lo lắng sao chồng sang Quảng Châu đi qua đêm không về. Khi Nguyễn Tường Bách đem chuyện quyết định ở lại bàn với Liên, và nàng đồng ý không về nước trong lúc này, cho dù khó khăn nguy nan bao nhiêu Liên cũng sẵn sàng chịu đựng, và muốn luôn luôn ở lại bên chồng trong mọi hoàn cảnh đặc biệt như lúc này.
Tưởng cũng nên ghi lại đây một sự kiện rất đặc biệt là Hứa Bảo Liên có quốc tịch Pháp. Khi về thăm bố ở Nam Định trước khi lên đường đi du học Đại học Vân Nam, Bảo Liên đã được bố trao cho một tờ khai sinh với quốc tịch Pháp. Tờ khai sinh đó sau này đã bị Bảo Liên xé đi khi biết Nguyễn Tường Bách đã có quyết định ở lại đất Trung Hoa.
Tháng Chín năm 1949, Hồng Quân đã tiến tới sát biên giới Quảng Đông. Các tướng Quốc Dân Đảng đã phải chạy dài. Dân chúng Quảng Châu bàng hoàng xôn xao. Ở lại Bạch Hạc Động – ngay ngoại thành Quảng Châu sẽ không yên. Giữa lúc đó, Hứa Bảo Liên may mắn gặp lại một người bạn Hoa kiều quen từ Việt Nam, ông ta hiện làm giáo viên tại Phật Sơn là một thành phố nhỏ cách Quảng Châu 20 cây số và sẵn sàng giới thiệu Liên làm giáo viên cho một trường tiểu học nơi đó. Giữa Tháng Chín năm 1949, gia đình ba người Nguyễn Tường Bách, Hứa Bảo Liên và bé Hứa Lan đứa con gái đầu lòng, rời căn nhà Bạch Hạc Động trong bùi ngùi, nơi trú ngụ gần hai năm cùng với các đồng chí anh em, nay tất cả cũng đã tứ tán ra đi.
Nguyễn Tường Bách viết:
“Tuy trong lòng có bùi ngùi nhưng chúng tôi thấy trầm tĩnh, không lo lắng. Vả lại có khó khăn thì muốn ra Hương Cảng hay cùng lắm trở về Việt Nam cũng có thể được. Nhưng thôi, đã quyết định đi con đường mạo hiểm thì cứ đi đã. Chỉ có cái không ngờ được là chuyến đi này đưa tới chỗ tạm cư Phật Sơn – rồi cứ tạm cư tới bốn mươi năm! Phật Sơn, núi Phật – một đất chắc là lành… nhưng chính là nơi mà chúng tôi chứng kiến sự bẩm sinh của một nước Trung Hoa hoàn toàn mới, và kinh lịch những cảnh ngộ ít có trên thế giới này.”[3]
Với người viết, thì 40 năm ở Phật Sơn có thể coi như một “giấc đông miên – hibernation” của Nguyễn Tường Bách. Từ vị thế của một chiến sĩ cách mạng hành động hăng say nhiệt tình của thập niên 1940 – 1950, thì nay là một Nguyễn Tường Bách y sĩ đồng quê – như một bản Giao Hưởng Thôn Dã, đẹp nhưng buồn. Trong suốt 40 năm ấy, có lẽ Nguyễn Tường Bách là người Việt Nam duy nhất chứng nhân của những giai đoạn, những thời kỳ bão táp khủng khiếp với máu và nước mắt của cuộc Đại Cách mạng Văn Hóa Trung Hoa. Nguyễn Tường Bách cũng đã ghi lại được những trải nghiệm quý giá có một không hai ấy trong cuốn Hồi Ký Hai 54 năm lưu vong của ông. [3]
Hình 7: Hình chụp một buổi ca nhạc trong gia đình Nguyễn Tường Bách – Hứa Bảo Liên ở Phật Sơn. Lúc ấy 1967, Nguyễn Tường Bách đã có nặng gánh một gia đình 6 con: 5 gái và 1 trai. Nguyễn Tường Bách là một y sĩ đồng quê và Hứa Bảo Liên là một cô giáo tiểu học. [tư liệu Hứa Bảo Liên] Năm 2005, khi được LS Lâm Lễ Trinh hỏi: “Anh Bách có nghĩ là sai lầm và là một phí phạm không, khi quyết định ở lại và sống ở Trung Quốc đến hơn 40 năm?” Và Nguyễn Tường Bách đã khẳng định: “Đó không phải là một quyết định sai lầm, nhưng cũng đáng tiếc. Và từ đây, tôi muốn hướng về tương lai.” [6]
CÁI CHẾT CỦA NHẤT LINH 1963
“Năm 1948, Tháng 7, tin đột ngột về anh Hoàng Đạo mất trên đường xe lửa từ Hong Kong về Quảng Châu đã làm xúc động tới mỗi thớ tim của những người xa nước. Thì cũng một ngày tháng 7 nhưng là năm 1963, tôi bỗng nhận được một bức điện tín từ Thượng Hải đến, do anh Văn gửi – anh Vũ Đức Văn hiện dạy tại trường Ngoại Ngữ Học Viện. Ai ngờ, trong thư câu đầu là: ‘được tin buồn là anh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã qua đời.’ Tin này anh Văn cắt từ tờ báo L’Humanité của đảng cộng sản Pháp xuất bản ở Paris, đại ý nói ‘Nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Tường Tam do vướng vào một vụ án chính trị đã tự sát. Ông đã từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Việt Nam năm 1946…’
“Tin bất ngờ đã khiến tôi lặng người, không nén được nỗi đau thương trong lòng. Sao lại có thể như thế được? Một người anh thân yêu, một chiến hữu thân mật trong sự nghiệp văn chương và cách mạng, đã từng sống với nhau bao phút vui buồn, trong an bình cũng như trong gian truân, lưu lạc, có quan hệ không những là ruột thịt mà còn là sinh tử, đương còn hy vọng gặp lại nhau một ngày nào trong tổ quốc – nay đã mất người anh thân yêu, lỗi lạc, một anh tài đất nước, mà không thể về nhìn lại mặt anh lần cuối.” [3]
Cũng trong cuộc phỏng vấn với LS Lâm Lễ Trinh (2005), Nguyễn Tường Bách – sau 17 năm sống ở Mỹ, cho rằng: “Anh Nhất Linh đã tự mình từ giã cõi đời. Cách giải quyết này, trong thâm tâm tôi không tán thành lắm.” Nguyễn Tường Bách nói rõ hơn, và cho rằng cách chọn lựa của Nhất Linh là đáng tiếc và tiêu cực. Nhất Linh có thể đi ra nước ngoài dễ dàng, như sang Cam Bốt, khi thời thế thay đổi Nhất Linh có thể trở về, anh Tam đang còn tiềm năng để cống hiến, nhất là về lĩnh vực văn chương văn hoá. “Nghe nói trong đám tang anh rất lớn, dân chúng đổ ra đường để tiễn đưa một tinh anh của dân tộc. Nhưng đám tang dù lớn, dù đông tới đâu, cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa, khi con người đã qua đời.”[6]
Hình 8: Chân dung Nhất Linh. Nguyễn Tường Tam (1905* – 1963) của hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí
[ *Năm sinh đúng của Nhất Linh là 1906, tức năm Bính Ngọ, nhưng khai sinh ghi 1905]
VỀ THĂM VIỆT NAM 1977
Tháng Chín năm 1977, đúng 30 năm sau ngày xa rời tổ quốc (1947 – 1977), 14 năm sau cái chết của anh Tam, hai năm sau ngày Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam, Nguyễn Tường Bách và đứa con trai út Tường Kiên đang tuổi vị thành niên có một chuyến về thăm Việt Nam. [Hứa Bảo Liên cùng nộp đơn xin đi nhưng bị từ chối, vì họ sợ cho toàn gia đình đi là sẽ không trở về]. Hai bố con Nguyễn Tường Bách từ Phật Sơn đi Hồ Nam để đáp chuyến xe lửa tốc hành tuyến Mạc Tư Khoa – Bắc Kinh – Hà Nội, về thăm Việt Nam.
Tới gần biên giới, đang từ trên một toa tàu rộng rãi có phòng ngủ êm ái, trên một hệ thống đường sắt rộng gần 1.5 mét (1,435 mm) tiêu chuẩn quốc tế, nay phải chuyển tàu sang phía Việt Nam, vẫn là một hệ thống đường rầy cũ kỹ hẹp nhất thế giới chỉ rộng 1,000 mm, đã có từ thời Pháp (1904-1910), các toa tàu nhỏ chật cũ kỹ, đám nhân viên Việt Nam thì cũng nhỏ bé ăn mặc luộm thuộm. Hình ảnh đầu tiên một nước Việt Nam cộng sản nghèo nàn, cảm giác là nao nao buồn.
Rồi con tàu Việt Nam cũ kỹ đi qua cửa ải Nam Quan – nay có tên là Hữu Nghị Quan, nơi này từng là bãi chiến trường lịch sử với kẻ xâm lăng từ phương Bắc, để tràn vào vùng đất tổ quốc. Phía trước mắt sắp tới là ga Đồng Đăng, nơi mà Nguyễn Tường Bách còn nhớ câu ca dao:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Tàu chỉ dừng ở đây giây lát, “tôi bước xuống sân ga, để đạp chân lên đất nước nhà sau ba mươi năm”. Con tàu lại lăn bánh trên khúc đường sắt, không được chăm sóc cỏ mọc xanh rì. Tàu chạy chậm ì ạch qua từng địa danh quen thuộc, Lạng Sơn rồi Bắc Giang, qua đâu cũng thấy cảnh nghèo, quá nghèo. Rồi tiếng con tàu rần rần chạy qua một cây cầu sắt – cầu Long Biên, nhìn xuống dưới dòng sông Hồng, như bao năm, vẫn chảy cuồn cuộn. Cuối cùng rồi con tàu cũng vào tới ga Hàng Cỏ. Phố Ga vẫn không có gì thay đổi, vẫn thấp nhỏ và buồn tẻ.
Hà Nội vẫn là hình ảnh cũ kỹ – cũ kỹ hơn thời kỳ Pháp thuộc từ hơn nửa thế kỷ trước. Nghèo nàn là ấn tượng đầu tiên những ngày ở Hà Nội. Khi tìm gặp được một số bạn cũ, đã lâu không gặp và hoàn cảnh cũng đã rất khác song vẫn cởi mở và chân tình. Gia đình những người bạn ấy có một mẫu số chung là nghèo, rất nghèo – cho dù họ đang là công chức, có người là bác sĩ.
Rồi cũng gặp lại được một đồng nghiệp cũ, tuy nay là một viện trưởng, sau bao năm gặp lại, đã ngậm ngùi nói: “Cái gì cũng ù lì cả… người ta có làm gì ra hồn đâu?” và rồi trong chỗ riêng tư, rất thành thực, anh ấy đã khuyên bạn là không nên về.
“Tôi cũng ngậm ngùi. Sao mà nghèo thế, trì trệ đến thế. Vì chiến tranh ư? Nhưng sao lại cứ đánh nhau trong khi tình hình đã kiệt quệ đến cực điểm?”
Nhưng có lẽ chặng đường xúc động nhất là khi Nguyễn Tường Bách trở lại thăm con đê Yên Phụ, vẫn đình làng xưa nhưng những viên gạch lót đường đã mòn cũ vỡ đi nhiều. Vẫn là con đường quen thuộc, thân thiết của bao nhiêu năm tháng đã sống bên những người thân.
“Tự nhiên bóng dáng anh Thạch Lam, cao, gầy, đầu đội mũ dạ, mỗi khi về nhà chậm rãi bước trên con đường lát gạch này, lại hiện ra trước mắt tôi. Và còn bao nhiêu hình ảnh khác. Bây giờ những người đó ở đâu?” [3]
Con đường Yên Phụ đã gắn bó với mấy anh chị em gia đình Nguyễn Tường, và những bạn hữu: Khái Hưng, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Nguyễn Gia Trí, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu… tất cả đã từng có mặt trong căn nhà tranh ấy. Những người trăm năm cũ ấy, họ ở đâu bây giờ?
Rồi phải tới thăm tòa nhà 80 Quan Thánh, nơi từng là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay, Việt Nam. Trước đây thì rất dễ nhận ra, ở góc đường và có bao lơn bằng rào sắt xung quanh. Nay đã khác hẳn, phải khó khăn lắm mới tìm ra cổng trước và tấm bảng cũ đề số 80.
“Tang thương biến đổi. Tôi tần ngần đứng lại nhìn một lúc. Những người ở bên cạnh chắc là cho chúng tôi đương tìm nhà nào. Họ có ngờ đâu bọn này chính là chủ nhân ngôi nhà này, ba mươi năm trước, và bao nhiêu sự việc kỳ lạ đã từng xảy ra.” [3]
Thật cảm xúc, người đọc không thể không nhớ tới mấy câu thơ của Hạ Tri Chương qua bản dịch của Trần Từ Mai:
Đi trẻ về nay tuổi đã già
Giọng quê không đổi, tóc sương pha
Ngẩn nhìn, em nhỏ tươi cười hỏi:
Khách ở phương nào mới tới a?
Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?
Hà Nội 30 năm sau, không chỉ đời sống vật chất quá nghèo nàn, mà đời sống văn hoá cũng chẳng khá hơn gì. Chỉ có báo chí của nhà nước: Tờ Nhân Dân, tờ Quân đội Nhân dân, tờ Hà Nội Mới, với nội dung chỉ là những khẩu hiệu và rất sơ sài.
Nguyễn Tường Bách biết rất rõ rằng, suốt chuyến đi về thăm quê hương, anh vẫn bị công an theo dõi. Thời gian này, Bách còn nhận được mấy bức thư từ miền Nam, giục vào thăm, nơi vẫn còn còn mộ anh Tam, còn chị Tam và những người thân trong gia đình Nguyễn Tường. Nhưng đơn xin dấu thông hành vào Nam vẫn chưa được chấp thuận. Sau cùng, câu trả lời là: “vì tình hình Miền Nam còn chưa ổn định, trị an không được tốt, nên cấp trên có ý kiến là…” Câu trả lời đó có nghĩa là yêu cầu vào thăm miền Nam của Nguyễn Tường Bách dứt khoát đã bị khước từ.
Chỉ được thăm Hà Nội và vài tỉnh miền Bắc như Nam Định, Bắc Giang… Sắp hết hạn hai tháng lưu trú, Nguyễn Tường Bách cũng phải từ biệt Việt Nam. Vẫn bằng chuyến xe lửa từ sân ga Hàng Cỏ, nhưng lần này là ngược chiều cây cầu sắt Long Biên đi về hướng Bắc. Hà Nội lui về phía sau xa mờ dần, chỉ còn lại là một nỗi buồn khó tả.
LE REPOS DU GUERRIER – DỪNG CƠN GIÓ LOẠN
Chuyến về thăm Việt Nam 1977, sau 30 năm, chỉ để lại một dư vị buồn bã. Trở lại Phật Sơn, làm việc thêm ba năm nữa mặc dù đã quá tuổi hưu. Năm 1980, người y sĩ đồng quê Nguyễn Tường Bách chính thức về hưu ở tuổi 64. Tình hình rối ren do cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung, dẫn tới một làn sóng nạn kiều – người gốc Hoa ở Việt Nam đổ tràn về Trung Quốc. Trong số nạn kiều ấy, có một thanh niên gốc Hoa tên Lý Trung Nhân tốt nghiệp Bách Khoa Hà Nội – Nhân là con trai BS Lý Hồng Chương, một đồng nghiệp quen biết cùng học Y khoa Hà Nội với Nguyễn Tường Bách, nên Nhân được cưu mang và sau này trở thành rể của gia đình Nguyễn Tường Bách.
Rồi Lý Trung Nhân được mẹ bảo lãnh đi Mỹ, đem theo được vợ là Hứa Anh con gái thứ tư của bác sĩ Bách. Rồi người con gái thứ năm Hứa Chân cũng được đi Mỹ để hiến tủy cứu sống chị gái Hứa Anh đang bị ung thư máu. Như một phép lạ, cuộc hiến tủy thành công. Hai người con gái của Nguyễn Tường Bách – Hứa Bảo Liên sau này đều trở thành công dân Mỹ và đã có thể bảo lãnh cho bố mẹ sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình.
Hình 9: Trước năm Nguyễn Tường Vũ từ Canada về thăm Chú Bảy, năm 1986 Nguyễn Tường Lưu, anh của Vũ đã từ Úc châu sang thăm Chú Bảy tại Phật Sơn / Foshan, tỉnh Quảng Đông. (Lưu và Vũ là con ông Nguyễn Tường Thụy, người anh cả trong gia đình Nguyễn Tường). Hình chụp hai chú cháu đứng trước cửa căn nhà nhỏ với bên vách là chiếc xe đạp cũ kỹ, và quần áo phơi thì giăng mắc đầy trên dây. Cảnh không khác với khu Bàn Cờ nghèo nàn của Sài Gòn ngày nào; tuy vui mừng được gặp lại nhưng khi chứng kiến cảnh sống quá đạm bạc và cả ẩn nhẫn của Chú Bảy, đã khiến Lưu phải mủi lòng. [photo by Nguyễn Tường Lưu, Phật Sơn 1986]
TỪ BIỆT TRUNG QUỐC, WELCOME TO AMERICA
Năm 1988, Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên giã từ Trung Hoa sau 42 năm. Với người chiến sĩ Nguyễn Tường Bách là bước ra khỏi “giấc đông miên”. Nguyễn Tường Bách đặt chân tới Mỹ khi đã quá tuổi cổ lai hy nhưng vẫn với tâm thức của tuổi 30 mươi khi chàng thanh niên Nguyễn Tường Bách từ Lào Cai đi qua cửa Hà Khẩu để bắt đầu cuộc phiêu lưu vào đất Trung Hoa.
Nay cũng chàng thanh niên ấy đã ở tuổi 72, đặt chân tới một lục địa mới, như cá gặp nước, Nguyễn Tường Bách hăng say đi tiếp ngay một cuộc hành trình không ngưng nghỉ thêm hơn 20 năm nữa với bao nhiêu là dự án: Thành lập “Uỷ Ban Điều Hợp Các Tổ Chức Tranh Đấu cho Việt Nam Tự Do”, rồi “Mặt Trận Dân Tộc Dân Chủ Việt Nam”, và bền bỉ nhất là “Hoạt Động Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam” kết hợp với “Mạng Lưới Nhân Quyền.”
TRỞ LẠI VỚI VĂN NGHIỆP
Hứa Bảo Liên viết: “Anh Bách thường nói, bác sĩ là chức nghiệp, cách mạng là sự nghiệp, nhưng văn nghệ mới là ước nguyện chính.” Sau khi về hưu, còn ở Phật Sơn, anh cầm bút tranh thủ thời gian viết. Anh viết rất hăng say, chẳng khác gì khi còn trẻ. Mấy chục năm qua như mới xảy ra ngày nào. Cầm bút viết, anh trầm ngâm nhớ lại thời kỳ niên thiếu với cảnh đẹp quê nhà, đời sống sinh viên lãng mạn, những ngày say mê làm báo viết văn, rồi đến những ngày gian truân, nguy hiểm vào sinh ra tử nơi chiến trường và những cảnh lưu vong chật vật nơi xứ người…
Cuốn hồi ký đầu tiên “Việt Nam Những Ngày Lịch Sử” xuất bản ở Canada, anh chỉ viết trong sáu tháng. Cũng trong năm 1980, anh viết bài bình luận chính trị, “Một vài ý kiến về vấn đề Việt Nam” gửi ra ngoài với bút hiệu Viễn Sơn, không ngờ được nhiều độc giả tán thành và đã giúp vào việc kết hợp các tổ chức sau này. Tiếp đến anh viết một cuốn tiểu thuyết dài, anh viết say mê. Hứa Bảo Liên giúp anh đánh máy từng chương. Đọc lại thấy chương nào không vừa ý anh cho luôn vào thùng rác. Bản thảo cuốn tiểu thuyết viết xong, hai vợ chồng tranh luận về đầu đề cuốn sách, cuối cùng “Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”được chọn làm tiêu đề cho cuốn tiểu thuyết này.
Không phải nhà phê bình nhưng Hứa Bảo Liên đã có mấy dòng nhận định sắc sảo: “Quyển sách này – ‘Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn’ là một thiên hùng ca hay một bi kịch của thời đại? Đúng là một thiên hùng ca cho những người dấn thân vào công việc chống thực dân và chống độc tài – nhưng cũng là một bi kịch lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam với nỗi đau thương trùm lên cả đất nước sau khi họ thất bại.” [5]
Hình 10a: Mấy trang đầu bản thảo viết tay của cuốn tiểu thuyết Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn của BS Nguyễn Tường Bách, viết xong Mùa Thu 1982 tại Phật Sơn, Quảng Đông. [tư liệu Nguyễn Tường Giang]Hình 10b: Bìa cuốn trường thiên tiểu thuyết “Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn” của Nguyễn Tường Bách, dày 655 trang. Bản thảo đã được viết sau khi về hưu, do Hứa Bảo Liên đánh máy và hoàn tất tại Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông. Sách do Tân Văn – Đỗ Thông Minh xuất bản 1995. [tư liệu Phạm Lệ Hương]Hình 11: Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và nhà văn Võ Phiến – Võ Phiến kém Nguyễn Tường Bách 9 tuổi, gặp nhau Tháng 5/1995 tại nhà Võ Phiến trên Los Angeles; Võ Phiến cũng là người viết tựa “Cảm xúc khi đọc cuốn Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”, và cả hai nay đã là “người trăm năm cũ”. [tư liệu Viễn Phố]Hình 12: Bìa các tác phẩm của BS Nguyễn Tường Bách xuất bản ở hải ngoại; trái: Việt Nam Những Ngày Lịch Sử, Nhóm Nghiên cứu Sử Địa xuất bản, Canada 1980; giữa: Việt Nam Một Thế Kỷ Qua Hồi Ký, Cuốn Một (1916-1946), Thạch Ngữ xuất bản 1998; phải: Việt Nam Một Thế Kỷ Qua Hồi Ký, Cuốn Hai (Trung Quốc 1946-1988, Hoa Kỳ 1988-2000) Thạch Ngữ xuất bản 2000. [tư liệu Trần Huy Bích]
TÁC PHẨM HỨA BẢO LIÊN
“Nguyễn Tường Bách và Tôi”, đó là tên cuốn hồi ký gia đình rất đặc sắc của Hứa Bảo Liên, viết xong 1996 sách chỉ dày 245 trang, tác giả tự xuất bản 2005.
Hình 13: trái, bìa trước tác phẩm “Nguyễn Tường Bách và Tôi”, hồi ký gia đình của Hứa Bảo Liên xuất bản tại Hoa Kỳ 2005; giữa, trang đề tặng của tác giả cho người viết; phải, bìa sau tác phẩm với trích dẫn trang bút ký “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” của Ngô Thế Vinh khi tới thăm Đại học Vân Nam. [tư liệu Ngô Thế Vinh] Hình 14: Đến thăm gia đình bác sĩ Nguyễn Tường Bách – Hứa Bảo Liên, từ trái hàng ngồi: BS Nguyễn Tường Bách, bà Nguyễn Tường Bách Hứa Bảo Liên, Vân Loan vợ Nguyễn Nhã; hàng đứng: Ngô Thế Vinh, Nguyễn Nhã, Trần Huy Bích. [hình chụp 24/8/2004, tư liệu Ngô Thế Vinh] Hình 15: Bác sĩ Nguyễn Tường Bách – Hứa Bảo Liên, từ trái, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Tường Thiết và vợ Nguyễn Thái Vân. [tư liệu Nguyễn Tường Giang]
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Bác sĩ Nguyễn Tường Bách hơn tôi 25 tuổi, khoảng cách một phần tư thế kỷ về tuổi đời, cộng thêm với khoảng cách xa hơn thế nữa về từng trải, kinh nghiệm sống và sự nghiệp cống hiến. Chỉ riêng trong lĩnh vực y khoa, thế hệ tốt nghiệp 1944 của BS Nguyễn Tường Bách, nếu đi về giảng huấn đều là bậc thầy của tôi trong Đại học Y khoa Sài Gòn sau này. Nguyễn Tường Giang – con trai nhà văn Thạch Lam, cháu gọi BS Nguyễn Tường Bách là chú, là bạn đồng môn Y khoa 1968 với tôi – khoảng cách tôi và bác xa như vậy mà tôi vẫn được bác Bách đối xử với sự khiêm cung và rất rộng lượng.
Trong giao tiếp, bác Bách vẫn gọi tôi là bác sĩ. Hơn thế nữa, bác Bách còn là một nhà báo lão thành, một nhà văn thế hệ Tự Lực Văn Đoàn, với các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam… đã từng là những cuốn sách thân thiết với tôi thuở thiếu thời – từ thập niên 1950 ở Hà Nội và sau này ở Sài Gòn. Rồi tới thập niên 1990, như một tình cờ lịch sử, tôi được gặp và cả đọc sách của bác với hai tập Hồi Ký Việt Nam Một Thế Kỷ Qua I & II, và nhất là cuốn tiểu thuyết Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn, tất cả đều được viết và hoàn tất sau khi bác về hưu, tôi cảm phục và thấy gần gũi với bác nhiều hơn.
Bác Nguyễn Tường Bách viết về con Sông Hồng, tôi viết về Sông Mekong, và đã được bác đọc với mối quan tâm. Trong một bức thư bác viết cho tôi ngày 18.8.2004, như tâm tình gửi cho một đồng nghiệp, một bạn đồng hành vong niên, bức thư có phần chung và riêng – người viết muốn được chia sẻ phần chung ấy với bạn đọc – nhất là với các bạn trẻ.
Hình 16: Lá thư tay BS Nguyễn Tường Bách gửi Ngô Thế Vinh ngày 18 Tháng Tám năm 2004. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Thân gửi Bác sĩ Ngô Thế Vinh,
… Với mục tiêu cao thượng và ngòi bút xuất chúng, (cuốn) sách… tất sẽ được mọi người ưa chuộng và sẽ có ảnh hưởng rộng rãi trong dân chúng trong và ngoài nước. Rất mong được gặp bác sĩ để trao đổi tâm sự. Làm thế nào để nâng cao trình độ của nền văn nghệ Việt Nam và cũng là phần góp sức vào công cuộc truyền bá những tín niệm mới về ý thức tự do, dân chủ và nhân quyền của người dân Việt Nam và trong phần nào đó vào trào lưu tiến hoá của cả nhân loại. Tôi nghĩ, những công việc của chúng ta làm không chỉ giúp cho dân tộc mà trong thời đại này, sẽ góp một phần bé nhỏ của chúng ta cho trào lưu đó. Nếu chúng ta cố gắng thêm, thì cũng sẽ lượm được kết quả tốt cùng với đông đảo những anh em người Việt đương sống trong lưu vong ở hải ngoại…
Thân,
Nguyễn Tường Bách, 8/2004
TRÊN NGỌN ĐỒI HỒNG
Bác sĩ Nguyễn Tường Bách mất ngày 11 Tháng Năm, năm 2013, thọ 98 tuổi, bác Bách gái Hứa Bảo Liên đã mất trước đó 5 năm, ngày 10 tháng 1 năm 2008 – tất cả như đã khép lại một trang sử đầy huyền thoại của một thế kỷ Cách Mạng Việt Nam, của một thời kỳ văn học rực rỡ của Tự Lực Văn Đoàn. Nguyễn Tường Bách: Một bác sĩ, một chiến sĩ, một nhà báo, một nhà văn. Ông là một tượng đài tuyệt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam, của dấn thân và hy sinh. Ông vẫn cứ sáng mãi như ngọn đuốc thiêng dẫn đường và là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Hình 17 : Bia mộ của BS Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên tại nghĩa trang Đồi Hồng / Rose Hill, Whittier, California. [hình từ album gia đình Lý Trung Nhân, con trai BS Lý Hồng Chương, con rể BS Nguyễn Tường Bách]
Little Saigon 1988 – California 2021
Tham Khảo:
1/ Nguyễn Tường Bách. Việt Nam Những Ngày Lịch Sử. Tủ sách tài liệu lịch sử. Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa xuất bản, Montréal 1981
2/ Nguyễn Tường Bách. Việt Nam Một Thế Kỷ Qua. Hồi Ký cuốn Một, 1916-1946. Nxb Thạch Ngữ 1998
3/ Nguyễn Tường Bách. Việt Nam Một Thế Kỷ Qua. Hồi Ký cuốn Hai, Trung Quốc 1946-1988, Hoa Kỳ 1988-2000. Nxb Thạch Ngữ 2000
4/ Nguyễn Tường Bách. Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn. Tiểu thuyết, Nxb Tân Văn 1995
5/ Hứa Bảo Liên. Nguyễn Tường Bách và Tôi. Hồi ký gia đình. Tác giả tự xuất bản 2005.
6/ Mạn đàm lịch sử với BS Nguyễn Tường Bách, Người em út trong gia đình Tự Lực Văn Đoàn. LS Lâm Lễ Trinh thực hiện 24.09.2005
Sự sụp đổ của nhiều hãng hàng không do Covid đã cho phép các hãng hàng không mới hơn tuyển dụng các phi công, tiếp viên và nhân viên mặt đất bị sa thải với mức lương thấp hơn. Và mức giá cho các máy bay đã qua sử dụng thì đặc biệt hấp dẫn.
Thật khó để nghĩ về một ngành bị ảnh hưởng bởi đại dịch nặng hơn ngành hàng không. Khoản lỗ dự kiến sẽ đạt 201 tỷ USD từ năm 2020 đến năm 2022, xóa sổ gần 9 năm thu nhập. Hàng chục hãng vận tải đã ngừng hoạt động và hàng triệu công việc không còn tồn tại nữa. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để ngăn một số doanh nhân thành lập các hãng hàng không ở Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ.
Nở rộ những hãng hàng không mới
Tại Hồng Kông, ông trùm bất động sản Bill Wong đang bắt đầu một hãng hàng không, với hy vọng sẽ vượt mặt Cathay Pacific, công ty đã vướng vào bê bối chính trị từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2019, trước cả khi có đại dịch..
Tại Ấn Độ, một trong những thị trường hàng không khó khăn nhất thế giới, nhà đầu tư tỷ phú Rakesh Jhunjhunwala đang bơm tiền vào Akasa Air mới thành lập. Tại Vương quốc Anh, một cựu thương nhân JPMorgan đang thành lập một hãng hàng không mang tên Flypop với nỗ lực đưa những người Ấn Độ xa xứ về quê hương của họ và kết nối London với các thành phố thứ cấp của Ấn Độ.
Và ở Mỹ, hãng hàng không của David Neeleman – người trước đó đã thành lập JetBlue Airways, Azul Brazil Airlines và WestJet của Canada – đã bắt đầu bay vào tháng 5. Breeze Air có trụ sở tại Utah, cung cấp dịch vụ bay thẳng giữa các thành phố nhỏ hơn của Mỹ như Louisville, Tampa và Tulsa.
Sự lạc quan bắt nguồn từ sự phục hồi một phần nhu cầu đi lại, khi việc tiêm chủng đã khuyến khích các quốc gia mở cửa biên giới. Đồng thời, sự sụp đổ của nhiều hãng hàng không do Covid đã cho phép các hãng hàng không mới hơn tuyển dụng các phi công, tiếp viên và nhân viên mặt đất bị sa thải với mức lương thấp hơn. Và mức giá cho các máy bay đã qua sử dụng thì đặc biệt hấp dẫn.
Đối với nhiều hãng hàng không mới, trọng tâm là mô hình giá rẻ, với kế hoạch khai thác du lịch. Mặc dù các công ty sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho việc đi công tác của nhân viên, nhưng thời điểm hiện tại thị trường vẫn còn nhiều rủi ro vì nhiều công ty tận dụng lợi ích của các việc gọi họp hành qua Zoom với chi phí thấp.
“Những gì chúng ta đang nói ở đây là… có những khách hàng muốn đi nghỉ ngắn trong ba hoặc bốn ngày, có thể đến một thủ đô mà họ chưa từng khám phá, đến một bãi biển mới, một điểm đến mới”, Tim Jordan, một cựu giám đốc điều hành tại Virgin Blue và Cebu Pacific, người sáng lập Bonza, một hãng hàng không của Úc có mục tiêu bắt đầu bay vào quý 2 năm sau. “Lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng khi bạn trải qua nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau — cho dù đó là ngày 11/9, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hay Covid — thì những doanh nghiệp phục hồi và phát triển nhanh nhất sau những cuộc khủng hoảng đó là những hãng vận tải giá rẻ.”
Nino Singh Judge, người sáng lập Flypop của Vương quốc Anh, đồng ý với Jordan. Ông nói: “Các hãng hàng không kế thừa sẽ phải gánh chịu hậu quả khi họ dựa vào hạng thương gia và hạng nhất để trợ cấp cho hạng phổ thông của mình. Flypop, sẽ tập trung vào những khách hàng thăm bạn bè và người thân với mô hình đường dài, chi phí thấp, được hỗ trợ bởi vốn cổ phần tư nhân và quỹ chính phủ Vương quốc Anh.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh hàng không vô cùng khó khăn, ngay cả đối với các hãng hàng không giá rẻ, với lợi nhuận thấp và nhiều bên đã thua lỗ nặng. Warren Buffett đã một lần nữa cay đắng rút tất cả các khoản đầu tư vào ngành hàng không vào năm ngoái.
Điều đó không ngăn cản những người mới đến. Nghiên cứu từ Công ty tư vấn IBA có trụ sở tại Vương quốc Anh cho thấy, tính đến đầu mùa hè năm 2021, khoảng 132 hãng hàng không có kế hoạch bắt đầu bay trong năm nay, hầu hết đều tìm cách hồi sinh các đường bay bị bỏ trống do cắt giảm lịch trình hoặc sự sụp đổ của một hãng hàng không đương nhiệm.
Shukor Yusof, người sáng lập công ty tư vấn hàng không Endau Analytics tại Malaysia cho biết: “Kinh doanh hàng không có một sức hấp dẫn nhất định có thể đánh lừa cả những doanh nhân hiểu biết và thông minh nhất, khiến họ tin rằng mình có thể thành công.” “Các nhà đầu tư và doanh nhân cảm thấy tình hình do Covid gây ra đã mang lại cơ hội chỉ có một lần trong đời để bước vào một ngành công nghiệp rất hấp dẫn.”
Nhiều yếu tố thuận lợi
Theo Yusof, các rào cản gia nhập hiện đang rất thấp, máy bay ở mức “gần như cho tặng” và giá thuê chỉ bằng một phần nhỏ so với trước đại dịch, theo Yusof.
Tính sẵn có của các loại máy bay phản lực thân hẹp đã qua sử dụng như dòng máy bay 737 của Boeing và A320 của Airbus SE (cả hai đều phổ biến cho các tuyến đường ngắn và trong địa phương) – đã tăng hơn gấp đôi kể từ khi đại dịch bùng phát và hầu hết các hãng hàng không khởi nghiệp đang tìm kiếm loại máy bay như vậy, Rob Morris, trưởng bộ phận tư vấn toàn cầu của Ascend by Cirium cho biết.
Đối với các mô hình này, giá thuê hàng tháng đã giảm tới 40% và những người cho thuê cũng bắt đầu đưa ra các giao dịch hấp dẫn, bao gồm cả việc cho phép các hãng hàng không chỉ trả tiền cho thời gian máy bay đang trong thời gian hoạt động tạo ra doanh thu, ông nói.
Nguồn cung lao động có kỹ năng dồi dào hiện nay là một lý do khác khiến các hãng hàng không khởi nghiệp trở nên hào hứng. Theo Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế, Covid có thể xóa bỏ 2,3 triệu công việc hiện có liên quan trực tiếp đến các hãng hàng không, sân bay, nhà sản xuất và quản lý không lưu, trong khi tổng số 44,6 triệu công việc được hỗ trợ bởi hàng không cũng đang gặp rủi ro. Ví dụ, hầu hết các phi công và phi hành đoàn mà Hong Kong’s Greater Bay Airlines đang thuê đều là nhân viên cũ của Cathay, Dragonair hoặc Hong Kong Airlines.
Robert Mann, người đứng đầu công ty tư vấn hàng không RW Mann & Co. có trụ sở tại New York cho biết, các hãng mới thành lập phải trả chi phí nhân công xa xỉ cho năm đầu tiên trong thị trường lương thưởng khó khăn bởi đại dịch. Nhưng việc giữ chân những nhân viên có tay nghề cao, bao gồm cả phi công, điều phối viên và thợ máy được thuê trong thời kỳ đại dịch đang là một thách thức khi lực lượng lao động bắt đầu quay trở lại những hãng vận tải kế thừa với mức lương cao hơn, ông nói.
Sự hào hứng không chỉ giới hạn trong việc thiết lập các hãng vận tải thương mại. Tại Ý, Italia Trasporto Aereo, công ty nhà nước kế thừa Alitalia đã phá sản, bắt đầu bay từ tháng 10, và hãng này phải thừa nhận việc tồn tại sẽ khó khăn nếu không có sự tài trợ từ một hãng hàng không lớn.
Cyrus Capital đặt mục tiêu hồi sinh Flybe của Anh sau khi mua lại thương hiệu từ những nhà cầm quyền, trong khi một nhóm các nhà đầu tư ở Ấn Độ đang cố gắng hồi sinh Jet Airways India Ltd., công ty đã sụp đổ vì nợ nần chồng chất vào năm 2019. Và Tata Sons, tập đoàn lớn nhất Ấn Độ với đế chế trải dài các ngành hàng từ muối đến phần mềm, đang mua lại hãng hàng không quốc gia Air India đang thua lỗ, nợ nần chồng chất.
Nền kinh tế thúc đẩy các giao dịch như vậy cũng mang lại sự lạc quan cho các hãng hàng không mới như Flypop, hãng đã thuê máy bay thân rộng A330 của Airbus với mức chiết khấu kỷ lục. Người sáng lập Judge nói: “Ngay cả Warren Buffett cũng có thể mắc sai lầm.”
Trong họ nhà dơi, họ Dơi muỗi (Vespertilionidae) có số lượng loài lớn nhất, phân bố khắp thế giới trừ các vùng cực. Chúng có mũi phẳng và đôi mắt nhỏ đặc trưng.
Dơi gập cánh dài (Miniopterus schreibersii) dài 5-8 cm, phân bố rải rác ở Tây Nam châu Âu, bắc và Tây Phi, sang tận châu Á, trong đó có Việt Nam. Loài dơi muỗi này có các xương ngón tay dài và cánh rộng hơn các họ hàng của mình.
Dơi tai dài lông xám (Plecotus austriacus) dài 4-6 cm, sống ở Nam, Trung Âu và Bắc Phi. Loài này có đôi tai dài gần bằng cơ thể.
Dơi nâu lớn (Eptesicus fuscus) dài 10-13 cm, là một trong những loài dơi muỗi lớn nhất, phân bố từ Nam Canada đến Bắc Brazil và một số đảo Caribbean. Chúng thường được bắt gặp khi đậu ngủ trong các tòa nhà.
Dơi ngón ngắn (Nyctalus noctula) dài 6-8 cm, phân bố khắp Đông Bắc Âu và một số nơi ở châu Á. Loài dơi này bay khỏe và nhanh nhờ các đôi cánh hẹp của mình.
Dơi muỗi lông chuột (Vespertilio murinus) dài 5-7 cm, xuất hiện ở các sinh cảnh đa dạng như rừng, thảo nguyên, đồi núi và đô thị từ Đông và Trung Âu đến châu Á. Chúng có mặt bụng màu nhạt tương phản với mặt lưng tối màu.
Dơi Natterer (Myotis nattereri) dài 4-5 cm, phân bố từ Tây Bắc Phi qua châu Âu đến Tây Nam Á. Chúng bắt côn trùng bằng màng đuôi có diềm trong khi bay với tốc độ chậm.
Dơi tai lông rìa (Myotis thysanodes) dài 8-10 cm, sống ở miền Tây của Bắc Mỹ. Tên của loài này được đặt theo tua lông dọc mép của màng đuôi.
Dơi ăn thủy sinh (Myotis daubentonii) dài 4-6 cm, phân bố ở lục địa Á – Âu. Chúng dùng bàn chân khá lớn để bắt côn trùng bay lên từ mặt nước.
Dơi muỗi ba màu (Perimyotis subflavus) dài 7-9 cm, phân bố ở phía Đông của Bắc Mỹ, từ Nam Canada đến Bắc Honduras. Loài dơi có thân nâu vàng, cánh xám, cẳng chi hung đỏ này ngủ dưới mặt đất suốt mùa đông.
Dơi muỗi nhỏ (Pipistrellus pipistrellus) dài 4-5 cm, phân bố rất rộng từ Tây Âu đến Viễn Đông và Bắc Phi. Chúng được chia thành hai phân loài dựa trên sự khác biệt của tần số sóng siêu âm mà chúng phát ra.
Dơi muỗi rừng (Pipistrellus nathusii) dài 4-6 cm, phân bố chủ yếu ở Đông và Trung Âu. Chúng có thể thực hiện các chuyến di cư đường dài với cự ly 2.000 km vào mùa xuân và mùa thu.
Lớp tuổi của chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên trong những thập niên 30, 40, 50 của thế kỷ trước, được cắp sách đi học đến bậc trung học, chắc có lẽ ai ai cũng biết đến nhà văn Nhất Linh, người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn, cũng là nhà hoạt động cách mạng và chính trị Nguyễn Tường Tam.
Hình ảnh của ông là biểu tượng cho một ước vọng tuổi trẻ – tuổi thanh niên lúc bấy giờ: Đó là khát vọng yêu nước, tự nguyện dấn thân làm cách mạng, chống thực dân Pháp, chống độc tài, giải phóng dân tộc, và thêm nữa, đổi mới hoàn toàn nếp sống cũ, nếp sống hủ lậu, nô lệ, của phong kiến, của thực dân.
Chương trình Việt Văn trung học đệ nhất cấp thời Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 đã có học về Nhất Linh. Tôi nhớ mãi một đoạn văn trong tác phẩm Đoạn Tuyệt, Nhất Linh tả tâm trạng cô Loan, nhân vật nữ chính trong truyện, là một cô gái tân thời, yêu Dũng, một thanh niên đi hoạt động cách mạng. Nhưng hoàn cảnh trớ trêu, Loan bị gia đình ép phải lấy Thân, một người nàng không yêu. Trong tâm trang đó, nửa muốn thoát ly ra khỏi nếp sống gia đình của xã hội cũ, nửa lo sợ không biết khi mình thoát ra khỏi chiếc lồng đó, rồi sẽ ra sao? Nhất Linh tả cảnh đó như sau:
“Loan đi rẽ lên đê Yên Phụ. Gió bãi thổi làm quần áo Loan phất phới. Tay giữ chặt lấy khăn san, nàng đi ngược lên chiều gió, hai con mắt buồn bã nhìn ra phía sông rộng.
Sau mấy rặng xoan thưa lá, dòng sông Nhị thấp thoáng như một dải lụa đào. Bên kia sông gió thổi cát ở bãi tung lên trông tựa một đám sương vàng lan ra che mờ mấy cái làng con ở chân trời. Xa nữa là dãy núi Tam Đảo màu lam nhạt, đứng sừng sững to tát nguy nga, ngọn núi mù mù lẫn trong ngàn mây xám.
Loan đưa mắt nhìn một cánh buồm in trên nền núi xanh, nghĩ đến những cuộc phiêu lưu hồ hải ở nơi nước lạ, non xa. Loan ao ước được ở một chiếc thuyền kia tháng ngày lênh đênh trên mặt nước, mặc cho nó đưa đến đâu thì đến, để xa hẳn cái xã hội khắt khe nàng đương sống.
– Trốn!
Nghĩ đến rằng ở trong cái thuyền nhỏ ấy chắc lại thấy đủ các thứ khó chịu của xã hội kia, Loan mỉm cười thất vọng. Cái thuyền ấy biết đâu lại không phải là cái nhà tù trôi nổi…
– Trốn không được thì chỉ có một cách là can đảm nhận lấy cái đời hiện tại của mình, nhìn sự thực bằng đôi mắt ráo lệ không phiền muộn, không oán hờn, mạnh mẽ mà sống.”
Qua đoạn văn được học thuộc lòng từ hồi học trung học đệ nhất cấp, tôi bỗng thích Loan, thích Dũng và yêu mối tình đó. Loan là một cô gái tân thời, đẹp, có học, tâm hồn phóng khoáng, muốn thoát ra khỏi cái xã hội cũ với nhiều nề nếp ràng buộc. Còn Dũng, một thanh niên có tâm hồn tự do, nguyện hiến cuộc đời cho tha nhân. Mối tình ấy và hai con người ấy thật là lý tưởng. Trải qua bao nhiêu hoàn cảnh nghiệt ngã, Loan phải lấy Thân, rồi sống không hạnh phúc, rồi Thân chết, Loan bị tiếng oan là giết chồng…Sau đó Loan ra tòa, được trắng án… Nàng nghĩ ngay đến Dũng …
Tôi thích và say mê Đoạn Tuyệt nên yêu luôn tác giả. Nhất Linh thuở đó – thuở tôi còn học trung học, ông đã sáng ngời trong tâm trí tôi. Dù lúc đó, khoảng năm 1959, ông đã lên Đà Lạt, sống cùng với hoa lan, cùng suối Dame…ông đã quy ẩn, đã rút khỏi những hoạt động chính trị, rút khỏi những sóng gió của chính trường…
Nhất Linh thành lập Tự Lực Văn Đoàn
Năm 1933, Nhất Linh cùng hai em là Hoàng Đạo và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng “Tiếng Cười”, nhưng thiếu tiền chưa ra được báo thì giấy phép quá hạn, bị rút. Trong hai năm 1930 đến 1932, ông dạy học tại trường Thăng Long, ở đó ông quen biết với Trần Khánh Giư (Khái Hưng).
Năm 1932, cùng một số người khác, Nhất Linh mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích lễ giáo phong kiến, hô hào “Âu hóa” và đề cao chủ nghĩa cá nhân. Nhất Linh làm giám đốc kiêm quản lý tờ báo Phong Hóa. Kể từ ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa ra tám trang lớn, chú trọng về văn chương và trào phúng, tạo ra ba nhân vật điển hình: Xã Xệ, Lý Toét và Bang Bạnh.
Tự Lực Văn Đoàn gồm có:
Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam)
Khái Hưng (Trần Khánh Giư), còn gọi là Nhị Linh
Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long)
Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân)
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu)
Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ)
Cơ quan ngôn luận của Tự Lực Văn Đoàn là báo Phong Hóa.
Năm 1936 tờ Phong Hóa bị đóng cửa vì Hoàng Đạo viết bài châm biếm Hoàng Trọng Phu. Tờ Ngày Nay, trước ra kèm với Phong Hóa, tiếp tục và kế tiếp Phong Hóa. Tháng 12 năm 1936, trên báo Ngày Nay, Nhất Linh cùng nhóm Tự Lực Văn Đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo. Ngày Nay cũng là tờ báo hậu thuẫn mạnh mẽ cho tân nhạc trong những năm đầu hình thành.
Nhất Linh tự huỷ mình
Thư tuyệt mênh của Nhất Linh
Trong hồi ký “Nhất Linh – cha tôi” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết phát hành tại Sài Gòn năm 1964, những ngày cuối cùng của Nhất Linh được kể lại như sau:
“… Buổi sáng ngày 7/7/1963, Nhất Linh đi thật sớm. Ông mở ngăn kéo, lấy mấy tập sách, tập bản thảo những tác phẩm cuối cùng, gói vào một tờ nhật báo. Các con đoán có lẽ ông đi họp ở đâu vì cũng đúng vào Chủ nhật tuần trước, tức 30/6 ông đã tới dự phiên họp đặc biệt của nhóm Bút Việt.
Khoảng gần 10 giờ Nhất Linh về. Ông không thay quần áo ngay như mọi lần, cứ để nguyên quần áo tây ngồi xuống ghế xích đu, bên cạnh người con trai. Điếu thuốc lá rung rung ở trên đầu hai ngón tay, ông mở bia, rót vào cốc nhỏ ra dáng suy nghĩ. Một sấp ronéo để trước mặt ông.
Đó là bản cáo trạng khá dày, trong đó có những lời kết tội như “phản quốc”, “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trong suốt hơn một giờ, Nhất Linh vẫn giữ im lặng, suy nghĩ. Khoảng 11 giờ, với vẻ thảnh thơi, ông thay quần áo ngủ, rồi dặn người con trai Nguyễn Tường Thiết: “Chiều nay con lại luật sư Chính lấy hết các giấy bác sĩ về. Biết địa chỉ không?”.
Con trai nói: “Con đoán họ chẳng làm gì cậu đâu, nếu họ muốn bỏ tù thì họ đã bắt từ lâu rồi. Việc này họ đem ra xử cho có lẽ, rồi kết mình vô tội để hạ nhục chơi. Vả lại nếu có ra Côn Đảo thì cũng chả sao, chỉ làm giàu thêm cuộc đời tranh đấu của cậu. Cứ coi như là một dịp đi nghỉ mát”.
Nhất Linh đáp lại: “Cậu chẳng sợ kết quả ngày mai ra sao vì ở nhà hay ở tù thì cũng mất tự do như nhau. Có điều bực nhất là họ lấy tư cách gì mà lại đem xét xử những người quốc gia đối lập rồi gán cho họ tội phản quốc”.
Nhất Linh đã chủ ý cho độc dược vào rượu uống. Khi gia đình phát hiện ra thì đã muộn: Cuối phòng, vẫn trên cái ghế xích đu, ông gục đầu hơi ngoẹo về phía vai phải, một cánh tay buông lỏng thả xuống sàn nhà. Dáng điệu ấy thoạt trông thì khổ sở nhưng nhìn lên gương mặt thì tuyệt nhiên không một nét đau đớn. Ông như người ngủ gục.
Gương mặt êm ả, bình thản. Để ý lắm mới thấy một ít nước bọt rỉ ra ở khóe mép… Thân thể ông mềm, trong túi có một tờ giấy, đó là Di ngôn. Ông đã viết hai bản di chúc, một để trong túi áo ngực, một tờ dặn đưa cho bác sĩ Đặng Văn Sung, nhờ ông ấy chuyển ra ngoại quốc.
Di ngôn đó là:
Bức thư tuyệt mệnh của Nhất Linh viết ngày 7-7-1963
“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử cả.
Sự việc đem các đảng phái quốc gia đối lập ra xét xử là một trọng tội đối với quốc gia, chỉ đưa đất nước rơi vào tay Cộng Sản.
Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do.
Ký tên: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam,
Ngày 7 tháng 7 năm 1963.”
*
Sắp tới ngày 7.7.2021, tính ra nhà văn Nhất Linh mất đã tròn 57 năm (1963-2021).
Trong hai thập niên qua, nhà văn Phạm Phú Minh và nhật báo Người Việt đã tổ chức thành công:
– Năm 2013: Triển lãm và Hội Thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, tại Little Saigon, Nam California.
Và nhà văn Phạm Phú Minh cùng nhà xuất bản Thế Kỷ đã cho phát hành tập sách:
– Nhất Linh: Người Nghệ Sĩ – Người Chiến Sĩ.
Gồm các cây bút giá trị đóng góp bài vở như: Nguyễn Tường Bách, Võ Phiến, Trương Bảo Sơn, Anh Thơ, Tú Mỡ, Nguyễn Thị Vinh, Thụy Khuê, Đông Hồ, Linh Bảo, Trần Thanh Hiệp, Lê Đình Thông, Khoa Hữu, Bùi Bích Hà, Trần Khánh Triệu, Nguyễn Tường Thiết, Trương Kim Anh, Lưu Văn Vịnh, Phạm Phú Minh…
Như vậy đã nói lên sự trân quý của thế hệ sau với Nhất Linh đến dường nào.
Jack Ma trong cuộc gặp ông Thủ tướng Phúc vào Tháng Mười Một 2017 (Ảnh: VGP)
Khôn ngoan và tham vọng, Jack Ma (Mã Vân) đã tự dựng nên một trong những đế chế kinh doanh lớn nhất Trung Quốc từ con số không, tạo ra hàng tỷ Mỹ kim của cải và giới thiệu cuộc sống đổi mới kỹ thuật số cho hàng trăm triệu người Trung Quốc. Dĩ nhiên Jack Ma không phải kiểu người như Jeff Bezos, Elon Musk hay Bill Gates của Trung Quốc. Nhưng sau cú vươn vai và giàu có ấy, Jack Ma trở thành đồng nghiệp, sánh vai cùng những người đó.
Thế nhưng giờ đây, ông ta đã biến mất gần như hoàn toàn khỏi tầm nhìn của công chúng ở Trung Quốc. Thật kỳ lạ. Những gì thuộc về Jack Ma từng được báo chí nhà nước ca ngợi không ngừng, coi là động lực hữu ích để Trung Quốc bắt kịp phương Tây, nay lại được báo chí trở mặt, đúc kết lại như một mối đe dọa đối với Đảng Cộng sản cầm quyền.
Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong nhiều thập niên, đang viết lại các quy tắc kinh doanh cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Những người hiểu ông Tập đã nhận định rằng hậu quả hiện thời là do Jack Ma đã không bắt kịp với những quan điểm chính trị đang thay đổi của Bắc Kinh. Có người bình luận rằng trong ảo mộng về một thứ tự do không có thật ở đế quốc cộng sản, Jack Ma đã quên rằng ông sống dưới cái bóng của đảng Cộng sản Trung Quốc và cư xử giống một doanh nhân Mỹ.
Jack Ma đột nhiên mất dần khỏi sân khấu thế giới cũng như tại quê nhà, sau một vài phát biểu thẳng thắn, kể từ Tháng Mười 2020. Ông ta lên tiếng chỉ trích các cơ quan quản lý Trung Quốc vì đã kìm hãm sự đổi mới tài chính. Có vẻ đó là những nhận định trở thành nguy hiểm, nhất là khi Ma đang trở thành một hình mẫu thần tượng của hàng trăm triệu người ở Trung Quốc. Tập Cận Bình đã đích thân can thiệp vài ngày sau đó để chặn đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng trị giá hơn $34 tỷ của Ant Group, công ty công nghệ tài chính đầu não của Jack Ma. Kể từ đó, Ant Group buộc phải cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, khiến các nhân viên và nhà đầu tư của công ty rơi vào tình trạng lơ lửng, không biết số phận rồi sẽ ra sao.
Từ đầu năm nay, Bắc Kinh đã ra tay đàn áp khu vực giới tài chính tư nhân của Trung Quốc, trong đó nổi bật là phạt tiền và tiến hành các cuộc điều tra nhằm buộc các công ty của ông Ma, cũng như các công ty cho thuê xe Didi Global Inc. và chủ sở hữu của TikTok là ByteDance Ltd., buộc các nơi này phải tuân thủ chặt chẽ hơn các quy định lợi ích chính trị từ nhà nước ban hành. Các công ty ấy, hiện nắm giữ rất nhiều vốn và dữ liệu người dùng, đã phát triển quá mức để kiểm soát, khiến Bắc Kinh lo ngại.
Ông Jack Ma, chỉ mới 56 tuổi, đã thực hiện quá nhiều chuyến đi cá nhân gặp gỡ các nhà lãnh đạo thế giới, chỉ để chơi golf hay trò chuyện về triết học Trung Hoa. Phong thái của Jack Ma bắt đầu giống như một lãnh tụ ở tầm quốc tế khi thuê họa sĩ riêng để học vẽ sơn dầu, phong cách trừu tượng, rồi cả học hát. Điều đáng nói, trong các công việc của mình, Jack Ma cũng có những chuyến lui tới Bắc Kinh để dàn xếp nhiều thứ cao hơn chuyện kinh doanh bình thường. Các quan chức giấu tên nói cho biết Ma đã đi lạc quá xa khỏi làn đường của mình rồi. Tham vọng và bản tính thoải mái bộc lộ của ông trở thành những đặc điểm thu hút sự theo dõi mạnh mẽ của nhiều người ở Trung Quốc. Nhưng yếu tố đó, nay sẽ không còn được dung thứ trong vòng tay siết chặt của ông Tập và đảng cầm quyền.
Việc Jack Ma bị “trừng phạt” bởi đảng Cộng sản Trung Quốc có vẻ không còn là chuyện hình sự hay sai sót bình thường. Tờ Washington Post từng thử gửi thư đặt câu hỏi với các cơ quan chính phủ Trung Quốc liên quan việc quản lý các công ty của ông Ma, bao gồm Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, Ủy ban Quản lý Ngân hàng và Bảo hiểm Trung Quốc và Cục Quản lý Nhà nước về Quy chế Thị trường… nhưng không nơi nào trả lời. Văn phòng thông tin của Quốc vụ viện cũng không trả lời các câu hỏi bằng văn bản.
Những nhà bình luận thời sự nói lẽ ra, Jack Ma chỉ nên tập trung vào việc “ủng hộ Đảng thay vì chỉ tập trung vào lợi ích của riêng mình”. Một quan chức Bắc Kinh cũng xác nhận điều này. Đây thật sự là một bài học của những người làm giàu trong chế độ cộng sản: Phải luôn biết cách tạo ra một hình ảnh khiêm tốn hơn đảng cầm quyền, và phải luôn giữ một cách sống ít bị chú ý nhất. Thường thì giới tư bản đỏ vẫn hay thể hiện điều đó bằng cách luôn ra mặt hỗ trợ các doanh nghiệp chính phủ, nói như vẹt về chính trị và chia sẻ nhiều lợi nhuận hơn của công ty với các hoạt động xã hội.
Những người bênh vực Jack Ma nói rằng ông ta đang bị trừng phạt cũng vì tìm cách thúc đẩy đổi mới, tìm kiếm sự thống trị thị trường, tạo ra sản phẩm mới, vận động hành lang để nới lỏng quy định. Tuy đây là cách làm hợp lý và sự năng động đã dẫn đến sự thành công của Ant và gã khổng lồ thương mại điện tử Alibaba Group Holding Ltd nhưng, như một người quen thuộc với quan điểm của ông Tập nhận xét, cách làm như vậy không làm cho nhà lãnh đạo đầy quyền lực Tập Cận Bình “vui”; đặc biệt khi Jack Ma lại được Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama mời tới một bữa trưa riêng tại Toà Bạch Ốc; hay trò chuyện riêng về thương mại điện tử với Tổng thống Pháp François Hollande tại Điện Élysée ở Paris.
Đầu năm 2017, ông Ma lại gặp gỡ Tổng thống Donald Trump. Khung hình trực tiếp cho thấy cả hai bước vào sảnh Trump Tower ở Manhattan, và ông Trump ca ngợi vị khách của mình là “một doanh nhân vĩ đại, vĩ đại”.
Vào sinh nhật lần thứ 18 của tập đoàn Alibaba năm đó, Jack Ma đã hóa trang thành Michael Jackson và nhảy theo bài hát “Billie Jean” trước khoảng 40,000 nhân viên, một màn trình diễn được hàng triệu người xem trên YouTube – điều làm cho các quan chức tuyên giáo của Trung Quốc phải cau mày, và có thể tự hỏi vì sao cuộc vui đó không phải là hình ảnh của Tôn Ngộ Không.
Hình ảnh của Jack Ma ở nước ngoài càng khởi sắc bao nhiêu thì cổ phiếu của ông ở quê nhà càng sụt giảm. Những thư từ gợi ý của Ma tới lãnh đạo Trung Quốc thông qua một văn phòng trong Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản bắt đầu không có hồi âm. Sự lạnh nhạt bắt đầu từ năm ngoái, và Ant Group, công ty công nghệ tài chính của Jack Ma bắt đầu có hồ sơ báo cáo mật trên bàn của nhiều lãnh đạo, bao gồm cả công an.
Các quan chức Trung Quốc đã báo cáo khẩn về sự cần thiết phải quản lý các rủi ro tài chính tiềm ẩn từ các hệ thống tư nhân mà Ant Group là một trong những ví dụ. Chính quyền cũng tìm cách ngăn cản các tỷ phú và những nhân vật quyền lực khác đầu tư vào Ant, thậm chí ngăn cản nguồn tiền lớn tham gia vào nỗ lực quản lý Ant Group.
Ngay cả việc Ant Group tham gia sàn giao dịch chứng khoán Thượng Hải với mã số 688688, một bộ số đặc biệt tốt lành trong văn hóa Trung Quốc, cũng khiến không ít người quyền lực khó chịu, bởi đó được coi là một dấu hiệu cho thấy sức mạnh bao trùm của Ma.
Trước những bài phát biểu hồi Tháng Mười, nhằm vào việc chỉ trích các cơ quan quản lý, Jack Ma đã tuyên bố riêng với các nhân viên rằng ông có kế hoạch phát triển mà chẳng cần phải dựa dẫm gì vào chính quyền. Lập tức báo cáo về chuyện này đã được gửi đi nhiều nơi. Với công an và đảng Cộng sản Trung Quốc, đó chính là biểu hiện đe dọa nền kinh tế Trung Quốc. Ông Tập đã lạnh lùng tự tay cắt bỏ các hồ sơ xin phát triển của Ant Group mà không buồn nói dông dài lý do. Chuyến đi lên đỉnh của ông Ma đã bắt đầu kết thúc.
Câu chuyện của Jack Ma rõ là một bài học – nhưng cũng là lời cảnh báo với tất cả những tay tư bản đỏ trong chế độ cộng sản: Nhà nước độc tài chỉ muốn có các nhà lãnh đạo doanh nhân tỷ phú sánh ngang với đỉnh cao của các huyền thoại công nghệ của Mỹ hay thế giới để nở mày nở mặt cho chính quyền. Nhưng cứ vươn cao quá trong đất nước, sớm muộn gì họ cũng sẽ trở thành cái gai trong mắt giới lãnh đạo tối cao.
Ông Nguyễn Quang Tuấn, cựu Bí thư và Giám đốc bệnh viện Tim Hà Nội bị khởi tố vì tội tham nhũng – Ảnh: VT
Đó là sự kết thúc mặc định của người trí thức dưới chế độ Cộng sản, khi chọn con đường tiến thân không phải bằng học thức, khả năng chuyên môn, mà lại muốn dấn thân trong chốn “quan trường” – nơi “gió tanh mưa máu” không ngừng.
Cuộc đời bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ y khoa Nguyễn Quang Tuấn là một chứng minh.
Đọc qua tiểu sử ông Tuấn, ai cũng phải ông nhận ông là người có tài, giỏi chuyên môn. Ông sinh năm 1967, ở Thanh Oai (Hà Nội), hiện cư trú tại Khu đô thị Mandarin Garden, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. Năm 1994, ông tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội ngành bác sĩ đa khoa, sau đó tiếp tục học bác sĩ nội trú chuyên ngành tim mạch. Năm 1996, ông Tuấn đi tu nghiệp chương trình hai năm tại Đại học Toulouse, Pháp về ngành Tim mạch can thiệp. Năm 1997, ông tốt nghiệp Trường Đại học Toulouse loại xuất sắc và nhận được lời mời ở lại làm việc nhưng ông đã quyết định quay về Việt Nam.
Năm 2005, ông Nguyễn Quang Tuấn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Y Hà Nội. Năm 2009, ông được phong hàm Phó giáo sư. Năm 2010, nhóm của Nguyễn Quang Tuấn và tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng được trao giải nhất Giải thưởng “Nhân tài đất Việt” trong lĩnh vực y tế cho đề tài “Can thiệp động mạch vành qua đường ống thông (đặt stent)”.
Năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Bệnh viện Tim Hà Nội. Năm 2018, ông được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước Việt Nam công nhận đạt chuẩn Chức danh Giáo sư ngành Y năm 2017. Sau đó hai năm, ông được bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai.
Ông Nguyễn Quang Tuấn cũng là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai; Chủ tịch Hội Tim mạch học Hà Nội; Ủy viên Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ miền Bắc thuộc Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương.
Ông từng nhận được nhiều bằng khen của Thủ tướng; Nhận danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú” năm 2016; Thầy thuốc ưu tú năm 2017; Huân chương Lao động hạng Ba năm 2019.
Sự nghiệp của ông Tuấn lên “như diều gặp gió,” và nhiều người cho rằng không phải ai giỏi về chuyên môn cũng thành công như ông. Lý do rất đơn giản, vì ông Tuấn biết… “chải chuốt bộ lông” của mình.
Có người nói sở dĩ ông Tuấn không ở lại Pháp và chấp nhận quay về Việt Nam vì “gốc” của ông là bộ đội, ông đã là đảng viên đảng Cộng sản, nên muốn về để “cống hiến cho đảng”.
Chẳng biết lý tưởng của ông Tuấn thế nào, nhưng quả thật, ông đã dùng thẻ đảng viên đảng Cộng sản làm “bàn đạp” đi lên.
Không chỉ ông Tuấn bị bắt, nguyên Phó giám đốc và nhiều cán bộ Bệnh viện Tim Hà Nội cũng bị khởi tố, bắt giam vì liên quan đến đấu thầu mua sắm vật tư y tế – Ảnh: suckhoe24h
Năm 2013, ông Tuấn là Bí thư Đảng ủy Bệnh viện Tim Hà Nội kiêm luôn chức giám đốc bệnh viện. Từ 2015 đến 2016, ông Tuấn tiếp tục giữ chức bí thư Bệnh viện Tim, đồng thời thêm chức Quận ủy viên quận Hoàn Kiếm, để mở rộng đường vào Quốc Hội sau này. Quả thật, năm 2016 đến 2020, ông Tuấn đường đường là đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Năm 2020, ông Tuấn được thuyên chuyển về Bệnh viện Bạch Mai làm giám đốc, đương nhiên chức Bí thư Đảng ủy Bệnh viện Bạch Mai phải để cho ông nắm giữ luôn. Sức mạnh của tấm thẻ đảng nằm ở chỗ đó.
Nhưng rất tiếc cho ông Tuấn là sức mạnh đó đến đấy thì hết hiệu nghiệm. Ông Tuấn cùng nhiều cán bộ ở Bệnh viên Tim Hà Nội, và một số đơn vị khác vừa bị khởi tố để điều tra vụ “thổi giá” thiết bị y tế giá trị lên đến hơn 40 tỷ đồng (hơn $1,758,000) trong thời gian ông là “trùm” ở bệnh viện Tim Hà Nội.
Có người thắc mắc, ông Tuấn giữ nhiều chức vụ to, bổng lộc không ít, sao lại tham nhũng như thế để phải vào tù mất hết tương lai? Sao lại tham tiền như thế, mà không nghĩ đến hậu quả?
Xin thưa ngay rằng ông Tuấn “leo” được lên đó chắc cũng phải tốn kém không ít. Vì cho dù ông ấy có giỏi đến đâu chăng nữa, có là đảng viên gương mẫu đến cỡ nào, thì vẫn phải “chung chi” cho Bộ, cho ban ngành dọc ngang, mới được ngồi vào chiếc ghế đó.
Trước khi rời vị trí Giám đốc Bệnh viện Tim, ông Nguyễn Quang Tuấn từng ký phê duyệt nhiều gói thầu mua sắm vật tư y tế trị giá hàng trăm tỷ đồng – Ảnh: suckhoe24h
Đã chi bộn tiền, thì phải tìm cách thu vào gỡ vốn, rồi kiếm thêm tiền lời, chứ ngồi đó làm “quan thanh liêm” sao được?
Mà ở vị trí như ông Tuấn, làm sao thành “quan thanh liêm” khi mà cả hệ thống tham nhũng, ông Tuấn muốn đứng ngoài cũng không được. Thế thì tay ông Tuấn “nhúng chàm” là điều đương nhiên.
Từ trước tới nay, chưa có một người trí thức nào không phải đảng viên cao cấp, mà lại được giao trọng trách lớn nhờ khả năng và trí tuệ cả. Tất cả vị trí đó đều phải mua bằng tiền, nhưng nếu không phải là đảng viên, thậm chí còn không mua được, dù có tiền.
Điều đó lý giải những tay tham nhũng đều là đảng viên đảng Cộng sản, vì đó là “đặc quyền” của họ.
Tại sao ông Tuấn lại bị “đồng chí” của ông “đánh tơi tả”? Câu trả lời cũng đơn giản, khi nhìn lại những cái chết bí ẩn của các cán bộ lãnh đạo đảng cao cấp mới đây như Chủ tịch nước Trần Đại Quang, hay cái chết của cựu Bí thư thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh.
Đảng viên cấp bậc cỡ ông Tuấn thì không cần phải chết khi đứng sai phe. Vào tù và im miệng thì sẽ sống sót.
Có lẽ khi ngồi sau những song sắt nhà tù, ông Tuấn sẽ có dịp chiêm nghiệm con đường mình đã chọn. Tôi nghĩ, điều đáng tiếc cho ông Tuấn không phải là lúc ông từ chối lời mời ở lại Pháp làm việc, mà là sự chọn con đường trở về dấn thân bằng tấm thẻ đảng ma quái
Công ty của Mark Zuckerberg sẽ không đổi tên thành Horizon như tin đồn, mà là một cái tên hoàn toàn mới.
Mới đây, CEO của Facebook Mark Zuckerberg đã thông báo tại sự kiện Connect của công ty về cái tên mới của nền tảng truyền thông xã hội đình đám. Theo đó, tên mới của công ty Facebook sẽ là Meta, Zuckerberg nói: “Chúng tôi xây dựng một công ty công nghệ với mục đích kết nối lẫn nhau. Cùng nhau, cuối cùng chúng ta có thể đặt mọi người vào trung tâm của công nghệ. Và cùng nhau, chúng ta có thể mở ra một nền kinh tế sáng tạo lớn hơn rất nhiều.”
“Để phản ánh phản ánh đúng giá trị và những gì chúng tôi mong muốn xây dựng” Mark nói thêm.
Tên công ty Facebook đã được đổi thành Meta
Ngoài ra, Mark Zuckerberg cũng cho biết cái tên Facebook không bao hàm đầy đủ những thứ mà công ty đang làm. Anh đã tuyên bố rằng: “Lúc này, thương hiệu của chúng tôi vốn chỉ gắn với 1 sản phẩm. Nhưng qua thời gian, chúng tôi muốn được xem là một công ty metaverse.
Tài khoản Twitter của Facebook hiện đã được đổi sang Logo cùng lời giới thiệu mới
Việc đổi thương hiệu lần này là một phần trong nỗ lực của công ty nhằm chuyển hướng khỏi việc được biết đến như một công ty truyền thông xã hội, và tập trung vào kế hoạch xây dựng “metaverse”.
Như vậy, công ty Facebook sẽ có tên mới là Meta, hiện chưa rõ ứng dụng Facebook có bị đổi tên hay không. Tuy nhiên, nhiều khả năng là các nền tảng con sẽ không bị thay đổi.
Á hậu Hoàng My và các blogger du lịch đã có những ngày lội suối, leo hang, chèo kayak… giữa mùa mưa ở quần thể Phong Nha – Kẻ Bàng.
Cuối tháng 10 các travel blogger Ngô Trần Hải An (Quỷ Cốc Tử), người lang thang vòng quanh thế giới bằng xe máy Trần Đặng Đăng Khoa, Á hậu Vũ Hoàng My, vlogger Huy Cung và blogger Huy Hay Đi hào hứng đến Quảng Bình sau thời gian dài giãn cách. Miền Trung đang mùa mưa, không phải cao điểm du lịch nhưng nơi đây vẫn có nhiều điều thú vị.
Du khách trải nghiệm không gian xưa trong những ngôi nhà mái ngói của Chày Lập Farmstay, ngâm chân nước lá và ngắm phong cảnh làng quê Quảng Bình vào ngày mưa.
Á hậu, nhà làm phim Vũ Hoàng My cho biết đây là chuyến đi rất đặc biệt vì vừa kết thúc thời gian giãn cách kéo dài. Hành trình đến xứ sở hang động đem lại rất nhiều nguồn năng lượng cho cô.
Anh Hải An chia sẻ: “Hàng năm đến hẹn những cơn lũ lại đổ về Quảng Bình, nếu đã không thể thay đổi thiên nhiên thì hãy tìm cách chung sống. Chính vì thế du lịch Quảng Bình cũng tìm những điểm đến độc lạ chỉ xuất hiện trong mùa lũ để giới thiệu cùng du khách”. Với anh, không quan trọng mùa mưa hay nắng, hành trình đặc biệt ở những cảm xúc và người đồng hành tận hưởng cùng mình.
Trong khi đó, phượt thủ Trần Đặng Đăng Khoa (áo xanh) kể rằng không nhớ từng đến Quảng Bình bao lần nhưng trở lại vào mùa mưa, anh bất ngờ vì được thấy màu nước xanh trong trên các dòng sông và thung lũng.
Ngày 2 của chuyến đi, các KOL lội sông suối, chèo kayak và SUP ở thung lũng Hung Trâu, một trong những điểm ngập nước đẹp nhất ở Quảng Bình. Du khách chỉ có thể tận hưởng khung cảnh ngập nước vào mùa lũ kéo dài từ tháng 8 đến 11 hằng năm.
Tiếp tục những ngày ở Quảng Bình, đoàn thực hiện chuyến trekking hang Tiên trong ngày. Là một hang động thuộc hệ thống hang Tú Làn, hang Tiên phù hợp cho những người mới bắt đầu với các tour chinh phục. Nằm lọt thỏm giữa những dãy núi lớn và tán cây rậm rạp, nên trước khi tiến đến cửa hang Tiên, đoàn khách sẽ phải băng rừng, vượt suối và trekking qua những lối mòn.
Bên trong hang mùa mưa lũ du khách được tận hưởng một khung cảnh mới với những vòi rồng chảy từ trần hang (nếu ngày mưa lớn), các khối đá hình ruộng bậc thang độc đáo và vô số hồ nước xanh trong nằm ngay ở lòng hang.
Á hậu Hoàng My tạo dáng chụp hình nghệ thuật trong hang Tiên. Khung cảnh tự nhiên của những khối đá như ruộng bậc thang và hệ sinh thái độc đáo trong hang càng làm cho khung hình thêm nổi bật.
Một trong những hoạt động không thể thiếu của chuyến 4 ngày 3 đêm ở Quảng Bình của đoàn là du ngoạn sông Son trên thuyền kết hợp tìm hiểu những hang động Phong Nha.
Hiện tại, Quảng Bình là một trong những tỉnh đầu tiên mở cửa đón khách ngoại tỉnh, khởi động lại các chuyến bay, tàu và xe hàng ngày từ hai đầu Hà Nội và TP HCM. Từ 11/10 du khách đã có thể trải nghiệm khách sạn, homestay, khám phá các hang động hoặc tham quan các điểm đến ở Quảng Bình mà không cần cách ly khi đã tiêm đủ 2 mũi.