Cuốn tiểu thuyết dã sử đầu tiên của nhà văn Lê Phương Liên viết về bậc nữ nhân kỳ tài Đoàn Thị Điểm. Cuốn sách giúp người đọc hình dung cuộc đời đầy biến động của một nhà giáo, thầy thuốc, nữ tác gia có tư tưởng, tầm nhìn, chính kiến và tấm lòng nhân hậu.
Cuộc trò chuyện cuối cùng của cha con Đoàn Thị Điểm
Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông Đoàn Doãn Nghi kịp truyền lại cho con gái những bài thuốc quý giá nhất ông từng ghi chép.
Tiếng cha ho sù sụ vang lên từ gian nhà giữa, ánh lửa đã hồng ở trong bếp. Nàng cầm gói thuốc Tế tân chạy xuống bếp, hỏi:
“Mẹ sắc thuốc cho cha rồi à?”
Mẹ gật đầu đáp: “Phải, mẹ thấy bệnh của cha không thuyên giảm nên đã dậy sớm sắc một ấm thuốc mới, để cha uống đủ ba chén hôm nay”.
“Ồ, thế ạ, giá mẹ làm chậm một tí thì…”
“Thì sao cơ?”
“Tối qua con có tìm được một đơn thuốc của cụ Tuệ Tĩnh nói về vị Tế tân tức là rễ cây Tế tân, vị cay, tính ôn, không độc có thể tác dụng với cả tứ kinh: Tâm, phế, can và thận. Con cũng đã tìm thấy trong ô thuốc của cha rễ cây Tế tân đã phơi khô, con định gia giảm một chút cho ấm thuốc hôm nay sắc để cha uống”.
Bà phu nhân nghe vậy, thở dài: “Thôi lỡ rồi, để chiều vậy con ạ. Kìa. Cha gọi con đó!”.
Nàng lắng tai nghe, có tiếng ông Doãn Nghi gọi yếu ớt: “Điểm ơi, con lên đây với cha”.
Nàng thầm nghĩ: “Mẹ thính tai hơn cả mình ư? Chắc là vì mẹ thương cha lắm”.
Ông Doãn Nghi sắc mặt nhợt nhạt, hơi thở yếu ớt khó khăn, bộ ngực gầy thỉnh thoảng lại rung lên trong một cơn ho. Thấy con gái đến ghé ngồi bên, ông ra hiệu cho con lấy một cái tráp sơn then để ở đầu giường. Ông nói giọng run run: “Con mở ra”.
Nàng mở cái tráp, trong đó có một tập giấy mỏng chép chữ nho, nàng nhìn lướt qua và thấy đó là những tờ ghi chép các bài thuốc. Chữ của cha, nét phóng túng, nếu không quen có thể không luận ra được là chữ gì.
Ông Doãn Nghi gật gù: “Cha thấy con có lòng ham mê nghề làm thuốc chữa bệnh, cha vui lắm. Đây là những tập ghi chép của cha trong nhiều năm bốc thuốc cứu người bệnh. Con giữ lấy nhé”.
Nói đến đây, ông lại ho, người rung lên. Nàng vội đỡ cha nằm xuống giường. Lặng đi một lát, ông Doãn Nghi lại gắng gượng nói: “Cha dặn con này, việc bốc thuốc chữa bệnh là một việc hệ trọng, sai một ly đi một dặm”.
Nói được mấy câu, mệt quá, ông lại dừng nghỉ, chợt nghĩ ra điều gì, ông vẫy tay ra hiệu cho cô con gái hãy đi lên nhà thư trai:
“Sắp đến giờ dạy học, con sửa soạn lên nhà giảng, kẻo học trò chờ…”. Nàng run run đứng dậy, linh tính như mách bảo có gì khác thường, hôm nay nhìn thần sắc cha khác lắm. Vâng lời cha, nàng không dám chần chờ, vội lui ra ngoài ngay.
Chân bước đi mà lòng nàng như vẫn níu lại bên giường cha. Nàng tự biết mình giống cha vẻ bên ngoài và cả trong tâm can nàng, ở đó có một ông Doãn Nghi ẩn mình với cả sự thông tuệ, tính khí khái, niềm đam mê sống vì một chữ nhân.
Người ta ai cũng trong vòng sinh lão bệnh tử, thể xác sẽ úa tàn, sẽ tiêu tan, nhưng nhân tâm của người ta sẽ không tiêu tan, nhân tâm ấy sẽ di truyền từ đời này sang đời khác.
Cha ơi, con hiểu cha, nhân tâm của cha ở trong lòng con đây. Nàng nghĩ như thế cho tới khi bước vào thư trai giảng bài cho học trò.
[…]
Người cha khẽ động đậy mái đầu […]. Bỗng ông nấc to một tiếng, tay cố gượng giơ lên ra hiệu, đôi môi mấp máy: “Điểm… Điểm… con…”.
Đúng lúc đó như có thần giao cách cảm, nàng đang rón rén đi vào trong nhà, nàng chạy ù đến bên giường cha, hai tay run rẩy nắm chặt lấy tay cha. Ông Doãn Nghi mở mắt ra nhìn thấy con gái, trên đôi môi ông thoáng một nụ cười. Ông thở hắt ra, mắt đứng tròng.
“Cha ơi!”
Tiếng khóc nghẹn ngào của Thị Điểm vang lên. Đại tang của gia đình họ Đoàn đã đến thật rồi.
Đoàn Thị Điểm không cam phận làm thiếp
Sau đám tang của cha, một thời gian sau anh trai Thị Điểm cũng qua đời. Nhà chỉ còn phái yếu. Ngài Bỉnh Trung công nhờ người đem chầu cau đến ngỏ ý muốn rước nàng về làm thiếp.
Mấy quả cau đã bắt đầu khô héo, xấp trầu không để bên cũng đã úa vàng. Một con gà mái táo tợn nhảy lên cái phản gỗ trong nhà, làm tung cái nắp tráp, thấy một vật đỏ đỏ, nó thò cổ vào mổ thủng một lỗ, thế là phong chè Thiết Quan Âm bị sổ tung, những sợi chè khô vãi ra.
Có lẽ con gà mái ngớ ngẩn này tưởng sẽ tìm ra một hạt thóc nào đó. Con mèo mướp lững thững đi đến, nó không ngốc như con gà, nhưng nó cũng tò mò. Nó đi vòng quanh cái tráp để trên phản gỗ bên dưới bàn thờ, ngó ngó nghiêng nghiêng, lấy chân cào cào vào xấp trầu không và chùm cau, không thấy mùi vị gì hấp dẫn, nó lặng lẽ bỏ đi.
Đoàn phu nhân nhìn thấy cảnh đó hốt hoảng lập cập chạy đến. Bà hớt hơ hớt hải thu dọn trầu cau và gói chè, đậy cái nắp tráp nhỏ sơn son thếp vàng ấy lại. Bà cầm cái tráp lên nâng niu cẩn thận y như nó là một vật bằng sứ dễ vỡ.
Bà đi đi lại lại thở than một mình: “Ối trời ơi, thế này có chết không cơ chứ, ai lại để trầu cau của vị quốc thích Bỉnh Trung công nhờ người mai mối cô Điểm nhà ta lăn lóc mấy hôm rồi”.
Ở nhà gian nhà trong, Thị Điểm đang ngồi bên bé Lệnh Khương. Nàng đang khẽ khàng nâng người cháu lên, kề bát thuốc vào môi để cháu nhấm từ từ ngụm nước thuốc lá đã sắc kỹ. Nước thuốc âm ấm nên cô bé cũng cố nhắm mắt uống được đủ liều.
[…]
Bấy giờ chị cả Luân khẽ khàng ngồi xuống bên con gái, nói với cô em chồng: “Thôi thế là may lắm, cô có ‘tay’ chữa bệnh đấy, cháu đã đỡ nhiều rồi, cô đi lo việc khác đi, để tôi trông cháu”.
Nàng vừa toan dặn thêm bà chị dâu cách xoa bóp cho cháu thì bỗng trông thấy mẹ bưng cái tráp trầu cau bước vào, nét mặt băn khoăn lo lắng.
Bà đến ngồi bên con gái, giọng run run: “Mẹ đang lo quá con ơi. Ngài Bỉnh Trung công để ý đến con đã đưa trầu cau thế này là không từ chối được đâu, mình mà không nghe, chết đấy con ạ!”.
Nàng giơ tay đỡ lấy cái tráp, nói với mẹ:
“Không sao đâu, mẹ đừng lo. Ôi trời ơi, con đi lấy chồng làm sao được! Mẹ nhìn đây này, hai cháu còn nhỏ dại, mẹ đã già, chị cả Luân thì yếu ớt, vậy con đi làm sao được?”
Bà mẹ lắc đầu: “Con có biết ngài Bỉnh Trung công là thế nào chưa? Ngài đang ngụ ở làng Mi Thự, huyện Đường Hào nên có biết tiếng tăm các con…”.
Bà hạ giọng xuống: “Có lẽ từ cái chuyện câu đối mừng quan Hiệp trấn đấy con ạ, khổ thế! Này.”
Bà mẹ nhìn quanh y như là sợ có ai nghe lỏm, rồi thì thào: “Ngài Bỉnh Trung công họ Vũ là em ruột bà thái phi của Chúa Trịnh Cương. Ngài đang quyền thế lớn, cai quản các cơ doanh binh đội…”.
Nàng nắm tay mẹ lắc lắc như để mẹ tỉnh cơn mê muội: “Mẹ ơi, ông ấy chắc chắn là có vợ cả và vài bà nàng hầu rồi…”.
Bà mẹ gật đầu, giọng vẫn nỉ năn con gái: “Thì vẫn biết thế, nhưng mà ngài là một vị quốc thích!”.
Nàng tủm tỉm cười: “Quốc thích? Mẹ ơi, con thấy gia cảnh ấy nông mỏng lắm!”.
“Nông mỏng là thế nào?”
“Là phú quý đến do nhờ có người vào hầu hạ trong cung, không phải con nhà nòi có khoa bảng biết làm ăn căn cốt, cái lối sang trọng phù vân ấy không bền đâu, mẹ ơi!”
Nghe con gái nói thế, Đoàn phu nhân ngẩn người ra. Bà ngước mắt hướng về phía bàn thờ chồng và con trai, vẻ thẫn thờ ân hận: “Thôi, con nói thế mẹ hiểu rồi, mẹ chỉ lo bây giờ không biết ăn nói với nhà người ta thế nào đây?”.
Nàng cười xòa: “Ôi dào, có gì đâu, mẹ cứ bảo: Xin được thư thả ạ, nhà tôi đang có tang”.
Sách hay / Trích đăng từ Zing.
Thích bài này:
Thích Đang tải...