Cuối cùng rồi Nguyễn Phương Liên định vị trên văn đàn bằng truyện ngắn được viết một cách chậm rãi, cẩn trọng, nhiều tìm tòi nghệ thuật, nhiều suy nghiệm, đặc biệt rõ trong “Họa tình”.
Mới chỉ in ba tập truyện ngắn “Ngôi nhà cát trắng” (2002), “Đối thoại chiều” (2005) và “Họa tình” (2020), nếu tính số lượng, thì cũng còn khó để nói Nguyễn Phương Liên là người tương tư … truyện ngắn (nếu so sánh với Võ Thị Xuân Hà đã in 17 tập truyện ngắn tính đến 2020).
Nhưng tôi lại muốn nhìn ở khía cạnh khác của sự viết – đó là sự nung nấu, đầu tư, chuyên tâm với/vì truyện ngắn (dù cho tổng số truyện đã in trong ba tập chưa đầy con số bốn mươi). Cuối cùng rồi Nguyễn Phương Liên định vị trên văn đàn bằng truyện ngắn được viết một cách chậm rãi, cẩn trọng, nhiều tìm tòi nghệ thuật, nhiều suy nghiệm, đặc biệt rõ trong “Họa tình”.
Nhà văn Nguyễn Phương Liên.
Đọc hết 12 truyện (cũng theo lối đọc chậm) trong “Họa tình”, tôi chợt nghĩ, tác giả không viết về những cái “lưng chừng” (ở giữa, trung bình, trung tính, trung dung, trung hòa, trung lập,…), mà viết về những cái ở “đỉnh cao” hoặc “vực sâu”. Giữa chúng có một lằn ranh giới thật mong manh, đôi khi rất “phiêu”, tình cảm đã đành, ngay lý trí của con người cũng không phải lúc nào cũng sáng suốt để nhận biết đủ đầy và kịp thời.
Đời sống trong truyện Nguyễn phương Liên vì thế thường ở thế chênh vênh, lung lay, nghiêng ngả, bối rối khiến con người lâm vào tình thế như nghệ sỹ xiếc biểu diễn trên dây. Vì thế càng ngày con người càng ít khả năng làm chủ bản thân (trước kia duy ý chí, chúng ta mường tượng ra sức mạnh vô song của con người có thể làm chủ tất cả, trong đó có bản thân mình). Nên nhiều khi “để gió cuốn đi” (nhan đề một truyện trong tập).
Chàng Hưng, một đàn ông mã thượng, nhiều năng lực làm việc nhưng đời tư thì rối như canh hẹ (vì chỉ có hôn nhân không có tình yêu), yêu Hoài nhưng không làm gì hay được để giải thoát bạn tình (và chính mình). Một đàn ông trông bên ngoài bản lĩnh nhưng trong lòng thì rối bời vì: “Sóng cũng đang cuốn anh đi không thể nào dừng. Sóng của những vòng quay cuộc đời nghiệt ngã (…). Nhiều lúc anh chỉ muốn buông xuôi, muốn phá tung mà không nổi, lại bất lực phó mặc, vô cảm cuốn theo”.
Hưng không là cá biệt cho thế giới đàn ông hiện đại. Nó như một thực thể dễ bị tổn thương, nhọc nhằn xây tổ ấm nhưng lúc nào cũng nơm nớp lo âu hạnh phúc riêng tây (ngôi nhà/ gia đình bé mọn) bị “bứng” ra khỏi sự yên ổn, bình an, bình thường.
Đàn ông Luân (trong truyện “Như bóng người xưa”), nào có khác chi Hưng, cũng ba chìm bảy nổi chín lênh đênh chủ yếu do trường tình gây bão tố sóng gió. Anh đã trải qua quân ngũ, bộ quần áo lính đã rèn luyện anh rắn rỏi, xông pha; nhưng thời hậu chiến anh gần như thất nghiệp nếu không may mắn tìm được một chỗ làm ở cơ sở vật lý trị liệu.
Ở đó anh gặp người khách (người tình thuở xưa), nhưng oái oăm thay, “nàng” đã trở nên giàu có, quý phái, kiêu sa, không còn mảy may nhận ra anh. Sau sự kiện ấy Luân bỏ việc ở phố về quê bởi: “Người con gái đã đi qua một giờ duy nhất trong cuộc đời. Như cái đẹp hoàn mỹ, thanh khiết chợt thoáng qua không bao giờ trở lại. Như bóng người xưa trong trẻo vẹn đây còn lưu luyến mãi trong tâm tưởng, không rời.
Rồi một ngày Luân quyết định thu vén chút tài sản nhỏ nhoi suốt bao năm trời chắt bóp, quay trở về làng. Ở đó, mẹ vẫn đêm ngày mong đợi. Chưa có một nàng dâu như ý, song Luân nghĩ mẹ sẽ vui hơn khi thấy con trai thuê thêm đất, mở rộng vườn hoa để sớm tối cùng nhau”.
Bìa cuốn “Họa tình” của nhà văn Nguyễn Phương Liên.
Nhân vật của Nguyễn Phương Liên hay “du hành” (hay là “lạc trôi”) trong những giấc mơ. Truyện “Một giấc mơ” rất tiêu biểu cho không gian/ miền tâm linh của nhân vật tồn tại, hoạt động, nghĩ suy. Nhân vật “chị”, người đã trải qua chiến tranh, trở về với hai bàn tay trắng, gánh trên đôi vai gầy yếu của mình một gánh nặng mưu sinh của gia đình bé mọn. Lúc thì chị lạc vào giấc mơ của thời đạn bom chiến tranh, lúc thì như chìm trong sự bảng lảng, rối ren của ngày đang sống nhọc nhằn. Nhân vật “ông” như là một nét mờ nhòe của sự trộn lẫn giữa quá khứ và hiện tại đã đến với chị bằng tất cả sự chân thành, quyến luyến nâng niu. Nhưng cuối cùng, tất cả cũng chỉ như trong một giấc mơ (vì giấc mơ thường đẹp, thường để lại nỗi niềm luyến tiếc).
Riêng tôi thấy, qua Hưng, Luân, chị, ông,…. nhân vật của Nguyễn Phương Liên thường ở trong trạng thái dang dở, chờ đợi, tìm tòi những điều mơ hồ, khó khăn khi thực hiện. Họ nhiều khát khao hạnh phúc nhưng trên con đường đi tìm thường gặp nhiều cản trở, khó khăn và chính vì thế cuộc đời hay có những khúc rẽ, thậm chí đôi khi là những “cú nhảy đứng”, không thể nói là ngoạn mục.
Truyện của Nguyễn Phương Liên không có cái tính chất gọi là “cập thời vũ” (mưa đúng lúc), theo nghĩa là cập nhật, thời sự nóng bỏng (như là thế mạnh trong tay nhà văn nữ khác). Nhưng có một truyện cuối tập (“Vỡ”), có vẻ rất “hot”: những chuyện trong thời COVID-19 mới và đang xảy ra. Không khí truyện nóng rãy: “Không thể chậm được, Bắc Kinh, Thượng Hải sắp phong tỏa vì đại dịch nCoV, công ty còn mấy lô hàng đọng phải tìm cách thoát về nếu không mất đứt cả triệu đô. Gã nhấn ga, chiếc Porsche gầm cao chồm lên vút đi như một chiến mã”. Nhưng mà chỉ có 1/12 truyện nóng sôi không khí “chống dịch như chống giặc” như thế thôi, nói cho cùng cũng là một thứ gia vị tăng thêm sự hấp dẫn cho các món ăn tinh thần.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Phương Liên, tôi chú ý đến cách thức, tạm gọi là “ướm mình vào nhân vật để viết” (chưa đến mức xưng “tôi”, kể chuyện ở ngôi thứ nhất). Chữ “ướm” trong Từ điển tiếng Việt giải thích: “đặt thử/ khoác thử/ dò hỏi có ưng thuận không”. Vận vào văn Nguyễn Phương Liên, có thể hiểu là, tác giả “ướm thử” mình nếu là nhân vật thì trong cảnh ngộ, tình huống ấy sẽ suy nghĩ và hành xử như thế nào cho thuận tình, hợp lý. Cách thức này, khi đọc văn chương đương đại, trong khu vực văn xuôi, tôi thấy Nguyễn Phương Liên gần gũi với Lý Lan.
Truyện của Nguyễn Phương Liên, theo cách đọc của tôi, rất thú vị khi hiển hiện một “nhịp điệu” (rythme) văn xuôi ấn tượng. Nhịp điệu trong văn liên quan đến cái gọi là “điệu tâm hồn” của chủ thể sáng tác. Cây bút Nguyễn Phương Liên, trong phạm vi quan sát của tôi, là một cá tính (mạnh) trong sống và viết. Sống thì rõ rồi, vả lại đây là không – thời gian cá nhân, thế giới riêng tư nên tôi không muốn chạm đến (vì tôn trọng tự do cá nhân). Nhưng viết thì có thể bàn tới, bàn lui vì chỉ thuần túy trên chữ nghĩa.
Thuộc thế hệ 7X (được gọi là thế hệ F), nên nhịp độ/ tốc độ sống của họ chói gắt, mạnh mẽ, khẩn trương và quyết liệt. Chất sống của họ bị truyền thông chi phối mạnh mẽ. Nguyễn Phương Liên không ra khỏi quỹ đạo này. Nhưng là người viết văn nên không thể không điều hòa giữa “sống chậm” và “sống nhanh”, quan trọng hơn cả là “đồng hành với Đẹp”.
Nhịp điệu trong văn Nguyễn Phương Liên, theo tôi mang tính “nước đôi” (tùy thuộc vào đối tượng miêu tả). Nếu là nhân vật có tuổi, thì khi đó “nhịp” chậm, khoan thai: “Dường như bên kia hồ có ai đốt lửa. Mà không. Chị dụi mắt, ngẩng lên. Chỉ là nhấp nháy ánh đèn vàng, đỏ hắt xuống mặt hồ từ một nhà hàng đồ sộ… Ừ nhỉ, buồn cười thật, ai mà đốt lửa nơi một cái hồ đẹp đẽ, văn minh như thế này, lại vào lúc trời còn nhập nhọ” (“Một giấc mơ”).
Nếu là người trẻ tuổi thì nhịp văn sẽ gấp gáp hẳn lên: “Tuổi 17 của tôi hong phơi trên bờ biển quê nhà chang nắng và nhã nhượi mồ hôi rơi trên ruộng muối của bà. Mẹ chờ bố mười năm chiến trận. Bố đợi mẹ năm năm đi lao động nước ngoài. Mẹ đã không trở về vì yêu cái lạnh của xứ tuyết hơn cái nóng ẩm của miền nhiệt đới quê nhà, chỉ hồi âm bằng những thùng hàng và thưa thớt thư từ luôn một giọng “lỡ lầm… van xin” chán ngắt. Bố thành bức tượng khủng khiếp về đêm với đáy chai cạn khốc cùng chiếc gạt tàn đầy ứ”.
“Họa tình” của Nguyễn Phương Liên chưa phải là một cái gì một toàn bích. Tất nhiên. Riêng cái tên sách cũng đã khiến không ít phân vân ở người đọc. Có lẽ tác giả ảnh hưởng từ thơ Xuân Diệu “yêu là chết…” chăng(?!). Nếu so với hai tập truyện đầu thì tập thứ ba có vẻ hơi mỏng (tôi có ý nói về số trang, số truyện). Nhưng đọc, nghiền ngẫm, sẽ thấy nhiều điều thú vì về đời sống và con người thời hiện đại qua ngôn ngữ nghệ thuật cô đọng, lấy ít nói nhiều, lấy diện nói điểm vốn là ưu trội của thể loại truyện ngắn. Nói Nguyễn Phương Liên là người đàn bà hoạ tình và tương tư… truyện ngắn cũng không sợ quá lời.
Đọc những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn và những hồi ức về họ, nhiều người có thể tưởng tượng cuộc sống của nhà văn Thạch Lam ít ra cũng thuộc hàng trung lưu. Nhưng sau này, khi được đọc cuốn sách của tác giả Nguyễn Thị Thế “Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường – Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam”, người đọc mới cảm nhận sâu sắc hơn về nhà văn tài hoa nhất của dòng họ Nguyễn Tường. Bà Nguyễn Thị Thế là chị ruột của Thạch Lam. Bà cho in cuốn hồi ký này vào năm ngoài 60 tuổi.
Người cha của Thạch Lam là Nguyễn Tường Nhu (1881-1918). Ông biết chữ Hán và tiếng Pháp, làm Thông phán tại Tòa sứ. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, con gái đầu của cụ Lê Quang Thuật. Cụ Thuật người Huế nhưng nhiều đời làm quan ở đất Bắc. Bấy giờ, tri huyện Cẩm Giàng là ông Nguyễn Tường Tiếp, quê gốc Quảng Nam, có con trai là Nguyễn Tường Nhu, đến tuổi lấy vợ. Bà mối đã giới thiệu cô Lê Thị Sâm về làm dâu họ Nguyễn Tường. Cha mẹ Thạch Lam sinh được 7 người con. Sáu trai và một gái. Thạch Lam là con thứ sáu, sinh năm Canh Tuất (1910). Bà Nguyễn Thị Thế là chị, sinh năm Kỷ Dậu (1909).
Trong khoảng mười năm đầu, cha mẹ Thạch Lam ở ấp Thái Hà. Sau đó thuê nhà ở phố Hàng Bạc, nhà số 10. Bà Thế nhớ lại, hồi về Hàng Bạc, bà mới 5 tuổi. Tính bà nhút nhát, đi đâu cũng sợ. Nhưng Thạch Lam lại bạo dạn, đi chỗ nào cũng kết bạn được ngay. Ngôi nhà ở Hàng Bạc cổ kính, tối tăm. Cửa hàng bên ngoài cho người đàn bà tên Bảy thuê. Bà Bảy không chồng con, sống một mình. Bà bán các thứ lặt vặt như dầu mỡ mắm muối tương cà.
Gia đình Thạch Lam ở giữa. Bên trong là căn buồng mà ngày cũng như đêm, đều tối om. Bên trong nữa cũng là căn buồng nhỏ. Căn này cho một ông nấu bếp cho người Pháp thuê. Khoảng sân tối đó làm hai chị em sợ ma. Một hôm, hai người chạy vào nhà trong, chị Thế chạy trước. Thạch Lam chạy sau. Bỗng Thạch Lam vấp ngã, cằm đập xuống nền gạch. Bà Thế quay lại, thấy mặt em đầy máu. Bà sợ, khóc thét lên. Nhưng Thạch Lam vẫn điềm nhiên không khóc. Bà nghĩ, có lẽ em mình sợ ma nên quên đau. Sau này, chỗ vấp ở cằm thành cái sẹo.
Ở Hàng Bạc được ít lâu, ông Thông phán nghỉ việc ở Thái Hà. Gia đình thu xếp về Cẩm Giàng. Lần đầu được đi tàu hỏa, Thạch Lam rất thích, luôn miệng hỏi, tại sao tàu chạy được? Chạy bằng gì? Người cha lại giảng giải rành rọt cho cậu con.
Ở Cẩm Giàng, bà mẹ Thạch Lam làm nhà mới ở gần ga, buôn bán thuốc lào, mua lại thóc của nông dân… Ông bà tần tảo nuôi bốn người con trai ăn học ở Hà Nội, Hải Dương. Bà Thế được học ít, phải ở nhà giúp mẹ. Sau này, có người mách, ông bố Thạch Lam sang Lào làm việc. Nhưng chỉ không đầy một năm, ông mắc bệnh, mất ở bên Lào. Bà mẹ Thạch Lam ôm đứa con út, sau này là bác sĩ Nguyễn Tường Bách, về lại Cẩm Giàng.
Ở quê buồn. Hai chị em thường có thú vui, mỗi khi có chuyến tàu Hà Nội xuống Hải Phòng, đến gần nhà, dừng lại, là chạy ra coi. Thạch Lam thường chỉ cho chị xem các bánh xe, sờ vào chỗ nhẵn, sáng bóng. Người chị thì sợ, người xung quanh cũng hoảng, nhỡ tàu chạy thì tai nạn xảy ra. Nhưng Thạch Lam vẫn bình thản. Bởi hai chị em đều biết, bao giờ tàu cũng tới đó là lùi lại chứ không bao giờ đi quá vạch vôi mà Thạch Lam đã đánh dấu.
Sau này, Thạch Lam viết truyện “Hai đứa trẻ”. Bà Thế đọc và nghĩ, không ngờ em mình “Có trí nhớ dai như thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới đi ngủ. Năm đó tôi mới có 9 tuổi, em tôi lên 8 mà mẹ tôi đã giao cho hai chị em tôi coi hàng. Cửa hàng chỉ có bán rượu, ít bánh khảo, thuốc lào, cốt để đưa khách quen vào trong nhà bà ngoại.
Tối đến, hai chị em phải ngủ lại để trông hàng. Hai chị em vì ở quê đã lâu nên bạo dạn. Chủ nhà là hai bà cụ đã già tóc bạc phơ hình như hai người là bạn với nhau, đều không có con, tôi cũng không rõ là ở đâu tới…”. Nhưng trong truyện ngắn này, Thạch Lam còn vẽ nên khung cảnh heo hút, buồn bã của một vùng quê với nhà chị Tý bán nước chè, bác Siêu bán phở, bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, cảnh cô đơn mà ấm áp của hai chị em tần tảo…
Rồi gia đình Thạch Lam lại chuyển về Thái Bình, theo chân người anh cả là Nguyễn Tường Thụy. Anh Thụy làm đốc học ở một trường có mỗi ông giáo, nhưng học trò có đến trăm người. Và Thạch Lam được đi học. Nhưng phải ở trọ. Bà Thế nhớ lại: “Một tháng sau được nghỉ lễ, bà tôi lên đón về chơi. Giở hòm quần áo ra, ôi thôi mùi mốc đưa lên tận mũi. Quần áo cái nào cũng mốc meo chẳng cái nào sạch. Hỏi, em tôi nói em không biết giặt mà chẳng có ai giặt cho em cả. Em cứ thay hết một lượt quần áo em lại mặc lại. Bà tôi chỉ cười thôi, bà bảo cũng quên không chỉ cho nó cách giặt, làm sao nó biết được. Từ bé đến giờ đã phải giặt lần nào đâu”.
Tuổi thơ qua đi. Mặc dù gia đình Thạch Lam luôn sống trong cảnh nghèo túng, nhưng bà mẹ vẫn nhất quyết vay mượn cho các con ăn học đầy đủ. Tất cả đều trưởng thành, có danh tiếng và sự nghiệp. Nhưng trong bảy gia đình của những người con họ Nguyễn Tường, chỉ có gia đình Thạch Lam và gia đình bà Nguyễn Thị Thế sống đạm bạc nhất. Nhà Thạch Lam ở Hồ Tây, nhưng đều là nhà thuê.
Và hai căn nhà mà Thạch Lam thuê, đều do người chị nhượng lại. Không như những người anh, lấy vợ nhờ bà mối, Thạch Lam tự chọn vợ cho mình. Người vợ của Thạch Lam là bà Nguyễn Thị Sáu. Họ sinh được ba người con. Thạch Lam định đặt tên các con là Bạch – Đằng – Giang. Nhưng người con đầu lòng là con gái. Thạch Lam đổi tên con là Nguyễn Tường Nhung. Còn hai người con trai sau vẫn giữ nguyên tên. Nguyễn Tường Giang sau này vừa là bác sĩ vừa viết văn.
Thạch Lam viết văn, làm báo Phong hóa cùng các anh mình. Nhưng do tin người, báo Phong hóa bị người làm trộm cắp tiền bạc. Bà Thế kể, gia đình Thạch Lam rất nghèo. Mùa đông không có chăn ấm. Nhưng Thạch Lam có rất nhiều bạn như Đinh Hùng, Huyền Kiêu, Thế Lữ… Khi nhà có khách, người vợ vẫn làm cơm, đãi rượu những người bạn của chồng với nét mặt tươi sáng. Và Thạch Lam có mong ước nhỏ. Theo lời bà Thế, “Lúc nào chú cũng ao ước có một cái ghế mây có nệm ngồi êm ái, hoặc cái ghế có thể nằm hay ngồi cũng được mà chả có tiền mua. Sẵn người bạn thân biếu chú hai cái ghế mây, chú lấy làm thích lắm, ngồi cho tới khi chết”.
Tết năm 1942, gia đình họ Nguyễn Tường tản mác. Thạch Lam mắc bệnh lao phổi. Bà Thế kể, sau Tết, “Thạch Lam bắt đầu yếu. Hôm chú sang chơi nhà anh Thế Lữ rồi qua tôi, thấy tôi đốt lò sưởi, chú thích quá. Chú nói bên hồ năm nay lạnh quá, chú chịu không nổi. Tôi mời chú qua đây ở, tôi sẽ nhường chú căn phòng khách có lò sưởi cho ấm, chứ nhà tôi có tiếp khách nào đâu. Nói rồi, tôi thấy nét mặt chú buồn.
Lúc tiễn chú ra cổng, tôi thấy thân hình chú mặc cái áo cẳng dài, chân bước đi như gió thoảng trên mặt đê, lòng tôi tự nhiên thấy buồn, nhưng không rõ vì sao…”.
Thạch Lam bị bệnh, thích yên tĩnh. Bà Thế nhớ lại, mỗi lần sang thăm em “phải bảo mấy cháu chơi ở ngoài hoặc ra cây đa, hoặc sang sân đình. Tôi còn nhớ lần đó sang chơi, thấy chú đương ăn cơm, chú mời tôi ăn với chú một thể, nhưng tôi đã ăn rồi, chú mới hỏi mấy cháu có qua với tôi không.
Tôi bảo: “Chúng nó sợ chú nên chơi ở ngoài sân đình rồi”. Chú bèn nói, gọi hết mấy cháu vào đây. Tôi và thím Sáu nhìn nhau lấy làm lạ vì đã có lần chú nói tôi có sang thì để lũ trẻ con ở nhà. Thế mà hôm nay chú lại vui vẻ gọi các cháu vào, nào là bắt ăn rồi lại mở tủ sách của chú mà xưa nay các cháu thích lắm nhưng chẳng bao giờ dám mó vào, bây giờ muốn đọc thì tha hồ mà đọc. Lúc về chú lại cho mượn đem về, hẹn phải giữ cẩn thận rồi đem qua chú đổi cho quyển khác. Tôi thấy chú cười nói, tôi cũng mừng, hay là chú đã hết bệnh rồi nên chú thay đổi tính nết. Ai ngờ là gở chết, vì theo như các cụ nói thì người đương dễ tính sẽ đổi ra khó, còn người đương khó tính sẽ đổi ra dễ, đó là điềm gở”.
Thạch Lam được cả gia đình tận tình chăm sóc. Em trai Nguyễn Tường Bách đã tốt nghiệp bác sĩ, hàng ngày xuống chích thuốc cho anh, nhưng không đỡ vì nhà văn đã lao phổi nặng. Bà Thế kể, “Mẹ tôi cũng từ dưới trại lên để trông nom chú và người bếp già vì thím ấy đã gần ngày sanh. Chú gầy quá lại kêu đau mình, nên mẹ tôi lại mang cả giường lò xo lên cho chú nằm cho êm”.
Rồi những giờ phút cuối cùng của Thạch Lam trước khi từ giã cõi đời, cũng đến. Bà Thế viết: “Mẹ tôi đi coi số cho chú ấy nói nếu có hai con trai thì là tận số. Hôm ấy thím sanh, nói con trai, chú chỉ thở dài nói lại con trai. Mẹ tôi thấy chú phù hai chân, biết là khó qua khỏi, nên thím ấy sanh mới được có ba ngày là cho đón về lúc buổi sáng mười giờ.
Bế thằng bé con ra cho chú coi mặt, chú bảo trông nó khỏe mạnh đấy. Tôi bắc ghế ngồi bên chú, chú bảo chị cho cái gối cao lên để em ngắm liễu, hôm nọ nó (chú người ở) chặt mất cành thấp rủ xuống, em tiếc quá. Xong chú nói em nhớ bữa cơm nguội mà hôm em đi chơi về, chị cho em ăn với cá kho và dưa chua, sao mà ngon thế, hôm nào em khỏi chị lại cho em ăn như thế.
Tôi cười nói đúng đó chú ạ, mình chỉ ăn ngon vào đúng lúc mình đói thì bữa cơm đó không có gì ăn cũng ngon, chú nhỉ. Chú lại hỏi sắp đến mùa na chưa, em thèm ăn na quá. Tôi lại bảo, tháng Sáu hoặc tháng Bảy chú ạ. Chú chỉ ao ước một bộ đồ lụa mỏng vải cúc áo dài lụa thì mẹ tôi đã may cho chú để mặc cho mát và nhẹ. Còn các thứ trái cây thì chú thích nhất là na, xoài, dưa tây ướp đá”.
Khoảng 12 giờ ngày 27 tháng Sáu năm 1942, nhà văn Thạch Lam từ trần. Năm ấy nhà văn mới 32 tuổi. Mộ của ông được đặt trong nghĩa trang Hợp Thiện thuộc làng Mai Động, phía Nam Hà Nội. Sau này, nghĩa trang giải tỏa. Hài cốt của ông được chuyển lên Yên Kỳ. Năm 2004, sau nhiều lần tìm kiếm, người con út của ông là nhà văn – bác sĩ Nguyễn Tường Giang đã tìm thấy mộ cha.
Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Johann Wolfgang von Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Francois-René Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và William Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc.
Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên Die Leiden des jungen Werthers (Nỗi ưu sầu chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một số thanh niên đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện tự kết liễu cuộc đời mà trong túi quần vẫn còn cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết Atala, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Samuel Taylor Coleridge xuất bản tập thơ Lyrical Ballads, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong nền văn học quốc gia ấy.
Thế còn Nguyễn Du của chúng ta thì sao? Hãy nghe lời người ngoại quốc ca ngợi thi hào họ Nguyễn trước đã. Thi sĩ lẫy lừng người Ấn Độ chuyên làm thơ bằng tiếng Anh mang tên Rabindranath Tagore (1861-1941, giải Nobel văn chương 1913) khi viếng thăm Việt Nam năm 1929 đã coi Nguyễn Du là vị thi sĩ đứng thứ 3 trong hàng ngũ những thi sĩ muôn thuở, chỉ sau Lý Bạch và Victor Hugo (theo học giả Thái Văn Kiểm). Văn sĩ Pháp René Crayssac (1883-1940)đã dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và cho rằng áng văn kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh mà không sợ kém các văn chương kiệt tác, vô luận ở thời nào và ở xứ nào (theo học giả Đào Duy Anh). Như vậy thì thiên tài thi ca họ Nguyễn của chúng ta khi đứng cạnh những đại danh văn chương của nhân loại cũng ngang ngửa với họ, cũng đều “mười phân vẹn mười” cả, nhưng riêng đối với tôi thì đọc thơ Nguyễn Du thích thú gấp bội phần đọc các tác phẩm của các vị ngoại quốc kia, vì tôi là người cùng một ngôn ngữ và văn hóa với Nguyễn Du.
Nguyễn Du (ND) sinh năm 1765 trong một danh gia vọng tộc. Cha là hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, người Hà Tĩnh, làm thủ tướng triều Lê. Mẹ là Trần Thị Tần, người Bắc Ninh, kém chồng 32 tuổi. ND mồ côi cha năm 11 tuổi và mồ côi mẹ năm 13 tuổi. Anh cả là tiến sĩ Nguyễn Khản, thượng thư bộ Lại, anh thứ hai là Nguyễn Điều từng làm trấn thủ Sơn Tây. Năm 1783, lúc 18 tuổi, ND đậu tam trường (tú tài); cùng năm này, một người anh tên là Nguyễn Đề đậu thủ khoa kỳ thi hương (cử nhân). Tình hình chính trị lúc ấy thực bất ổn. Năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh; Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Huế. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Năm 1802 Gia Long diệt Tây Sơn, bắt đầu triều Nguyễn; ND làm tri huyện Phù Dung (thuộc Hưng Yên ngày nay), mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín (thuộc Hà Tây ngày nay). Năm 1809 ND làm cai bạ ở Quảng Bình. Năm 1813 ND thăng cần chánh điện học sĩ, chánh sứ sang nhà Thanh. Năm sau đi sứ về, thăng tham tri bộ Lễ. Năm 1820 Gia Long mất, Minh Mệnh nối ngôi. ND được cử chánh sứ sang Tàu báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp lên đường thì bị bệnh và qua đời, thọ 56 tuổi.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ là khi nào ND viết Truyện Kiều, trước hay sau khi đi sứ sang Trung Quốc năm 1813? Theo Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì Truyện Kiều (TK) bắt nguồn từ một tiểu thuyết Tàu của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân, văn chương tầm thường, về một người đàn bà tài sắc, có lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, mà đời bị bèo giạt hoa trôi. ND bỏ bớt những chỗ rườm rà, thô lỗ, dơ bẩn. So với tiểu thuyết Tàu thì TK của ND thanh nhã và văn vẻ hơn nhiều. Hà Như Chi, khi so sánh TK với tiểu thuyết Tàu nguyên thủy, nhận định TK là một công trình nghệ thuật cân đối hoàn hảo, kết cấu chặt chẽ, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm đượm màu sắc Việt Nam và dẫy đầy thi vị. Vẫn theo Hà Như Chi, một nàng Kiều tài hoa duyên dáng như thế lại là nạn nhân của một số mệnh vô cùng khắt khe đã đánh mạnh vào tâm hồn ND và thúc giục cụ viết nên TK để hả hê những mối cảm tình đối với một người đã được cụ xem như đồng hội đồng thuyền với mình: ND phải quên nhà Lê mà ra làm quan với nhà Nguyễn thì có khác chi, vì chữ “mệnh” oái oăm, nàng Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ? Đúng là:
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Nội dung TK gồm 3254 câu thơ làm theo thể lục-bát có thể chia làm 3 phần: (1) Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gỡ và gắn bó với nhau; (2) Những nỗi khổ của Thúy Kiều trên bước đường luân lạc; và (3) Kim-Kiều tái ngộ. TK còn là một tác phẩm chứng minh cho định luật “tài mệnh tương đố”: Kiều là kẻ tài hoa nên phải mệnh bạc. Trong phần kết, may thay, ND cũng cho chúng ta tin tưởng rằng thiện tâm có thể cải hóa được số mệnh:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Chúng ta đã nghe người ngoại quốc ca tụng TK trên đây, và bây giờ chúng ta tìm hiểu xem các nhà phê bình văn chương người Việt nghĩ gì về tuyệt tác phẩm này của Nguyễn Du. Tôi xin đóng góp trong phần này này bằng cách tóm lược một số nhận định về giá trị TK của các nhà phê bình tên tuổi từ trước đến nay để chúng ta có một cái nhìn bao quát.
Phạm Quỳnh ( 1892-1945 )
PHẠM QUỲNH: Sau khi cho rằng TK của ND hay hơn cả văn chương của Khuất Nguyên (343BC-278BC) bên Tàu và văn chương của Jean-Baptiste Racine (1639-1699) và Jacques-Bénigne Bossuet (1627-1704) bên Tây, Phạm Quỳnh trong ngày giỗ ND năm 1924 tại Hà Nội đã thề trước anh linh thi hào họ Nguyễn rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây” (Tạp chí Nam Phong, tháng 8, 1924). Vì những lời này mà Phạm Quỳnh bị hai cụ nghè Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng xỉ vả thậm tệ (tôi sẽ nói tiếp về vụ lên án quá nặng tay này ở một đoạn sau).
NGUYỄN TƯỜNG TAM: Nhà văn thủ lãnh của Tự Lực Văn Đoàn viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924: “Cái làn sóng thơ Kiều hình như lai láng khắp cõi Nam. Trừ những câu ca dao ra, thật không có quyển truyện nào phổ thông trong đám dân gian bằng Truyện Kiều. Vì văn Kiều hay quá, nên những người nhà quê không có học thức cũng thích xem và thích ngâm nga. Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết thế nào mà kể được … Tôi xin nói quyết một lời rằng: Mong được một quyển truyện nào hay hơn Truyện Kiều là mộng tưởng. Cái trình độ thơ quốc ngữ đến như thế là tuyệt đích rồi.” Nhận định về câu thơ thuộc loại văn hữu dư ba là câu “Lơ thơ tơ liễu buông mành,” Nguyễn Tường Tam thấy ba chữ “lơ thơ tơ” nghe rất êm tai, hay về phần tưởng tượng ít mà hay về phần âm điệu êm ái nhiều hơn. Và câu “Nách tường bông liễu bay ngang trước mành” ông thấy rất hay về cảnh sắc. Ông cũng thấy trong TK nhiều chỗ cảnh và người có liên lạc, đúng như:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Như lúc Thúc Sinh trở về với Kiều, trông ra cảnh vật cũng hình như chia vui với mình:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Và khi Kiều và Kim gặp nhau lần đầu, lúc từ giã, cô Kiều còn trông theo, nhưng nào thấy gì đâu, chỉ thấy:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hai câu đệm ấy vào thật là tả rõ được cái buồn, cái nhớ của cô Kiều mà hình như cảnh vật cũng âu sầu!
VŨ ĐÌNH LONG: Lấy âm nhạc làm ẩn dụ để lượng giá TK, phê bình gia Vũ Đình Long viết trong Tạp chí Nam Phong năm 1924 rằng “TK thực là một cây đàn tuyệt quý không phím không dây. Tác giả lấy đầu lưỡi mà nẩy lên tiếng, mỗi đoạn văn là một cung, mỗi câu văn là một điệu, mỗi chữ là một tay nỉ non thánh thót, réo rắt tiêu tao, đêm khuya canh tĩnh mà nghe người tốt giọng ngâm Kiều thì còn đàn nào hay bằng nữa … Cụ ND không phải là nhà thi sĩ, cụ chính là Thần Thơ vậy!” Theo Vũ Đình Long, những câu Kiều nói với chàng Kim thật hay thật tình, như:
Thưa rằng đừng lấy làm chơi
Rẽ cho thưa hết một lời đã nao
Chữ “rẽ” dùng có thần tình không? Ta thấy hình như nàng Kiều lấy tay gạt chàng Kim ra vậy! Năm lần láy chữ “còn” trong hai câu thơ sau đây là một tuyệt chiêu, như thể một lời thề nguyền vĩnh cửu:
Còn non, còn nước, còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay
Tình nhân tương tư nhau là những cảnh não nùng mà ND tả rất khéo. Chàng Kim nỗi lòng canh cánh luôn nghĩ đến người đẹp đã gặp trong ngày hội Đạp Thanh :
Sầu giong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê !
Đêm không ngủ được, vẩn vơ ngọn đèn tàn :
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng
Cậu đồ đã mang nặng gánh tương tư thì còn thiết gì đến sách, đến bút, đến đàn :
Phòng văn hơi giá như đồng
Trúc xe ngọn thỏ, tơ chùng phím loan
Ngồi nghe tiếng gió đập vào mành cũng nhớ đến ai – vì nhớ nhung mà trà mất ngon, mùi hương kém ngát :
Mành tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
LƯU TRỌNG LƯ: Để đáp lễ lời cụ nghè Ngô Đức Kế cho rằng TK “chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải là một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu” (báo Hữu Thanh, tháng 9 năm 1924) và nhất là lời kết tội gay gắt của cụ nghè Huỳnh Thúc Kháng rằng “Truyện Kiều là một thứ dâm thư, rõ không ích mà có hại … Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong, bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít …” (báo Tiếng Dân, tháng 9 năm 1930), Lưu Trọng Lư viết trong tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm vào cuối năm 1933: “Ai muốn làm thánh hiền thì đi đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư. Hãy để Truyện Kiều lại cho bọn chúng tôi là hạng người trong những phút mệt nhọc, buồn rầu, chán nản, cần phải ngâm nga những câu như :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Học giả Đào Duy Anh
ĐÀO DUY ANH: Để kết luận tập “Khảo Luận về Kim Vân Kiều” xuất bản năm 1943, học giả Đào Duy Anh khẳng định “Nguyễn Du đã gieo trong lòng ta một mối tin chắc chắn, một mối hy vọng dồi dào với tiếng nói của ta.” Cũng theo ông, ở thời Lê mạt, ta đã thấy có những tác phẩm có giá trị như Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần Truyện, Hoa Tiên Ký … viết bằng quốc âm, nhưng lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, đủ khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức.
TRẦN TRỌNG KIM & BÙI KỶ: Trong cuốn “Truyện Thúy Kiều” hiệu khảo và xuất bản năm 1925, đồng tác giả họ Trần và họ Bùi nhận thấy ND khéo dùng lối hoạt họa, chọn cái hình dáng nào rõ thật nổi, rồi tìm một vài chữ thật đúng mà tả ra, hễ đọc qua là nhận ngay được chân tướng:
Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Mã Giám Sinh:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Tú Bà:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Sở Khanh:
Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng
Từ Hải:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao
HOÀI THANH: Theo bài viết “Quyền Sống Của Con Người Trong Truyện Kiều” của nhà phê bình Hoài Thanh năm 1949, nếu nói về mức độ say Truyện Kiều thì không ai bằng ông nghè Chu Mạnh Trinh (một con người hào hoa phong nhã kiểu Kim Trọng). Ông nghè lãng mạn này không phải chỉ say văn chương Truyện Kiều mà lại còn say luôn cả nàng Kiều như say một giai nhân có thực, đến nỗi đã nói đến những chuyện si tình như thêu tên Kiều vào tay áo, mơ tưởng dựng một ngôi nhà vàng cho Kiều ở, mượn cỏ thơm gọi hồn Kiều về, và thấy như Kiều về thật! Chuyện lạ đời này cũng có thể hiểu được, vì theo Hoài Thanh, “ND có thể dạy cho ta biết ghét, biết yêu. Ghét những cái bất lương trong xã hội. Yêu những cảnh sống đáng yêu và nhân đó tránh cuộc sống tẻ nhạt, hiu hắt, cuộc sống của cỏ cây … Những cử chỉ uể oải, những câu nói thiếu lòng tin, những cái nhìn hời hợt, những tâm tư mệt nhọc hình như đương chờ đợi một cơn gió nào … TK ngay giờ đây vẫn còn khả năng cải tử hoàn sinh, vẫn có thể gieo chất nồng say vào cuộc sống …”
NGUYỄN LỘC: Trong cuốn sách “Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ 18” xuất bản năm 1997 tại Hà Nội, nhà biên khảo Nguyễn Lộc có những nhận xét tinh tế về cách sử dụng ca dao, tục ngữ trong TK, mà tôi xin tóm lược trong những đoạn dưới đây:
Có thể nói trong TK có hàng mấy chục câu thơ ND trực tiếp rút ra từ ca dao. Rất có thể hai câu:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
là rút ra từ câu ca dao:
Tiễn đưa một chén rượu nồng
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi
Ca dao trong TK được ND sử dụng như một thứ chất liệu nghệ thuật, chứ không như những trích dẫn. Không có câu nào ND dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều nhào nặn lại cho phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm. TK có những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận ra ảnh hưởng của ca dao, như :
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
ND cũng dùng rất nhiều tục ngữ, như :
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
hoặc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao
Ngôn ngữ TK vừa súc tích chính xác, đồng thời lại vừa giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. ND có thể bằng một vài câu thơ khắc họa lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay miêu tả một biến cố, một cảnh ngộ. Một học trò giỏi đi thi bị rớt có thể tự an ủi bằng cách lẩy hai câu thơ súc tích, hợp tình hợp cảnh của TK:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Tả một chàng đẹp trai hào hoa phong nhã thì ta có thể mượn ngay hai câu ND tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa
Hai câu:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
thực tuyệt đẹp và chí tình để một chàng trai thiết tha căn dặn người yêu khi giã từ. Và khi giấc mơ ấp ủ từ lâu nay mới thành sự thực, ta vội kêu lên:
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Qua những nhận định kể trên của các văn nhân lỗi lạc ngoại quốc và Việt Nam về Truyện Kiều thì 3254 câu thơ viết theo thể lục-bát để dựng nên tuyệt tác phẩm này của thiên tài Nguyễn Du quả thực là những lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
Nhưng đau đớn thay, mức nhiễm độc của tiếng Việt tại quê hương ngày nay thật đáng lo sợ – nó đã tràn sang cả đại tác phẩm Truyện Kiều của dân tộc Việt. Một báo động đỏ thực sự! Truyện Kiều mà học giả Phạm Quỳnh –trong ngày giỗ cụ Nguyễn Du linh đình năm 1924 tại Hà Nội – đã tôn vinh với câu nói trước anh linh tiền nhân rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” đang bị phỉ báng và bức hại tại quê nhà. Khai pháo bởi ông kỹ sư cơ khí Đỗ Minh Xuân khi ông ta phổ biến cuốn sách có một tựa đề ngạo nghễ “Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng” trong một cuộc hội thảo về Truyện Kiều tổ chức cuối năm 2012 tại khu di tích Nguyễn Du ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Trong “công trình” ấy, ông đã “sửa” khoảng 1.000 chỗ trong tổng số 3.524 câu thơ Truyện Kiều.
Tại sao ông kỹ sư cơ khí lại làm chuyện động trời như vậy? Đây là lý do tại sao ông quyết định sửa đại tác phẩm của thi hào Nguyễn Du: “Truyện Kiều không còn thịnh như trước, do rào cản điển tích, chữ Hán, từ cổ, từ địa phương – chữ nghĩa Truyện Kiều rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh.” Một công việc quái đản xưa nay chưa thấy như vậy mà lại được “anh hùng lao động” Vũ Khiêu – một học giả từng làm viện trưởng Viện xã hội học – khuyến khích và tán dương, với lời nói quả quyết rằng sách này “là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều.”
Còn nhớ xưa kia, vua Tự Đức rất giỏi văn thơ mà chỉ dám “nhuận sắc” vài chỗ không đáng kể trong Truyện Kiều rồi cho in nó thành “bản kinh” phổ biến trong dân gian. Chúng ta cùng xem vài thí dụ về nỗ lực “sửa” Truyện Kiều kỳ dị, lệch lạc, ngớ ngẩn, đoán mò, làm tối ý nghĩa của ông Đỗ Minh Xuân [dựa vào bài viết sắc bén có tựa đề “Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều” (khuyết danh tác giả) đăng tải trên Đời Sống Pháp Luật Online ngày 28-4-2014]:
Lạ gì bỉ sắc tư phong>> “Mỗi người thứ có thứ không” [Lời văn cục súc, quê mùa].
Thời trân thức thức sẵn bày>> “Quả ngon thức thức xách tay”[Một hành động thanh nhã, cao sang, dịu dàng trở thành một hành vi thô lỗ – như thể cô Kiều hái trái cây nhà mình, bỏ vào giỏ, rồi xách tay sang đưa cho Kim Trọng ăn].
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch tương>> “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”[Chứng tỏ sự dốt nát, đoán mò, không hiểu “mạch tương” nghĩa là “nước mắt” và “đã dào mạch tương” nghĩa là “nước mắt đã dào dạt ra”].
Theo cái kiểu “sửa chữa” Truyện Kiều như hiện nay ở quê nhà thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ không còn Truyện Kiều, dẫn đến chuyện không còn tiếng ta nữa, rồi bước kế tiếp là không còn nước ta nữa! Thi hào Nguyễn Du và học giả Phạm Quỳnh nơi cửu tuyền làm sao tránh khỏi nỗi đoạn trường khi biết đến điều đau đớn này?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1925) Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim: Truyện Thúy Kiều (NXB Đại Nam in lại tại Hoa Kỳ, không ghi năm nào).
(1970) Hà Như Chi: Việt Nam Thi Văn Giảng Luận Toàn Tập (NXB Sống Mới, Saigon).
(1974) Đào Duy Anh: Từ Điển Truyện Kiều (NXB Giáo Dục, Hà Nội).
(1997) Nguyễn Lộc: Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ XVIII (NXB Đại Học và Trung Học, Hà Nội).
(2005) Đặng Cao Ruyên: Truyện Kiều: Tác Giả, Nhân Vật, và Luân Lý (NXB Cành Nam, Arlington, Virginia).
(2005) Thái Văn Kiểm: Việt Nam Thăng Hoa (NXB Làng Văn, Toronto, Canada).
(2015) Trần Ngọc Ninh: Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh (NXB Thế Giới, Hà Nội).
(2017) Đàm Trung Pháp: Gìn Vàng Giữ Ngọc cho Tiếng Việt tại hải ngoại (Diễn văn chủ đề của GS Đàm Trung Pháp trong Lễ khai giảng khóa tu nghiệp sư phạm các Trung tâm Việt ngữ Nam California ngày 28/7/2017 tại Little Saigon).
(2020) Đàm Duy Tạo: Kim Vân Kiều Đính Giải (Di cảo 600 trang viết tay do thứ nam Đàm Trung Pháp hiệu đính và phổ biến năm 2020 trên Tập San Việt Học <viethocjournal.com>).
Nhà nghiên cứu Trần Gia Ninh vừa công bố kết quả nghiên cứu về lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt với nhiều diễn giải mới xung quanh các vấn đề lịch sử đang còn gây tranh cãi cho giới nghiên cứu trong lẫn ngoài nước.
Trả lời Thanh Niên, ông nhấn mạnh: “Người Việt vốn là cộng đồng dân cư tinh túy nhất còn sót lại của tộc Bách Việt cũ”.
– Hiện nay, vẫn đang tồn tại nhiều tranh cãi xoay quanh nguồn gốc của người Việt (Kinh) và không phải ai cũng cho rằng cội nguồn của người Việt là tộc Bách Việt. Ông có thể chia sẻ quan điểm về vấn đề này?
– Tôi cho rằng trải qua một tiến trình lịch sử với quá nhiều biến động, không thể có người Việt (Kinh) thuần chủng là hậu duệ của duy nhất một tộc người. Hiện có nhiều giả thuyết đối chọi nhau về vấn đề này. Tôi chia sẻ với ý kiến cho rằng cội nguồn của người Việt ít nhất là hợp bởi ba tộc người chính: người Bách Việt (bao gồm người Việt bản địa và các tộc Bách Việt ở nơi khác chuyển đến), người Thục (thời Thục Phán) và người Hoa Hạ.
Khi nước Thục bị nước Tần diệt, một cộng đồng dân cư đã chạy thoát xuống phương Nam và chiếm đất Âu Việt, tức thượng nguồn sông Hồng. Những ghi chép trong cổ sử đầu Công nguyên đã có chép về Thục Phán. Thậm chí, còn ghi rõ, Thục Phán đem quân đánh Hùng Vương. Hùng Vương thua, Thục Phán lên làm vua xưng là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc. Không phải chỉ có trong truyền thuyết dân gian Việt, mà sử sách cổ của Trung Quốc cũng ghi chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương, chuyện nỏ thần An Dương Vương, chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy. Người Thục ngày xưa có nền văn minh phát triển rực rỡ không thua kém Hoa Hạ mà có khi còn hơn. Có thể người Thục đã có chữ viết dù sau đó bị mất.
Còn về nhóm cư dân từ tộc Bách Việt cũ có phần đặc biệt. Khi Trung Quốc xâm chiếm và tìm cách đồng hóa các tộc Bách Việt, việc đầu tiên họ làm là tìm cách tiêu diệt những thành phần ưu tú nhất, bởi vậy những người đó đã phải di chuyển về phía nam, mang trong mình tinh hoa của văn hóa Bách Việt. Họ tìm chỗ trốn và nơi định cư an toàn về sau chính là nước VN bây giờ.
– Ông có thể lý giải sức mạnh nào khiến người Việt không bị Hán hóa dù trải qua 1.000 năm Bắc thuộc?
– Có thể thấy, những vùng đất ở phương Nam như Vân Nam, Hải Nam, Quảng Đông… mặc dù cách xa Trung Nguyên nhưng sau khi Trung Quốc xâm chiếm đều bị đồng hóa. Đến cuối nhà Minh, dù người Hán đã bị người Mãn Châu đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ, nhưng cuối cùng, người Mãn Châu lại bị chính người Hán đồng hóa. Thế nhưng, người Việt trải qua tới 1.000 năm Bắc thuộc lại không bị như vậy.
Theo tôi, một số nguyên nhân có thể tóm tắt như sau: Mưu đồ đồng hóa một dân tộc sẽ khó thành công nếu dân tộc đó hội tụ đủ ba yếu tố. Một là có sức sống sinh học và sức sống xã hội mãnh liệt; hai là có trình độ văn hóa và nền văn minh cao hơn dân tộc đi đồng hóa; ba là có tổ chức xã hội tốt, cố kết các thành viên bền chặt. Nhìn lại, thấy người Việt (Kinh) có đủ ba yếu tố này. Dù là mục tiêu tàn sát của dân tộc đi xâm chiếm, nhưng họ đã thoát thân thành công và “an cư” ở mảnh đất cuối trời của Bách Việt, chính là Việt Nam ngày nay. Điều đó chứng minh, đây là cộng đồng có sức sống mãnh liệt. Mặt khác, chính vì mang trong mình tinh hoa của văn hóa Bách Việt, văn hóa Thục và cả Hoa Hạ nữa, nên nền văn minh của cộng đồng dân cư này có lẽ còn vượt trội hơn cả Hoa Hạ. Cuối cùng, chính sử Trung Quốc đã ghi chép rất rõ về thời Hùng Vương. Qua đó có thể thấy, người Việt đã có nhà nước, có tổ chức xã hội, có sự gắn kết bền vững trong cộng đồng. Đó là lý do người Việt khó có thể bị một dân tộc nào đó đồng hóa.
– Không những không bị đồng hóa và vẫn giữ được tiếng nói của dân tộc mình, người Việt còn tiến hành “đồng hóa” ngược. Ông có thể nói rõ hơn về “kỳ tích” này?
– Thời Bắc thuộc, người Việt có thể không có chữ viết, hoặc có thể đã có chữ viết nhưng bị xóa sạch qua 1.000 năm bị Bắc thuộc. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là họ vẫn giữ được ngôn ngữ (tức là kho từ vựng, phát âm, ngữ pháp, cấu trúc) Việt. Người Việt khá thông minh. Họ đã học chữ của người Hán để lưu giữ tiếng nói của dân tộc mình, giữ nguyên cách tư duy ngôn ngữ của mình, bởi vì ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Họ khôn khéo biến “kho” Hán ngữ thành “kho” Hán – Việt để làm giàu thêm ngôn ngữ của mình. Có thể thấy, nhiều từ mà chúng ta vẫn thường dùng bây giờ như vô duyên, lãng mạn, bá đạo, triền miên, mạch lạc, la liệt… là từ gốc Hán 100% trong kho tàng Hán – Việt mà ông cha ta đã thu thập để thành vốn từ Việt.
Đây là điều mà các nhóm dân tộc khác xưa cũng thuộc tộc Bách Việt không làm được. Chẳng hạn, người Quảng Đông, Phúc Kiến, Vân Nam đã mất hẳn ngôn ngữ “gốc”. Về mặt ngôn ngữ, họ hoàn toàn bị Trung Hoa đồng hóa, chỉ phát âm khác mà thôi.
Nhà nghiên cứu Trần Gia Ninh là cây bút quen thuộc viết chính luận, khoa học, văn học sử và tiểu thuyết. Một vài công trình bằng tiếng Việt của ông công bố gần đây: Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, Huyền thoại Kim Thiếp Vũ Môn (tiểu thuyết lịch sử, NXB Văn học – 2015), Thánh dạy: Bốn chục tuổi, không lầm lẫn nữa…Với công trình Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, Trần Gia Ninh đã tiến hành nghiên cứu nhiều tư liệu lịch sử như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh tập, Đại Việt sử ký toàn thư. Đặc biệt, ông dành nhiều công sức nghiên cứu các tài liệu sử học của Trung Quốc như Hán thư, bộ sách Thái Bình Ngự lãm, Hoa Dương quốc chí, Thủy Kinh chú sớ…