“Với bãi biển tuyệt đẹp trước công trình và bóng đổ từ những cây bàng nhiều năm tuổi, chúng tôi chọn sắc trắng thuần khiết làm chủ đạo cùng với nội thất đơn giản cho công trình. Vì cảm thấy đã đủ rồi…”, chia sẻ của Trường An Architecture.
Khúc cua đẹp nhất của con đường ven biển thành phố Vũng Tàu gần đây bỗng trở nên đầy sức sống với sự xuất hiện của một quán cà phê mới, mang vẻ ngoài hiện đại và thân thiện. Ít ai biết rằng, trước khi chuyển đổi công năng, nơi này từng là một khách sạn mini, với một mặt tiền dài và địa thế lưng tựa núi, mặt hướng biển.
Vị trí đắc địa cho phép thưởng lãm trọn vẹn bãi biển cùng những biến chuyển vào mọi thời khắc trong ngày từ bình minh, hoàng hôn đến khi lên đèn chính là cảm xúc lớn nhất dẫn dắt kiến trúc sư khi thiết kế công trình. Toàn bộ kiến trúc của quán cà phê đều tập trung hướng về phía biển nhằm khai thác tối đa những góc nhìn và tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên một cách sinh động nhất.
Cân đối giữa nhu cầu của giới trẻ, đối tượng chính mà quán hướng đến, cùng lợi thế của khu đất, nhóm thiết kế đã tạo nên những chỗ ngồi phong phú, nơi mỗi góc đều là một khung cảnh, một khoảng trời khác. Hình dáng đa dạng của những ô cửa được bố cục một cách sinh động trên một hình khối đơn giản tạo ra những nhịp điệu vui mắt.
Ánh sáng, bóng đổ, mặt biển và những tán bàng xanh trở thành chất liệu trang trí chủ đạo của công trình.
Hình dáng đa dạng của những ô cửa được bố cục một cách sinh động trên một hình khối đơn giản tạo ra những nhịp điệu vui mắt.
Cảm xúc của khách được dẫn dắt khéo léo từ mái hiên trước thềm đến những khung cửa sổ qua các tầng lầu và dừng lại ở điểm cao nhất – nơi cầu thang “nối liền” giữa trời và biển. Theo đó, những góc nhìn hướng về phía biển cũng thênh thang dần, tỷ lệ thuận với các tầng cao.
Với một tinh thần “hướng ngoại” như vậy, nội thất của quán đơn thuần tập trung vào sự thoải mái và tiện lợi cho người dùng với những bộ bàn ghế đa dạng về kiểu cách. Ánh sáng, bóng đổ, mặt biển và những tán bàng xanh trở thành chất liệu trang trí chủ đạo của công trình.
Ngay phía trước quán là một bãi tắm lâu đời của người dân địa phương, nhộn nhịp vào hai buổi sáng chiều, đặt công trình vào một bối cảnh và nhịp điệu quen thuộc của thành phố biển.
Địa chỉ công trình: Soho Coffee, đường Hạ Long, TP. Vũng Tàu, Bà Rịa – Vũng Tàu Thiết kế kiến trúc và nội thất: Trường An Architecture
Dịch bệnh đã chững lại được ít tháng. Những tưởng quê hương mình cũng như mọi nơi, mọi người trên thế giới dần dần có cuộc sống bình thường trở lại. Bỗng nhiên nó tăng tốc… Một kẻ lang thang núi rừng không đụng chạm đến ai như ta mà cũng không “yên” được thế này, hỡi Trời!
Dịch bệnh đang diễn ra là thách thức của tạo hóa đối với loài người, với tư cách một sinh vật. Tôi chưa nhiễm COVID-19. Nhưng không biết khi nào, với tình hình hiện nay ở dương gian. Mặt đất rúng động. Nhân loại khủng hoảng sự sinh tồn. Nước giàu, nước nghèo; xứ sở nông nghiệp hay công nghiệp; gần xích đạo hay xa xích đạo; hải đảo hay lục địa; da trắng hay da màu; có tôn giáo hay không tôn giáo, đều lắc lư, bất an. Nghĩa là đồng loại tôi trên khắp địa cầu cùng chao đảo, dù đất nước tôi có nhẹ hơn nhiều nước khác nhờ khéo chống đỡ.
Giờ, cứ nhấc máy gọi cho ai thì cũng được lời khuyên nhắc ngay trong điện thoại từ Bộ Y tế cho việc phòng giữ sức khỏe và chống lại dịch bệnh. Hàng quán vừa làm ăn vừa cẩn thận với sinh tử. Cô bác nông dân vừa đi mua phân bón vừa giãn tránh gần người lạ. Nhìn thấy cô bác bán bó rau, thau cá ở chốn thanh bình xó núi, xó rừng mà còn thường trực cái khẩu trang trên miệng, chợt cảm nhận về một nỗi lo. Đôi lứa yêu nhau vừa ân ái vừa cảnh giác COVID-19. Chẳng sinh hoạt nào còn bình thường, và chẳng ai còn làm việc tự tại, vui sống an nhiên, kể cả các em thơ.
Nhìn truyền hình thế giới chuyển tải cảnh đốt người la liệt như đốt rác và không đủ củi để đốt người ở Ấn Độ, Nepal mà nghĩ không biết trái đất này có còn là thế giới của loài người, loài thượng đẳng nữa không. Siêu vi rút này vô hình nhưng nó tấn công vào loài người trực tiếp, đồng loạt, và gây thảm kịch nhỡn tiền.
Đến lúc này hầu như không còn quốc gia nào “thoát”. Trong lịch sử xã hội loài người, chưa bao giờ bệnh viện dã chiến mọc lên khắp thế giới như thế này. Chiến tranh thảm khốc thế giới thứ I, thứ II, hay chiến tranh xâm chiếm lãnh thổ ở các thế kỷ phong kiến trước đó nữa chỉ xảy ra ở từng cặp nước lân bang, thuộc địa, từng vùng, hoặc châu lục là tang thương chứ không vừa tang thương vừa gieo rắc nỗi sợ hãi trong từng sinh phận người trên dương gian như thế này, kể cả nơi hẻo lánh nhất.
Giữa biển dịch đây đó trái tim nhân hậu bừng sáng, tình yêu thương, sự sẻ chia vẫn nở hoa khắp nơi. Những đùm bọc và những bỏ rơi. Những trong sáng và những mưu đồ. Những vô tư và những mặc cả. Thường dân chết. Bác sĩ chết. Tỷ phú chết. Nghệ sĩ chết. Tổng thống, thủ tướng lâm bệnh. Nghĩa là người giàu hay người đang nắm trong tay cả nền y tế cũng chết. Sự “ra đi” nào cũng trong nháy mắt. Các nước kêu than. Các nước hợp tác. Các nước chửi nhau. Lòng nhân ái lên ngôi và lý trí lên ngôi cao hơn. Trí tuệ con người bị giằng xé. Tâm hồn con người bị giằng xé.
Hỏa táng người chết vì COVID-19 ở Ấn Độ. Ảnh: The New York Times
Giữa trùng vây dịch bệnh con người vẫn nghĩ về vũ trụ, tạo hóa, tâm linh, thế giới siêu nhiên, và đoàn người vẫn hành hương về với các đền thờ Hindu ở Ấn Độ. Giữa một nền y học tiên tiến của loài người hiện đại ở thế kỷ này và sự dồn ép của dịch bệnh, người ta vẫn thành kính làm lễ cầu nguyện cho người vừa tắt thở ngay trong bệnh viện. Nghĩa là vẫn nhận thấy con người nhỏ bé trước vũ trụ, tạo hóa.
Thảm cảnh diễn ra ở mọi ngóc ngách của xã hội loài người. Hệ thống chính phủ trên toàn thế giới vất vả lèo lái điều khiển xã hội, kinh tế, y tế, bảo vệ sinh mạng cộng đồng mình. Không chỉ những người đã “ra đi”, những con người còn sống sót tròng trành trong cuộc mưu sinh, mất việc làm, đói ăn, đổ vỡ, cùng kéo theo những bi kịch thầm kín về gia đình, bản thân mà không ai có thể chui vào từng sinh phận để mà biết được. Nghĩa là, trước vũ trụ, sinh phận con người là trò chơi có tổng bằng 0.
*
Hẳn loài người ai nấy đều đang thức tỉnh ra nhiều điều trên mặt đất.
Thời sự chủ lưu hàng ngày là dịch bệnh. Nghĩa là thông tin về cái bất hạnh, chứ không phải về hạnh phúc. Là “ngoại giao” thứ chết chóc (ngoại giao vaccine coronavirus, là máy thở, máy tạo ôxy, thiết bị y tế…), tranh thủ cơ hội để gây ảnh hưởng, tạo lợi thế, gài nhau, đưa nhau vào thế phụ thuộc; là nhăm nhe mở rộng lãnh thổ; là dọa nạt, ức hiếp các nước nhỏ, và so kè, hơn thua giữa các đại cường.
Nhân loại đang đặt phẩm giá lên hàng đầu hay của cải ngập mặt, cơ cầu lợi ích vặt tầm thường nhất thời, dù khi khép mắt đều giống như nhau ở thể hữu cơ và chẳng mang thứ gì ra đi.
Trong bối cảnh ngàn cân treo sợi tóc với đồng loại đó, tên lửa, phi đạo, tàu chiến, tập trận, duyệt binh… vẫn diễn ra ở nhiều đại dương, từ mặt biển đến trên trời. Cứ như con virus kia bỗng trở thành “con tin” cho những toan tính của loài người hiện đại. Nó cho thấy con người nhỏ nhoi, mong manh, nhưng cũng đầy tham lam, ích kỷ và hung dữ. Nên nhớ, văn minh không phải là sáng chế ra những loại vũ khí siêu đẳng (mục đích của nó nhắm vào chính loài người), hay chinh phục vũ trụ (vì nó chỉ nhằm thỏa mãn lòng tham vô tận) mà phải là sự tăng trưởng nhân tính và sống chan hòa, thuận lành với trời đất. Văn minh cũng không phải là thành tựu gia tăng năng suất lao động và của cải vật chất ngập ngụa cõi người, mà rằng mọi thứ ấy có làm cho loài người an toàn, sống thanh bình hơn và không làm tổn hại đến nhau cũng như hủy diệt không gian sống, thiên nhiên không?
Khả năng “chinh phục” thiên nhiên và khả năng tạo ra của cải vật chất là cực đối khác của cực tăng trưởng nhân tính với tư cách loài có trí tri tốt nhất, mà cực thứ hai mới là thước đo phẩm giá của loài người (so với các loài khác trong thế giới tự nhiên). Nếu ai bảo loài người là chủng loài văn minh, thì hãy nhìn thẳng vào “chân dung” thực chất hiện tại của loài này.
*
Rồi, thì những ngày giỗ ở Ấn Độ, Brazil… sau này cho những người thân đã ra đi vì COVID-19 sẽ nhớ về nó như một nỗi oan cừu, mối hận. Người ta sẽ hận, vì những cái chết hàng loạt ấy không đến vì bom rơi đạn nổ mà từ một loại virus, và không biết virus đó từ đâu mà ra. Triệu triệu cái chết dễ dàng và oan uổng kia giao trách nhiệm lại cho những người còn sống, không phải là công việc của lương tâm nữa mà là việc cứu lấy chủng loài (Homo Sapiens – con người hiện đại). Nó không phải là chuyện giỡn chơi. Nó là thảm kịch nhân loại, tại một giai đoạn lịch sử của loài người. Nó là chuyện sống còn của cả nhân loại. Nó không được phép cho qua. Nó là công việc bình thường của một loài đã tiến hóa, loài duy nhất trên trái đất có nền giáo dục, đặt ra vấn đề đạo lý, và có tôn giáo tín ngưỡng, có tổ chức xã hội toàn loài.
Thời điểm này, chống dịch, và cứu người là trước hết, cấp gấp. Ấy là phần ngọn. Nhưng phần sống còn cho lâu dài, là phải nhìn thấy căn nguyên của nó. Loài người đang muốn chinh phục và đặt chân lên thêm nhiều hành tinh xa xôi khác trong Thái dương hệ thì việc tìm ra căn nguyên của chủng virus này nơi mặt đất để cứu nhân loại (và không để tạo ra tiền lệ) dĩ nhiên chẳng khó. Cả xã hội loài người không thể là trò chơi trên chiếc bàn gỗ vài ba mét vuông trong phòng làm việc của dăm ba chính trị gia hay một hai nhóm người nhỏ nào đó ở một hai vùng đất cho những mục đích hay tham vọng vị kỷ nguy hiểm. Nó đang đòi hỏi tính nhân bản, thực hành trí tuệ, và sự chân chính (nếu thật có) của loài người. Nó là câu trả lời cho câu hỏi loài người là loài nhân ái hay man rợ, dũng cảm hay nhu nhược, tài trí hay mông muội, hữu minh hay vô minh, thượng đẳng hay chỉ là một loài thú biến hóa bản năng và không thể lột được cốt chất hoang dã xa xưa.
Câu hỏi về “văn minh” lơ lửng trên đầu nhân loại.
Nhân loại đang đặt phẩm giá lên hàng đầu hay của cải ngập mặt, cơ cầu lợi ích vặt tầm thường nhất thời, dù khi khép mắt đều giống như nhau ở thể hữu cơ và chẳng mang thứ gì ra đi.
Tôi thương chủng loài của tôi làm sao, dù họ ở đâu trên mặt đất này và tôi cũng chưa từng đi đâu khỏi quê hương mình.
Từ rừng hoang thanh vắng an lành tôi bước ra phố thị để rã lòng và ngồi viết những dòng rỗng không này. Nhìn xung quanh, cô bác ai cũng dính khẩu trang trên mặt – hình ảnh mà trước năm 2020, tôi nào có thấy…
Farnum là một trong những tỷ phú thành công lớn vì sớm đầu tư vào các công ty công nghệ Microsoft, Apple, Google, Amazon, Facebook. Tôi khá ngạc nhiên khi Farnum đề nghị gặp tôi tại nhà riêng của ông, không cần luật sư đi cùng. Và đây là câu chuyện bí ẩn mà Farnum sau cùng đã tiết lộ lý do:
Từ trải nghiệm cận tử
“Cách đây hơn hai năm, khi tôi đang khoẻ mạnh thì bất ngờ lên cơn đau tim và được chuyển gấp vào bệnh viện cấp cứu. Vì di chuyển xa nên khi đến phòng cấp cứu, tim tôi đã ngừng đập, mạch cũng không còn và não bộ cũng không hoạt động nữa. Đối với các bác sĩ, khi tim bệnh nhân ngừng đập và chết não thì bệnh nhân coi như thật sự đã chết rồi. Mọi phương pháp cấp cứu khẩn cấp của những bác sĩ giỏi nhất đều đã trở nên vô hiệu.
Bìa cuốn sách “Muôn kiếp nhân sinh 2” của tác giả Nguyên Phong.
Nhưng lúc đó, tôi vẫn chưa chết hẳn mà rơi vào một trạng thái mà trước đó tôi đã từng nghe nói đến nhưng không hề tin, là trạng thái mà khoa học gọi là trải nghiệm Cận Tử – Near Death Experience. Nghĩa là, khi đó linh hồn tôi đã rời khỏi thể xác. Đầu tiên, tôi thấy mình đang ở trong một luồng ánh sáng êm dịu, nhẹ nhàng, ấm áp không thể tả. Đó là một cảm giác lạ lùng, mọi sự dường như đều ngưng lại trong tĩnh lặng, thời gian, không gian và ký ức dường như không tồn tại nữa.
Tôi quá bối rối, còn chưa biết phải làm gì thì đã thấy một nhóm người bước đến, trong đó có cha tôi. Ông vốn là giáo sư đại học tại Li Băng nhưng khi di cư qua Mỹ, ông phải làm công việc lao động khuân vác và lái xe tải để lo cho anh em chúng tôi ăn học. Ông qua đời vì tai nạn trên đường cao tốc khi tôi còn là sinh viên nên tôi không có cơ hội báo đáp công ơn ông.
Gặp lại ông, tôi mừng khôn xiết. Cha tôi giới thiệu những người quanh đó, họ đều là những họ hàng đời trước mà tôi chưa từng gặp. Tôi hãnh diện kể cho cha nghe về những thành công của mình. Tôi kể lại hành trình từ con một người nhập cư nghèo trở thành một trong những người giàu có nhất Chicago. Kể xong, tôi háo hức nhìn cha, tôi nghĩ hẳn ông phải vui lắm nhưng bất ngờ ông nghiêm mặt lại, nói với tôi: “Thế con có mang được những thứ đó qua đây không? Con đã mang theo được bao nhiêu tiền bạc, nhà cửa, xe cộ xuống đây nào?”.
Tôi giật mình, đến thời điểm đó tôi ý thức được mọi danh vọng, tài sản vật chất mà tôi sở hữu chỉ là những thứ phù phiếm, hão huyền, vô ích. Cha tôi thở dài, nghiêm khắc nói: “Ngày lẫn đêm, lúc nào con cũng chỉ lo kiếm tiền, con chỉ mong làm giàu cho bản thân chứ nào có làm được gì thật sự hữu ích cho mọi người, cho cộng đồng đâu mà khoe với cha”.
Tôi câm lặng, không biết phải nói gì. Cha tôi vốn là người rất nghiêm và giáo dục con cái rất kỹ và rõ ràng ông đang thể hiện sự thất vọng với con người tôi. Lúc đó, một người lạ bước đến khuyên giải cha tôi, rồi quay sang nói với tôi về một số việc mà tôi có thể làm để giúp đỡ cộng đồng. Người đó chia sẻ với tôi khá nhiều điều về những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Đột nhiên cha tôi nói: “Thôi con về đi! Và đừng nhìn mặt cha nữa nếu phần đời còn lại của con không thể làm được việc gì hữu ích”. Khi đó tôi không hiểu ý cha, tôi hỏi lại: “Thế cha muốn con đi đâu bây giờ?”.
Tôi chưa kịp nghe cha tôi trả lời thì người lạ mặt kia đã nói: “Đã đến lúc anh phải trở về rồi!”. Không hiểu sao vào khoảnh khắc ấy, tôi lại bịn rịn không muốn rời nơi chốn thanh bình đó. Người kia nói: “Nghe đây! Kể từ lúc này, tùy việc anh làm mà chúng ta có thể gặp lại nhau hay không”. Lúc đó, cha tôi cũng lên tiếng: “Thôi, đủ rồi, đã đến lúc nó phải trở về rồi. Một khi nó đã nghe, đã hiểu rồi thì tự nó quyết định tương lai của mình”.
Đến cơ hội để thức tỉnh
Farnum ngừng lại một lát, nhìn vào mắt tôi như muốn quan sát thái độ của tôi, xem tôi có tin vào câu chuyện vừa nghe hay không. Dĩ nhiên chuyện này có thể khó tin với người thiên về khoa học, cần bằng chứng rõ rệt, nhưng đối với người đã có trải nghiệm về tiền kiếp và tu tập tâm linh như tôi, tôi hoàn toàn hiểu và đồng cảm những điều Farnum kể lúc đó. Đúng là đã có một sự kiện chấn động và sâu sắc khiến người bạn có đầu óc thực tế này của tôi có sự thay đổi lớn đến vậy. Điều ông vừa kể cũng trùng hợp với điều ông Kris đã nói với tôi khi trước.
– Ngay lúc đó, tôi mở mắt tỉnh dậy trước sự kinh ngạc của tất cả các y bác sĩ. Họ vốn đã làm thủ tục để chuyển tôi xuống nhà xác. Trước giờ việc người có biểu hiện chết lâm sàng rồi sống lại không phải mới mẻ, nhưng các bác sĩ ngạc nhiên vì tôi đã ngừng tim chết não hơn nửa giờ, các cơ quan nội tạng cũng bắt đầu hư hoại mà tôi vẫn sống lại được. Dĩ nhiên, tôi phải điều trị thêm sáu tháng mới hồi phục hoàn toàn. Việc xảy ra ở thế giới bên kia thật khó quên và tôi càng không thể quên những dự báo về thế giới mà người lạ kia đã nói với tôi. Tôi cũng không kể với ai trải nghiệm kỳ lạ vì chắc chắn rất ít người tin. Tôi tự nghiệm ra đó là một cơ hội quí hiếm để tôi có thể thức tỉnh – vì nếu không – theo quán tính cố hữu tôi sẽ không tin bất cứ điều gì nếu không trực tiếp trải qua.
“Hãy là một cánh bướm rung động dù mong manh nhưng có thể cộng hưởng tạo nên một trận cuồng phong mãnh liệt thức tỉnh con người”
Suốt sáu tháng sau đó ở bệnh viện, tôi đã suy ngẫm về trải nghiệm lạ lùng đó, nhất là quan sát tin tức về những điều ghê gớm sẽ xảy ra trong tương lai của thế giới này, như để so sánh với những gì người lạ kia đã cảnh báo. Tôi cũng ý thức rằng chết không phải là hết mà chắc chắn sẽ còn có đời sống sau đó nữa. Và tùy theo ý thức, hành xử cá nhân ở cuộc đời này mà khi sang thế giới bên kia người ta sẽ sống ở cõi giới nào. Từ đó, tôi tìm đọc nghiên cứu những sách vở, tài liệu liên quan đến vấn đề này, tiếp xúc với các triết gia, các học giả nghiên cứu về tương lai và tâm thức, cuộc đời của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tôi đã ngộ ra và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, không còn xem của cải, nhà cửa hay tiền bạc quá quan trọng như trước nữa…”
Farnum dừng lại, suy tư một lúc rồi nói một cách chậm rãi:
– Tôi biết thời gian của tôi sống trên cõi đời này không còn nhiều. Biến cố kỳ lạ vừa qua giúp tôi hiểu rằng khi đã sống đến tuổi bảy mươi sáu thế này thì thời gian là cái không thể lãng phí được. Tôi biết là tôi có thể ra đi bất cứ lúc nào. Đã từng qua thế giới bên kia nên tôi không còn sợ chết nhưng tôi phải sống phần đời còn lại này thật có ý nghĩa để còn có thể gặp lại cha tôi ở cõi bên kia. Nếu tôi cứ tiếp tục sống với những ham muốn vị kỷ thì làm sao tôi được gặp lại cha tôi, người đang sống ở cõi giới của những tâm thức cao cả?
Do đó, tôi đã quyết định lập ra một ngân quỹ với tất cả tài sản của tôi, để hỗ trợ cho những người có thể tạo ra sự thay đổi tâm thức cho toàn thế giới. Đây không phải ngân quỹ từ thiện hay hỗ trợ nghiên cứu khoa học, càng không phải quỹ đầu tư tài chính, mà là một ngân quỹ hỗ trợ cho những giá trị mới, những giá trị giúp cho sự thay đổi đích thực có thể xảy ra. Tôi muốn anh thay mặt tôi quản lý quỹ tài trợ này để vận hành và tài trợ cho những người có thể thực sự tạo nên viễn kiến tương lai hay hành động để chuyển đổi tâm thức, tạo nên khác biệt, nhằm thức tỉnh con người càng nhanh càng tốt”.
Đến lúc này, tôi mới hiểu rõ thiện ý của Farnum và lý do tại sao ông muốn gặp tôi tại tư gia mà không có ai khác tham dự. Tôi thật sự quá xúc động trước những tâm tư của người bạn này, và hiểu vì sao Farnum quyết định trao gia sản hơn 800 triệu USD để thức tỉnh con người…
Trí Việt (Bài viết là trích đoạn từ cuốn sách Muôn kiếp nhân sinh – phần 2 của tác giả Nguyên Phong)
Nguyễn Duy Linh, Phó Tổng trưởng Tổng cục Tình báo, thuộc Bộ Công an, đã bị bắt chiều qua, báo chí “lề đảng” đồng loạt đưa tin. Thử tưởng tượng, một nhân vật chức tước như thế ở các nước Mỹ, Pháp, Nhật,… mà bị bắt, chắc là gây chắn động, nhưng ở nước Việt Nam cộng sản, vụ bắt bớ này có ghê gớm lắm không? Cứ xem ông Phan Văn Anh Vũ, hỗn danh Vũ “nhôm”, đường đường là trung tá tình báo chứ chẳng phải chơi, cũng đã bị bắt hồi đầu năm 2018, có ghê lắm không? Tình báo gì mà cứ mua bán đất đai tài sản nhà nước lòng vòng để kiếm lời, chứ có phải là … gián điệp hai mang kiểu Phạm Xuân Ẩn, Kim Philby … thậm chí không bằng cô đào phòng trà Mata Hari, người Hà Lan nữa. Trong khi ông cớm “tình báo”, đại tá Nguyễn Duy Linh, bị bắt là do nhận hối lộ lên đến 3 triệu đô la, cùng một số quà cáp của đàn em Vũ “nhôm”, do ông “thầy bói” Hồ Hữu Hòa đưa. Vì sao vụ nhận hối lộ của Đại tá Linh xảy ra từ năm 2017, tới nay mới bị bắt? Theo dõi nhân thân đại tá Linh thì rõ. Nguyễn Duy Linh là con trai tướng công an về hưu Nguyễn Văn Hưởng, là trùm mật vụ một thời hét ra lửa, thủ hạ tâm đắc của “đồng chí X”, tức cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Mà “đồng chí X” này là kẻ không đội … đảng chung với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, “chủ lò”. Tức đây có liên quan tới chuyện đốt lò, chuyện “nội chiến” vẫn tiếp tục nhiều năm qua. Phe ông Dũng với nhiều gốc rễ công an có vẻ không muốn đầu hàng, dù đã vỡ trận, nhất là sau khi viên công an đến từ Thanh Hóa, Phạm Minh Chính, được cho là từng nhận nhiều ân sủng của “đồng chí X”, lên ngôi. Rồi sau đó tướng công an Tô Lâm cứ nhất mực ôm bộ công an, không chịu qua làm phó thủ tướng. Rồi đùng một cái, “giao liên” kiêm thầy bói Hồ Hữu Hòa bị bắt vì đưa hối lộ cho nhà “tình báo” Vũ Nhôm. Hòa lại viết đơn tố cáo, anh ta bị tướng về hưu Trần Văn Vệ ép cung, mà Trần Văn Vệ lại là thủ hạ đắc lực của ông “chủ lò” Nguyễn Phú Trọng. Khi vụ Hồ Hữu Hòa đưa hối lộ cho đại tá Linh được khui ra, có báo đưa tên thật, có báo rón rén viết tắt. Chuyện viết tắt tên, chuyện khai ông Vệ ép cung… cho chúng ta biết là lúc ấy chưa ngã ngũ, đại tá Linh và bố già Hưởng vẫn còn chống cự. Một nguồn tin riêng của chúng tôi cho biết, sau khi cân nhắc thiệt hơn, hai ông tướng công an, Phạm Minh Chính và Tô Lâm quyết định rằng, thôi thì cho Linh lên đường “vào lò” là hay nhất. Tuy nhiên, mặc dù đại tá Linh bị bắt chiều qua, không thấy một tờ báo nào đăng ảnh của Linh. Cho đến giờ, gương mặt của vị đại tá tình báo trở thành “củi” trong cái “lò” của ông Trọng, tròn, méo ra sao, không ai biết được. Điều đó cho thấy, có vẻ như mọi chuyện vẫn còn căng… như dây đàn, mặc dù cuộc phản công của phe “đồng chí X” lại thất bại. Nhưng có lẽ cũng đến đại tá Linh thôi, ông ta là một con dê tế thần rất phù hợp. Thứ nhất, với vị trí là con cái nhà Nguyễn Văn Hưởng, việc bắt Linh là một đòn dằn mặt có hiệu quả. Thứ hai, với hiện vật, hiện kim liên quan tới vụ nhận hối lộ, việc bắt Linh đủ hà hơi tiếp sức cho cái lò ông Trọng lấy lại uy tín, sau một thời gian có vẻ nguội lạnh. Mà khi đã có dê tế thần thì có lẽ vở kịch “đốt lò” đã đến cao trào. Các ông Nguyễn Văn Hưởng, Trần Văn Vệ, hai phe “hắc – bạch”, cùng đồng chí X cứ việc … làm người tử tế. Đại tá Linh có lẽ sẽ “thành tâm” nhận khuyết điểm. Dù sao thì vài triệu đô la và một ít quà vặt mà đại tá Linh nhận từ Vũ “nhôm” sao bằng việc thất thoát và phung phí hàng tỉ đô la, trong đó có cơ đồ Dầu khí Việt Nam của thầy trò Đinh La Thăng? Đinh La Thăng là ủy viên bộ chính trị thất sủng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam bị bỏ tù công khai. Như vậy là lớn quá rồi. Chỉ còn ai nghĩ đến cơ đồ nước Việt mới đau xót, mà nghĩ rằng, tình báo cái gì mà cứ ăn đất, ăn đô, với lại hút xì gà và xem bói?!
Tôi không biết phải bắt đầu ra sao khi viết về mẹ tôi, vì có rất nhiều điều để nói. Cũng có thể dưới con mắt chủ quan, tôi nghĩ bà là một trong những người phụ nữ phương Đông tuyệt vời nhất trên cõi đời này. Người mẹ dịu hiền mà tôi được may mắn biết đến, với đầy đủ những đức tính về công, dung, ngôn, hạnh của một người đàn bà Á Đông, đã hy sinh cả một cuộc đời mình cho chồng, cho con và cho những nghĩa cử từ thiện ngoài xã hội với nụ cười luôn trên môi cùng chiếc răng khểnh duyên dáng. Công, Dung, Ngôn, Hạnh Về mặt dung nhan, vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm của mẹ tôi đã hơn một lần làm rung động những người phái nam có địa vị quan trọng trong nhiều lãnh vực xã hội. Bà cao dong dỏng, thân hình đều đặn thanh tú, nước da mịn màng trắng trẻo, dáng đi yểu điệu và uyển chuyển, khuôn mặt trái soan, cặp mắt hơi hiếng (lé kim), mơ màng nhưng sâu sắc, miệng cười duyên dáng với chiếc răng khểnh và cặp môi đầy đặn. Tôi có đọc vài cuốn sách viết về mẹ tôi với những lời mô tả thiên lệch bắt nguồn từ những ghen ghét nhỏ mọn. Những người viết này cố tình hạ thấp dung nhan, phẩm hạnh của bà vì đố kị nên những người từng được tiếp xúc với bà vô cùng bất mãn vì những dối trá trắng trợn đó. Theo ý một số những người có dịp tiếp xúc với bà, bà là một trong những người đẹp và hợp thời trang nhất tại Hà Nội vào những thập niên 1930-40. Ngay cả về sau, khi đã trên bốn mươi tuổi và có bốn người con lớn, bà vẫn là một phụ nữ có vẻ đẹp sang trọng và thanh lịch có tiếng ở Sài Gòn. Tôi còn nhớ, trong lúc ở giá để nuôi các con ăn học thành tài, mẹ tôi đã từ chối khéo léo và khiêm nhượng những người đàn ông theo đuổi bà và về sau họ vẫn quý mến và nể phục tư cách của mẹ tôi. Một trong những người này đã qua đời đã giữ lòng thương quý mẹ tôi ngay cả khi bà đã tạ thế. Khi ra đi nước ngoài, ông gửi thơ về nhờ tôi đặt lên mộ mẹ tôi một bó hồng đỏ thắm mỗi tuần lễ, như ông vẫn thường làm trước khi ra đi! Mẹ tôi đã từ chối tất cả những người đàn ông đến sau, vì trong trái tim của bà chỉ có hình bóng của một người yêu duy nhất, đó là ba tôi, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long. Về công, tức là tài năng khéo léo, ít có người phụ nữ nào có tài nấu nướng những món ăn Việt cũng như Pháp tuyệt xảo như mẹ tôi. Nào canh bóng, vây, bào ngư, nấm nhồi giò, chả nem rán, bánh chưng gói, món Tây thì súp legume, bò hầm đậu, cua phá xi… Các ngày giỗ chạp, tiệc rượu linh đình, một mặt mẹ tôi nấu ăn và chỉ dẫn cho người giúp việc, một mặt tiếp đãi khách với nụ cười hiền thục trên môi. Ai cũng phải mến yêu bà. Chị Thu tôi đã lớn thì giúp một tay, còn tôi bé út nhất nhà (cách anh Lân đến 9 tuổi) chỉ chạy chơi và chực ăn trứng luộc trên bàn thờ! Sau này mẹ tôi mở tiệm Chả Cá Thăng Long (1959) ở đầu đường Phan Thanh Giản. Tiệm rất đắt khách và là một trong những tiệm ăn sang trọng thanh lịch và ngon lành tinh khiết nhất Sài Gòn lúc bấy giờ. Về ngôn, khoa ăn nói, mẹ tôi ăn nói nhã nhặn, điềm đạm và nhu thuận, lúc nào cũng giữ vẻ bình tĩnh. Bà cũng dạy các con phải ăn nói đàng hoàng. Ngoài phái nam ra, phái nữ cũng thương mến bà, bạn bè và các bà cô, dì hai bên họ đều tìm đến bà khi hoạn nạn, nhưng cũng có một số nhỏ đem lòng ganh tị và tìm cách bôi nhọ thanh danh bà. Về phẩm hạnh, không ai có thể chối cãi rằng mẹ tôi là một phụ nữ đảm đang, hy sinh cả cuộc đời cho chồng, cho con mà không hề phàn nàn, than vãn. THỜI THƠ ẤU CỦA MẸ TÔI BA MẸ TÔI GẶP GỠ NHAU Sinh ra trong một gia đình quý phái, trưởng giả, mẹ tôi lại có những đức tính đơn giản, tốt bụng hay thương người. Ông ngoại tôi làm tham tá công chánh dưới thời Pháp thuộc, bà ngoại tôi là một mệnh phụ đài các nhưng khôn ngoan, biết quản lý tài sản của ông tôi, biết tiết kiệm. Mẹ tôi lại là con một nên được lo toan rất chu đáo, quá chu đáo đến nỗi mẹ tôi cảm thấy ngộp thở. Bà ngoại tôi tính tình độc đoán, muốn chồng con phải phục tùng theo cách sinh hoạt của bà. Thậm chí mẹ tôi chỉ được quyền chơi những đồ chơi bà ngoại cho phép. Mẹ tôi kể lại rằng một lần ông ngoại lén cho mẹ một con búp bê mà mẹ tôi thích, khi bà ngoại biết được, bà lập tức vứt đi. Mẹ tôi khóc và nhớ mãi chuyện ấy. Bà ngoại rất yêu mẹ tôi, nhưng cụ vẫn giữ tính khắc nghiệt đó nên có những đụng chạm cãi vã không thể tránh được giữa hai mẹ con. Khi ba mẹ tôi gặp gỡ nhau, họ bị tiếng sét ái tình đánh choáng váng. Một bên cảm vì sắc, một bên mến vì tài. Ba tôi tuy ít nói, nhưng có lối châm biếm khôi hài thật duyên dáng và sâu sắc đã chinh phục được trái tim trong trắng của mẹ tôi. Tính cách khôi hài này được thể hiện trong tập “Trước vành móng ngựa”. Mối tình của ba mẹ tôi là nguồn hứng khởi của mối tình của Duy và Thơ trong “Con đường sáng”. Là một phụ nữ có tâm hồn nhạy cảm và chịu ảnh hưởng phong trào văn hóa mới vì mẹ tôi theo học trường Pháp và tốt nghiệp trường Pháp, bà thông cảm và hỗ trợ chí hướng phi thường của ba tôi, người đã từ chối chức tri huyện khi tốt nghiệp cử nhân luật, sau lại bỏ chức biện lý vì chống lại tòa án Pháp thuộc ngày đó. Điều này thể hiện trong tác phẩm “Trước vành móng ngựa”. Phải là một phụ nữ phi thường mới thấu hiểu và tôn trọng một tâm hồn phi thường như ba tôi, và mới hy sinh tuổi xuân sắc để giúp đỡ chồng một cách đắc lực trong quá trình tranh đấu cho dân tộc và đất nước. Lần đầu khi đi xem mắt mẹ tôi tại tòa biệt thự của bà ngoại tôi ở bãi biển Sầm Sơn, ba tôi đã bị tiếng sét ái tình. Mối tình đẹp như thơ đó đã bị cả hai bên gia đình phản đối, bên nội vì lý do bà nội tôi không chuộng gia đình trưởng giả, bên ngoại vì không cho là đủ môn đăng hộ đối. Nhưng ba mẹ tôi đã vượt thắng tất cả để tìm đến nhau và lập gia đình! MỘT CUỘC HÔN NHÂN ĐẦY HY SINH VÀ CHIA LY Chị cả tôi, chị Minh Thu, ra đời năm 1934, là tác phẩm đầu tiên của sự kết hợp tuyệt vời đó. Năm kế là anh Nguyễn Tường Ánh và cách một năm nữa là anh Nguyễn Lân. Ba mẹ tôi những tưởng anh Lân là con út rồi vì lúc đó ba tôi rất ít khi ở nhà, ông đã bị quay vào guồng máy thời cuộc lúc ấy. Khi ba tôi bị bắt, bị tra tấn tại sở mật thám và sau bị đi đày ở Vụ Bản, Chân Lạp Sơn, mẹ tôi rất lo buồn và đi lại tiếp tế nhiều lần. Tháng Tám, 1946, ba tôi cầm đầu phái đoàn hòa giải, trong đó có cả người của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của bên Việt Minh, và có nhân viên bộ Công Chính là kỹ sư Đỗ Xuân Dung để xem tình hình nước lụt ở Việt Trì (ngã ba sông Hồng Đào) và ba tôi bị bắt. Khi được thả ra, ba tôi sang Trung Hoa gặp gỡ bác Nguyễn Tường Tam và các anh em khác. Thời gian đó mẹ tôi thường xuyên mang vật phẩm và tiền bạc sang tiếp tế cho ba tôi và các anh em khác. Ngoài ra, một tay bà lo dạy dỗ các con, chăm sóc mẹ già và cũng một tay bà lo toan hỗ trợ người chồng cách mạng lưu vong nơi xứ người. Phụ nữ như thế không phải ở thời đại nào cũng có! Ba mẹ tôi lúc ấy như Chức Nữ Ngưu Lang, chẳng được thường xuyên gặp gỡ nên mỗi lần trùng phùng thật quý giá vô cùng! Tôi là kết qủa của một trong những lần gặp gỡ đó. Ba tôi gởi thư về dặn mẹ nếu là con gái thì đặt tên Từ Dung, con trai thì Duy hoặc Giản. Như vậy Từ Dung là tên cúng cơm của tôi chứ không phải tên hát xướng đặt theo một nhân vật khác! Từ Dung có nghĩa là hình Dung giống mẹ, vì ba tôi lúc nào cũng tưởng nhớ mẹ tôi. Tôi ra đời ngày 30 tháng Mười năm 1946 tại Hà Nội trong tình thương yêu của cả nhà. Ba tôi vẫn ở biền biệt bên Trung Hoa nên chẳng thấy mặt tôi, chỉ nhận được tin tức qua thư tín gia đình. Lần gặp gỡ cuối cùng của ba mẹ tôi năm 1948 tại Hongkong rồi sau đó ba tôi bị một cơn đau tim tạ thế trên đường đi xe lửa về Quảng Châu, lúc đó tôi được 19 tháng. Được tin sét đánh, mẹ tôi phải lo tiền bạc quay trở lại chôn cất ba tôi tại Quảng Châu. Hiện nay không còn biết mộ phần nằm đâu nữa vì các nấm mồ đều bị khai quật dưới chế độ Cộng Sản! Kể từ đó, mẹ tôi ở vậy nuôi con cho đến khi các con khôn lớn. Bố con tôi chỉ biết nhau qua hình ảnh thư từ. Tôi được nghe kể lại về ba tôi qua lời nói của mẹ, của anh chị và của cậu tôi, Như Phong Lê Văn Tiến. Tôi nghĩ rằng tôi được thừa hưởng óc khôi hài châm biếm của ba tôi, cũng như dòng máu văn chương chảy cuồn cuộn trong tim óc! Tại Hà Nội, gia đình tôi sống tại đường Lý Thái Tổ, Hàng Vôi. Trường Hàng Vôi là ngôi trường đầu tiên trên con đường học vấn của tôi. Năm 1990, trước khi rời Việt Nam, tôi ghé thăm ngôi nhà gia đình và ngôi trường thơ ấu. Ngôi nhà xinh đẹp hai tầng có cây bàng trước sân giờ đây ngăn ra cho tám hộ ở, phòng ngăn bằng vải rideau. Bàn thờ tổ tiên vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ còn một ông lão còn nhớ về nguồn gốc căn nhà. Trở lại năm 1954, chúng tôi rời căn nhà thân yêu lên đường vào Nam trên một chiếc phi cơ quân đội. Tôi mới có 8 tuổi nên chỉ nhớ là mẹ tôi vội trở lại miền Bắc để thanh toán mấy căn nhà ở Hà Nội của bà tôi và gom tiền bạc để sinh sống trong Nam. Lúc đó sắp sửa đóng cửa ra vào hai miền nên các anh chị, tôi lo lắng sợ mẹ tôi bị kẹt lại Hà Nội. Khi mẹ về, chúng tôi hết sức mừng rỡ. Chúng tôi tạm ở chia với họ hàng bên ngoại một căn nhà đường Đặng Dung, Tân Định. Đó là thời gian đẹp nhất của đời tôi! Mẹ con, anh chị em đoàn tụ yêu mến nhau. Tôi ở tuổi bắt đầu ý thức được tình cảm quý báu của gia đình. Ý nguyện của tôi là anh chị em tôi sẽ trở lại quây quần như thời đó! Khi đến học lớp Tư trường Huỳnh Thị Ngà thì tôi gặp khó khăn với cô giáo Nam Kỳ với giọng đọc chính tả mới lạ. Tôi có đến mười lỗi trong bài “Lạc vào rừng” vì tôi không hiểu gì cả. Các bạn chế nhạo accent Bắc kỳ và gọi tôi “Bắc kỳ ăn rau muống”. Đó là bài học đầu tiên của tôi về kỳ thị địa phương dạy tôi sau này chống lại mọi thứ kỳ thị trên cõi đời này! ĐỜI SỐNG TẠI SAIGON Cùng lúc ấy, mẹ tôi mở tiệm phở và chả cá Thăng Long trên đường Trần Quang Khải, Tân Định, sau chuyển về tiệm chả cá Thăng Long trên đường Phan Thanh Giản. Sau này ngẫu nhiên quán cà phê nhạc Từ Dung của tôi mở năm 1978 cũng lại tọa lạc trên con đường Trần Quang Khải và người hầu bàn trưởng tại chả cá Thăng Long tên là anh Tư lại trở thành người pha cà phê chính của quán Từ Dung. Tiệm chả cá Thăng Long do họa sĩ Nguyễn Gia Trí trang hoàng có một vẻ Á Đông trang nhã với những chiếc cột đỏ, những tấm bình phong và hình vẽ đặc biệt Việt Nam rất mỹ thuật. Một tấm tranh dân gian của Phạm Tăng treo dọc cả bức tường trong căn phòng riêng của quán. Bức tranh này sau tôi bị một tay văn sĩ hạng b, c gì đó lừa lấy mất! Căn nhà mẹ tôi mua rộng lớn, một bên mở tiệm, còn một bên gồm năm phòng để gia đình tôi ở. Tiệm luôn đông khách tấp nập và các danh nhân, nghệ sĩ như Mặc Thu, Nguyễn Hoạt, bác Nhất Linh, Chu Tử thường xuyên đến ăn chả cá. Thế nhưng vấn đề tài chính không mấy khả quan vì mẹ tôi quá tốt bụng, luôn nuôi ăn ở và trả lương cho 6,7 người giúp việc nên tiền vào tuy khá nhưng ra cũng lắm. Mẹ tôi không bao giờ từ chối mở hầu bao giúp cho những người đến cầu cứu gia đình tôi! Lúc đó chị Minh Thu, anh Tường Ánh lập gia đình nhưng lúc đầu anh Ánh vẫn ở chung với mẹ tôi. Các anh chị có gia đình riêng nên không còn gần gũi nhau như xưa. Tôi cảm thấy mẹ buồn nhưng không biết an ủi mẹ ra sao, chỉ biết rúc vào lòng mẹ. Khi anh Ánh và vợ dọn đi ở riêng trong một căn nhà mẹ mua cho anh, tôi được thừa hưởng căn phòng trống cạnh phòng anh Lân. Trước mặt hai căn phòng là một sân cement nhỏ trồng vài cây cảnh như cây trúc đào, cây mận sai trái vì tôi chôn xác con mèo dưới gốc cây. Đằng sau phòng tôi là một cây trứng cá trái mọng nước và rất ngọt. Căn phòng này đã ghi một ấn tượng sâu đậm về thời thơ ấu của tôi sống êm đềm trong tay mẹ hiền. Có phòng riêng rồi nhưng tôi vẫn đòi ngủ với mẹ để được hít mùi da thịt của bà, thơm mùi nước hoa Guerlain và mùi phấn. Tôi cũng đòi mẹ ngâm thơ Kiều hoặc hát quan họ cho nghe như lúc còn bé tí. Cũng vì vậy mà tôi rất thuộc Kiều và những bài thơ ru em. Mẹ tôi yêu nhạc Đông phương nhưng cũng mê nhạc cổ điển Tây phương, nên khi mẹ mất, gia đình tôi mở nhạc Bach và Beethoven bên quan tài để hương hồn mẹ tôi về thưởng thức, thay vì giọng ê a của các vị sư hay kinh của các cha cố! Sau này mẹ tôi bắt đầu gặp khó khăn về tài chính nên phải bán đi một số nữ trang. Lúc đó là đầu thập niên 1960, quân đội Mỹ đổ sang Việt Nam nên mẹ tôi theo trào lưu cũng dẹp tiệm chả cá và cho Mỹ thuê một bên nhà để mở nhà hàng có âm nhạc tên là Kontiki. Đêm nào tôi cũng được nghe tiếng đàn hát vọng sang từ bên nhà hàng của ban nhạc Đăng Tiến, thỉnh thoảng tôi cũng sang hát chơi những bản như Autumn leaves, A very precious love, Mona Lisa…. Tôi khoảng 16 tuổi, tuổi đầy mộng đẹp và bắt đầu mơ đến tình yêu! Mấy năm sau mẹ tôi bán căn nhà rộng lớn đường Phan Thanh Giản và mua căn nhà nhỏ hơn có ba phòng ngủ và một căn gác ở Ngã năm bình hòa đường Chu Văn An. Nhiều người ngăn cản bà mua căn nhà này vì nó nằm cuối ngõ cụt và có mộ phần đằng sau nhà nên theo địa lý rất xấu. Không biết có phải là mê tín không mà sau này mẹ tôi bị ung thư nặng và chết tại nhà đó, bà ngoại tôi cũng chết theo ở tuổi 98 vì quá đau đớn, mẹ tôi là con duy nhất của cụ, cậu tôi Như Phong Lê văn Tiến bị bắt giam cũng ở đó, gia đình vợ chồng tôi thì phân tán, chia ly. Năm Mậu Thân 1968 nơi này là tử địa của tàn quân Việt Cộng, sau khi VC thất bại trong trận tổng công kích Saigon đã rút lui về nơi đây. Ngôi nhà chúng tôi bị đạn bắn từ máy bay xuống lỗ chỗ đầy những vết đạn, cũng may là khi cả khu phố bốc cháy như một con rồng lửa thì bỗng dừng lại khi tới nhà chúng tôi. Thật là một phép lạ! Tôi giúp mẹ, bà ngoại và hai mẹ con bác giúp việc chạy khỏi nhà, chân phải chạy lung tung tránh xác VC nằm đầy ngõ và tránh tầm đạn của hai bên bắn nhau. Một ông hỏi ông khác «ai đánh ai?», ông kia trả lời «quân mình đánh quân ta»! Từ lúc đó mẹ tôi bị ung thư bên cánh tay trái và căn bệnh kéo dài tới năm 1975 thì mẹ tôi mất. Người y sĩ đã hết lòng chữa chạy cho mẹ là bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một người bạn thân của gia đình. Hai bác sĩ khác của gia đình tôi là bác sĩ Phan Huy Quát và bác sĩ Kỳ Quan Thân. Cánh tay xinh đẹp, nuột nà, trắng bóc của mẹ tôi chỉ để đeo những nữ trang qúy giá nay đã bị cắt đi đến hai lần, và sau cùng căn bệnh quái ác đã ăn vào tủy sống làm mẹ hôn mê trong 24 tiếng đồng hồ trước khi từ gĩa cõi đời. Trước khi bị hôn mê, căn bệnh ăn vào tủy làm bà thấy mọi vật nhuộm muôn màu muôn sắc. Không có gì diễn tả nổi nỗi đau đớn của người mắc bệnh ung thư. Lầu 5 của viện ung thư ở Gia Định phải rào lại vì nhiều người trong cơn đau đã nhảy xuống tự vận. Trong khoảng cuối cùng của cuộc đời đầy hy sinh, chịu đựng, đau đớn, bà vẫn tiếp tục làm phước, giúp người. Bà bảo trợ cho một số người bị ung thư trong viện, trong số đó có một anh binh sĩ trẻ, đẹp trai như Alain Delon. Anh bị ung thư xương chân, chỉ trong vài tháng là từ trần. Mẹ tôi, lúc đó đã phải dùng tới codein cho bớt đau và bò lết dưới đất rên la, cũng vẫn lo cho anh trong những ngày chót của cuộc đời anh! Tại sao một phụ nữ hiền hậu như mẹ tôi và có lòng thương người lại phải chịu một số phận đớn đau như vậy? Khi mẹ tôi chết đi, bà không bám víu vào một niềm tin tôn giáo nào cả vì bà không tìm thấy đức tin nơi cuối đời. Lúc gần chết, bà cảm thấy hoang mang… Khi nhìn ngắm xác mẹ trong chiếc áo trắng tôi mặc cho bà và cành hoa lan trắng trước ngực bà, tôi mới ý thức được nỗi mất mát lớn lao đến thế nào. Đã quá muộn để chiều chuộng mẹ, để nói rằng mẹ ơi con yêu mẹ, để cám ơn bà cho tôi đời sống hôm nay và niềm tin ngày mai. Có một con bướm trắng bay quanh quan tài của mẹ nhiều lần trước khi hạ huyệt, có phải chăng linh hồn mẹ muốn từ giã các con lần cuối? Từ Dung xin thay mặt người quá cố cũng như các anh chị gửi lời cám ơn anh Sơn con của cô Thế đã lo việc rải tro xuống biển cho bà và mẹ chúng tôi tại Việt Nam để linh hồn bà và mẹ chúng tôi được siêu thoát và xin Chuá ban phước lành cho anh và gia đình anh.