Một Vài Suy Nghĩ Về Việc Chống Covid-19 Tại Việt Nam

Tình hình dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam hiện rất căng thẳng, diễn biến theo chiều hướng xấu, không như trước. Là con dân Việt, người Việt Nam sống xa quê cũng rất lo lắng, quan tâm đến tình hình dịch bệnh đang bùng phát ở Việt Nam.

Tôi xin trình bày một vài suy nghĩ, hy vọng sẽ có ích cho việc tổ chức phòng dịch Covid tại Việt Nam.

Để có những phương án, chiến lược chống dịch được tốt, theo tôi phải có cách nhìn hệ thống, xuất phát từ việc đánh giá hiện trạng, khả năng của hệ thống y tế – xã hội, xác định thật đúng mục tiêu rồi mới đưa ra các phương án, kịch bản chống dịch cho thích hợp.

ĐẶC THÙ của Covid-19:

–         Coronavirus có tỷ lệ tử vong trên tổng số người bệnh tương đối thấp, tùy từng nước dao động trong khoảng 1%-3%. Tỷ lệ này ít hơn nhiều so với một số virus khác, chẳng hạn như Ebola hơn 70%. Tỷ lệ người mắc Covid không có triệu chứng hay bị nhẹ rất lớn, nhất là người trẻ và trẻ em. Có thể nói, coronavirus là loại virus yếu, khả năng gây tử vong hay bệnh nặng không lớn. Nhưng đây lại chính là điều nguy hiểm, gây tác động rất lớn cho xã hội. Vì nhiều người bị mắc bệnh mà không biết nên chủ quan trong việc giãn cách, hạn chế tiếp xúc, và họ biến thành nguồn phát tán, lây bệnh. Kết quả là tổng số người mắc bệnh rất lớn và số tử vong cũng vậy.

–         Và cũng vì người bệnh không có triệu chứng nên việc xác định chính xác số người dính Covid là khó, nên khả năng bỏ sót, không phát hiện hết người bệnh là rất lớn. Khi số người mắc bệnh lọt ra cộng đồng đủ lớn thì việc truy tìm, đuổi bắt sẽ không còn hiệu quả.

–         Hiện chưa có thuốc đặc chủng, phác đồ điều trị đảm bảo có hiệu quả cao.

–         Qua những gì được chứng kiến tại Nga thì diễn biến dịch bệnh, việc lây lan, mắc bệnh rất khó lường. Tất nhiên, thực hiện giãn cách xã hội nghiêm chỉnh và tuân thủ các khuyến cáo của y tế sẽ giảm rủi ro lây bệnh. Tuy nhiên, có những trường hợp người sống cùng, giao tiếp trực tiếp với người bệnh lại không bị nhiễm bệnh, nhưng ngược lại có người rất cẩn thận, cả tháng tự cách li trong nhà, chỉ một lần xuống cửa hàng mua hoa quả thì bị lây bệnh rồi tử vong.

–         Trong quá trình lan truyền, coronavirus phát sinh ra nhiều biến chủng mới, ngày càng mạnh và nguy hiểm, triệu chứng thay đổi. Điều này làm cho các phương pháp chữa bệnh cũ hay vắc xin sẽ không còn hiệu quả như trước.

MỘT VÀI NÉT ĐẶC THÙ của Việt Nam (từ góc nhìn đại dịch)

–         Mật độ dân số rất cao, cách sống túm tụm, thích tập trung đông người, môi trường vệ sinh kém là điều kiện thuận lợi cho việc lây lan, mắc nhiễm.

–         Hạ tầng y tế yếu, cả về mặt cơ sở vật chất lẫn đội ngũ nhân viên y tế. Vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về trình độ. Việt Nam không phải không có bác sĩ giỏi nhưng đứng về mặt hệ thống thì y tế Việt Nam là tương đối yếu. Có 2 nhược điểm khá rõ. Thứ nhất, đó là sự chênh lệch quá lớn giữa trung ương, các thành phố lớn, với địa phương. Yếu kém thứ hai là hệ thống nhân viên phục vụ y tế, điều dưỡng viên. Bệnh viện không là một thể khép kín, vẫn phải dùng người nhà, người ngoài vào phục vụ, đưa cơm nước thì khó tránh khỏi lây ra ngoài. Khi số lượng bệnh nhân ít thì có thể giải quyết tạm thời nhưng khi số lượng bệnh nhân rất nhiều thì đây sẽ là một vấn đề giải quyết không đơn giản.

–         Ý thức người dân chấp hành các qui định của nhà nước về dịch bệnh khá tốt so với các nước châu Âu, nhà nước có thể tiến hành các biện pháp chống dịch mạnh mà ít bị phản kháng.

VẮC XIN CHỐNG COVID-19: không thể không nhắc đến điều thuận lợi rất quan trọng là thế giới đã có các loại vắc xin khác nhau. Tình hình hiện nay khác hẳn một năm trước, khi vắc xin chưa có (và cũng chưa có thuốc đặc chủng, phác đồ chữa bệnh chuẩn). Khi thế giới đã có vắc xin, lối ra cũng đã nhìn thấy. Ngoài ra, bây giờ có thuận lợi là thế giới không còn khan hiếm vắc xin như trước, khi mà nhiều nước đã kí hợp đồng, trả tiền trước từ lâu mà vẫn không có thuốc.

MỤC TIÊU. Quan trọng nhất là cần xác định đúng mục tiêu. Mục tiêu có thể chỉ là chống và dập tắt dịch bằng mọi giá, các vấn đề khác kể cả kinh tế đều là thứ yếu. Có vẻ như Việt Nam đã và hiện đang thiên về mục tiêu này. Đại dịch Covid-19 không chỉ gây tổn thất về người mà còn gây tác hại rất lớn đến nền kinh tế. Hầu hết các nước châu Âu và Mỹ coi cả việc chống dịch và giữ vững kinh tế khỏi rơi vào khủng hoảng đều quan trọng như nhau. Một bên là bài toán một mục tiêu, bên kia là bài toán hai mục tiêu, cách chống dịch sẽ rất khác nhau. Một bên sẽ thực hiện những biện pháp siết chặt, chấp nhận những thiệt hại cho nền kinh tế nói chung hay cho một nhóm đối tượng nói riêng. Bên kia điều tiết các mức độ siết vào hay mở ra tùy theo mức độ dịch bệnh, thực hiện biện pháp mạnh chỉ trong tình huống đỉnh điểm của dịch, không những vậy còn đưa ra rất nhiều các biện pháp để trợ giúp các doanh nghiệp và người dân.

CHIẾN LƯỢC chống dịch của Việt Nam, một vài cảm nhận:

Cách chống dịch của Việt Nam cho đến nay về cơ bản là đi theo theo 2 hướng: truy lùng và cách li/phong tỏa. Nói vui kiểu dân dã là chiến lược đuổi gà, nhốt vịt. Với nước ngoài thì Việt Nam đóng cửa một cách tối đa, thậm chí công dân nước mình cũng cho về nước một cách nhỏ giọt. Khi có người dính bệnh thì truy vết, phong tỏa cả khu dân cư.

Bằng cách này Việt Nam đã thành công, ngăn chặn được dịch bệnh hơn một năm. Đó là thành tích đáng khích lệ.  Tuy nhiên, đây chỉ là mặt phải của tấm huy chương. Mặt trái của nó bây giờ đang bộc lộ.

Việt Nam có hơn một năm dịch bệnh gần như không đáng kể. Đó là khoảng thời gian vàng khá dài quí báu mà ít nước nào có được. Đọc báo chí, theo dõi tình hình trong nước tôi có cảm giác Việt Nam ngất ngây, ngạo nghễ quá lâu mà bỏ phí quãng thời gian quí báu này để có những bước chuẩn bị cần thiết khi dịch bệnh bùng nổ, khi cuộc chiến mới thực sự bắt đầu.

Có một vài nhận xét về cách chống dịch của Việt Nam.

–         Việc siết chặt, chỉ nhỏ giọt cho công dân Việt từ nước ngoài về nước và báo chí cổ vũ cho chính sách này đã làm cho nhiều người rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Chắc không ít người có cảm giác bị bỏ rơi, tủi thân khi nghĩ về Tổ quốc. Ở đây tôi chỉ nói đến công dân Việt chứ chưa nói đến người nước ngoài gốc Việt. Chuyện 26 người Huế đi tàu về quê bị Huế từ chối nhận, không cho xuống ga và chuyện công dân Việt không được phép trở về quê hương mình là hoàn toàn tương tự. Cảm giác của 26 người dân Huế chắc cũng giống cảm giác của không ít đồng bào mình ở nước ngoài muốn về mà không được về. Cũng phải nói thêm, nhiều nước cũng phải đối diện với việc cho phép hay không công dân mình quay về nhưng không mấy nước làm như Việt Nam. Năm ngoái, đầu tháng 3 Nga gần như đã hết dịch nhưng sau đó do đón ồ ạt công dân mình về nên dịch bệnh bùng phát. Khi được hỏi: tại sao lại đón ồ ạt công dân từ nước ngoài về, ngoại trưởng Nga Lavrov có trả lời đại ý: theo hiến pháp, công dân Nga có quyền ra khỏi và quay về nước bất cứ lúc nào, nhà nước phải tạo điều kiện cho họ.

–         Tỉ lệ người mắc Covid  không có triệu chứng rất lớn, sai số của test Covid khá cao (theo ý kiến của các chuyên gia Nga thì sai số có thể lên tới 35%, trên thực tế không ít người test 2 thậm chí 3 lần cho kết quả âm tính, lần sau đó lại dương tính). Vì những lí do này việc bỏ sót, lọt người mắc bệnh ra cộng đồng là khó tránh khỏi. Thêm nữa, việc đưa người nhập lậu qua biên giới hay những lỗ hổng khác cũng là các nguyên nhân làm lọt người mắc bệnh và lây lan ra cộng đồng. Đó chính là những rủi ro, nỗi lo sợ bệnh dịch có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Điều này sớm muộn cũng sẽ phải xảy ra.

–         Vì nhận thức được việc dịch bệnh lây lan rộng trong cộng đồng là khó tránh khỏi, và coi mục tiêu kinh tế cũng quan trọng không kém việc dập dịch, các nước có chiến lược chống dịch hoàn toàn khác với Việt Nam. Họ không chạy theo việc truy đuổi và cách li như Việt Nam đã và đang làm. Họ không lùa các F1 vào các khu cách li, không đưa tất cả F0 vào bệnh viện, không phong tỏa một cách cứng nhắc các cụm dân cư theo kiểu nội bất xuất ngoại bất nhập rồi để gây ra biết bao nhiêu hệ lụy…

–         Để chống dịch Covid cần phải có cách nhìn hệ thống. Đây là bài toán phức tạp với nhiều tham số, nhiều mục tiêu và nhiều bài toán con cần giải quyết một cách đồng bộ. Nếu không nhận thức được điều này, không lường được độ phức tạp của bài toán, không dự báo được các tình huống sẽ xảy ra và không có chiến lược thích hợp, qui trình giải quyết, không có sự chuyển bị trước mà luôn chạy theo tình huống thì dễ dẫn tới rối loạn điều khiển. Cần phải hiểu chống Covid không chỉ đơn thuần là bài toán dịch tễ mà còn là bài toán kinh tế và quản lý hệ thống/xã hội trong điều kiện rất phức tạp mà không thể giải quyết bởi tư duy phong trào hay theo thói quen cháy nhà mới lo dập lửa.  Cần phải có tư duy hệ thống, xác định chính xác bài toán, chỉ ra được những vấn đề cần phải giải quyết để bố trí nguồn lực thực hiện và tìm hướng giải quyết, một cách đồng bộ.

–         Xin gạch một vài đầu dòng những mảng công việc không thể không được lưu tâm:

o   Tiến hành củng cố, nâng cấp hệ thống y tế để sẵn sàng chống dịch: xây bệnh viện dã chiến; nâng cấp, chuyển đổi công năng một số bệnh viện; mua sắm trang bị các thiết bị y tế cần thiết, … và đặc biệt là huy động hết nguồn nhân lực, bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ nhân viên y tế. Trang thiết bị y tế có thể mua sắm, bệnh viện có thể nâng cấp, số giường bệnh có thể tăng nhưng nguồn lực nhân viên y tế là có hạn, đây là điều đáng lo nhất của nhiều quốc gia. Việc nâng cao năng lực, chuyển đổi công năng, sử dụng nguồn lực của hệ thống y tế, cả về vật chất lẫn nguồn nhân lực, cũng phải có tính toán, cân nhắc hợp lý chứ không thể dựa vào cảm tính. Những việc này cần được tiến hành sớm chứ không phải khi tình hình phức tạp mới bắt đầu lo. Việt Nam có một thời gian dài để làm chuyện này nhưng đáng tiếc đã bỏ phí thời gian, không có sự quan tâm đầy đủ.

o   Đánh giá đúng tình hình dịch bệnh thông qua việc tiến hành test đại trà. Việc test đại trà ở các nước theo tôi có mục đích hơi khác với Việt Nam. Việt Nam thực hiện test nhằm để truy đuổi tìm dấu vết người bệnh rồi thực hiện cách li, phong tỏa, cô lập với cộng đồng. Các nước test là để nắm rõ bức tranh lây nhiễm trong cộng đồng và từ đó có các chính sách, phương án chống dịch: điều tiết việc tăng giảm mức độ dãn cách xã hội, tăng cường thêm bệnh viện, số giường bệnh nếu cần thiết, tiến hành các biện pháp hỗ trợ kinh tế cho doanh nghiệp và các đối tượng người dân…

Nhân đây xin kể lại một ví dụ. Năm ngoái, khi làn sóng 1 bùng phát ở Nga người ta làm một bản đồ online các địa chỉ (tòa nhà) tại Moscow có người bệnh nặng phải đi cấp cứu. Mọi người xem để biết mà đề phòng trong giao tiếp. Tuy nhiên, sau một thời gian thì bản đồ khắp nơi đều dày đặc các điểm bị đánh dấu đến mức trở thành vô nghĩa và người ta dừng cập nhật thông tin. Trong tình huống số lượng F0, F1 quá nhiều thì cách li như Việt Nam liệu có khả thi?

o   Điều lo ngại nhất đối với các nước là khi dịch bệnh bùng phát quá mạnh, số người bệnh quá nhiều thì hệ thống y tế sẽ bị quá tải và có nguy cơ sụp đổ. Do vậy, các nước đều phân loại người bệnh (F0) nếu bị nhẹ thì chữa ở nhà (bác sĩ của phòng khám khu vực khám, cho đơn thuốc và theo rõi qua điện thoại), chỉ có những trường hợp nặng (xác định qua các triệu chứng) mới được đưa đi bệnh viện. Các đối tượng cần cách li (ví dụ, người đến từ các nước có tình hình dịch bệnh phức tạp, người sống chung với người bị bệnh..) đều tự cách li tại nhà. Để theo rõi, quản lý việc thực hiện cách li có thể có nhiều cách khác nhau, tùy theo mỗi nước.

o   Cuộc sống, các hoạt động của xã hội trong đại dịch Covid khác rất nhiều với lúc bình thường. Mọi cái đều thay đổi, khó khăn rất nhiều, không chỉ là tính mạng và sức khỏe của người dân mà còn với cả kinh tế, cuộc sống, giáo dục, văn hóa thế thao và nhiều thứ khác. Dịch bệnh càng bùng phát thì càng phải siết chặt nhưng ngược lại vẫn phải lo làm sao để hạn chế tối đa thiệt hại về kinh tế, không để nó rơi vào khủng hoảng trầm trọng, doanh nghiệp phá sản, dân nghèo vào chốn đường cùng không còn kế sinh nhai. Làm đươc điều này khó hơn rất nhiều với việc chỉ dập tắt dịch bằng mọi giá… Xin đưa một vài ví dụ:

§   Kể cả khi một thành phố bị siết chặt hay buộc phải phong tỏa thì các hoạt động quan trọng vẫn phải hoạt động, thành phố không thể để biến thành thành phố chết: các hiệu thuốc, cửa hàng thực phẩm, hệ thống an ninh, giao thông, vệ sinh … vẫn phải hoạt động. Muốn người dân vẫn được cung cấp đầy đủ, ví dụ, thực phẩm thì phải có sự chuẩn bị về nguồn thực phẩm, logistic, hệ thống cung cấp và phân phối, hệ thống mua, đặt hàng online và ship hàng. Đấy là chưa nói đến nhiều người dân chưa có kĩ năng, điều kiện để mua bán hàng online … Để làm được những điều này là cả một sự chuẩn bị công phu chứ không phải tự nhiên mà có. Cảnh người dân ở một số khu cách li sống dở chết dở là một ví dụ minh chứng. Nếu qui mô dịch bệnh còn tăng nhiều thì lúc đó sẽ thế nào?

§  Vì dịch bệnh, ở những giai đoạn nhất định, nhiều hoạt động sẽ phải chuyển sang online, chẳng hạn các hoạt động giáo dục như dạy và học. Để làm được việc này chắc cũng phải có một sự chuẩn bị và thay đổi rất lớn chứ không đơn thuần là ra chỉ thị, công bố quyết định. Đảm bảo cơ sở vật chất (máy tính, mạng, phần mềm) ở nhiều nơi chắc không phải đơn giản? Rồi kĩ năng, phương pháp dạy và học của thày và trò, các vấn đề về tổ chức… cũng phải thay đổi.

§  Một khi thành phố bị phong tỏa, nhóm đối tượng là dân nghèo không còn kế sinh nhai, nhà nước sẽ trợ giúp họ thế nào? Để họ tự phó mặc với cuộc đời hay trông chờ vào sự giúp đỡ của các nhà hảo tâm? Nhà nước trợ giúp thì giúp bao nhiêu, theo cách nào để có hiệu quả?

§  Một ví dụ khác là về ngành du lịch. Du lịch (nhà hàng, khách sạn, công ty lữ hành…) là một trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Vậy thì nhà nước giúp đỡ bằng cách nào? Tình hình dịch bệnh lúc tăng, lúc giảm vậy thì khi nào đóng, khi nào mở, điều tiết mức độ đóng mở ra sao? Khi mở thì cần những biện pháp gì để giảm thiểu khả năng lây lan rồi bùng phát trở lại. Cảnh người dân chen chúc tại chùa Tam Chúc, tại lễ hộ Đền Hùng hay bãi biển Vũng Tàu không lâu ngay trước đợt bùng phát lần này chắc nói lên nhiều điều.

Còn có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết mà trong một note ngắn không thể liệt kê ra hết.

o   Và điều quan trọng hàng đầu là vắc xin. Hiện chính phủ đang nỗ lực hết sức để có được vắc xin, tiêm phòng cho người dân. Đó là điều rất tốt. Lẽ ra còn tốt hơn nhiều nếu Việt Nam bắt đầu việc tìm kiếm và đặt mua vắc xin từ sớm chứ không phải bây giờ, khi dịch bệnh bùng phát.

Có rất nhiều điều phải suy nghĩ khi xây dựng chiến lược chống dịch Covid. Kể mà có nhiều thời gian thì cần thiết kế các mô hình về tình huống/hiện trạng, nhiệm vụ, chức năng, các kịch bản và cách giải quyết… để nhìn thấy toàn bộ bức tranh thì sẽ giúp ích nhiều trong việc ra các quyết sách cụ thể. Thời gian không cho phép nhưng việc đầu tiên là phải nhận thức đúng vấn đề, xác định chính xác bài toán, tìm hướng tiếp cận cho đúng.

Moscow, 18-07-2021 / Boristo Nguyễn

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM
Phố đi bộ trong nhà tại dự án King Crown Infinity được lấy cảm hứng từ Nam Ba Park (Nhật Bản) mang lại cảm giác độc đáo, sang trọng và ấn tượng bậc nhất tại Tp.HCM.

Khám phá bên trong phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM

Nam Ba Park là trung tâm thương mại phức hợp nổi tiếng tại Osaka Nhật Bản, từng được nhận được giải thưởng là công viên quốc gia đẹp bậc nhất thế giới với giải thưởng “Travel + Leisure” của Mỹ. Ở đây, du khách có thể tận hưởng không gian mua sắm, giải trí hiện đại bậc nhất được bao bọc bởi khu vườn trồng các loại cây và hoa cảnh quan kéo dài, tạo thành thiên đường lý tưởng cho mỗi chuyến nghỉ dưỡng.

Nét độc đáo của Nam Ba Park đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào để BCG Land – thành viên Tập đoàn Bamboo Capital kiến tạo một khu phố đi bộ trong nhà ở Việt Nam tại dự án King Crown Infinity.

Phố đi bộ trong nhà chính là lá phổi của King Crown Infinity, thông suốt và khép kín 6 tầng từ tầng hầm B2 lên tầng 3 của dự án. Ở khoảng giữa mỗi tầng là những con phố uốn lượn giống như những hẻm núi lớn do dòng nước mạnh gọt dũa hình thành nên. Bám dọc theo phố là hàng dài cây xanh nhiệt đới xanh mướt được trồng xen kẽ tạo nên hệ thực vật đa dạng. Nép mình dưới những tán cây, hoa lá là dòng suối cảnh quan chảy róc rách, mang lại vượng khí dồi dào, điều hoà nhiệt độ mát lành cho toàn khu.

Trên cùng của phố đi bộ được chủ đầu tư chú trọng thiết kế thành đường chạy bộ sinh thái trên không, với mảng xanh xung quanh tạo ra một không gian mát mẻ, hạn chế ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp. Với phong cách thiết kế tối ưu trải nghiệm chuẩn sống sang khác biệt cho cư dân, những chủ nhân tương lai tại King Crown Infinity có thể lần đầu tiên trải nghiệm cảm giác chạy bộ trên cao độ khác biệt, đảm bảo sức khoẻ thể chất và tinh thần cho cộng đồng cư dân tinh hoa ưu tú.

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM - Ảnh 1.

Phố đi bộ trong nhà là nơi cư dân có thể đi bộ thư giãn cùng gia đình sau một ngày làm việc căng thẳng.

Với thiết kế này, King Crown Infinity không chỉ là thiên đường nghỉ dưỡng tại gia mà còn là nơi lý tưởng thu hút du khách đến tham quan. Khác biệt với phố đi bộ ngoài trời, đi bộ mua sắm ở các khu phố thương mại tại King Crown Infinity không chịu sự chi phối của các phương tiện giao thông, điều kiện thời tiết. Nhờ đó, bổ sung lượng khách hàng cho hệ thống cửa hàng thương mại sầm uất, mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho chủ nhân sở hữu.

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM - Ảnh 2.

Khu vườn tập thể dục trên cao giúp cư dân có thể đi bộ, tập thể dục thể thao, yoga, thiền…nâng cao sức khoẻ.

Bên cạnh đó, thiết kế “Phố đi bộ trong nhà” là giải pháp tối ưu và hiệu quả, tạo ra môi trường sống trong lành, thân thiện với thiên nhiên, mảng xanh cho thành phố, giảm nhẹ các hiện tượng đảo nhiệt đô thị, tạo hiệu quả trong hạn chế nhiệt độ tăng cao.

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM - Ảnh 3.

Thiết kế King Crown Infinity với hơn 25 tiện ích đặc quyền mang không gian thiên đường nghỉ dưỡng vào trong dự án

Với tổng diện tích lên đến 12.652m2 và 2 toà tháp đôi cao đến 30 tầng, King Crown Infinity được bố trí chỉ 15 căn hộ trên mỗi tầng trong một toà cũng được tính toán đảm bảo tối ưu cho số phòng đủ thông thoáng. Thiết kế thông minh mỗi căn hộ cao cấp vừa giúp sử dụng tối đa công năng, vừa tận dụng được những khoảng rộng di chuyển trong nhà, thậm chí, gia chủ có thể bố trí nơi dành để tập thể dục, thưởng thức trà đạo và ngắm thành phố Thủ Đức yên bình từ trên cao. 

King Crown Infinity mở ra triển vọng tươi sáng cho thị trường bất động sản Tp.HCM

Theo số liệu mới nhất từ Savills, trong Quý 2/2021, nguồn cung sơ cấp căn hộ giảm 25% theo quý và giảm 18% theo năm xuống mức thấp nhất còn gần 3.700 căn. Nguồn cung hạn chế là do lượng căn hộ mở bán mới hạn chế và lượng hàng tồn kho thấp; hơn nữa, có 10 dự án tạm dừng bán để điều chỉnh giá. Cung hạn chế trong khi nhu cầu ở chung cư cao tầng vẫn rất lớn.

“Cơ sở hạ tầng cải thiện và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng ở khu vực phía Đông – thành phố Thủ Đức và phía Nam hỗ trợ cho sự phát triển nhà ở cao tầng. Các dự án hạ tầng đáng chú ý như tuyến Metro số 1, cầu Thủ Thiêm 2 và 4, mở rộng đường Lê Văn Lương – ĐT826C, đường Long Hậu – ĐT826E và hầm Nguyễn Văn Linh – Nguyễn Hữu Thọ. Đến năm 2024, thành phố Thủ Đức sẽ chiếm lĩnh nguồn cung tương lai với 44% thị phần”, báo cáo Savill nhấn mạnh.

Khám phá khu phố đi bộ trong nhà ấn tượng tại TP. HCM - Ảnh 4.

King Crown Infinity sẽ trở thành tâm điểm thị trường căn hộ cao cấp tại Tp.HCM.

Trước tình hình thị trường chênh lệch cung – cầu lớn, sự xuất hiện của những dự án đẳng cấp như King Crown Infinity sẽ trở thành tâm điểm, thu hút nhà đầu tư lẫn gia đình có nhu cầu mua ở thực, góp phần thay đổi diện mạo và nâng tầm vị thế khu vực TP. Thủ Đức, đưa khu vực này trở thành tâm điểm mới của thị trường bất động sản cao cấp.

“Thành phố Thủ Đức là vùng đất hứa để phát triển các kênh bán lẻ hiện đại. Thế nhưng, cũng như nhiều khu vực khác tại Tp.HCM, TP. Thủ Đức vẫn thiếu vắng những trung tâm mua sắm, giải trí tầm cỡ. Vì thế, King Crown Infinity hứa hẹn trở thành thiên đường mua sắm lý tưởng, nơi nghỉ dưỡng an nhiên cho gia chủ với điểm nhấn phố đi bộ trong nhà độc đáo”, một chuyên gia về môi giới bất động sản nhận định. 

Tọa lạc tại 218 Võ Văn Ngân, P. Bình Thọ, TP. Thủ Đức, TP. HCM, khu phức hợp thương mại và căn hộ cao cấp King Crown Infinity được phát triển bởi Công ty Cổ phần BCG Land – thành viên Tập đoàn Bamboo Capital. Dự kiến bàn giao vào năm 2023, King Crown Infinity được kỳ vọng trở thành công trình biểu tượng mới tại Khu đô thị Sáng tạo phía Đông TP. HCM. Để biết thêm thông tin chi tiết, Quý khách hàng quan tâm dự án có thể truy cập:

Website: www.kingcrowninfinity.com.vn

Ánh Dương / Theo Nhịp sống kinh tế

8 kiểu người khó có nhân duyên tốt đẹp

Trong cuộc sống chúng ta không khó thấy một số người luôn được người khác yêu quý tôn trọng và một số người luôn bị xa lánh, thậm chí xuất hiện ở đâu cũng khiến người khác khó chịu, càng khó có nhân duyên tốt đẹp. Điều này không phải ngẫu nhiên mà thông thường đều có liên quan đến tính cách của cá nhân đó.

8 kiểu người khó có nhân duyên tốt đẹp

(Ảnh: Aphotostory/Shutterstock, Royalty-free stock photo)

  1. Chỉ nghĩ đến bản thân mình
    Rất nhiều người không ý thức được điểm này, họ chỉ quan tâm đến bản thân, chỉ đàm luận những vấn đề liên quan đến họ, mà không quan tâm đến lời mà người khác muốn nói cũng như cảm nhận của người khác. Những người này thường cho rằng bản thân họ là quan trọng nhất, người khác phải phục tùng. Đó chính là thể hiện của tâm vị tư, ích kỷ.

Không có ai nguyện ý kết giao, hợp tác với người chỉ nghĩ cho mình, luôn cho rằng bản thân mình là quan trọng nhất.

  1. Chỉ coi trọng bề ngoài
    Một số người chỉ mải chăm chút bề ngoài mà không chú ý tu sửa tâm tính của bản thân mình. Kỳ thực, điều thu hút, hấp dẫn người khác thực sự đến từ nội tâm, ngoại hình không phải là quan trọng nhất.

Một người có thể có những bộ quần áo đẹp, và dung mạo xinh xắn, nhưng nếu như họ là người có tâm hồn ích kỷ, xấu xí, thì họ chỉ có thể tạm thời thu hút được ánh mắt của người khác mà không thể có được nhân duyên lâu dài. Còn một người có trái tim thiện lương và chân thành, thì sẽ có được những nhân duyên trường tồn với thời gian.

  1. Mang nặng tâm hiếu thắng
    Những người mang nặng tâm tranh đấu thường có tâm hiếu thắng và đố kỵ rất lớn. Họ luôn muốn hơn tất cả mọi người. Khi thấy người khác đạt được thứ tốt đẹp, họ sẽ cảm thấy khổ sở như chính mình bị mất mát thứ gì đó. Ngược lại, khi thấy người khác gặp phải chuyện không như ý, họ lại vui mừng như bản thân đạt được,

Loại tâm này rất không tốt. Nếu một người có tính cách như vậy thì chắc chắn người ấy sẽ không thể được người khác yêu quý, kết giao. Một người cần học cách vui với niềm vui của người khác. Khi ai đó thành công, người ta không nên nói: “Tôi có thể làm được tốt hơn” mà hãy nói: “Bạn thật giỏi, tôi tự hào về bạn”.

  1. Thích ra lệnh
    Tất cả mọi người đều bình đẳng và đáng được tôn trọng. Một số người thường rất thích “chỉ tay năm ngón”, ra lệnh cho người khác làm việc mà không tự làm. Thậm chí, khi cần nhờ người khác làm một việc gì họ cũng nói với ngữ điệu và thái độ bề trên. Những người này thường khiến cho người xung quanh bất mãn và xa lánh.

Trong cuộc sống, cho dù là người có năng lực vượt trên người khác thì cũng nên khiêm tốn và chân thành.

  1. Không thành thật
    Nếu muốn được người khác tin cậy thì trước tiên cần phải thành thật. Một người dối trá khó có thể được người khác tin yêu. Một số người hay dùng cách nói khéo léo nhưng không thật để lấy lòng người, nhưng điều này chỉ được nhất thời, không được dài lâu.

Những người khiêm tốn và chân thành thường có được sự tôn trọng và yêu mến của đồng nghiệp, bạn bè, nhân duyên tốt đẹp cũng theo đó mà đến.

  1. Thô lỗ và vô lễ
    Một số người dễ dàng nổi nóng và hành xử thô lỗ, vô lễ với người khác khi bất mãn một điều gì đó. Điều này thể hiện ra trình độ giáo dưỡng của họ.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta có những quan điểm bất đồng với người khác, hoặc gặp phải những người mà chúng ta không muốn gặp. Cho dù là như vậy, chúng ta cũng không nên thể hiện sự thô lỗ khiến người khác rơi vào tình thế khó xử. Bởi vì, rất nhiều khi một lời nói vô lễ, một cử chỉ thô lỗ có thể khiến bản thân hết giận tức thời nhưng lại khiến phần nhân duyên này đứt mất, để lại hậu quả đáng tiếc về sau.

  1. Không đáng tin cậy
    Khi bạn bè của một người gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ, liệu người đó có thể ở bên cạnh không? Khi người khác cần, có phải người đó luôn luôn bận rộn? Nếu biết trước đó là người không thể trông chờ lúc gặp khó khăn thì mối nhân duyên cũng trở nên mờ nhạt.

Để trở thành một người đáng tin, cần phải có một trái tim lương thiện, chân thành, khiêm tốn, biết giúp đỡ người khác nhiều hơn, cho đi nhiều hơn. Đây là cách kết nhân duyên tốt, cũng là cách tạo phúc báo cho chính mình.

  1. Luôn dựa dẫm vào người khác
    Có những người hễ gặp một chút khó khăn liền lập tức nương nhờ vào người khác mà không dựa vào sự cố gắng của bản thân, chỉ muốn được người khác cứu tế. Kiểu người này thực sự vkhiến người khác cảm thấy phiền toái vô cùng.

Một người có khả năng tự lực cánh sinh mới có tôn nghiêm và thể hiện mình là người có trách nhiệm. Người hễ khốn khó liền tìm đến người khác thì không có sự tôn nghiêm. Một người không có tôn nghiêm sẽ khiến người khác tránh xa, càng không muốn kết giao qua lại.

Theo Vision Times tiếng Trung / An Hòa biên tập/ Tri thức VN

“Phao cứu sinh” giúp Ấn Độ thoát “địa ngục COVID-19”: Một xu hướng đang nở rộ trên toàn cầu

"Phao cứu sinh" giúp Ấn Độ thoát "địa ngục COVID-19": Một xu hướng đang nở rộ trên toàn cầu
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, dịch vụ y tế từ xa và khám bệnh trực tuyến là xu hướng đang “lên ngôi” ở Ấn Độ và nhiều quốc gia trên thế giới.

Khi các bệnh viện của Ấn Độ đang bị làn sóng COVID-19 thứ hai bủa vây vào cuối tháng 4, Mallik Manem đã phải rất khó khăn để xin bác sĩ tư vấn cách chăm sóc cho người mẹ 81 tuổi mắc COVID-19 của mình. Sau nhiều lần cố gắng, ông Manem chỉ gặp được một vị bác sĩ khó tính và có 5 phút trò chuyện ngắn ngủi qua điện thoại.

Và thế là người đàn ông 55 tuổi ở thành phố Hyderabad, miền Nam Ấn Độ này đã lên mạng tìm kiếm trong khi chính ông cũng nhiễm COVID-19. Ông đã được 4 bác sĩ ở Mỹ tư vấn qua video – một vị bác sĩ xem xét kết quả xét nghiệm, và một người khác hướng dẫn cho ông các bài tập thở.

Ông Manem, một cư dân Atlanta đang ở Ấn Độ cùng gia đình cho biết: “Thật tuyệt vời. Mỗi bác sĩ dành cho tôi ít nhất 15 đến 20 phút tư vấn.”

Sau khi làm theo chỉ dẫn của bác sĩ, mẹ của ông Manem đã bình phục hoàn toàn.

DỊCH VỤ Y TẾ TỪ XA “NỞ RỘ” MÙA COVID-19

Vai trò của dịch vụ y tế từ xa/khám bệnh trực tuyến (telemedicine) đã phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới kể từ đầu đại dịch. Nó cho phép mọi người tham khảo ý kiến ​​của các bác sĩ mà không cần rời khỏi nhà của họ trong thời gian giãn cách xã hội và phong tỏa để ngăn chặn virus lây lan.

Tại hầu hết các quốc gia đang phát triển với hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu hơn, và đặc biệt là ở Ấn Độ trong giai đoạn các ca nhiễm mới tăng đột biến gần đây, dịch vụ y tế từ xa đã đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều.

Ông Vikram Kapur, một thành viên của Bain & Co., công ty đứng đầu lĩnh vực chăm sóc sức khỏe khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, cho biết dịch vụ y tế từ xa gần như đã thay thế cho việc chăm sóc y tế tại chỗ cho nhiều ca bệnh ở Ấn Độ. Ông cho biết: “Không có đủ bác sĩ, trong khi có quá nhiều người cần được chăm sóc”.

Mặc dù không có dữ liệu chính thức toàn quốc về việc sử dụng dịch vụ y tế từ xa ở Ấn Độ, ông Kapur ước tính rằng số cuộc khám bệnh trực tuyến trong thời gian gần đây tại nước này đã tăng gấp 4 đến 5 lần so với thời điểm trước đại dịch – và ngay cả khi số ca nhiễm mới đã giảm mạnh, thì số cuộc khám bệnh trực tuyến vẫn nhiều gấp 2-3 lần thời kỳ trước đại dịch.

Phao cứu sinh giúp Ấn Độ thoát địa ngục COVID-19: Một xu hướng đang nở rộ trên toàn cầu - Ảnh 1.

Ảnh minh họa: SHRIMAD RAJCHANDRA MISSION DHARAMPUR

Đại dịch đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ y tế từ xa. Theo công ty nghiên cứu và tư vấn Grand View Research, thị trường chăm sóc sức khỏe trực tuyến trên toàn thế giới được dự báo sẽ tăng lên gần 300 tỷ USD vào năm 2028 – từ mốc 56 tỷ USD vào năm ngoái.

Nhiều quốc gia hiện đang đưa dịch vụ y tế từ xa vào kế hoạch chống lại các làn sóng COVID-19 trong tương lai – hoặc như một chương trình cố định trong hệ thống chăm sóc y tế quốc gia.

Ví dụ, Bỉ đã lần đầu tiên thiết lập khuôn khổ pháp lý cho y tế từ xa, trong khi những nước khác như Mỹ và Trung Quốc đã nới lỏng các hạn chế, ít nhất là tạm thời, đối với việc chi trả bảo hiểm cho các lần khám bệnh trực tuyến.

Tại Ấn Độ, một số bang đang kết hợp dịch vụ y tế từ xa cùng các loại hình khám chữa bệnh truyền thống để chuẩn bị cho các đợt bùng phát dịch bệnh trong tương lai. Nhiều chuỗi bệnh viện tư nhân lớn của Ấn Độ đã triển khai các gói chăm sóc COVID-19 bao gồm tư vấn trực tuyến với bác sĩ và các thiết bị y tế như nhiệt kế và máy đo nồng độ oxy.

Phao cứu sinh giúp Ấn Độ thoát địa ngục COVID-19: Một xu hướng đang nở rộ trên toàn cầu - Ảnh 2.

Ảnh: SHRIMAD RAJCHANDRA MISSION DHARAMPUR.

Ông Sreeni Gangasani, một bác sĩ tim mạch tại Atlanta, người đồng sáng lập eGlobalDoctors – công ty kết nối bệnh nhân và bác sĩ trên toàn thế giới, cho biết: “Đại dịch đã giúp dịch vụ y tế từ xa được nhiều nơi trên toàn thế giới chấp nhận hơn.”

Khi Ấn Độ bùng phát làn sóng COVID-19 thứ 2, eGlobalDoctors vẫn chưa được ra mắt, nhưng công ty này đã quyết định mở trang web sớm cho những người sinh sống ở Ấn Độ sau khi chứng kiến hệ thống y tế của nước này bị quá tải.

Kể từ đầu tháng 5 vừa qua, hơn 250 bác sĩ ở Mỹ, Vương quốc Anh và các quốc gia khác đã tình nguyện thực hiện hơn 2.500 buổi tư vấn điều trị trực tuyến trên eGlobalDoctors. Nhiều bác sĩ là thành viên của Hiệp hội Bác sĩ người gốc Ấn Độ tại Mỹ hoặc tổ chức phi lợi nhuận Sewa International, cả hai đều ủng hộ nỗ lực khám chữa bệnh trực tuyến.

Các bác sĩ ở nước ngoài không được cấp phép kê đơn thuốc cho bệnh nhân Ấn Độ. Thay vào đó, nhiều người coi nhiệm vụ chính của họ là giảm bớt áp lực cho các bác sĩ Ấn Độ đang bị quá tải bằng cách tư vấn cho bệnh nhân.

Tiến sĩ Gangasani cho biết phần lớn công việc của đội ngũ bác sĩ tình nguyện này là trấn an những bệnh nhân sợ hãi rằng các triệu chứng của họ là bình thường và không đe dọa đến tính mạng.

Đối với những người Ấn Độ sống ở các vùng nông thôn không có internet hoặc điện thoại thông minh, các bác sĩ cũng sẽ tư vấn qua điện thoại hoặc thông qua một nhóm tình nguyện viên ở Ấn Độ, Tiến sĩ Gangasani nói. Một số bác sĩ đã mua thẻ SIM riêng để tiếp nhận các cuộc gọi từ dân làng.

Các bác sĩ ở nước ngoài cũng được liên hệ để tư vấn về phác đồ thiết lập các phòng khám cấp cứu COVID-19 hoặc xử lý các ca bệnh nhập viện hàng loạt. Một số bác sĩ giúp đào tạo nhân viên tuyến đầu về cách chăm sóc y tế hoặc tư vấn các bác sĩ đang điều trị bệnh nhân ở các vùng nông thôn với trang thiết bị y tế hạn chế./.

(Theo Wall Street Journal)

Nỗi ám ảnh của quá khứ

GS Trần Quốc Vượng

Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó) đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy:– Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
 **   *

Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên Bộ chính trị kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
– Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
– Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
– Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
– Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con! Chùa Một Cột có bị phá để làm Bảo tàng Lăng Bác, nếu có hại thì hại cả nước, đâu dính gì đến riêng anh mà anh cứ “la làng” lên, một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên Bộ chính trị ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
 **    *

Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ XX, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác-Lê thế kỷ XIX. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
 **     * 
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ vi CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
Trống làng ai đánh thì thùng Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng!
Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
 Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày- khảo cổ ,đêm- khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
– “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
– Chống chủ nghĩa Mác-Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
– Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
– Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
– Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
 **    * Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!
Cornell 01/5/1991© Gốc Sậy 2013

Theo Tễu Blog