Khám phá làng cổ Phước Tích nổi tiếng của xứ Huế

Nét đặc trưng chủ yếu và cũng là nét đặc sắc nhất trong kiến trúc của làng cổ Phước Tích là quy hoạch không gian kiến trúc, được tổ hợp bằng các nhà vườn truyền thống, bố cục theo ba xóm gắn bó với nhau.

Nằm ở thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế, làng cổ Phước Tích là ngôi làng thứ hai được công nhận là Di tích quốc gia của Việt Nam (làng đầu tiên là làng Đường Lâm ở Sơn Tây, Hà Nội).

Theo sử sách, làng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỉ 15, khi nhà nước phong kiến Đại Việt mở mang bờ cõi về phương Nam.

Lúc đầu làng có tên gọi là Phúc Giang như mong muốn một vùng gần sông nước nhiều phúc lộc. Đến thời Tây Sơn, Phúc Giang được đổi thành Hoàng Giang, để nhớ đến dòng họ khai canh lập làng (Hoàng là tên dòng họ khai canh, Giang là vùng gần với sông nước).

Đến đời Gia Long, làng được đổi tên thành Phước Tích, như là mong muốn của người dân được tích lũy phúc đức cho con cháu.

Với ước mong đó, các thế hệ dân cư của làng đã tiếp nối truyền thống ông cha lao động sáng tạo xây dựng cho mình một làng quê tươi đẹp với những nét văn hóa cổ kính, như cảnh quan kiến trúc của làng mang đậm triết lí phương Đông, như văn hóa làng nghề, dòng họ, xóm, phe và đặc biệt là hệ thống kiến trúc cổ.

Nét đặc trưng chủ yếu và cũng là nét đặc sắc nhất trong kiến trúc của làng là quy hoạch không gian kiến trúc, được tổ hợp bằng các nhà vườn truyền thống, bố cục theo ba xóm gắn bó với nhau.

Trong tổng số 117 nóc nhà của làng, hiện còn tới 27 ngôi nhà cổ, đa số là nhà rường 3 gian hai chái và 10 nhà thờ họ cổ. Trong đó có 12 nhà rường của các gia đình được xếp vào loại có giá trị đặc biệt.

Điều lí thú là các ngôi nhà rường cổ ở Phước Tích liên kết với nhau, chỉ cách nhau một khu vườn rộng với những hàng chè tàu xanh, thẳng.

Mặt khác, do ở cạnh làng mộc cổ truyền Mỹ Xuyên, nên Phước Tích được thừa hưởng nghệ thuật độc đáo của điêu khắc kiến trúc, chạm trổ trên các bộ khung gỗ của ngôi nhà, càng làm đậm nét tính chất dân gian mang đầy đủ bản sắc.

Ngoài những ngôi nhà rường, làng còn có hàng chục công trình thờ tự mang đậm nét tâm linh của cư dân làng cổ tiêu biểu của Việt Nam. Tiêu biểu trong số đó là Miếu Bà hay miếu Cây Thị, một ngôi miếu nổi tiếng linh thiêng của làng. Tên gọi của miếu bắt nguồn từ việc bên cạnh miếu có một cây thị cổ thụ, tương truyền đã một nghìn năm tuổi.

Một công trình đáng chú ý khác là miếu Đôi độc đáo nằm ở đầu làng. Đây là hai ngôi miếu giống hệt nhau, bên tả thờ Đào Nghệ (Bổn Nghệ), bên hữu thờ Khai Canh, hai ông tổ nghề gốm của làng.

Ngoài ra còn nhiều công trình giá trị như đình làng Trung, chùa Phước Bửu, miếu Cây Thị, miếu Ðôi, miếu Quang Tế, miếu Âm hồn, Con Cọp, Bà Giang, đền Văn Thánh và nhiều lăng mộ của ông tổ các dòng họ.

Hệ thống đường sá, cây xanh của làng nối liền với nhau một cách tự nhiên và sinh động, mang sức sống của một vùng sinh thái độc đáo, kết hợp hài hòa giữa trời, đất và con người.

KTS Hoàng Đạo Kính nhận xét: “Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích có thể được coi là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng Bắc Trung Bộ. Đó là cấu trúc mở với những căn nhà trong vườn, nhà vườn. Ở Phước Tích, quỹ kiến trúc cổ và cũ, song cảnh quan và vườn được bao quanh thì lại rất trẻ và tràn đầy sức sống”.

Bên cạnh những di sản kiến trúc độc đáo, làng cổ Phước Tích còn được biết đến với nghề gốm cổ truyền đặc sắc.

Nghề gốm của làng được lưu danh sử sách với một sản phẩm đặc biệt được sản xuất để cống nạp cho các triều đại nhà Nguyễn. Đó là “om ngự”, một loại om đất được làm riêng để nấu cơm từ gạo An Cựu cho vua ăn.

Ngày nay, trải qua nhiều thời kỳ, sản phẩm gốm Phước Tích đã có mặt trong cuộc sống của người dân quê hương cũng như ở khắp các vùng của miền đất Thuận Hóa.

Theo TRI THỨC & CUỘC SỐNG

Hệ miễn dịch sẽ ra sao nếu chúng ta ngủ không đủ giấc?

Mất ngủ, thiếu ngủ, ngủ không đủ giấc sẽ khiến hệ miễn dịch của chúng ta suy yếu.

Hãy nhớ lại lần cuối cùng bạn bị cúm. Thật khốn khổ, phải không nào? Chảy nước mũi, nhức xương, đau họng, ho nhiều và hoàn toàn không có năng lượng. Bạn có lẽ chỉ muốn cuộn mình trên giường và ngủ. Mà đó cũng là điều bạn nên làm.

Chính cơ thể bạn còn đang cố ngủ ngon vào lúc này nữa mà. Đó là do có một sự kết hợp mật thiết và hai chiều tồn tại giữa giấc ngủ và hệ miễn dịch của bạn.

Giấc ngủ chiến đấu chống lại sự nhiễm trùng và bệnh tật bằng cách triển khai mọi loại vũ khí trong kho vũ khí miễn dịch của bạn, che chắn cho bạn bằng sự bảo vệ miễn dịch.

Khi bạn ngã bệnh, hệ miễn dịch tích cực kích thích hệ thống giấc ngủ, đòi hỏi cơ thể nằm nghỉ trên giường nhiều hơn để giúp củng cố nỗ lực “chiến đấu”.

Việc giảm lượng giấc ngủ dù chỉ một đêm duy nhất cũng khiến cho bộ quần áo vô hình của khả năng mau hồi phục miễn dịch đó bị loại bỏ thô bạo khỏi cơ thể bạn.

Việc thiếu đầu dò trực tràng để đo thân nhiệt trung tâm ở một số nghiên cứu giấc ngủ cụ thể đã khiến người đồng nghiệp tốt tính của tôi, tiến sĩ Aric Prather tại Đại học California, San Francisco, phải thực hiện một trong những thí nghiệm giấc ngủ tồi tệ nhất mà tôi được biết.

Ông đã đo giấc ngủ của hơn 150 người đàn ông và phụ nữ khỏe mạnh trong một tuần bằng cách sử dụng thiết bị đeo đồng hồ đeo tay. Sau đó, ông cách ly họ, rồi tiến hành xịt thẳng vào mũi họ một liều vừa phải vi-rút gây cúm, hoặc vi-rút cảm lạnh thông thường còn sống.Sách Sao chúng ta lại ngủ. Ảnh: Hải Đăng Books.

Sach sao chung ta lai ngu anh 1
Sách Sao chúng ta lại ngủ. Ảnh: Hải Đăng Books.

[…]

Ông không chỉ đánh giá mức độ phản ứng miễn dịch bằng cách lấy mẫu máu và nước bọt thường xuyên, mà còn thu thập gần như tất cả các dịch nhầy mũi được tạo ra từ những người tham gia.

Prather đã để những người tham gia thường xuyên hỉ mũi của họ, và mỗi giọt sản phẩm đó đều được đóng gói, gắn thẻ, cân đo và phân tích miệt mài bởi đội ngũ nghiên cứu của ông.

Sử dụng những phép đo này – các kháng thể miễn dịch trong máu và nước bọt, cùng số lượng trung bình của nước nhầy ở mũi được những người tham gia thải ra – Prather có thể xác định liệu một người có bị cảm lạnh thật khách quan hay không.

Prather đã chia tách những người tham gia thành bốn nhóm nhỏ dựa trên lượng giấc ngủ mà họ có được trong 1 tuần trước khi tiếp xúc với vi-rút cảm lạnh thông thường: Ngủ dưới 5 tiếng, ngủ 5 – 6 tiếng, ngủ 6 – 7 tiếng và ngủ từ 7 tiếng trở lên. Có một mối quan hệ rõ ràng, tuyến tính với tỉ lệ nhiễm trùng.

Giấc ngủ mà một người có được trong tuần trước khi đối mặt với các vi-rút cảm lạnh thông thường tích cực càng ít thì khả năng họ bị nhiễm vi-rút và bị cảm lạnh càng lớn. Ở những người ngủ trung bình 5 tiếng, tỉ lệ nhiễm bệnh là gần 50%. Ở những người ngủ từ 7 tiếng trở lên trong một đêm vào tuần trước đó, tỉ lệ nhiễm bệnh chỉ có 18%.

Sach sao chung ta lai ngu anh 2
Ngủ không đủ giấc sẽ khiến hệ miễn dịch của chúng ta suy yếu.

[…]

Thực tế là không cần tới nhiều đêm ngủ ít trước khi cơ thể bị suy yếu miễn dịch và ở đây, vấn đề ung thư trở nên có liên quan.

Các tế bào tiêu diệt tự nhiên (bạch huyết bào hay tế bào bạch cầu) là một đội ngũ tinh nhuệ và hùng mạnh bên trong hàng ngũ hệ miễn dịch của bạn.

Hãy suy nghĩ về các tế bào tiêu diệt tự nhiên này như những nhân viên dịch vụ bí mật của cơ thể bạn, công việc của chúng là xác định các yếu tố từ ngoài vào nguy hiểm và loại bỏ chúng – kiểu 007, nếu bạn muốn gọi như vậy.

Một trong những thực thể từ ngoài vào như vậy mà các tế bào tiêu diệt tự nhiên sẽ nhắm tới là những tế bào u ác tính (ung thư).

Các tế bào tiêu diệt tự nhiên sẽ khoan một lỗ thật hiệu quả ở bề mặt bên ngoài của các tế bào ung thư này và tiêm vào một loại protein có thể phá hủy khối u ác tính. Do đó, những gì bạn muốn là một bộ tế bào miễn dịch hùng dũng như James Bond ở mọi thời điểm. Song đó chính xác là những gì bạn không có được khi ngủ quá ít.

Tiến sĩ Michael Irwin tại Đại học California, Los Angeles, đã thực hiện các nghiên cứu mang tính bước ngoặt tiết lộ rằng chỉ cần một liều ngắn giấc ngủ ít có thể ảnh hưởng đến các tế bào miễn dịch chống ung thư của bạn nhanh chóng và toàn diện như thế nào.

Kiểm tra những người đàn ông trẻ khỏe mạnh, Irwin đã chứng minh rằng một đêm ngủ 4 tiếng – như đi ngủ lúc 3 giờ sáng và thức dậy lúc 7 giờ sáng – cuốn trôi 70% các tế bào tiêu diệt tự nhiên lưu thông trong hệ miễn dịch so với giấc ngủ đủ 8 tiếng.

Nghĩa là bạn đang tự thấy mình đối mặt với tình trạng thiếu hụt miễn dịch đáng kể và điều đó xảy ra nhanh chóng, sau một “đêm tồi tệ” thực sự về giấc ngủ.

Bạn có thể tưởng tượng rõ tình trạng kho vũ khí miễn dịch chống ung thư của bạn bị tàn phá sau một tuần thiếu ngủ, huống hồ tận một tháng hoặc thậm chí nhiều năm.

Sachs hay / Zing

GIÉC MANH TẢN MẠN KÝ

Trích “Đông Âu Anh Hùng Truyện”
của Nam Nguyen

Nước Đức bắt đầu bước vào đợt lockdown thứ 2 của năm Covid đệ nhất. Đường phố vắng tanh, xe cộ thưa thớt. Quảng trường Alexander platz ở trung tâm thủ đô Berlin tối om như Hà Nội thời đun bếp trấu. Số người chết trong vòng 24 giờ đồng hồ lên tới gần nghìn, giường cấp cứu trên toàn quốc cũng chỉ còn hơn 5000 cái (so với Đức thế là hết cực nhanh). Mang tiếng là ông tổ của máy thở mà giờ đây hãng Draeger cũng thúc thủ với lượng đơn hàng khổng lồ từ khắp thế giới đổ về. Báo chí đưa tin, có bệnh viện đã phải tính đến biện pháp chọn lựa để ai sống và ai sẽ phải chết. Dĩ nhiên thiệt thòi sẽ rơi vào nhóm có bệnh nền và người già, những nhóm mà khả năng cống hiến không còn nữa. Người Việt chắc sẽ chấp hành lệnh phong tỏa lần này nghiêm túc hơn. Lần light lockdown cách đây hơn tháng, cảnh sát đã bắt một sòng bạc của người Việt, phạt 12 con bạc không sợ Covid mỗi chú 2500 Euro. Riêng chú chủ tiệm, ăn cái hoá đơn 25000 “OI” và đóng cửa luôn. Sau đó là vụ phi hành đoàn 41 anh chị Karaoke kiêm bay lắc bị hàng xóm báo cảnh sát bắt quả tang. (Báo cảnh sát được tiền thưởng, tội gì không báo??? Ở Việt Nam mà treo thưởng kiểu đó thì có đến F 35 tàng hình của Mỹ bố mày còn tìm ra chứ đừng nói là F1, F2…). Đợt này chính phủ cũng hào phóng. Bỏ ra hơn 2 tỉ Euro mua khẩu trang phát miễn phí cho dân chúng. Ông nào cứ 60 đổ lên, chỉ việc cầm chứng minh thư hoặc thẻ bảo hiểm y tế. ra hiệu thuốc gần nhất là được lĩnh 03 cái khẩu trang FFP2 không mất tiền. Nghĩ đi nghĩ lại, ở nhà là sướng nhất. Đèo mẹ, nhìn mấy thằng em ngồi bún đậu, mắm tôm vỉa hè thèm nhỏ dãi mà không về được. Chuyến bay thương mại thì không có, còn bay giải cứu càng không đến lượt, đơn giản nó không dành cho người định cư tại đây. Đây là tâm trạng của không ít người Việt tại Đức trong những ngày u ám này.

Tàu Cap Anamur

Người Việt ở Đức trước ngày thống nhất nước Đức năm 1990 chia làm hai thành phần. Thành phần ở phía Tây thuộc CHLB Đức và phần phía Đông thuộc CHDC Đức. Phía Tây, vì chính quyền Việt Nam cộng hoà có quan hệ ngoại giao với nhà nước CHLB Đức nên có trao đổi sinh viên. Số này học hành đang ngon trớn thì đùng một cái, xe tăng của anh Thận hay Tụy gì đấy đâm đổ mẹ cổng dinh Độc lập. Anh chị em sinh viên Sài Gòn nghiễm nhiên trở thành đám người vô thừa nhận, dù rằng trong huyết quản vẫn có hồng cầu của Lạc Long Quân. Họ được nhà nước CHLB Đức cấp quyền cư trú và trở thành lứa trí thức khá thành đạt sau này.

Sau 1975, đến lượt anh chị em miền Nam, hoặc né vụ đi cải tạo, hoặc hút Salem, Quân tiếp vụ quen rồi, giờ hóp má rít thuốc rê không chịu nổi, đành học anh Ba của bên thắng cuộc tìm đường vượt biển, mong làm lại cuộc đời ở xứ nào cũng được, trừ đất nước hình rươi. Số người bỏ xác lại trong lòng biển Đông không phải ít, cũng vì tàu bé, tài công tồi, tham chở nhiều người và dự trữ lương thực nước uống không đủ. Đó là chưa kể đến nạn cướp biển Thái Lan, Mã Lai. Tụi này là ông tổ của cướp, giết, hiếp.

Cũng trong thời kỳ này nổi lên con tàu huyền thoại Cap Anamur của CHLB Đức trên biển Đông, ân nhân của nhiều thế hệ thuyền nhân Việt tại Đức. Từ tháng 8 năm 1975 đến 1982 thuyền trưởng Rupert Neudeck và thuỷ thủ đoàn đã cứu được 9500 người vượt biển gặp nạn và chăm sóc y tế trên tàu cho 35000 người Việt. Chính phủ CHLB Đức đã nhận tổng cộng hơn 30 nghìn thuyền nhân từ các trại cấm ở khu vực Đông Nam Á và cho phép họ định cư tại Đức, tạo ra thế    hệ Việt kiều đầu tiên tại đây.

Phía Bắc Việt Nam, tức Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng không kém. Mở đầu cho thế hệ người Việt  miền Bắc đặt chân lên nước Đức phải kể đến 350 thiếu sinh quân (die Kinder von Onkel Ho) được ông Hồ Chí Minh đưa sang học tập tại Moritzburg thuộc bang Sachsen ngày nay.

Bác Hồ thăm thiếu nhi Việt Nam tại DDR năm 1957

Trong số Moritzburger này nổi lên tiến sỹ Lê Đăng Doanh, tốt nghiệp trường Leuna-Merseburg năm 1967, sau này trở thành thư ký và trợ lý cho nhiều nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam như Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Văn Linh. Năm 1992, người viết bài này có dịp tháp tùng ông Doanh đi chơi hội bia Oktoberfest tại Munich. Đi hội bia nhưng thấy có quầy vang bên ngoài, ông vào uống thử. Ông chủ tiệm thấy một tay mắt híp, uống vang có vẻ sành điệu nên tò mò hỏi, ông từ đâu đến? Tôi từ Việt Nam. (Thời đó ở Việt Nam có nút lá chuối uống là như Tết, nói gì đến cái loại phải xoáy xoáy, vặn vặn). Tay bán vang đố, giờ tôi mời ông một cốc vang, ông nói đúng tên vùng sản xuất và niên kỷ của chai vang này, tôi mời ông và cu cậu đi theo này uống say thì thôi. Vang rót ra, cụ hít, ngửi rồi cho vào miệng súc nhẹ vài vòng. Phán một câu xanh rờn, vang vùng X, đóng chai tầm năm Y. Chủ tiệm lùi mấy bước lạy như tế sao. Đúng là bợm phải trả lại tiền.

Ông Nguyễn Thiện Nhân – ngôi sao DDR bắt đầu hạ cánh

Ông Vũ Huy Hoàng đang gặp đại nạn

Anh Bình “Thí” án treo hú vía, thực ra cũng hơi oan cho bác ấy…

Dân du học Đức sau này trở về Việt Nam vào các bộ ngành nhiều. Song thành nhân cũng có mà thành phạm nhân cũng không hiếm. Điển hình là Nguyễn Thiện Nhân, học Đại học kỹ thuật Magdeburg từ 1972, đến 1979 làm tiếp Phó tiến sỹ. Đây có lẽ là người duy nhất từ Đức trở về leo lên đến tầng lớp chóp bu tại Việt Nam. Anh Vũ Huy Hoàng, học Đại học Mỏ-Luyện kim Freiberg từ 1970-1975. Về nước anh cũng leo đến chức Bộ trưởng Công thương. Khổ cái, anh học Mỏ nên khai thác sâu quá, chạm tầng cháy nổ nên cuối đời hạ cánh trúng phải ổ gà.

Tờ “trăm” tiền Đông Đức

 Đến thập kỷ 80, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động. Chủ yếu là sang Nga, Tiệp khắc, Bungari và Đông Đức. Tại Đức, lúc cao trào có đến 80.000 lao động Việt Nam sang làm việc, được đi Đức coi như “trúng quả”. Lứa đầu sang quãng đầu 1980. Họ sống theo các đội. Đội dệt may, đội cơ khí, điện tử, máy nông nghiệp, ô tô… Làm theo ca kíp, ở nhà tập thể. Đội nào có cả nam lẫn nữ coi như trúng số độc đắc. Đa phần là đội nam riêng, nữ riêng. Muốn thoát khỏi kiếp quay tay lấy may, mấy con đực chỉ còn cách dành ngày nghỉ hoặc cuối tuần đến với con cái. Phòng 4 cô, thêm 4 anh, căng ri-đô lên cũng thành buồng hạnh phúc. Kêu la, giãy giụa nghe chung, chẳng phân biệt vùng miền. Mà khi màn đêm xuống rồi, tiếng rên ở bờ nào của sông Hiền Lương mà chẳng giống nhau?

Lao động hợp tác tại DDR những năm 1980

Đồng lương của lao động hợp tác tại Đức ở mức trung bình. Họ nhận từ 800 DDR – Mark, gọi là Ostmark, đến 1200-1400 cho công việc của mình. Nếu làm thêm giờ và có tiền độc hại, thu nhập có thể còn cao hơn.

 Tính mặt bằng giá cả, 10 Mark 1 kg thịt lợn hoặc thịt bò, chai bia 65 xu hay chai rượu tầm 14 Mark, đồng lương này đủ tiêu xài. Nhưng ai cũng có gánh nặng ở quê nhà, nhất là ở thập niên 80, Việt Nam ở đỉnh của khó khăn. Tích cóp độ 3, 4 tháng là mua được cái Mô- kích, chiếc xe đạp Mifa giá bán ở cửa hàng cũng chỉ ngoài đôi trăm. Tháng nào ở bưu điện cũng thấy người Việt xếp hàng gửi hàng về. Xe đạp tháo rời, lấy chăn len cuộn vào, khâu lại như cây đàn. Tây không biết cứ trầm trồ khen, tụi mày đánh nhau đã giỏi, thắng cả Mỹ mà lại còn yêu âm nhạc thế.

Xe đạp Mifa nữ

Nhưng bóp mồm, bóp miệng mãi trong khi cám dỗ đầy ngoài phố. Nào là râu ngô mơn mởn, nào là sàn nhảy, rượu ngon, quần áo mốt…. ai chịu được. Thế là phải đi buôn lậu.

Khởi đầu là vài cái băng cát sét, mấy cái đài 2 cửa băng, 1 thu 1 phát. Sau đó đến nghề may quần áo bò. Thằng nào cũng “chân tươi, chân héo” vì đạp máy khâu. Sau đó đổ thuốc tím vào mài trong bồn tắm biến thành bò mài. Bài hát thịnh hành nhất thời  đó là “Những đồi hoa sim” vì chết lòng các thợ may ở câu “tím chiều hoang biền biệt”. Ông nào trong túi áo cũng có cái thước dây,  gặp “gà” là quăng ra lấy    số đo. Chẳng qua lò may 10 hay trường lớp nào, vào đũng quần cho Tây mặc thử thấy “chuông mõ” đùn   ra như hai cái bánh bao, vẫn gật gù, “mày mặc vừa  đáo để”!

Đến năm 1987-1988 các cửa hàng đồ cũ của DDR đồng loạt nhận mua máy tính để bàn. Đông Đức của đáng tội cũng sản xuất Computer, nếu nhớ không nhầm là của Robotron. Song máy to như cái chạn để bát ở quê, tốc độ sánh với rùa còn không nổi. Các công sở cũng cần cải tiến cách lưu trữ. Nhà nước kẹt cái là không có ngoại tệ nên cửa nhập chính thống coi như tịt, phó mặc cho tụi buôn lậu đưa hàng tiểu ngạch vào bán chui. Đây là thời kỳ hoàng kim của người Việt    ở DDR. Một bộ Computer loại vớ vẩn như Schneider 1512, có monitor, bàn phím, chuột và thêm cái máy in mua vào có 28-30000 Ostmark. Bán cho Tây thu về 65000. Giá USD chỉ 1:10. Bán xong giàn máy quy ra đô được ngay 3000 – ba chục “tờ”. Suôn sẻ tuần bán 3 bộ làm được căn nhà mặt phố ở Hà Nội. Đến cái Hard Disk sức chứa có 64 KB (xin nhắc lại là 64 KB) bán cũng lời 5, 6 nghìn!

Simson – đồ chơi tốt nhất của thanh niên Đông Đức xưa…

Cơn mưa vàng này kéo dài gần năm trời, làm thay đổi biết bao số phận và cũng khiến nhiều căn nhà mặt tiền ở Thủ đô rơi vào tay người… Hà “lội”. Trong số các anh tài ăn theo cơn bão này có thể kể đến Thái “còm”, Dương “con”…, những người sau này dựng lên vũ trường New Century ở Tràng Thi, Hà Nội đình đám một thời. Xe Simson được mua về, tính theo diện tích chứ không tính xe. Ví dụ, thằng A có một sân bóng chuyền xe máy thì làng biết A là “tay to” rồi. Đến cuối 1988 “cơn mưa vàng” lắng xuống, các thế hệ cộng “mốc” hồi hương dần. Lứa sang tiếp quản là lớp bộ   đội phục viên, xuất ngũ, thanh niên xung phong…v.v. Lứa này bạo dạn hơn hẳn các lứa trước, sinh hoạt cũng thoáng đãng hơn lớp cũ, nhất là trong khoản “trai gái, cái đực”. Lượng thuốc tránh thai tiêu thụ trong các nhà tập thể của người Việt bóp chết số liều Aspirin hoặc Paracetamol người dân Đông Đức mua tại các hiệu thuốc. Không khí hoan lạc tràn ngập vì trai đã tìm được chỗ chuyên ngồi đái, gái vớ được gậy bóng chày, khác hẳn thời khổ hạnh, ngủ với nhau đánh cái rắm to cũng sợ đội trưởng biết.

Gorbachev bảo Honecker:

“Ai đến muộn sẽ bị cuộc đời trừng phạt!” Y rằng…!

Năm 1989 là một năm đầy biến cố với CHDC Đức. Số người Đức đi sang Tiệp Khắc du lịch sau đó chạy vào Đại sứ quán Tây Đức xin tị nạn tăng vọt. Trong nước các tổ chức đòi nhân quyền, dân chủ tiến hành biểu tình bắt đầu từ thành phố Leipzig. Phong trào sau đó lan rộng ra toàn quốc. Tối thứ hai hàng tuần, già   trẻ lớn bé đều đổ xuống đường biểu tình. Cảnh sát ban đầu còn cố gắng giải tán những nhóm tụ họp nhỏ, sau bất lực trước lượng người tham gia hùng hậu. Lác đác đã có những phát ngôn đòi quyền tự do đi lại, thậm chí đòi thống nhất nước Đức. Hình ảnh một Thiên An Môn giữa lòng CHDC Đức đã hiển hiện.

Lần Quốc khánh Đức năm đó, Gorbachev từ Nga sang dự. Bắt tay Honecker (Tổng bí thư Đảng xã hội thống nhất Đức), Gorbachev nói một câu như lời tiên đoán cho số phận của ông Tổng cũng như nhà nước 40 tuổi đời của ông “kẻ nào đến muộn, kẻ đó sẽ bị lịch sử trừng phạt”. Sau đó Hungary tháo gỡ hàng rào biên giới với Áo. Rumania thì chơi hẳn luật rừng, lôi vợ chồng Ceaucescu ra chế thành tổ ong sau mấy loạt AK. Ngày 9.11.1989, Đông Berlin mở cửa biên giới với Tây Berlin. Bức tường Berlin, cái mà thế giới tư bản gọi là “bức tường ô nhục” đã sụp đổ trong đúng một đêm. Người Đức đã trả giá trong 2 thế chiến bằng nhiều triệu sinh mạng. Lần này, họ tỉnh táo hơn, lí trí hơn và mọi chuyện đã diễn ra trong hoà bình.

Sau những ngày hân hoan, thực trạng của đất nước Đức XHCN dần được phơi bày. Hàng hoá không còn trao đổi trong khối Hiệp định chung được vì ông anh cả, con gấu Nga cũng trúng thương, nằm chờ thợ săn đến lấy mật. Các nước trong phe XHCN còn đang lo giữ lấy nóc nhà của mình. Thị trường tư bản lại không chấp nhận các sản phẩm công nghiệp của Đông Đức vì chúng không đạt tiêu chuẩn. Nông sản cũng ế vì khâu bảo quản và chế biến quá kém. Rồi cái gì phải đến cũng đến. CHDC Đức phải chấp nhận dùng đồng D-Mark của CHLB Đức, đồng nghĩa với việc chấp nhận sáp nhập phần lãnh thổ của mình vào Tây Đức.

Người Việt nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của cuộc thống nhất này. Xí nghiệp, nhà máy đóng cửa hàng loạt, không có lương. Chính phủ chu cấp cho một thời gian rồi bố trí cho lực lượng thợ khách hồi hương. Mỗi người nhận 3000 D-Mark tiền bồi thường và lên máy bay về nước. Số ở lại tự bươn chải, mưu sinh. Bắt đầu từ đây người Việt “xuống đường” chinh chiến, mở đầu cho một thời kỳ gian lao, đẫm mồ hôi, nước mắt  và cả máu.

Về nước 1991

Đầu thập kỷ 90, các chợ giời mọc lên như nấm sau mưa ở Đông Đức. Chợ nào cũng có vài bóng đầu đen, có nơi con cháu Hùng King làm hẳn một khu lớn. Dân Đông Đức cũ thiếu thốn đủ thứ, tiền lại mới được đổi, để trong nhà nóng như có hoả hoạn. Vậy là đem ra tiêu. Hàng hoá thời kỳ này chỉ là băng đĩa của các ban nhạc chuyên hát Schlager (một dạng bô-lê-rô trong âm nhạc Đức), quần áo, khăn trải bàn, đồ điện tử gia dụng rẻ tiền. Nguồn hàng chẳng phải đi đâu xa, dân Dresden chỉ chạy hơn 200 km sang đến West Berlin, lượn qua mấy khu phố Thổ, đong lấy một xe đủ chủng loại hàng. Hôm sau bày ra sạp, kiểu gì cũng có đôi nghìn tiền lời. Chợ có cái mở thứ 2,4,5 cái mở 3,5,7. Cứ thế sắp xếp lịch đi, không nghỉ ngày nào. Ra chợ cứ thấy sạp hàng nào màu sắc như cầu vồng, hàng hoá cái trên bàn, cái dưới đất và người bán hàng tròn xoe như con lật đật vì mặc 2, 3 lớp áo khoác thì đích thị đó là quầy của dân Giao Chỉ. Phơi nắng sương suốt ngày, về sau đây là nguồn cơn của lớp người Việt phải chung sống với máy chạy thận và thuốc trợ tim. Ở thủ đô Berlin, nghề đi chợ cũng thịnh hành. Song tại đây có một nguồn béo bở do người Nga, gồm cả lực lượng lính Nga đồn trú cung cấp: thuốc lá. Buôn thuốc lá lãi cao. Đêm đêm trên các cánh rừng quanh Berlin, cảnh buôn thuốc giữa người Nga và người Việt thật sôi nổi. Nhiều vốn thì làm cái Minivan cũ, nhét lên 2000 tút Marlboro, West gì đó. Chạy về tới nhà tập thể, sang tay cho lực lượng bán lẻ ngay và luôn cũng được hơn nghìn D-Mark. Còn người bán lẻ, phải phơi mình dưới nắng mưa, băng tuyết được hưởng số lãi cao hơn. Trung bình một bao thuốc mang lại cho người bán lẻ 1,5 đến 2 đồng DM.

Người Việt đứng đầy các ngã tư, ngã năm . Cứ đến đợt đèn đỏ, các phương tiện giao thông dừng là họ lao ra chào mời thuốc lá, cách tiếp thị so với lớp tiền bối phe vé ở rạp Tháng 8 Hà Nội bạo dạn gấp bội phần. Buôn thuốc lá lãi suất cao nhưng hiểm nguy không ít. Đầu tiên là hải quan và cảnh sát bắt, tịch thu thuốc, nhốt vào đồn lấy vân tay, sau đó phạt khá nặng. Cái này người Việt điếc vì họ tâm niệm lúc đó, mình có ăn đời ở kiếp ở cái xứ băng giá này đâu mà tính xa? Cố cày lấy vài chục cây vàng rồi khăn gói hồi hương, tậu con vợ, xây quả nhà là mỹ mãn rồi. Khổ cái tiền vào nhiều ham, sau có đến một, hai trăm cây vẫn chép miệng “một đời ta muôn vàn đời nó”, tội gì không mần tiếp. Về sớm sau này thằng đồng hương cùng xã về xây nhà to hơn thì nỏ biết nói với cha mạ ra răng. Có buôn lậu sẽ có cạnh tranh, mà là cạnh tranh không lành mạnh, đi kèm với bạo lực. Khởi đầu là mấy tay du côn tụ họp lại đi bắt người bán thuốc, bán xôi chè, bún phở trong các khu nhà tập thể đóng tiền bảo kê. Vì muốn yên thân, những người buôn bán này chấp nhận nộp tiền. Sau thấy dễ nuốt, mấy tay “bộ đội” này tiến đến yêu cầu cao hơn, bắn đóng hụi chết cho những địa điểm người bán thuốc lậu vẫn đứng hoạt động. Đó có thể là cửa một cái siêu thị, một cái ngã tư, ngã năm sầm uất, miễn có nhiều người qua lại . Tiền bảo kê này dựa vào doanh số của khu vực đó. Ngày bán được nhiều sẽ đóng nhiều và ngược lại.

Bán thuốc hay bị bắt – số lượng nhỏ thì “vô tư đi”…

Trong số bộ đội làm nghề này nổi lên Nam “Động” và Tuấn “Hà Nội”. Kiếm tiền dễ, thấy bà con hiền lành dễ bắt nạt, mấy chú này bắt đầu làm càn. Đấm đá, chửi bới, trấn lột xảy ra như cơm bữa. Tức nước tất phải vỡ bờ, bà con tiểu thương (gọi thế cho nó lành mạnh) kiến nghị lên một số cốt cán người miền Trung đề nghị giúp dẹp đám thảo khấu đang tác oai tác quái này. Số cốt cán đa phần là những bộ đội phục viên, cựu công an cũng đang lêu lổng, đôi lúc cũng bị đám “bộ đội” Bắc kỳ đà cản mũi trong làm ăn. Nhóm này đứng lên lập hội Từ thiện, mục đích ban đầu cũng trong sáng như thời Xô viết Nghệ Tĩnh là đòi lại công bằng cho quảng đại quần chúng.

Vào một ngày đẹp trời, Nam “Động” vừa khệnh khạng xuống xe trước cửa một khu tập thể của người Việt ở Berlin thì bị bốn bàn tay cứng như thép khoá chặt hai bên. Một cú lê xiên thẳng vào bụng. Nam rũ xuống và bị kéo lê lên tầng hai khu nhà. Tại đây đã có một Thạch Sanh cầm rìu chờ sẵn. Một cú bổ của gã tiều phu này chẻ đôi phật thủ của tay giang hồ xóm, Nam giãy được mấy cái trên đống đậu Mơ nhầy nhụa rồi hồn du địa phủ.

Mấy hôm sau, đến ku Tuấn “Hà Nội” ăn trọn băng đạn AK lúc ngồi trong ô tô. Hai vụ này làm rúng động phe Hắc đạo Bắc kỳ. Mất cả đại đội trưởng lẫn chính trị viên trong tích tắc, phe Bắc kỳ tan rã và phía miền Trung lên ngôi. Bộ đội Bắc dạt về các tỉnh mai danh ẩn tích, nín thờ chờ thời. Berlin rơi hoàn toàn vào tay quân khu Bốn.

Gehrensee – một trong những nơi người Việt sống co cụm

Thiên hạ đã tưởng thế là thái bình đã trở lại, Bắc Trung Nam lại cùng ca bài như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Nhưng khi đã có “quyền bính” trong tay, người Việt đánh mất mình cũng nhanh như lúc tạo dựng tên tuổi. Băng miền Trung quay ra cắn xé, tranh giành lãnh địa làm ăn và phân hoá. Có đội thuộc Quảng Bình, đội Nghệ An, Hà Tĩnh. Rồi trong cùng một tỉnh cũng phân biệt đội Vinh, đội Thanh Chương… Đến bố ông Đinh Bộ Lĩnh sống dậy cũng không thể mời các hội này ngồi cùng mâm uống chén rượu kể cả vào ngày Quốc Khánh.

 Các băng nhóm miền Trung thống trị Berlin trong một thời gian khá dài. Những gương mặt tiêu biểu có thể kể đến Vân “bụng” (vụ Vân bụng bị hạ thủ đến giờ vẫn là một ẩn số), Tịu “híp”, Trị “bờm”, Hà “lì”… Sẵn tiền mua vũ khí (súng quân đội Nga bán ở chợ   đen như bán rau), em út từ quê sang tị nạn đông, cứ  vài chục người là lập thành băng, tha hồ tung hoành. Nhưng để nói đến mức độ tàn bạo chắc không ai qua được Lê Duy Bảo với biệt danh Ngọc Thiện. Sang Đức năm 1993, chỉ một thời gian sau băng Ngọc Thiện đã thâu tóm 2/3 thị trường thuốc lá lậu của người Việt tại Berlin. Đỉnh điểm là vụ hành quyết 6 người Việt trong một căn chung cư tại quận Marzahn. Tất cả đều bị bịt mắt và bắn vào đầu.

Vụ án này làm rúng động truyền thông và tốn không ít giấy mực của báo giới. Bắn giết trong cộng đồng người Việt là chuyện thường nhật. Đi karaoke, nhìn thằng bàn bên ngứa mắt, lôi ra cửa bắn. Đá bóng ở sân trại tị nạn, va chạm nhau, lập tức bỏ bóng… bắn người. Các sát thủ Việt học hỏi phim ảnh Hồng Kông quá nhiều, lúc hành quyết thường có những hành động kiểu Châu Nhuận Phát. Thế nên mới có vụ, chợ đang họp đông, một chú Việt Nam lê khẩu AK dài hơn người ra làm một tràng thị uy. Không dùng hàng nóng bao giờ, súng giật chú ngã lăn quay trên bãi cỏ. Rồi vụ năm chú đuổi bắn một chú như phim hành động. Đối phương ngã rồi, có chú còn tiến đến làm thêm phát vào đầu, coi như chốt hạ.

Sau vụ Ngọc Thiện, cảnh sát liên bang vào cuộc vì dư luận quá phẫn nộ. Cảnh sát  lập hẳn chuyên án về băng đảng người Việt gọi là Soko Vietnam. Các cuộc truy quét diễn ra rầm rộ, các nhân chứng được triệu tập. Có trường hợp công tố viện chấp nhận thay đổi danh tính, nhân thân, cấp quyền cư trú cho nhân chứng để họ mạnh dạn khai ra hung thủ. Côn đồ người Việt thật ra mới ở đẳng cấp lưu manh, sánh sao được với “phia” Nga, Ý. Bắt cho vài chục chú, giã mỗi chú 1,2 án chung thân. Thế là khai hết, đổ tội cho nhau, miễn thân mình thoát cảnh ngục tù. Các băng nhóm tan rã nhanh hơn vụ Cần Vương của cụ Phan!

Trung tâm Đồng Xuân -Berlin

Cũng từ giai đoạn này, nước Đức nới lỏng quy chế định cư cho người Việt. Miễn có nhà cửa đủ rộng, thu nhập đủ sống là được cấp phép cư trú. Có giấy tờ rồi, không còn là công dân hạng ba nữa, người Việt bước vào thương trường với tư cách khác. Nhiều người lập công ty, đưa hàng dệt may, thực phẩm từ Việt Nam sang bán. Hàng quay về ban đầu là xe IFA, máy móc, thiết bị cũ, sau đó đến hàng tiêu dùng, thiết bị cao cấp hơn. Học theo gương các “soái” Nga, Ba Lan,    người Việt tại Đức cũng mở chợ đầu mối, chuyên bán buôn. Có thể kể đến Vina Center ở Dresden của Dũng “con”, chợ Đồng Xuân của anh em Hiền “râu” tại Leipzig, chợ “Rhin 139” của chị Thắng. Mỗi chợ có từ vài chục đến tầm trăm quầy giao hàng. Nếu so với chợ Vòm bên Mát hoặc chợ sân vận động ở bên Vác thì quy mô kém xa. Dẫu sao người Việt đã bắt đầu có sân chơi riêng.

Từ chỗ phải đặt hàng hoặc mua lại từ Trung Quốc, Thái Lan, Pakistan, người Việt ở Đức đã mở xưởng may ở Việt Nam, tự thiết kế mẫu mã, chủ động tìm nguồn nguyên vật liệu để mở rộng sản xuất. Có những xưởng may ở Hải Dương, Thái Bình, Nam Định tạo ra công ăn, việc làm cho hàng nghìn người lao động. Hàng hoá tràn ngập trong các khu giao hàng. Đây cũng là lúc các đầu mối đưa hàng từ Ba Lan, Hungary… vào Đức bùng nổ. Điển hình là anh em Quân-Trường-Sơn tại Ba Lan (mà TSQ ở Hà Nội dân bất động sản nghe cũng thấy quen quen đấy). Ba anh em nhà này đã biến hoá hàng nghìn container hàng dệt may xuất xứ Việt Nam thành hàng Ba Lan (được ưu đãi thuế) tuồn vào Đức. Thế nên đã có vụ hải quan Đức bắt được nhiều công hàng nghi vấn có xuất xứ ngoài châu Âu. Kiểm tra, giám định chán không xác định được nguồn gốc. Chỉ đến khi họ đem mảnh giấy lót phía trong phần thêu của áo len đi dịch mới biết đó là xã luận báo Nhân dân của đảng cộng sản Việt Nam thì mọi việc mới vỡ lở.

Bước vào thế kỷ 21, mô hình kinh doanh của cộng đồng người Việt tại Đức có thêm nghề mới: nghề làm móng – Nail. Người đưa nghề này vào Đức nghe thiên hạ đồn là Sơn Nail, một Việt kiều Mỹ. Đây được coi là ông tổ tạo ra nghề mài giũa cho hàng chục nghìn người đã và đang hành nghề khắp các hang cùng, ngõ hẻm ở Đức quốc xã. Người người cầm giũa, nhà nhà quét Gel. Có những ông nghề chính từ xưa đến nay là đi dán băng dính vào mồm thiên hạ (cướp), bẻ khoá, cậy cửa, nay cũng đi nâng niu bàn tay, bàn chân người Đức kiếm tiền. Từ chỗ chỉ làm móng, một số người thức thời chuyển sang buôn vật tư nghề nail và cũng tạo dựng nên tên tuổi như Cường Maika, Hà Nail, Luỹ Nhàn….

Quán Việt ở Berlin

Nhưng nghề làm người Việt có tiếng tăm trên nước Đức lại là nghề hàng ăn. Trước năm 2000, các quầy bán đồ ăn của người Việt chủ yếu bán mấy món cơm rang, mỳ xào theo dạng ăn nhanh. Lác đác có người mở quán thì cũng theo mô hình Tàu, nghĩa là đèn lồng treo cao, câu đối, long ly quy phượng, sư tử chầu ngoài cửa tiệm như sở thú. Sau đó người Việt tiến tới mở các chuỗi hàng ăn nhanh tại khắp các siêu thị lớn, nhà ga trên nước Đức.

Tiên phong cho trào lưu này phải kể đến Asia Goumet của chị Tâm “Koch”, sau này để lại cho vợ chồng con gái là Trà Thảo tiếp quản. Lúc đỉnh cao, gia đình chị Tâm có đến 80-90 quầy nằm ở những vị trí đắc địa nhất. Doanh số quầy này bù quầy kia cũng khoảng 3-4 nghìn Euro/quầy một ngày. Tiếp bước theo gia đình bà Tâm là vợ chồng Hùng Xuân với thương hiệu Asia Hung, số quầy và  doanh  thu cũng ngang ngửa. Có thể kể đến một vài tên tuổi khác như Thăng Long, Hùng Haiky, Cocos…

Sau làn sóng tiệm ăn nhanh, được sự tiếp sức của làn sóng du lịch của người Đức đến Việt Nam, chắp cánh bởi đường bay thẳng Hanoi-Frankfurt, HCMC-Frankfurt của Vietnam Airlines, người Đức đã biết đến nền ẩm thực “nói không với dầu hào” của con dân nước Việt. Đồ  ăn Việt tươi, nhiều rau và chủ yếu xào nấu trực tiếp. “Bóp chết” đồ ăn Tàu ở món nước mắm làm nên mùi vị đặc trưng, người Việt cũng thiết kế quán tiệm thật gần gũi với thiên nhiên, tận dụng tre, nứa trong thiết kế không gian bán hàng. Quán Việt mở ra với tốc độ chóng mặt, khách đông nườm nượp.

Nói đến Sushi, ai cũng hình dung ra một ông như Samurai đứng sau quầy múa dao, chạy bàn là mấy Kimono lả lướt. Thưa, hình ảnh đó Diễm rồi. Quán Sushi tại Berlin giờ nằm trong tay người Việt. Cũng vung dao chém miếng Sashimi thành thục như đàn anh ở Tokyo nhưng mồm vẫn điện thoại báo con đề về Hà Nội. Cá hồi, cá ngừ đại dương, cá tuyết cũng không còn là món hàng độc quyền của mấy ông Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và kể cả Đức. Công ty Le Seafood của Sơn “lim” đã phủ hàng kín Berlin. Xe giao hàng chạy như ong vỡ tổ.

Đào Minh Quang đang ký kết chương trình từ thiện

Cũng không có những cuộc dịch chuyển ngoạn mục về Việt Nam như anh Vượng Vin hoặc chí ít như anh Thân “địa chủ” chợ “Sân vận động”. Nước Đức chia đều cho số đông. Ai cũng có công ăn, việc làm. Nếu có chí, chăm chỉ thì có cuộc sống đủ đầy. Cái hay và cái dở của nước Đức nằm ở khâu phúc lợi xã hội. Ở đây không ai phải khúm núm trước một ông soái nào cả. Ông trả lương tử tế, tôi phục vụ ông. Bầy nhầy tôi lượn, việc đầy ngoài đường. Nhỡ có đau ốm, bệnh tật đã có bảo hiểm lo, thiếu tiền nhà thì xin trợ cấp xã hội. Trẻ con đi học không phải trả xu nào, cũng không có ngày 20/11 để bố mẹ đến xếp hàng ở cửa nhà thày cô. Hết giờ làm, đi nhậu có gặp sếp cũng chỉ Hello là xong. Sếp nhiều tiền dùng bò Kobe chiêu với Macallan thì lính cũng đủ tiền làm chai John đỏ với nồi chép om dưa. Cái dở của việc nhà nước bao cấp là nó làm cho người ta ù lì hơn, AQ hơn và kém năng động. Kiểu, kệ bố mày, mày cứ lo thân mày đi, tao đã có nhà nước lo.

Biểu tình trước cửa ĐSQ Trung Quốc tại Berlin

Bố mẹ Việt giống nhau ở đoạn nuôi dạy con cái. Ở Việt Nam thế nào thì ở Đức cũng vậy. Người Việt luôn đốc thúc con cái học hành, tạo điều kiện tốt nhất cho thế hệ kế tục, đúng tinh thần con hơn cha nhà có phúc của ông bà để lại. Thế hệ 2 và 3 ở Đức đã có chỗ đứng trong xã hội. Nhiều tiến sỹ trẻ, thậm chí có hàm giáo sư đã xuất hiện. Vài nơi, người gốc Việt đã tham gia chính trường. Tất nhiên không tính đến ông Roessler, cựu chủ tịch đảng FDP, kiêm phó thủ tướng Đức vì ông này ăn khoai tây và Doener là chủ yếu, cội rễ bong tróc từ lâu rồi. Lứa trẻ cũng có định hướng riêng. Có người phàn nàn, em chuẩn bị 200 ngàn Euro cho con để nó mở quán, kiếm tiền cho nhanh. Ai ngờ nó bảo, quán con không cần, nếu bố cho con vay, con sẽ sang Anh làm tiến sỹ, sau này ra làm việc, chỉ 3, 4 năm con gửi lại bố. Kể cả trong lĩnh vực nghệ thuật, thể thao, lứa trẻ gốc Việt cũng đóng góp nhiều gương mặt.

Tản mạn về nước Đức trước thềm Noel như vậy đã. Sẽ có dịp quay lại với nước Đức kỹ lưỡng hơn cùng bạn đọc. Covid 19 lại có biến thể mới, lịch tiêm chủng bắt đầu từ ngày 27.12.2020. Già tiêm trước, trẻ tiêm sau. Lứa người Việt đạt mức xưa nay hiếm ở Đức cũng chỉ như lá mùa thu. Đa phần còn trong lứa tuổi sung sức, còn phải bươn chải. Lúc dịch giã này, đã là người Việt thì dù uống nước sông Đuống hay nước sông Elbe, câu đầu tiên chúc nhau vẫn là “vạn sự an lành!”.

Chúc mừng năm mới 2021!

CHUYỆN CŨ VỀ “NEW”

Giới thiệu sách: Tập 4 “Người Đông Âu về Đông Anh”

Nước Đức ngày nay cũng có những người giàu. Hùng “Asia”, Tâm “Koch” rồi Hiền “râu” chủ chợ Đồng Xuân. Số người này đều là triệu phú lớn. Tất nhiên không thể so sánh với các “đại nguyên soái” ở Nga, Ba Lan. ..vì đặc thù xã hội. Phúc lợi xã hội cao, ai cũng đủ cơm ăn áo mặc. Không có kiểu một người nói vạn người nghe như bên mấy nước Đông Âu. Họ chỉ âm thầm gây dựng. Cũng có vài nhân vật đầu tư sớm vào bất động sản Việt Nam và có cỡ 100 triệu USD. Con số này so với anh Vượng là “muỗi”. Cái muốn nói đến là một vài nhân vật từ thời DDR đã có tiếng, trở về Việt Nam cũng ba chìm bẩy nổi chín lênh đênh mà vẫn có chỗ đứng riêng…

Ở Việt Nam, nhiều người biết đến vũ trường New Century lừng lẫy một thời. Nhưng chắc ít người biết là hai ông chủ của cái sàn đình đám này lại từ Đông Đức trở về. Đó là Thái “còm” và Dương “con”. Thái và Dương sang Đức năm 1982. Thuở ấy Đông Đức khá là hào nhoáng so với xứ Đông Dương đang trên bờ vực thẳm. Cả 2 đều là dân xuất khẩu lao động. Thái về Coswig cạnh Dresden. Đội trưởng là Liêm “gù”, em ruột đại gia Dũng “tăm” (VIT) bây giờ. Thái bắt đầu sự nghiệp buôn lậu bằng nghề đổi USD. Nơi giao dịch là quán bar Bastein tại Dresden. Nguồn cung là tụi sinh viên Algérie và Libya… Khách hàng chủ yếu là người Việt Nam và Ba Lan. Năm thì mười họa có ông chặt mía (Cuba ) ra đổi vài cắc …mua xà phòng Fa cho chị em Đông Đức cọ bím. Đến năm 1986 tại Đông Đức rộ lên trào lưu buôn computer từ West Berlin sang, bán lại cho các cửa hàng đồ cũ. (An und Verkauf ). Máy thuộc loại hàng chợ. Schneider 1512, 1640 Amiga… Một chiếc mua vào cỡ 30 nghìn Mark bán đi 65 nghìn. Tóm lại là siêu lợi nhuận. Cả thanh RAM (ngày ấy chỉ có 64 Kb và to như cái ngăn kéo) cũng được giá lắm. Cơn mưa vàng này Thái và Dương không bỏ qua…

(Trích đoạn trong “Người Đông Âu về Đông Anh”)

6 nỗi sợ hãi của ông Tập và 3 cuộc đào thoát của quan chức ĐCSTQ

Ngày kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang đến gần. Nhưng điều kỳ lạ là bầu không khí lại vô cùng căng thẳng, như thể một đại sự sắp xảy ra. Theo báo cáo, Bắc Kinh đã tiến hành một chiến dịch duy trì sự ổn định. Quảng trường Thiên An Môn và các khu vực lân cận đang ở trong tình trạng nửa thiết quân luật.

Tập Cận Bình

Ông Tập Cận Bình (Ảnh: Alexander Khitrov/Shutterstock).
Thượng Hải, Gia Hưng, Tỉnh Cương Sơn, Tôn Nghĩa, Diên An, Tây Bách Pha, Bắc Kinh đã nhận được thông báo mới nhất từ ​​Bưu điện rằng tất cả chuyển phát nhanh tại 7 thành phố trên sẽ tạm ngưng. Máy bay không người lái bị cấm ở 9 quận của Bắc Kinh. Các mô hình bay, diều, khinh khí cầu, đèn trời và chim bồ câu ở quận Thông Châu, Thâm Quyến cũng bị cấm bay.

Cũng có một thông báo từ Chính quyền thành phố Bắc Kinh lan truyền trên Internet rằng họ sẽ thực hiện kiểm soát vô tuyến điện tại một số khu vực của Bắc Kinh vào ngày 1/7. Cư dân mạng cũng quay được cảnh hơn 200 chiếc xe buýt chở đầy lính tiến vào sân vận động Tổ chim (sân vận động quốc gia Bắc Kinh). Cư dân địa phương cho biết cảnh báo này là rất hiếm gặp kể từ khi ĐCSTQ thiết lập quyền lực của mình.

Bà Thái Hà, một giáo sư đã nghỉ hưu của Trường Đảng Trung ương, viết trên Twitter rằng ĐCSTQ kỷ niệm 100 năm thành lập và điều này giống như một thảm họa. ĐCSTQ có súng, có tiền và có camera giám sát công nghệ cao trong tay, muốn bắt ai thì bắt người nấy, muốn phong tước hiệu cho ai thì phong cho người nấy. Vậy thì họ đang sợ điều gì?

Nhưng nghĩ kỹ lại, vì sao ông Tập Cận Bình lại không sợ cho được.

Thứ nhất, sợ bị các quan viên mình bức hại trả thù. Hàng triệu quan chức ĐCSTQ đã bị hạ bệ vì tội danh tham nhũng, người thì nhảy lầu, kẻ thì uống thuốc độc, người lại đâm vào tàu hỏa, kẻ phải đi tù. Họ và người thân, bạn bè của họ lẽ nào sẽ không báo thù?

Thứ hai, sợ dân oan. Có hàng chục triệu người khiếu kiện ở Trung Quốc, và Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là thời điểm thích hợp để họ kêu oan. Mỗi chuyến viếng thăm, ông Tập Cận Bình đều được những người thỉnh nguyện ở nước ngoài ‘tiếp đón’, và trí nhớ của ông vẫn còn nguyên vẹn.

Thứ ba, sợ người dân trong xã hội trả thù. Trung Quốc không có tự do ngôn luận cũng như độc lập về tư pháp, người dân không thể tìm được chỗ để nói lý, và thường xuyên xảy ra các vụ trả thù xã hội.

Thứ tư, sợ bị ám sát bằng máy bay không người lái. ĐCSTQ sử dụng công nghệ cao để giám sát người dân. Nhưng họ cũng sợ rằng công nghệ cao sẽ gây tổn hại cho chính mình. Giờ đây, các thế lực thù địch ở nước ngoài binh hùng tướng mạnh, ông Tập sẽ không khỏi rùng mình khi nghĩ đến việc tướng Iran Soleimani bị chặt đầu bởi một tên lửa hình lưỡi dao.

Thứ năm, sợ bóng sợ gió. Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo và Lý Khắc Cường từng người một đều gặp phải những kẻ hai mặt. Nói không chừng, tiệc mừng 100 năm lại trở thành ‘Hồng Môn Yến’ (đảo chính).

Thứ sáu, sợ binh lính có vũ trang. Trong số những kẻ này, ai biết được liệu có còn sót lại những kẻ nghịch tử như Từ Tài Hậu, Quách Bá Hùng, Phòng Phong Huy, Trương Dương hay không. Nói tóm lại, nghĩ đến Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, ông Tập Cận Bình không khỏi cảm thấy âu lo.

Nhưng điều mà ông Tập Cận Bình thực sự e ngại không chỉ là những điều này, còn có những quan chức cấp cao đào tẩu mà Mỹ chưa công khai. Tất nhiên ông Tập Cận Bình biết mình là ai và sóng gió sắp ập đến. Nhiều người nói rằng Tập Cận Bình tham lam quyền lực và ông sẽ tái đắc cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 20 của ĐCSTQ. Nhưng ông Tập lại phàn nàn rằng có quá nhiều người muốn giết ông, ai có thể bảo vệ ông nếu ông không được bầu lại?

Không có gì lạ khi nói về vụ đào tẩu của các quan chức cấp cao của ĐCSTQ. Trước đó, trong nội bộ ĐCSTQ đã có ông Cố Thuận Chương đào tẩu. Sau đó là ông Du Chấn Thanh, anh trai của ông Du Cường Thanh, Cục trưởng Cục Tình báo Bắc Mỹ lúc đó. Những vụ đào tẩu của các quan chức dưới cấp cục thì không đếm xuể. Tuy nhiên, trong số những quan chức cấp cao đào tẩu có thể giáng một đòn nặng nề vào ĐCSTQ chỉ có 3 người.

Kể chuyện giết cả nhà kẻ phản bội, ĐCSTQ muốn đe dọa người đào tẩu?

Đầu tiên, là vụ đào tẩu của Lâm Bưu
Ngày 13/9/1971 là một ngày đặc biệt đối với Trung Quốc. Vào ngày này, Lâm Bưu, đồng chí thân cận nhất của Mao Trạch Đông và người kế nhiệm của quốc gia, đã dẫn theo người vợ Diệp Quần và con trai Lâm Lập Quả, bỏ trốn trên chiếc phi cơ Đinh ba số 256. Sau đó máy bay bị rơi tại Chinggis, Mông Cổ, và họ đã thiệt mạng. Đây được gọi là “Sự cố ngày 13/9” trong lịch sử.

Ông Diêu Văn Nguyên cho biết trong hồi ký của mình rằng khi Mao Trạch Đông biết tin Lâm Bưu đã bỏ trốn khỏi Liên Xô bằng máy bay, ông ấy còn không tin. Mao Trạch Đông đã nhờ Chu Ân Lai tìm hiểu thêm. Sau hơn 4 tiếng đồng hồ từ khi nhận được tin Lâm Bưu đã bỏ trốn bằng máy bay và lính canh không tìm thấy Lâm Bưu, khi Chu Ân Lai báo cáo lần thứ ba, Mao Trạch Đông vẫn bán tín bán nghi. Ông nói với các Ủy viên Bộ Chính trị có mặt tại đó rằng: Lâm Bưu sợ tôi sẽ không thể giữ lại ông ấy nên đã rời đi.

Mao nhìn lên trần nhà thở dài và nói: “Cao thủ, quả là cao thủ! Ta đã bị ông ta lừa dối suốt 22 năm. Các ông đều bị lừa dối! Sau này không được tự cho mình là kẻ sáng suốt!”. Mao Trạch Đông cũng chỉ vào Chu Ân Lai và Giang Thanh và mắng rằng: “Một người là thủ tướng và một người là vợ tôi đều nâng phó chủ tịch lên cao như trời. Tôi cũng đã bị các người lừa dối”. Sau vụ Lâm Bưu, suốt một thời gian tinh thần của Mao Trạch Đông khá hoảng loạn. Ông ném đồ đạc, chửi bới mọi người, và đuổi các nhân viên xung quanh mình.

“Biên bản của Công trình ngày 1/5” mà sau đó Mao Trạch Đông đã chỉ định công bố thậm chí còn gây ngộ nhận cho người Trung Quốc. Lâm Lập Quả, con trai của Lâm Bưu, đã mô tả “vị lãnh tụ vĩ đại” Mao Trạch Đông như thế này: “Ông ấy là một kẻ đa nghi và thích ngược đãi người khác. Triết lý trừng trị người khác của ông ta, một là không làm gì cả, hai là không dừng tay. Những người mà ông ấy muốn trừng trị, từng người một đều bị dồn vào chỗ chết thì ông ta mới dừng tay. Một khi đã đắc tội thì sẽ đắc tội đến cùng và còn vu oan giá họa cho người khác. Nói thẳng ra, từng người một bị xoay như chong chóng và gục ngã dưới tay ông ấy. Kỳ thực họ đều là những con dê thế tội của ông ta.”

Đinh Khải Văn, một chuyên gia về lịch sử Cách mạng Văn hóa, chỉ ra rằng “Sự kiện 13/9” đã làm gián đoạn quá trình trừng trị thuộc hạ của Mao Trạch Đông, phá vỡ huyền thoại về Mao và đưa Cách mạng Văn hóa của Mao vào ngõ cụt.

Sau “Sự kiện 13/9”, Mao Trạch Đông phải xem xét lại chiến lược Cách mạng Văn hóa, giải phóng một lượng lớn cán bộ kỳ cựu, bổ nhiệm lại Đặng Tiểu Bình và những người khác, nhằm gieo mầm cho sự trở lại hoàn toàn của Cách mạng Văn hóa. Một số nhận xét cho rằng: “Cuộc đào tẩu của Lâm Bưu đã gây ra một phong trào giải phóng tư tưởng rộng khắp tại Trung Quốc. Mọi người bắt đầu nghi ngờ Mao, nghi ngờ tư tưởng của Mao, nghi ngờ hành vi của Mao, và nghi ngờ tư cách của Mao.”

Khác biệt trong di ngôn lúc lâm chung của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông
Thứ hai là vụ đào tẩu của Vương Lập Quân
Bạc Hy Lai đã từng là một nhân vật đình đám, rất có khả năng trở thành thành viên của Ủy ban thường vụ và cuối cùng thống trị thế giới, nhưng lại thân bại danh liệt khi đang ở đỉnh cao của quyền lực! Không chỉ thân bại danh liệt, bà Cốc Khai Lai, vợ của Bạc Hy Lai cũng bị kết án tử hình treo, và con trai Bạc Qua Qua cũng lưu lạc tại nước ngoài.

Sự thất bại của Bạc Hy Lai có liên quan mật thiết đến việc Vương Lập Quân đào tẩu. Vương Lập Quân đã nói trực tiếp với Bạc Hy Lai vào tháng 1/2012 rằng anh ta có bằng chứng về việc bà Cốc Khai Lai đã giết doanh nhân Neil Heywood. Sau khi nghe điều này, Bạc Hy Lai đã rất tức giận và tát Vương. Cái tát này khiến Vương Lập Quân cuối cùng cũng rút khỏi ‘chiến xa’ của Bạc Hy Lai. Ngày 6/2, anh ta đã bỏ trốn đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành Đô, cách đó 300 km.

Nhìn lại con đường thành bại của Bạc Hy Lai, cần phải nói rằng Bạc Hy Lai đã nhìn thấy những vấn đề xã hội nghiêm trọng do 30 năm cải cách và mở cửa mang lại, như nạn tham nhũng, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo. Vậy nên ông ta muốn mượn oai hùm của Mao Trạch Đông để diễn một vở kịch lớn. Mục đích của ông ta là xóa bỏ địa vị thái tử của ông Tập Cận Bình và thay thế bằng một thế hệ tiểu yêu mới.

Mặc dù Bạc Hy Lai có cả sự ủng hộ của bè phái Mao Trạch Đông và lại mang huyết thống thế hệ đỏ thứ hai, cũng như sự ủng hộ trong nội bộ của Chu Vĩnh Khang, Lệnh Kế Hoạch, Từ Tài Hậu và Quách Bá Hùng, nhưng đáng tiếc là ông ta đã lạc vào đường tà, đi lệch khỏi giá trị phổ quát của nhân loại.

Một số nhà phân tích chỉ ra rằng trường hợp của Bạc Hy Lai một lần nữa nói với mọi người rằng chừng nào các chính trị gia không tuân theo xu thế chung, họ chắc chắn sẽ thất bại. Dẫu thành công nhất thời, thì cuối cùng chắc chắn họ vẫn sẽ thất bại. Trên khắp thế giới, các nhà độc tài ngang ngược và bất khả chiến bại như Hitler, Mussolini, Saddam Hussein và Gaddafi cuối cùng đều bị các xu thế lịch sử vứt bỏ.

Cuộc đào tẩu của Vương Lập Quân đã mở ra bức màn đen về cuộc đấu tranh quyền lực sinh tử trong nội bộ ĐCSTQ. Những chiến dịch ‘hát đỏ đánh đen’ (hát nhạc cách mạng, đánh đổ các thế lực đen tối) “lý tưởng cách mạng cao hơn trời” chẳng qua chỉ là thủ đoạn của những kẻ cuồng chính trị, nhằm đánh lừa người dân mà thôi.

Thứ ba là vụ các quan chức cấp cao đào tẩu sang Mỹ
Gần đây, Tucker Carlson, người dẫn chương trình đài “Fox News” của Mỹ, tuyên bố trong chương trình rằng cộng đồng tình báo Mỹ đã tiết lộ một “người đào tẩu cấp cao nhất của Trung Quốc” trong lịch sử đã đến Mỹ và hợp tác với Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA) trong 3 tháng. Mỹ tiết lộ về “chương trình vũ khí đặc biệt” của Trung Quốc, trong đó có “chương trình vũ khí sinh học.” Cơ quan Tình báo Quốc phòng không báo cáo kẻ đào tẩu, nhưng giữ bí mật trong nội bộ Cơ quan Tình báo Quốc phòng Quốc gia.

Được biết, kẻ đào tẩu là ông Đổng Kinh Vĩ, Thứ trưởng Bộ An ninh Quốc gia ĐCSTQ. Tuy nhiên, ngày 18/6, các kênh truyền thông của ĐCSTQ đã gửi một thông điệp nhằm “bác bỏ tin đồn.” Bất kể người này có phải là ông Đổng Kinh Vĩ hay không, dựa trên các báo cáo từ nhiều kênh truyền thông Mỹ, có một sự thật là các quan chức cấp cao của ĐCSTQ đã mang thông tin tuyệt mật liên quan đến “virus corona mới” đào tẩu sang Hoa Kỳ.

Khi ĐCSTQ che giấu dịch, một trận đại dịch đã lây lan từ Vũ Hán ra toàn thế giới. Tính đến ngày 21/6/2021, 179 triệu người đã nhiễm bệnh và 3,88 triệu người đã chết tại 192 quốc gia trên thế giới. Hiện tại, virus biến thể Delta của Ấn Độ đã lây lan đến hơn 80 quốc gia và khu vực. Nhiều người có thể bị nhiễm hoặc tử vong trong tương lai.

Theo nội dung mà Fox News tiết lộ, các quan chức cấp cao của ĐCSTQ đã tiết lộ với Hoa Kỳ về “chương trình vũ khí đặc biệt” của Trung Quốc, gồm cả “chương trình vũ khí sinh học”. Viện Y tế Quân đội Hoa Kỳ về các bệnh truyền nhiễm xác nhận với Cơ quan Tình báo Quốc phòng rằng thông tin do những người Trung Quốc đào tẩu cung cấp “mang tính kỹ thuật rất cao”.

Nếu thông tin tình báo của các quan chức cấp cao của ĐCSTQ có thể chứng minh rằng virus viêm phổi Vũ Hán có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm Vũ Hán, thì Trung Quốc sẽ phải đối mặt với trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế, thậm chí chiến tranh sẽ có thể nổ ra. Đây sẽ là một thảm họa đối với ĐCSTQ. Ngay cả khi không thể chứng minh được rằng virus có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm Vũ Hán, thì tội ác của ĐCSTQ trong việc che giấu dịch bệnh và bí mật nghiên cứu vũ khí sinh học sau khi dịch bùng phát là không thể phủ nhận.

Bình luận viên Lương Kinh chỉ ra rằng liên kết chuỗi sự kiện thời sự lớn gần đây, ông tin nhiều người sẽ thấy rằng diễn biến của tình hình có thể sẽ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn nhiều so với dự kiến. Logic chung có thể là thế này: Thông tin tình báo do những nhân vật quan trọng đào tẩu khỏi ĐCSTQ mang lại, đã gây chấn động nghiêm trọng cho Hoa Kỳ. Việc này sẽ khiến Hoa Kỳ nhận ra rằng mối nguy hiểm mà ông Tập Cận Bình mang lại cho Hoa Kỳ và trật tự thế giới không chỉ vượt khỏi đánh giá ban đầu, mà còn cấp thiết hơn.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất là khi đối mặt với tình báo mới, Hoa Kỳ không còn có thể đối phó với thuyết virus có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm như một nhận định có khả năng thấp. Hễ Hoa Kỳ có thái độ cứng rắn trong việc truy xuất nguồn gốc virus, điều này chắc chắn sẽ làm căng thẳng thêm mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thậm chí có thể gây ra một cuộc khủng hoảng toàn diện trước đó.

Ông Jake Sullivan, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ cảnh báo, Bắc Kinh sẽ phải đối mặt với hậu quả là bị thế giới cô lập nếu từ chối cuộc điều tra quốc tế về nguồn gốc virus. Ý nghĩa quan trọng nhất của cảnh báo này là, Hoa Kỳ hoàn toàn hiểu rằng ông Tập Cận Bình không thể chấp nhận một cuộc điều tra quốc tế thực sự. Họ cũng biết tại sao ông Tập Cận Bình lại từ chối một cuộc điều tra quốc tế.

Tổng kết lại, trong lịch sử 100 năm của ĐCSTQ, vô số cán bộ, đảng viên đã bỏ nơi hắc ám về nơi tươi sáng. Nhưng có 3 vụ đào tẩu thực sự đã giáng một đòn nặng nề vào ĐCSTQ. Cuộc đào tẩu đầu tiên của Lâm Bưu, sự kiện “ngày 13/9”, đã làm phá sản cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng, đồng thời đánh thức vô số người Trung Quốc về mặt chính trị, đặt nền móng cho công cuộc cải cách và mở cửa của Trung Quốc.

Cuộc đào tẩu lần thứ hai của Vương Lập Quân đã khiến mô hình Trùng Khánh của Bạc Hy Lai bị phá sản và phơi bày nền chính trị đảng phái của ĐCSTQ ra thế giới.

Vụ đào tẩu lần thứ ba của một quan chức cấp cao của ĐCSTQ xảy ra trong thời kỳ thế giới phương Tây đang thức tỉnh. Chủ nghĩa toàn trị của ông Tập Cận Bình đã gặp phải một trở ngại lớn. Nếu việc truy tìm nguồn gốc của virus Vũ Hán được xác minh là do rò rỉ từ Phòng thí nghiệm Virus Vũ Hán và ĐCSTQ đã nghiên cứu vũ khí sinh học, thì điều này sẽ tạo ra một làn sóng khiển trách quốc tế và thậm chí là chiến tranh. Hiện nay, Liên minh Dân chủ Phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo đã tập hợp lại, nhưng Trung Quốc hiếu chiến đã lâm vào tình cảnh bi đát bị cô lập và bất lực.

Trương Kiệt, Vision Times
(Bài viết chỉ thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả.)