Ông bố làm vườn rau, thả cá, ngắm trăng trên sân thượng

HÀ NỘIKhu vườn có rau trái lúc lỉu, kèm hệ thống đèn led lấp lánh và loa đài, trở thành không gian vui chơi và nghỉ ngơi cho đại gia đình anh Lỗ Bá Ngọc.63

Trước khi xây nhà năm 2018, vợ chồng anh Ngọc, ở Vĩnh Hưng (Hoàng Mai), đã ấp ủ một khu vườn cung cấp rau sạch cho gia đình. Ngay khi xây xong phần thô, anh bắt tay luôn vào làm khâu chống thấm và tự xây hệ thống bồn để trồng cây, thả cá.

Vườn nằm ở tầng 4 và 5, tổng diện tích 75 m2. Trong đó vườn trồng chủ yếu là các loại rau, bầu, mướp, dưa, cà. Các góc vườn dành để trồng hoa và cây ăn trái.

“Tôi ốp gạch đỏ quanh các bồn cho đẹp, lắp hệ thống đèn led rọi xuống, làm hàng rào trắng bao quanh vườn…”, anh Ngọc, 40 tuổi, chủ một tiệm giặt là, chia sẻ.

Nhà nằm trong khu dân cư đông đúc nên khâu vận chuyển đất bằng ròng rọc có thể gây nguy hiểm nên anh “tổng động viên” sức lực của cả nhà. Hai vợ chồng và 4 con cùng xúm lại bê đất tùy theo sức, mất hai ngày cuối tuần cũng phủ đầy các bồn chứa, chậu trồng.

Đã có kinh nghiệm làm “nông dân sân thượng” nên anh Ngọc làm vườn mới trơn tru, trong đó chú trọng nhất khâu làm đất và mùa nào thức ấy. Mùa hè, vườn sum suê bầu, mướp, rau muống, mồng tơi, dưa, cà.

Ba năm nay, mùa hè là gia đình anh bội thu bầu, mướp và dưa lê, dưa chuột. Ăn không xuể, họ thường phải biếu tặng mọi người tiêu thụ giúp.

Vườn đẹp nhất ở mùa đông, với những chậu su hào, bắp cải, xà lách nối đuôi nhau chắc nịch, cà chua đỏ mọng.

Mùa đông vừa qua, anh Ngọc trồng 15 gốc cà chua. Mỗi cây cho thu hoạch trung bình 60 quả, tổng kết cả vụ được trên 150 kg. “Nhiều hôm vác rổ lên cắt được cả yến. Có chùm 6-8 quả chín. Loại cà chua này bột, ngọt, làm salad, ăn sống hay nấu bát canh trứng đều ngon”, anh Ngọc kể.

Trên vườn anh còn xây bể nhỏ để thả sen, súng và nuôi cá chép. Trong bể lúc nào cũng có chục con cá, được ghi chú ngày thả. Sau mỗi lần bắt con nào ăn, gia đình lại bổ sung con mới. Cá được nuôi bằng ngô, thóc ủ.

Không chỉ cung cấp rau sạch và cá thoải mái nhu cầu cho gia đình đông con, khu vườn còn trở thành sân chơi yêu thích của mọi thành viên trong nhà. Từ ngày có vườn, cứ cơm tối xong là vợ chồng anh Ngọc rủ nhau lên sân thượng, chứ không ngồi phòng khách xem tivi như trước. Tại đây anh làm một nhà hóng mát, có thể chứa được 7-8 người, kèm có hệ thống loa nghe nhạc.

Thi thoảng mời khách đến ăn “lẩu vườn”, gia chủ luôn nhường khách thú vui được trực tiếp cắt rau, rửa qua dưới vòi và thả luôn vào nồi lẩu. Có một lần hội bạn của anh tới chơi đã thu hoạch hết cả vườn dưa non ăn ngay tại chỗ.

Tuổi thơ lớn lên ở Phú Thọ, anh Ngọc nhớ nhất những đêm trăng hè cùng tụi bạn chơi đủ trò nghịch ngợm ngoài sân kho và nằm trên mái ngói ngắm trăng. Bao năm xuống thành phố, đèn điện sáng loáng khiến anh hiếm khi nhìn thấy ánh trăng. Nhưng từ khi làm vườn, ánh trắng lại trở về cuộc sống của của anh Ngọc.

“Nhà tôi hiện tại cao nhất khu. Nhiều bữa vợ chồng, con cái nằm trên sân thượng lộng gió, tắt hết đèn, ngắm trăng trên đỉnh đầu to và sáng. Lúc đó lại kể các con nghe chuyện ngày xưa lam lũ”, anh Ngọc chia sẻ. “Từ ngày có vườn, cuộc sống của gia đình tôi khỏe mạnh, nhiều niềm vui và thấy mọi sự suôn sẻ”.

Phan Dương / Ảnh: Lỗ Bá Ngọc / VN Express

“Chiến binh bất tử” Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó

"Chiến binh bất tử" Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó
Đánh bại Federer và Nadal trên chính “sân nhà” của họ, chuẩn bị xô đổ cả bức tường thành 20 Grand Slam, Novak Djokovic đang đứng trước cơ hội rất lớn để trở thành kẻ thống trị làng quần vợt.

Tại Roland Garros 2021, Novak Djokovic đã giành được Grand Slam thứ 19 trong sự nghiệp, sau khi thắng ngược trong trận chung kết. Chỉ cần một danh hiệu nữa, tay vợt có biệt danh là “Nole” sẽ san bằng kỷ lục với Rafael Nadal và Roger Federer, đặt dấu chấm hết cho bức tường thành ngăn cách giữa anh và hai huyền thoại còn lại của làng quần vợt.

Nole là người đầu tiên vô địch mỗi Grand Slam ít nhất hai lần. Anh từng đánh bại Nadal và Federer trên chính mặt sân sở trường của họ, đồng thời là người có thành tích đối đầu tốt nhất trong “Big 3”.

Đầu năm nay, Federer đã phải rút lui khỏi giải Roland Garros để giữ sức cho mùa sân cỏ. Còn Nadal, sau trận thua trước Djokovic ở bán kết, cũng tuyên bố từ bỏ Wimbledon và Olympic Tokyo để bảo vệ sức khỏe, kéo dài sự nghiệp.

Nhiều người tin rằng, với phong độ ấn tượng và cái đầu “lạnh” của mình, tương lai mà Nole vượt qua Federer và Nadal để trở thành kẻ thống trị làng quần vợt cũng không còn xa nữa.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 1.

“Cá chép hóa rồng” giữa làn đạn khốc liệt của chiến tranh

Novak Djokovic sinh năm 1987, lớn lên giữa làn đạn của chiến tranh Nam Tư. Khi đó, quần vợt không phải một bộ môn thể thao nổi tiếng ở đây.

Năm Nole 4 tuổi, cha mua cho anh một cây vợt đầy màu sắc và vài quả quá bóng wiffle. Anh thường dành vài tiếng mỗi ngày để đánh bóng vào tường tại nhà hàng của gia đình.

Trong một lần tình cờ, Djokovic phát hiện ra một sân quần vợt mới được xây dựng. Anh trở thành những khán giả đầu tiên đến đây xem thi đấu, cũng như bắt đầu tập thử bộ môn thể thao này.

Năm 1993, tài năng thiên bẩm của Djokovic đã thu hút sự chú ý của Jelena Gencic – một trong những HLV quần vợt giỏi nhất Nam Tư. Bà mở lời, hỏi anh có muốn học quần vợt một cách bài bản để trở thành tay vợt chuyên nghiệp không?

Nole không hề ngần ngại, đồng ý ngay lập tức. Gencic chính thức thu nhận anh làm học trò, mở ra một trang mới trong sự nghiệp của chàng trai người Serbia này.

“Djokovic khi đó mới 6 tuổi, nhưng có đôi mắt tham vọng và linh hồn tràn đầy sự khát khao trở thành nhà vô địch. Tôi tin chắc rằng cậu ấy sẽ trở thành một nhà vô địch quần vợt”, HLV Gencic nhớ lại khoảnh khắc năm xưa.

Gencic có một sân tập quần vợt tại vùng núi Kopaonik. 6 năm tiếp theo, Djokovic luôn theo bà đến đây tập luyện.

Nỗi sợ bị không kích bao trùm mọi buổi huấn luyện, đặc biệt là sau khi Chiến tranh Kosovo leo thang. Năm 2014, Djokovic vẫn còn nhớ rõ về nỗi ám ảnh này: “Chúng tôi sẽ đến những nơi bị đánh bom nhiều nhất để tập luyện, đoán rằng họ sẽ không ném bom lại những chỗ đó trong vòng 2 ngày nữa”.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 2.

Gencic là một bậc thầy lão luyện về quần vợt, người đào tạo các nhà vô địch Grand Slam nổi tiếng như Seles, Ivanisevic, Jausovec và Majoli. Khi nhận ra Djokovic đã “đủ lông đủ cánh” và cần một sân khấu lớn hơn, bà thúc giục anh đăng ký học tại Nicky Pilic Tennis School ở Munich (Đức).

Ngày ra đi, Nole hứa với “người mẹ thứ hai” của mình rằng anh sẽ trở thành cây vợt giỏi nhất thế giới trong tương lai.

Năm 2003, Djokovic chính thức trở thành tay vợt chuyên nghiệp khi mới chỉ 15 tuổi. 3 năm sau, anh giành chức vô địch ATP đầu tiên, rồi dần dần lọt vào top 10 thế giới. Cuối cùng, cây vợt người Serbia cũng chạm tay được tới chức vô địch Grand Slam đầu tiên, giữ đúng lời hứa trở thành số 1 thế giới với người thầy năm nào của mình.

Năm 2013, Jelena Gencic qua đời ở tuổi 76. Có thể nói, nếu không có bà, cũng sẽ chẳng có Djokovic của ngày hôm nay.

“Tôi biết rằng linh hồn bà sẽ luôn ở bên tôi và trên sân quần vợt, bởi đó là điều bà yêu nhất trong cuộc đời mình. Không kết hôn hay sinh con, bà cống hiến cả cuộc đời cho quần vợt để bồi dưỡng những tài năng trẻ. Tôi sẽ tiếp tục nơi bà ấy đã dừng lại”, Djokovic nói.

“Tất cả những danh hiệu tôi giành được từ trước đến nay đều là vinh quang của tôi và bà ấy”.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 3.

Jelena Gencic và cậu học trò tài năng của mình

Đường lên đỉnh chông gai khi đối thủ lớn nhất lại là… chính mình

Ở giải Croatia Mở rộng năm 2006, tài năng trẻ Djokovic đã hiên ngang bước vào trận chung kết với Wawrinka, sau chuỗi 9 chiến thắng liên tiếp. Khán giả dành sự cổ vũ nhiệt liệt dành cho tay vợt vô danh người Serbia, khi ấy mới 19 tuổi.

Thoạt đầu, Djokovic dẫn trước tuyệt đối. Thế nhưng, không lâu sau đó, mọi âm thanh trên khán đài bỗng dưng biến mất. Anh không thể di chuyển, đầu óc trở nên quay cuồng, ngay cả quả bóng trước mặt cũng hết sức mờ ảo. Trước sự bàng hoàng của khán giả và đối thủ, Nole gục ngã ngay trên mặt sân đất nện.

Đây không phải lần đầu Djokovic gặp vấn đề thể lực.

1 năm trước, trong trận ra mắt giải Pháp Mở rộng, tay vợt người Serbia cũng đột ngột cảm thấy kiệt sức và khó thở, buộc phải dừng trận đấu lại ở set thứ ba. Anh cũng từng ngất xỉu trên sân trong khuôn khổ giải Mỹ Mở rộng.

Các bài kiểm tra sức khỏe cho thấy, Djokovic không có dự trữ thể chất tốt, lại gặp căng thẳng về tâm lý. Điều này giống như một rào cản ma thuật: bất cứ khi nào tay vợt này muốn tiến thêm một bước để trở thành kẻ mạnh nhất, sẽ có một sợi dây vô hình níu giữ anh lại.

Mỗi năm, các tay vợt chuyên nghiệp phải thi đấu liên tục suốt 11 tháng. Ngay cả khi vừa giành chiến thắng trong một trận đấu kinh điển, nhưng lại bỏ cuộc giữa chừng ở những vòng sau, thành công sẽ còn rất xa vời.

Djokovic đã nghĩ rất nhiều về sự nghiệp của mình. Ước mơ của anh không chỉ là trở thành tay vợt hàng đầu; Nole còn muốn tên tuổi mình sánh ngang với các huyền thoại như Federer và Nadal.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 4.

Vì thế, tay vợt người Serbia cố gắng cải thiện tình trạng của mình. Anh chăm chỉ tập tạ cả sáng lẫn chiều, thay đổi HLV và sử dụng phương pháp tập luyện khác để xem liệu mình có thể ngăn cơ thể khỏi bị đuối sức không.

Đôi khi, tôi chạy bộ vài giờ để đảm bảo rằng mình không gặp vấn đề gì về thể chất. Thậm chí, tôi còn phải phẫu thuật mũi để thở dễ dàng hơn“, Nole chia sẻ.

Những người đang gặp khó khăn trên đỉnh cao thường nói: “Đối thủ lớn nhất là chính mình”. Djokovic hiểu rằng mình chỉ là một ngôi sao mới nổi, vẫn còn tiềm năng lớn để phát huy. Nếu không thể khắc phục những thiếu sót về thể chất từ sớm, anh sẽ không thể nào tiến xa trong sự nghiệp quần vợt.

Năm 2008, ở tuổi 21, Djokovic giành được Grand Slam đầu tiên tại giải Úc Mở rộng. Tuy nhiên, khi anh đang hướng tới chức vô địch 1 năm sau đó, tình trạng thể chất yếu kém lại buộc tay vợt này nghỉ thi đấu ở vòng tứ kết.

Cuối năm 2009, Djokovic chuyển nơi huấn luyện đến Abu Dhabi (UAE). Anh hy vọng thời tiết tương tự ở Vịnh Ba Tư sẽ giúp mình chuẩn bị tốt hơn cho giải Úc Mở rộng vào năm tới.

Thế nhưng, khi đối mặt với Tsonga ở trận tứ kết năm 2010, lời nguyền thể lực lại ập đến với Djokovic. Anh phải xin nghỉ giữa hiệp, lao vào phòng thay đổi để nôn thốc nôn tháo, rồi tiếp tục trở lại thi đấu trong trạng thái trống rỗng.

“Nửa sau trận đấu giống như một cực hình”, tay vợt người Serbia rùng mình khi nhớ lại.

Dù sở hữu nhiều chức vô địch trong tay, Djokovic từng nghi ngờ liệu thể lực và tinh thần của mình có đủ sức cạnh tranh với những tay vợt hàng đầu thế giới không. Anh không thiếu kỹ năng, tiền bạc và niềm tin chiến đấu, vậy vấn đề nằm ở đâu?

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 5.

Tháng 7/2010, một chuyên gia dinh dưỡng đã tiến hành kiểm tra chế độ ăn của Djokovic. Hóa ra, anh bị dị ứng gluten, khiến cho lượng protein này trong cơ thể anh vượt mức báo động. Đây là hiện tượng khá phổ biến, cứ 100 người lại có 1 người mắc phải. Tuy nhiên, đối với Nole, nó có thể đe dọa chấm dứt sự nghiệp của anh.

Kể từ đó, tay vợt người Serbia kiểm soát chặt chẽ chế độ ăn uống của mình. Phong độ trên sân cũng vì thế mà ổn định hơn.

Năm 2011, anh đạt được một loạt thành tích lớn trong sự nghiệp: thắng 10/11 trận đối đầu với Federer và Nadal, 10 chức vô địch trong năm (3 Grand Slam tại Úc Mở rộng, Wimbledon và Mỹ Mở rộng, 5 Master), thắng 70 trận cả năm (thua 6 trận, lập kỷ lục 41 trận thắng liên tiếp), xếp hạng số 1 thế giới.

Đây là giai đoạn mà Djokovic lần đầu chạm đến đỉnh cao. Thần tượng của anh – cựu tay vợt số 1 người Mỹ Pete Sampras – từng nhận xét: “Djokovic trong năm 2011 là tay vợt vĩ đại nhất mà tôi từng thấy trong đời. Anh ấy thậm chí có thành tích cá nhân tốt nhất trong lịch sử thể thao”.

Khúc ca khải hoàn của “chiến binh bất tử” 

Trên sân, Novak Djokovic thi đấu chính xác như một cỗ máy. Biết mình không phải “xạ thủ hạng nặng” có thể giao bóng mạnh, kể từ năm 2015, anh tập trung trau dồi kỹ năng để hành động chuẩn xác và tinh gọn, nhưng đủ linh hoạt và biến hóa.

Huyền thoại quần vợt Andre Agassi – người sở hữu những cú giao và nhận bóng xuất sắc – đã nhận xét, kỹ thuật của anh còn tốt hơn cả ông hồi còn ở đỉnh cao. Agassi từng làm HLV cho Nole trong một thời gian dài.

Ở góc độ chuyên môn, không quá lời khi nói rằng Djokovic là tay vợt có kỹ thuật tốt nhất.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 6.

Thế nhưng, quần vợt không bao giờ chỉ là một cuộc đấu kỹ thuật. Mỗi cú đánh trên sân là biểu hiện cho sức mạnh và trạng thái gần đây của người chơi. Không ai có thể ở trên đỉnh cao mãi mãi. Dưới lịch thi đấu dày đặc và các buổi tập cường độ cao, chấn thương là điều không tránh khỏi.

Tại Wimbledon 2017, Djokovic đã tuyên bố rút lui khỏi tất cả các trận còn lại trong năm vì chấn thương khuỷu tay. Đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp mà Nole phải nếm mùi tạm ngừng thi đấu vì chấn thương. Dự định lập kỷ lục tham gia Grand Slam 51 lần liên tiếp, vô địch Grand Slam 6 năm liên tiếp của anh cũng phải dừng lại.

Bất chấp tin đồn giải nghệ, sau 6 tháng tĩnh dưỡng, Djokovic trở lại sân đấu bằng giải WImbledon. Dù chỉ được xếp hạng thứ 14, tay vợt người Serbia không hề cảm thấy nản lòng.

“Tôi chưa bao giờ coi bất cứ điều gì là tất yếu. Tôi luôn nhớ rằng có hàng nghìn VĐV quần vợt trên thế giới này đang cạnh tranh vị trí của tôi”, anh nói. “Nếu có một điều tôi học được từ môn thể thao này, đó là phải nhanh chóng vui lên sau thất bại, bỏ lại những điều khó chịu phía sau, phải kiểm soát được cảm xúc của mình.”

Phong độ của Djokovic dần dần hồi phục. Tháng 7/2018, Djokovic đánh bại Anderson trong nhiều set liên tiếp để giành chức vô địch Wimbledon lần thứ tư.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 7.

1 tháng sau đó tại Cincinnati Masters, Djokovic đạt được “Golden Master”, trở thành người đầu tiên đạt danh hiệu này kể từ khi ATP Masters ra đời vào năm 1990. Tháng 9/2018, anh giành chức vô địch Grand Slam lần thứ 14 tại giải Mỹ Mở rộng.

Tháng 2/2020, Djokovic trở lại ngôi vị số 1 thế giới sau khi giành danh hiệu Grand Slam thứ 17 tại giải Úc mở rộng. 4 tháng sau đó, anh mắc Covid-19 nhưng nhanh chóng hồi phục, rồi giành danh hiệu ATP Tour Masters 1000 lần thứ 36, vượt qua kỷ lục của Nadal.

Tháng 3/2021, Djokovic tiếp tục vượt qua kỷ lục 310 tuần ở vị trí số 1 thế giới mà Federer đã thiết lập trước đó. Anh trở thành tay vợt đầu tiên trong lịch sử giành được những thành tựu huy hoàng sau chấn thương.

Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng

10 năm gần đây là kỷ nguyên huy hoàng của quần vợt nam. Trận tranh tài nào cũng diễn ra hết sức hấp dẫn, nhiều gương mặt tài năng cạnh tranh nhau vô cùng khốc liệt. Djokovic, Nadal và Federer cũng chạy đua với nhau từng ngày.

“10 năm trước, tôi có thể không cảm thấy hạnh phúc khi ở cùng thời kỳ với Nadal và Federer. Nhưng bây giờ thì tôi thực sự hạnh phúc”, anh nói.

Chiến binh bất tử Novak Djokovic và nỗ lực chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Federer-Nadal: Muốn đội vương miện, phải chịu được sức nặng của nó - Ảnh 8.

Năm 2015, sau khi đạt được những kỳ tích mà Federer và Nadal chưa từng làm được, Nole nói rằng anh sợ mình không tìm được động lực thi đấu. Điều này đã khiến người hâm mộ lo lắng trong một thời gian dài.

Khi chạm lên đến đỉnh cao, ta sẽ nghĩ ta có mọi thứ, động lực cũng mất dần. May mắn thay, Djokovic đã chọn tiếp tục vung vợt, bất kể đang ở đỉnh cao hay dưới vực thẳm. Anh muốn khiến cho mọi người vui vẻ và bản thân anh cũng thích điều đó.

Tại Wimbledon 2018, Djokovic đã viết một bức thư kể về cách bản thân vượt qua giai đoạn suy sụp trong sự nghiệp. Gia đình là một động lực quan trong giúp anh tìm lại sức mạnh đã mất của mình. Mở đầu bức thư, tay vợt người Serbia đã viết một cách đầy dịu dàng: “Bức thư này được viết giữa những lần thay tã và đọc cho con nghe những mẩu chuyện nhỏ”.

Sự dịu dàng này cũng đảm bảo sự vững chắc cho ngai vàng của Djokovic. Bất kể thành công hay thất bại, vô địch hay bị loại, Djokovic luôn tâm niệm: “Ngày mai là một ngày mới. Tôi sẽ tiếp tục tiến về phía trước và tiếp tục chiến đấu để giành chiến thắng trong mọi trận đấu. Bất kể kết quả thế nào, tôi đều rất trân trọng”.

Là một trong những tay vợt có tinh thần và tâm lí thi đấu vững chãi nhất hành tinh, Nole luôn biết cách phục hồi mạnh mẽ để trở lại đỉnh cao của mình.

“Chỉ khi cơ thể, ý chí và cảm xúc được cân bằng, bạn mới có thể thi đấu trong trạng thái tốt nhất”, anh nói. Ở tuổi 34, Nole có lẽ sẽ còn thống trị thế giới quần vợt trong khoảng thời gian rất lâu nữa.

(Theo Zhihu)

Tú Khê

Theo Trí thức trẻ

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía
Không phải người giàu có nào cũng muốn để lại hết khối tài sản khổng lồ cho con cái của mình. Những thành viên của tầng lớp ưu tú này luôn muốn con cái của họ phải biết nỗ lực vượt qua nó.

Có cha mẹ giàu có và nổi tiếng luôn đi kèm với những đặc quyền, trong đó có thể bao gồm một khoản thừa kế lớn. Nhưng một số doanh nhân và người nổi tiếng lại không muốn để khối tài sản cho con cái của họ. Thay vào đó, họ tìm cách quyên góp tài sản cho các tổ chức từ thiện hoặc đơn giản họ chỉ muốn con mình vượt qua sự cám dỗ của tiền bạc.

1. Mark Zuckerberg

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 1.

Người sáng lập Facebook Mark Zuckerberg đã trở thành tỷ phú trước tuổi 32 và hiện nay, giá trị tài sản ròng của anh trị giá khoảng 104 tỷ đô la. Nhưng anh ấy sẽ không chia phần lớn số tiền cho các con gái của mình, Max (4 tuổi) hoặc August (3 tuổi). 

Trong một bức thư gửi cho con gái mới sinh vào năm 2015, Zuckerberg và vợ, Priscilla Chan, cam kết cho đi 99% cổ phần công ty, trị giá 45 tỷ đô vào thời điểm đó. Theo lá thư, mục tiêu của cặp vợ chồng khi quyên góp quỹ là để “nâng cao tiềm năng của con người và thúc đẩy sự bình đẳng cho tất cả trẻ em trong thế hệ tiếp theo.”

2. Bill Gates 

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 2.

Bill Gates, người có khối tài sản ròng trị giá 137 tỷ đô, không có ý định chuyển giao tài sản khổng lồ cho các con của mình, Jennifer, Rory và Phoebe. Ông trùm kinh doanh gần đây đã giải thích rằng các con của ông sẽ được tạo mọi cơ hội để được học hành, nhưng chúng sẽ không sống dựa vào một khoản thừa kế kếch xù.

“Những đứa trẻ của chúng tôi sẽ nhận được một nền giáo dục tuyệt vời và một số tiền, vì vậy chúng sẽ không bao giờ phải sống nghèo khó, nhưng chúng sẽ ra ngoài và có sự nghiệp của riêng mình”, ông nói với tờ This Morning. “Việc để chúng thừa kế một khối tài sản khổng lồ không phải là điều có lợi cho những đứa trẻ.”

3. Warren Buffett

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 3.

Warren Buffett đã tích lũy được khối tài sản trị giá 93 tỷ đô, nhưng chỉ một phần nhỏ trong số đó sẽ dành cho ba người con của ông. Trên thực tế, nhà đầu tư kinh doanh đã cam kết cho đi 99% tài sản của mình trong suốt cuộc đời. Ông đã tạo ra The Giving Pledge để thuyết phục nhiều người kiếm tiền hàng đầu thế giới để lại tài sản của họ cho các tổ chức phi lợi nhuận và ông đã quyên góp hàng tỷ đô la cho tổ chức từ thiện.

“Gia đình tôi sẽ không nhận được số tiền khổng lồ từ khối tài sản của tôi. Điều đó không có nghĩa là họ sẽ không nhận được gì”, Buffett nói trên CNBC. “Các con tôi đã nhận được một số tiền từ tôi và Susie, và chúng sẽ còn nhận được nhiều hơn nữa. Tôi vẫn tin vào triết lý… rằng một người rất giàu nên để lũ trẻ của mình đủ khả năng làm bất cứ điều gì chúng muốn nhưng không đủ khi chúng không làm gì cả.”

4. Ted Turner

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 4.

Ted Turner là một trong những ông trùm truyền thông hàng đầu thế giới, với giá trị tài sản 2,2 tỷ đô. Mặc dù doanh nhân đã cho phép năm đứa con của mình tham gia vào công việc từ thiện của mình, nhưng ông không để lại cho chúng một chút tài sản thừa kế nào.

“Vào thời điểm tôi qua đời, hầu như tất cả tài sản của tôi sẽ được chuyển cho tổ chức từ thiện”, Turner viết trong lá thư Giving Pledge. “Tôi đặc biệt cảm ơn lời khuyên của cha tôi rằng hãy đặt ra những mục tiêu cao đến mức không thể đạt được trong suốt cuộc đời và giúp đỡ ở những nơi cần sự giúp đỡ nhất. Nguồn cảm hứng đó giúp tôi tràn đầy năng lượng và mong muốn tiếp tục làm việc chăm chỉ mỗi ngày trả lại và làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn cho các thế hệ sau.” 

5. Nigella Lawson

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 5.

Nigella Lawson được thừa kế tài sản từ gia đình riêng của mình, nhưng cô ấy không có kế hoạch tiếp tục truyền thống đó. Nữ hoàng sách dạy nấu ăn, người sở hữu khối tài sản trị giá 20 triệu đô la, sẽ không để lại tài sản cho hai đứa con của mình – Cosima và Bruno. “Tôi xác định rằng các con tôi không nên có sự an toàn về tài chính. Điều đó làm hỏng suy nghĩ của chúng rằng mọi người không phải kiếm tiền”, cô nói với tạp chí My Weekly.

6. George Lucas

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 6.

George Lucas là một trong những đạo diễn giàu có nhất ở Hollywood. Anh ấy đã tích lũy được khối tài sản hơn 6,5 tỷ đô la, nhưng 4 đứa con của anh ấy sẽ không được hưởng tất cả thành quả lao động của anh ấy. Trên thực tế, nhà làm phim đã tham gia quỹ Giving Pledge của Warren Buffett và Bill Gates, và quyết định sẽ quyên góp một nửa số tiền của mình cho tổ chức từ thiện. “Tôi đang cống hiến phần lớn tài sản của mình để cải thiện giáo dục”, tác giả “Chiến tranh giữa các vì sao” viết trong lá thư cam kết năm 2010. “Đó là chìa khóa cho sự tồn vong của loài người”

7. Jackie Chan

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 7.

Thành Long, người có giá trị tài sản ròng trị giá 400 triệu đô, đang có kế hoạch dành phần lớn số tiền của mình cho quỹ từ thiện thay cho con trai của mình, Jaycee. Nam diễn viên là Đại sứ thiện chí của UNICEF, các chiến dịch chống ngược đãi động vật và là người sáng lập Quỹ từ thiện Thành Long, chuyên cung cấp học bổng cho thanh niên Hong Kong. “Nếu con tôi có khả năng, nó có thể tự kiếm tiền. Nếu không, nó sẽ chỉ lãng phí tiền của tôi”, Chan chia sẻ.

8. Sting

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 8.

Nhạc sĩ người Anh Sting, người có khối tài sản ròng trị giá 400 triệu đô, nói rằng ông không để lại bất kỳ khoản tiền mặt nào cho sáu người con của mình – Joe, Fuchsia, Mickey, Jake, Eliot và Giacomo. Trong một cuộc phỏng vấn với Daily Mail, nhạc sĩ cho biết ông dự định sẽ tiêu phần lớn tài sản của mình.

“Tôi nói với chúng rằng gia đình sẽ không còn nhiều tiền vì tôi và vợ đang chi mạnh cho các cam kết thiện nguyện. Các con tôi phải tự kiếm tiền. Tất cả chúng đều hiểu điều đó và chúng hiếm khi yêu cầu tôi bất cứ điều gì. Tôi thực sự tôn trọng và đánh giá cao thái độ này.” 

9. Elton John

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 9.

Elton John và chồng David Furnish có tổng giá trị tài sản ròng là 550 triệu đô la, nhưng họ không có kế hoạch để lại phần lớn số đó cho các con trai của mình, Elijah và Zachary. “Tất nhiên, tôi muốn để các cậu con trai của mình ở trong tình trạng tài chính thật ổn định. Nhưng thật tồi tệ khi cho bọn trẻ một chiếc thìa bạc. Nó sẽ hủy hoại cuộc đời chúng”, biểu tượng âm nhạc thế giới nói với Daily Mirror.

10. Simon Cowell

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 10.

Simon Cowell có khối tài sản ròng trị giá 600 triệu đô la, nhưng ông không có ý định truyền lại tài sản của mình cho con trai mình, Eric. Giám khảo “X Factor” cho biết anh không tin vào việc chuyển tiền từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Tôi sẽ để lại tiền của mình cho ai đó. Một tổ chức từ thiện, có thể là dành cho trẻ em và chó”, anh ấy nói với tạp chí Esquire vào năm 2013. “Tôi không tin vào việc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tài sản của bạn phải là hy vọng rằng bạn đã cho đủ cơ hội để chúng có thể làm tốt và bạn đã cho chúng thời gian của mình, dạy chúng những gì bạn biết.”

11. Gene Simmons

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 11.

Gene Simmons đã vươn tới đỉnh cao tài chính với giá trị tài sản trị giá 400 triệu đô la. Tuy nhiên, tay bass của Kiss không sẵn sàng giao tài sản của mình cho hai đứa con của mình, Nick và Sophie.

 “Điều tôi muốn làm là những gì mọi con chim làm trong tổ của nó – điều đó buộc lũ trẻ phải ra ngoài đó và tự tìm hiểu. Về tài sản thừa kế và mọi thứ, chúng sẽ được chăm sóc, nhưng chúng sẽ không bao giờ giàu nhờ tiền của tôi.”

12. James Brown

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 12.

Trước khi qua đời vào năm 2006,  ca sĩ James Brown đã quyên góp phần lớn tài sản trị giá 100 triệu đô la của mình cho I Feel Good Trust, một tổ chức từ thiện gây quỹ cho trẻ em kém may mắn ở Nam Carolina.  “Ý định của anh ấy cuối cùng cũng được thực hiện, và nó sẽ mang lại lợi ích cho trẻ em Nam Carolina và Georgia,” Dylan Malagrinò, giáo sư tại Trường Luật Charleston ở Nam Carolina nói với The New York Times. “Hầu hết mọi người sẽ nhìn vào đó và nghĩ rằng đó là một quyết định thực sự đúng đắn.”

13. Andrew Lloyd Webber

Bill Gates và 12 người giàu có nổi tiếng khác không để lại khối tài sản khổng lồ cho con cái: Lý do đằng sau sẽ khiến bạn phải suy ngẫm, càng trưởng thành càng thấy thấm thía - Ảnh 13.

Andrew Lloyd Webber có tài sản ròng trị giá 1,2 tỷ đô, nhưng ông không có ý định chuyển khối tài sản khổng lồ của mình cho 5 người con – Imogen, William, Alastair, Nicholas và Isabella. Nhà soạn nhạc người Anh muốn gia đình anh học được tầm quan trọng của việc lao động.

“Họ không bận tâm. Họ không nghĩ như vậy. Đó là về đạo đức làm việc – Tôi không tin vào tiền thừa kế chút nào”, anh nói với Daily Mirror. “Tôi không ủng hộ những đứa trẻ đột nhiên được nhận quá nhiều tiền, bởi vì khi đó chúng không còn động lực để làm việc.” Webber cho biết phần lớn số tiền của anh sẽ dành cho các chương trình xã hội giúp đỡ các ca sĩ và nhà soạn nhạc đang gặp khó khăn.

Theo Trí thức tre

Mai Ngọc

Việt Nam: khi chính quyền bị nhiễm “virus thành tích”

Khôi phục dần hoạt động du lịch?

NGUYỄN LONG CHIẾN

Chuyện Việt Nam nói hoài không hết: mới đây, một tòa án cấp huyện “vẽ” ra 59 vụ án ảo để lấy thành tích báo cáo thi đua. Thành tích, người ta hay gọi nó là bịnh, bây giờ lây nhanh không thua Covid-19.

Trong lúc thành phố Sài Gòn chủ trương giãn cách thì cũng thành phố làm lễ ra quân chích ngừa vaccine rầm rộ. Tập họp đông người không là “mồi” cho virus chắc? Chích ngừa là lo cho sức khỏe nhân dân. Cần phải biểu dương lực lượng để nhân dân thấy nhà chức trách yêu thương nhân dân? Rồi một cháu bé 5 tuổi mang một số tiền 100 triệu đồng “tiết kiệm” hai năm ra để ủng hộ quỹ mua vaccine. Nhìn cặp mắt cháu trong ảnh, tôi thấy dường như cháu có vẻ bất an: số tiền lớn như thế, ngay cả một vị bộ trưởng cũng không có để ủng hộ quỹ, huống hồ chi cháu; bất an là phải rồi. Cháu được truyền thông quảng bá như một “Phù Đổng Thiên Vương” thời đại dịch. Trẻ con tuổi cháu có em còn phải đi bán vé số không đủ ăn để sống. Tiền tiết kiệm “to” như thế chỉ có thể nhờ… “Thánh Gióng” độ trì.

Theo tôi, bịnh thành tích xuất phát từ hai yếu tố: tự tôn và tự ty. Vì tự ti, người ta mới yêu thích thành tích – thành tích càng to, tự tôn, tự ti càng lớn. Thành tích là lẽ sống còn trong chốn quan trường? Đố ai thăng tiến nếu không có thành tích.

Ban đầu, thành tích là để đo lường khả năng cống hiến cho xã hội của mỗi con người trong guồng máy quốc gia. Càng về sau, thành tích là mục tiêu chứ không phải mục tiêu là cống hiến. Tôi thường thấy, người thật sự muốn cống hiến, hơi trớ trêu, lại là người không màng thành tích.

Người ta hay nói, giáo dục là máy cái của mọi cỗ máy. Máy cái nghe sao máy móc quá. Không sao. Trong học đường, sản phẩm của máy cái, thành tích không còn là ghi nhận công lao giảng dạy và học tập mà trở thành những con số “ám ảnh” không những trò lẫn thầy, ngành giáo dục, mà cả xã hội.

Tôi từng là học sinh rồi sinh viên, được đào tạo một thời gian gần 15 năm trong nền giáo dục thể chế VNCH. Học bạ chúng tôi có ghi điểm số, thứ hạng, cả giấy khen (gọi là bằng danh dự) của từng tháng, từng học kỳ, từng năm, từng cấp học. So sánh với các cháu học sinh và sinh viên, chúng tôi thấy việc học hành thế hệ chúng tôi không nặng nề bằng thế hệ các em sau này. Có thể học chương trình nhẹ hơn, “thấp” hơn, nhưng chúng tôi và cả thầy cô không hề bị áp lực bởi thành tích, hay vật vã với chỉ tiêu thi đua.

Học là học cho bản thân không phải để học cho người khác. Thành tích nếu có là ghi nhận công sức học tập mà không phải để làm điều kiện thi đua, đánh giá phẩm chất học sinh. Dạy là để cho học sinh tiến bộ như thầy, hơn thầy, chứ không phải dạy để đạt thi đua danh hiệu này kia. Mục đích tối thượng của dạy học là giúp “khai trí” học sinh. Thi đua lập thành tích không phải là mục tiêu của người thầy; tiền đồ của người thầy là tiền đồ dành cho học sinh. Thế thì cần gì phải phấn đấu trở nên “thầy giáo ưu tú”, “thầy giáo nhân dân”?

Học sinh học để mở mang trí tuệ chứ không phải để đạt học sinh giỏi, học sinh xuất sắc. Giỏi, xuất sắc được ghi nhận chứ không phải lấy “giỏi”, “xuất sắc” là mục đích học tập cho thành tích thi đua.

Máy cái sẽ đẻ ra các cỗ máy con. Giáo dục làm sao để con người không coi thành tích là tối thượng: cống hiến mới là tối thượng.

Giáo dục như vậy có quá lý tưởng, có là không tưởng?

Không đạt đến một mức độ giáo dục con người Việt Nam thành những người cống hiến – tùy theo vai trò của mình trong xã hội – thì chí ít, giáo dục cũng không thể coi thi đua lập thành tích là… “cống hiến”.

Người ta cho rằng thi đua lập thành tích là… yêu nước. Có chỗ nào đó “sai sai” không?

Thi đua là yêu nước. Yêu nước là thi đua. Một số người có suy nghĩ như thế. Tôi thấy hơi bất ổn. Chúng ta không thi đua nhưng yêu nước, được không? Một người chạy xe ôm mỗi ngày làm ra vài trăm ngàn; anh ta không thể “thi đua” với ai cả. Thi đua mà vắng khách thì làm sao thi đua? Anh này không “yêu nước” ư? Đưa một người gấp rút đến trạm xá băng bó vì tai nạn té xe, anh xe ôm nhận thù lao nhưng anh đã làm một việc có ích: giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn. Yêu đồng bào – tôi cho là đó là yêu nước. Anh xe ôm này không được xem là yêu nước vì không thi đua với đồng nghiệp đưa người bị nạn đi cấp cứu? Những nhân viên y tế, những bác sĩ trên tuyến đầu chống dịch, nguy hiểm tính mạng rình rập họ từng giờ từng phút. Lấy lại lẽ sống cho một người sắp chết vì Covid, ngăn chặn dịch lây lan… là cống hiến hay thi đua?

Mọi người ở mọi cương vị tận tâm với công việc của mình chính là cống hiến. Mục đích tận tâm vì công việc để có thành tích thi đua, điều ấy thế nào?

Khi con người làm việc mà không đoái hoài đến thành tích, họ sẽ tự do cống hiến, có thể nói nhiều hơn khi nghĩ đến thi đua.

Đây là điều đơn giản lại hóa ra rất phức tạp và không dễ dàng biến thành hiện thực. Tự tôn hay tự ty, tôi nghĩ, chính là thủ phạm đẻ ra thành tích. Đối nghịch với hai cái này là khiêm cung và tự tin. Không cần thành tích, người ta sẽ tự do có cống hiến nhiều hơn hay ít hơn? Tự tin và khiêm cung, tôi thấy không nhiều trong con người Việt Nam ngày nay, nhất là ở những nhà quản trị đất nước. Nếu gọi là tính cách – cho văn vẻ hơn – căn tính dân tộc, thì TỰ TÔN và TỰ TI có lẽ là phổ biến. Đây là cội nguồn của bịnh thành tích. Điều rất buồn, căn tính này vẫn không hề thay đổi như hơn 100 năm trước lúc cụ Phan Châu Trinh vạch ra: “Dân tộc nước Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối nhau: một là đặc tính bài ngoại và ỷ ngoại; hai là đặc tính tự tôn và tự ti (*)

Người ta nóng lòng cải cách giáo dục bằng đủ mọi biện pháp. Có một biện pháp đơn giản không thấy nói đến: làm sao biến học sinh tự tôn, tự ti thành công dân tự tin và khiêm cung. Biết đâu hết bịnh thành tích. Chích ngừa cho người dân là một nhiệm vụ. Làm từ thiện (như góp tiền mua vaccine) là việc tự tâm. Các việc này không phải là thành tích để tự hào. Làm được như thế, người ta sẽ thấy ra, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam không nên đặt trọn vào một đội bóng đá, đá bằng chân, và một ông ngoại quốc có tên “lạ hoắc” Park Hang-seo.

(*) Pháp Việt Liên hiệp hậu chi tân Việt Nam, Phan Châu Trinh, Phan Châu Trinh toàn tập, tập 3, trang 57-58, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005.

Theo Saigon Nhỏ

BUN KHÔNG CHỈ CÓ HOA HỒNG

Trích “Đông Âu Anh Hùng Truyện”
của Nam Nguyen

Cuối năm 1980 bắt đầu có nhiều người Việt Nam sang Bungaria làm việc ở các nhà máy và trang trại theo diện “hợp tác lao động” và tạo ra cộng đồng người Việt Nam tương đối đông với mục đích chung chả cần phải bảo cũng đều biết, là kiếm tiền chuyển thành hàng hóa mang về làm kinh tế gia đình. Cũng từ những năm 80-81, một số nhỏ sinh viên Việt Nam ở Sofia bắt đầu quan tâm đến việc làm ăn như buôn bán đô la Mỹ, chuyển hàng may mặc từ Việt Nam sang (ngày đó chỉ có một vài kiểu áo nữ nghèo nàn như áo phông cành mai, áo thêu rồng phượng và quần jeans) và mua hàng từ cửa hàng miễn thuế (cassette, quần áo,…) ra bán cho dân “quốc tịch” Digan và Thổ.

Từ năm 1982 khi có nhiều người thuộc diện hợp tác lao động bắt đầu về phép thăm gia đình thì hình thành dịch vụ sân bay chuyên lo vé máy bay và chuyển hàng hóa về nước. Đường dây của anh L và anh Ph chiếm lĩnh sân bay Sofia và được coi là những người “gặt hái” được nhiều tiền nhất lúc bấy giờ. Nước Bungari nhỏ bé, dân số khoảng 8-9 triệu người, người Bun hiền lành và chân chất với thu nhập khiêm tốn nên thị trường rất nhỏ so với Liên Xô và các nước Đông Âu khác.

HỌC PHÍ

Nó học ở thành phố lớn thứ hai của Bun là Plovdiv. Vào kỳ nghỉ hè năm 1984, anh C. học trên 3 khóa vừa tốt nghiệp nói với nó “anh bắt đầu làm ăn cùng vợ chồng anh Th. (là đồng hương Hải Phòng của anh C. và là công nhân xuất khẩu lao động) nhưng anh sẽ chỉ ở lại được 1 năm, muốn tìm người tin cậy tiếp tục hợp tác với vợ chồng anh Th. vì hai người không biết tiếng dễ bị mất mối. Ở trường Hóa anh thấy em là đứa nhanh nhẹn, đàng hoàng nên rủ em”. Nó rất ngạc nhiên vì từ trước tới giờ có biết làm ăn gì ngoài “đi cày” vào những dịp nghỉ hè (ngày ấy tụi sinh viên thường gọi việc đi làm vào mùa hè là “đi cày”). Các mùa hè trước nó thường tham gia lao động hè một tháng do Đại Sứ Quán tổ chức – đây là việc bắt buộc cho các sinh viên chưa có chương trình thực tập trong mùa hè theo chuyên ngành học (thông thường từ hè năm thứ 3 mới có thực tập môn ngành) – sau đó xin việc ở nhà máy hoặc trang trại nào đó làm cho hết hè.

Mức thu nhập từ lao động hè cao hơn học bổng một chút nên chỉ đủ mua chút quà nhỏ gửi về cho gia đình. Nó suy nghĩ và đồng ý với điều kiện có sự tham gia của “lão” B. sau này là bố của các con gái nó. Anh C. đồng ý cho B. cùng tham gia với điều kiện chỉ tham gia các công việc “hậu cần” chứ không tham gia việc “ngoại giao” với mối hàng. Khởi đầu là việc may quần jeans với nguồn vải mua từ một cửa hàng anh C. đã tạo được mối quan hệ. Việc đầu tiên chúng nó cần làm là vay vốn để mua máy khâu, thuê một căn nhà nhỏ cho anh C. ở và là nơi may quần jeans. Vợ chồng anh bạn tên Nenko rất nhiệt tình đã cho chúng nó vay 1.000 Lê-va là khoản tiền rất lớn đối với sinh viên lúc đó để mua một chiếc máy khâu Ba Lan hiệu “Lucznik 466” và mấy trăm tiền mặt còn dư góp vốn cùng nhóm.

Nó đã quen lao động từ bé, từ nấu nướng giặt giũ cho đến đan len may vá từ thưở còn cắp sách tới trường để giúp bố mẹ, thậm chí cỗ bàn cũng có thể một tay đảm đương được hết. Vốn đã biết may từ thuở học cấp hai nên việc may quần jeans rất dễ dàng với nó, mặc dù cái “nghề may quần bò” này những chủ lực chính thường là đàn ông cơ! Cứ hết giờ học là nó chạy thẳng ra nhà thuê, ngồi lỳ trên máy khâu tới 10 – 11 giờ đêm, nó may nhanh và đẹp nên là thợ may chính của nhóm. Anh C. lo liệu mua vải, phụ liệu, B. lo khâu cắt, vợ chồng anh Th. chuyển quần xuống các mối nơi L. là vợ anh Th. ở, cách thành phố Plovdiv khoảng 2-3 tiếng đi tàu xe. Giá thành một chiếc quần jeans chừng 30 Lêva, giá bán sỉ khoảng 45-50 Lêva, mỗi tuần bán ra được khoảng 40 cái. Nó chỉ biết chăm chỉ ngồi may mà chả quan tâm đến việc mua bán diễn ra như thế nào nhưng dường như anh C. và vợ chồng anh Th. rất hài lòng với mọi việc.

Thời gian trôi thật nhanh, tới lúc anh C. phải về nước vì đã ở quá hạn 1 năm. Thời gian này vải ka-tê của Bungari đã có giá ở thị trường Việt Nam, anh C. mua chật 1 góc nhà các loại vải và chuẩn bị đóng hàng. Có thể sau gần 1 năm làm cùng nhau, tạo dựng được mối quan hệ với nguồn cung cấp vải lớn các anh thấy việc chia chác sẽ bị thiệt thòi (thống nhất tỷ lệ chia lúc đầu là anh C. 1/3, vợ chồng anh Th. 1/3 và nó cùng B. 1/3) và vợ chồng anh Th. có thể đứng vững mà không cần biết tiếng Bun nên biến cố đã xảy ra: Tháng 6/1985, anh C. và anh Th. tuyên bố không làm ăn chung nữa vì anh C. sắp về nước và vợ chồng anh Th. sẽ làm riêng. Nó hỏi anh C. sao lại khác với mục đích hợp tác ban đầu anh ấy đặt ra và chỉ nhận được những câu trả lời ngang ngang, cùn cùn. Nó hỏi về vấn đề ăn chia thì bị ông Th. trừng mắt dọa nạt nói là không có gì để chia chác.

Lúc này nó mới nhớ ra khi rủ nó hợp tác anh C. đã lưu ý rằng anh Th. giỏi võ nên khi cần chiến đấu với nhóm công nhân Việt Nam để giữ mối thì anh Th. sẽ lo liệu và giờ đây nó đang được chứng kiến sự trở mặt đến trơ tráo của hai ông anh này. Tự trách mình quá ngây thơ, chỉ biết chăm chỉ làm việc mà chả quan tâm đến kết quả và giờ đây ôm nỗi lo lớn về khoản vay vợ chồng anh bạn Nenko. Suy nghĩ mãi cuối cùng nó hiểu thêm một phần nguyên nhân anh C. rủ hợp tác là vì anh ấy đã tốt nghiệp nên không có giấy tờ để thuê nhà, vợ chồng anh Th. là công nhân phải ở theo bố trí của nhà máy nên chỉ có nó hoặc B. mới thuê được nhà. Nắm được điểm yếu này và biết chỉ có nó là nữ đứng ra “chiến đấu” thì hai lão kia mới không dám gây sự nên nó yêu cầu thanh toán phần của chúng nó, nếu không thì phải dọn hết đồ ra khỏi nhà thuê trong vòng 1 ngày. Bí quá hai lão kia áp đặt một khoản chia phần cho thời gian làm việc cật lực gần một năm của chúng nó là 20 cái quần jean được tính theo đơn giá 60 Lê-va. Số quần này đã lỗi thời kể cả bán lẻ cũng không tới giá đó nhưng nó đành chấp nhận coi như trả học phí cho việc tập tọe làm kinh doanh.

(Ghi chú: học bổng sinh viên Việt Nam ở Bun thời đó 110 Leva, khoảng 35 $, quần jeans Levis 27-28 $/cái. Nhà ăn dành riêng cho sinh viên có giá được giảm là 0,50 Lê-va/bữa chính, ăn sáng khoảng 0,30-0,40 Lê-va nhưng chất lượng bữa ăn giống như cơm bụi cho sinh viên Việt Nam bây giờ nên các nhóm hay tụ tập nấu ăn thêm vào buổi tối hoặc cuối tuần. Món khoái khẩu và dễ nấu nhất là món Fide (mì trứng) nấu với cá hộp đã trở thành món truyền thống của sinh viên. Nói chung, học bổng cũng chỉ mức đủ ăn mặc bình thường cho sinh viên. Một vài người quanh năm ăn nhà ăn và tiết kiệm mặc thì hàng tháng cũng dành được một khoản nho nhỏ cộng với tiền “đi cày” vào các mùa hè để trước khi về nước cũng có được 1-2 “viên gạch” mua đồ mang về (sinh viên dùng đơn vị “viên gạch” để ví von cho khoản tiền tương đương 1,000 Lê-va)

Công nhân thu nhập 200-300 Lêva/tháng, nhưng thường tự nấu ăn do không có nhà ăn rẻ như cho sinh viên và nhiều người không quen được với món ăn “Tây” nên cũng không dư dả nhiều.)

Ký túc xá

ÔNG BÀ XA-SÔ

Số lượng sinh viên Việt Nam ở thành phố Plovdiv – thành phố lớn thứ 2 của Bungari – không đông như ở các thành phố khác nhưng công nhân xuất khẩu lao động thì tương đối nhiều. Họ làm việc ở các nhà máy sản xuất xe nâng hàng, nhà máy dệt, nhà máy chế biến rau quả và rất nhiều công nhân làm việc tại các công trường xây dựng. Plovdiv được người Việt biết đến là nơi bán nhiều loại vải hợp với yêu cầu người Việt mang về nước, các loại vải jean và vải nhung nhập từ các nước Tây Âu và Trung Quốc để may quần áo nhái các nhãn hiệu, bán tại chỗ.

Plovdiv – thành phố cổ kính lớn thứ 2 tại Bulgari

Cả thành phố có khoảng 3-4 cửa hàng bán loại vải hợp với “khẩu vị” của người Việt và Bagra là cửa hàng vải lớn nhất với nhiều loại vải được chia thành các quầy khác nhau. Cửa hàng nằm ngay trung tâm nhìn ra quảng trường nhỏ có đài phun nước xinh xắn là nơi người dân thường ngồi thư giãn. Quản lý cửa hàng là ông Alekxanđưr (tên gọi thân mật là ông Xa-sô) khoảng 60 tuổi là người nhanh nhẹn, hơi nóng tính và có mối quan hệ rộng ở thành phố.

Cuối năm 1984, nó được anh C. dẫn đến nhà ông bà làm khách và giới thiệu là em họ. Căn hộ một phòng ngủ của ông bà nằm ngay góc ngã tư bên kia sông Marisa cách ký túc xá sinh viên chừng 1 km. Bà Elena làm việc văn phòng, tính tình nhẹ nhàng, ít giao tiếp với bên ngoài. Ông bà có vẻ quý nó ngay từ lần đầu gặp nên dặn dò “cháu ở gần đây thì thỉnh thoảng qua chơi với bà cho vui cửa nhà”. Sau lần gặp đó nó chỉ ghé cửa hàng chào hỏi ông một đôi lần cho tới khi xảy ra “cuộc chia tay không mong đợi” với hai ông anh kia. Việc trở về “âm vốn” đã dạy nó bài học khôn lỏi đầu tiên là im lặng chờ anh C. về nước rồi mới bắt đầu việc làm ăn. Hè năm đó nó đi nghỉ biển Varna chỗ cô bạn thân lâu hơn mọi năm, trở về Plovdiv với nước da không thể đen hơn và lúc đó anh C. đã về nước, chúng nó tiếp tục thuê căn nhà đó để làm ăn.

Một chiều thu nắng vẫn chói chang, nó đi qua cửa hàng Bagra thấy ông Xa-sô đang đứng ở bàn vải kê bán ở mặt đường, ông nhận ngay ra nó vội hỏi “Anche, sao lâu nay không thấy cháu đâu cả?”, nó bột phát nói dối rất nhanh “dạ, hè này cháu về Việt Nam thăm gia đình, mới quay lại đây được 2 ngày ạ” rồi ông khen da nó đen đẹp chắc do về Việt Nam phơi nắng nhiều và mời nó ghé nhà chơi – một cơ hội mà nhiều người Việt Nam ở đó rất muốn. Nó hẹn sẽ tới thăm ông bà vào tối hôm sau là tối cuối tuần.

Về ký túc xá nó chạy kiếm mấy thứ đồ mà mọi người hay mang từ Việt Nam sang. Mua được cái lọ hoa bằng đá cộng với mấy bộ mành mành và bộ khăn phủ giường với vỏ gối bằng vải sa tanh màu đỏ đô có thêu hoa bằng tay rất đẹp mà nó còn giữ được cùng với hộp nhân nem rán và ít vỏ nem là đủ “gói quà ngoại giao”. Buổi tối ở nhà ông bà thật vui và ấm cúng, nó trình diễn món nem rán ngay tại bếp và ông bà rất thích thú vì lần đầu được thưởng thức. Ông bà chưa biết nhiều về Việt Nam nên nó tha hồ bi bô các chuyện về quê hương rồi đến chuyện cá nhân và đặc biệt nó cũng phải “diễn” như thật khi ông bà hỏi về người anh họ tên C. của nó. Nó đã chiếm được cảm tình của ông bà sau lần đó. Thời gian sau nó thường gọi điện nói chuyện với bà vào chiều tối khi bà đợi ông đi làm về trễ hơn và thỉnh thoảng đi dạo qua cửa hàng chào hỏi ông mấy câu.

Những năm này đại sứ quán đã cho phép các đôi kết hôn và nhiều cặp đã tính đến làm đám cưới để đỡ gánh nặng khi về nước cũng như sinh con ở nước ngoài cho con cái được hưởng chút sung sướng lúc chào đời. Lúc này mối quan hệ với ông bà đã trở nên thân thuộc, nó nói chuyện với ông bà về dự định làm đám cưới, ông bà mừng lắm và nhiệt tình lo liệu cho chúng nó. Tiệc cưới rất đơn giản vì toàn là lũ thanh niên với nhau trong điều kiện tài chính hạn hẹp. Ông bà nhận là người đỡ đầu đám cưới, lo liệu mua vải may quần áo và mua rượu nho từ người quen ở ngôi làng nho nổi tiếng. Việc ông bà xuất hiện với vai trò là đỡ đầu đám cưới của nó như đánh dấu chấm thất vọng cho một số người đang dày công tạo dựng mối quan hệ với ông.

Đám cưới cô bạn thân và người anh bên quân đội cử đi học

Một ngày nó nói với ông là muốn tiếp tục mua vải jeans và nhung để may đồ, đồng thời thu xếp mọi thứ để khởi động: hoàn thành việc bán đống quần cũ với giá bèo bọt được mấy trăm Lê-va, làm lại rập giấy cho mẫu quần áo mới, tìm mối bán hàng mới. Dân da đen thường qua Thổ Nhĩ Kỳ mang quần áo về Bun bán, nó đặt hàng anh bạn da đen cùng ký túc xá các phụ kiện như chỉ, cúc, đinh trang trí, nhãn mác… Nhãn mác quần áo phụ thuộc nhiều vào các sự kiện lớn đặc biệt là bóng đá. Đầu năm 1985, cầu thủ Zico đang nổi như cồn nên dân Bungaria chuộng nhãn hiệu quần jeans “Zico” và việc kinh doanh của nó bắt đầu với nhãn quần áo mang tên cầu thủ Brazil tên hiệu là “Pele trắng” này.

Vốn ít, đường dây tiêu thụ mới chưa ổn và năm học thứ tư cũng đòi hỏi nhiều thời gian hơn nên nó cũng chỉ gọi là túc tắc cho quen việc, lúc này nó cũng chuyển hẳn về căn phòng được phân ở ký túc xá. Công việc tốt hơn khi chúng nó tạo thêm được mối giao hàng với anh Bình – công nhân ở thành phố Stara Zagora cách Plovdiv khoảng hơn 100 km nhưng đi bus hay tàu hỏa phải mất hơn 3-4 giờ. May mắn về việc kinh doanh gắn liền với dấu hiệu của việc sắp được làm mẹ làm nó càng phải cố gắng hơn. Cứ mỗi tuần hoặc hai tuần chúng nó phải mang quần jeans xuống Stara Zagora. Để tránh bị công an kiểm tra, phải đi bằng bus và về bằng tàu nhưng chẳng hiểu sao cứ lão chồng xách hai túi đựng đầy quần jeans ra bến xe là bị kiểm tra, may mà năn nỉ và thoát được nên nó đành phải đảm nhiệm việc giao hàng: 7h sáng ra bến xe Plovdiv với 2 tay hai túi nặng, xe chạy chừng 11h tới Stara Zagora, lại xách tay đi bộ khoảng 1 cây số mới tới nhà anh Bình (thực ra anh Bình cũng ra bến xe bus đón nó nhưng không dám xách giúp vì sợ bị công an tóm mà chỉ đi theo cách nó vài chục mét), trở về trên chuyến tàu 4 giờ chiều tới 8 giờ tối mới về tới nhà. Thời gian đi lại và xách nặng không làm nó ngại bằng quãng đường đi bộ trơn trượt vào những hôm tuyết nhiều.

Số lượng vải jeans hay nhung ông Xa-sô nhập về không nhiều nhưng cũng đủ cho nó kỳ cạch may giao bán cho mối anh Bình và một mối ngay Plovidv. Nó tổng kết số lượng vải mua mấy đợt và mang tiền đến gửi ông, lúc đầu ông không chịu nhận vì coi như giúp con cháu trong nhà nhưng nó nói với ông là việc ông dành vải cho nó đã là tình cảm rồi, nó sẽ gửi ông như những người khác đã làm. Giá vải jeans nhập khẩu là 16 Lê-va/mét, nó gửi riêng cho ông 5 Lê-va/mét cao hơn hẳn so với các mối khác vẫn trả ông trước đó.

Sau 3 tháng miệt mài, chúng nó đã trả được món nợ cho vợ chồng anh Nenko, coi như ngoi được lên mặt đất cũng là lúc nó siêu âm và biết tin mình có thai đôi. Nó đã chứng kiến các chị năm trên tự nuôi con vất vả như thế nào mà bây giờ nó sẽ phải vất vả hơn nhiều so với nuôi một em bé nên rất hoảng sợ khi nhận kết quả siêu âm. Nó chạy ngay sang nhà ông bà nước mắt giàn giụa làm ông bà hốt hoảng không hiểu chuyện gì xảy ra với nó. Được an ủi và bình tĩnh trở lại, nó báo cho ông bà việc có con sinh đôi, ông bà vỗ tay ầm lên “Ôi thế là ông bà không phải tranh cãi lấy tên ai đặt cho cháu nữa, mỗi người sẽ có một đứa cháu đứng tên mình!”. Đấy, ông bà cứ tự nhận những việc mà chỉ làm cho những người rất thân, ông bà đã coi chúng nó là người thân của gia đình. Nó vẫn bần thần nói với ông bà “Con không biết sẽ nuôi hai bé như thế nào khi mà học bổng chỉ có 110 Lê-va/tháng – tiết kiệm lắm cũng chưa chắc đã đủ ăn!”. Ông nói “con xem cần ông giúp được gì để làm ăn được thì cứ nói, không phải ngại gì nhé! Bây giờ là phải lo cho cháu của ông bà”. Ông tự nói với nó là sẽ dành vải jeans và nhung cho mình nó mà không chia cho mối khác nữa.

Nó lại cắm đầu vào việc may! Tháng 4 đã tới, thời tiết ấm hơn và tin tức về World Cup 86 cũng bắt đầu nhộn nhịp nên quần áo bán chạy hơn. Bụng nó to nhanh hơn nhưng vẫn ngồi gập người chăm chỉ may. Nó được ưu tiên giảm số giờ lên lớp nhưng chả được nghỉ ngơi mà dồn hết thời gian rảnh vào công việc. Cứ may được bằng nào là có mối tới nhận ngay. Có lần vừa giao xong 10 quần jeans, vừa kịp nằm gác chân dốc lên cho thông máu (ngồi may lâu máu dồn xuống hai bắp chân phù to) và ăn tối thì thằng mối người Việt quay lại nói “mình vừa xách về tới nhà là khách lấy hết ngay, muốn sáng mai lấy thêm 10 chiếc nữa!”. Lão chồng không biết may nhưng vội nhận ngay và mời mối ăn tối và chờ nó may, xong lúc nào xách đi luôn. Mệt mỏi lắm rồi mà nó phải cố may từ 7h tối tới 2h đêm cũng xong được 10 cái để 4h sáng mối kia vác đi (sợ đi sớm hơn bọn bảo vệ ký túc xá lại sinh chuyện vì phải dậy lục đục để mở cửa)!!! Bọn bạn cùng lớp mỗi lần nhìn thấy nó bước vào lớp lại nhìn nhau cười vì nó bé xíu mà cái bụng thì to, còn vợ chồng anh bạn Bun đến thăm nó sau khi sinh thì nói “em sinh an toàn xong rồi vợ chồng anh mới yên tâm chứ lúc trước nhìn em bưng cái bụng ngoại cỡ anh chị lo lắm – không thể nghĩ là em có thể “mẹ tròn con vuông được”.

Thu nhập lúc này chủ yếu vẫn từ việc may quần áo vì các nhà máy thường xuất bán vải ka-tê vào đầu hè. Bụng bầu đôi to nhanh cũng không làm giảm năng suất may của nó và nó gần như kết thúc việc may mặc khi sinh hai bé sớm hơn so với dự sinh hơn hai tháng.

 Giấy khai sinh của hai bé gái

Hai bé sinh non nên rất nhỏ, phải nằm trong bệnh viện dành riêng cho các bé thiếu tháng thiếu cân. Nó xuất viện sau khi sinh một tuần khi vừa bắt đầu giải World Cup Mexico 86. Nghỉ ngơi vài ngày, nó lại tiếp tục giải quyết nốt số vải còn lại để thu dọn nhà cửa đón hai bé. Siêu sao Zico đã làm ùn số quần áo jeans của nó lại khi đá hỏng quả penalty với đội Pháp ở trận tứ kết. Dân làm nhãn mác ở Thổ Nhĩ Kỳ rất thức thời! Sau 1-2 tuần nhãn mác tên Zico bị dân Bun tẩy chay, anh bạn da đen đã xách ngay về cho nó nhãn mác mới “Careca” – tên của cầu thủ đồng hương Zico nổi lên trong Mexico 86 – nên nó chỉ việc đổi nhãn mới là xử lý được hết hàng tồn.

Vải ka-tê của Bun đã có giá hơn nên trong lúc nó say sưa may quần áo thì người Việt bám ông Xa-sô nhiều hơn hòng giành mối hàng. Thỉnh thoảng nó mua một ít để thử tìm mối bán lại mà chưa nghĩ đến việc đòi độc quyền.

Người Việt tập trung ở Thủ đô Sofia khá đông kể cả sinh viên và hợp tác lao động. Những lứa công nhân đầu tiên sang Bun theo diện “hợp tác lao động”, được các nhà máy/công ty bố trí sống rải rác ở các khu ký túc xá của họ nhưng sau đó chính quyền Sofia đã xây dựng một khu với nhiều nhà lắp ghép 2 tầng dành riêng cho công nhân Việt Nam mà người Việt tự đặt tên là “Khu Lâm Đồng”. Lâm Đồng chính là Việt Nam thu nhỏ! Mọi hoạt động buôn bán của người Việt cũng tập trung về đây: nguồn quần áo và hàng thủ công mỹ nghệ từ Việt Nam mang sang; nguồn quần áo phụ kiện và đặc biệt là đồng hồ điện tử từ Thổ Nhĩ Kỳ; nguồn hàng của Bun như vải vóc, thuốc men cũng được tập trung buôn bán ở đây. Nổi tiếng về buôn bán đồng hồ điện tử ở khu Lâm Đồng là anh Dũng và anh Khoa người Ninh Bình. Anh Dũng rất nhanh nhẹn, khôn khéo còn anh Khoa có vẻ hiền lành, ít nói chuyên lo các việc hậu cần. Vô tình biết hai anh qua người quen, nó thấy các anh thân thiện và nhẹ nhàng khác hẳn với ý nghĩ của nó trước đấy về hai “ông trùm” này. Biết chúng nó có mối vải ở Plovdiv nhưng không đủ vốn, hai anh đặt vấn đề hợp tác ngay.

Ông Xa-sô có mối quan hệ thân mật với Nhà máy Dệt Marisa ở ngay Plovdiv chuyên sản xuất loại vải ka-tê một màu, ông còn có bạn thân là giám đốc nhà máy vải ở Gabrovo là nơi sản xuất nhiều nhất loại vải ka-tê kẻ sọc hoặc ca rô mà người Việt đang săn lùng. Sau khi gặp anh Dũng để yên tâm về tiền vốn, nó gặp ông Xa-sô đặt thẳng trách nhiệm kiếm tiền nuôi hai cháu cho ông. Nó đòi ông phải để hết vải ka-tê cho nó và hình như điều này ông đã nghĩ tới từ trước nên ông chỉ cười.

Ông Xa-sô rất cẩn thận, dặn nó không nói chuyện làm ăn qua điện thoại không xuất hiện nhiều ở cửa hàng vì hầu hết nhân viên cửa hàng Bagra đã biết mối quan hệ thân thiết của ông bà với gia đình nó. Ông dặn nó cứ 1-2 tuần gặp ông để cập nhật thông tin nhập hàng bằng cách gọi điện cho ông khi tới gần cửa hàng, ông sẽ ra ngoài nói chuyện. Thế là cứ 1-2 tuần một lần, nó lại ra ngồi ở quảng trường trước cửa hàng đợi ông.

Đầu mùa xuân nên thời tiết vẫn lạnh, hôm nào lạnh quá ông nói nó vào quán cafe nhỏ mịt mù khói thuốc lá sát cửa hàng của ông ngồi đợi. Nó thường đợi khoảng 10-15 phút là ông tới, khi rảnh thì hai ông con nói chuyện dài, khi ông vội thì chỉ báo khoảng thời gian vải sẽ về. Có những hôm ông bận quá quên không ra quán café để nó được hưởng khói thuốc cả tiếng đồng hồ rồi phải điện thoại lại ông mới nhớ ra cuộc hẹn chạy vội ra chỉ báo gọn mấy câu như ‘tuần sau vải sẽ về nhé”.

Chúng nó đã trở nên thân thiết với anh Ivan sau mấy lần anh lái taxi chở hàng qua qua dịch vụ thuê xe. Anh đã từng đi lao động thời gian dài ở Xibiri (Liên Xô) nên rất thấu hiểu nỗi vất vả khi xa nhà. Anh rất thật thà và quý mến vợ chồng nó nên chúng nó hay gửi vải ở nhà của anh gần ký túc xá rồi lấy dần về may đảm bào an toàn hơn. Việc buôn bán vải của nó đặc biệt cần đến người như anh Ivan nên nó giữ mối quan hệ thân thiện với anh bằng việc may cho anh những bộ jeans hay nhung mà nó tự thiết kế làm anh rất sung sướng khoe với bạn bè về những món thời trang “độc lạ” chỉ mình anh có được.

Hai bé ở bệnh viện tháng rưỡi thì đạt “chuẩn” được về nhà cũng là lúc nó thu xếp xong việc may mặc để chăm các bé. Ông bà rất vui khi nhìn thấy hai bé mang tên của ông bà trong giấy khai sinh được UBND quận cấp. Ông bà Xa-sô cùng đi đón các bé và đòi nhận bé từ tay các cô điều dưỡng của bệnh viện, ông bế bé Xaska còn bà ôm bé Elena. Bà rất ấn tượng về việc nó chuẩn bị bộ đồ tã lót đón con: bộ tã chuẩn được là phẳng phiu và gấp theo đúng hướng dẫn để các cô y tá mở ra là biết loại nào cùng với bộ chăn quấn ngoài trắng phau được nó thêu tay các hình vui mắt cho bé con. Bà nói “ông bà nhìn bộ đồ con chuẩn bị đón cháu là yên tâm con sẽ chăm sóc các cháu cẩn thận, nhìn con bé Bun cũng đi đón con bị cô y tá mắng về tội cẩu thả bà thấy tự hào về con nhiều lắm!”

Ông bà Xa-sô và hai cháu

 Hàng hóa tiêu dùng ở các cửa hàng ngày đó chủ yếu là hàng Bun tự sản xuất với mẫu mã rất nông dân như bản chất người Bun vậy. Ở một vài thành phố lớn có cửa hàng miễn thuế (Korekom) bán các hàng hóa nhập khẩu từ các nước tư bản cho người nước ngoài bằng tiền ngoại tệ. Người Việt thường mua cassette, TV màu, quần áo… bán lại cho dân Bun nhưng càng ngày càng khó do tranh nhau mối và công an Bun cũng để mắt tới việc này. Chúng nó sắm cho ông bà đủ thứ từ Korekom như cassette, TV, đồ dùng gia đình nhập từ các nước phương Tây…

Nó đã chuyển hẳn sang làm mối vải. Vải ka-tê có 2 loại: giá 1,7 Lê-va/mét và giá 2,5 Lê-va/mét. Nó thường gửi ông 0,3-0,5 Lê-va/mét bằng tiền mặt và luôn để ý mua sắm những thứ ông bà thích từ cửa hàng miễn thuế. Giá bán lại cho mối tùy vào màu sắc và kiểu dệt của từng lô vải và khoản lợi nhuận của nó cũng chỉ bằng khoản gửi ông. Khi chấm dứt việc may nó đã tích lũy được hơn 2 ngàn Lê-va tạm đủ cho mỗi lần lấy khoảng 1 ngàn mét vải, có lô lớn hơn là nó bắt ông tách thành hai lần giao hàng. Ông hỏi nó sao không lấy luôn một lần cho tiện nó đành khai thật về khả năng vốn của chúng nó. Ông trầm ngâm rồi nói “lần sau con cứ lấy nguyên cả lô rồi thanh toán sau cũng được nhưng sẽ phải bố trí theo kiểu khác là các con không được tới cửa hàng thanh toán tiền khi giao nhận vải mà chỉ nói Ivan tới nhận chở đi thôi!”. Thì ra ông sẽ làm thủ tục chuyển vải sang một kho khác, anh Ivan chỉ là người được thuê vận chuyển cho ông. Ông sẽ báo thời gian nó phải trả tiền cho ông làm thủ tục thanh toán nhập tiền vào cửa hàng, thông thường sau một tuần.

Quy trình đơn giản và nhẹ nhàng cho nó rất nhiều: ông báo ngày giờ xuất hàng (thường trước 1-2 ngày), anh Ivan đến nhận hàng chở thẳng lên mối anh Dũng ở khu Lâm Đồng, nó hoặc lão chồng đi tàu hỏa lên chờ ở nhà anh Dũng để giao hàng và nhận tiền rồi về cùng xe anh Ivan. Thế nhưng đã có ngay sự cố khi lần đầu thực hiện theo cách này: chồng nó đi về với nét mặt lo âu nói với nó bị ông chửi và đuổi về với câu chốt “không làm gì với mày nữa!”. Thì ra lão chồng này te te đến cửa hàng hỏi ông việc giao hàng ngay trước mặt các nhân viên mà quên mất lời ông dặn!!!

Ông là người nóng tính nên nó rất lo lắng. Sáng hôm sau bỏ con cho chồng, nó gọi điện cho ông hẹn gặp ở quán café quen thuộc, nó nói với ông là không hiểu có chuyện gì mà hôm qua lão chồng về nhà không thèm nói năng gì. Như tức nước, ông giận dữ xả hết “tội” lão kia ra. Nghe xong, nó làm bộ nổi giận hơn cả ông, nói với ông là không thể chịu nổi cái dốt đó, sẽ về nhà để xử lý và ca cẩm cứ như vậy không biết sẽ làm gì để nuôi được hai con. Ông lại là người phải kìm cơn giận của nó “con bình tĩnh, ông phải lo cho các cháu của ông chứ!”. Nó nói với ông “vậy từ nay mọi việc ông báo với con thôi, con sẽ tự sắp xếp với anh Ivan để không xảy ra sự cố nữa.” Ông đồng ý ngay phương án này và nhấn mạnh “không để B. lo liệu việc này nữa nhé!”.

Ông bà rất quý hai đứa bé

Mọi việc diễn ra bình thường. Tháng hoặc 2 tháng mới có một lô hàng vì ông muốn gom được 2-3 ngàn mét mới xuất một lần. Mặc dù đây cũng là chuyện làm ăn của ông nhưng chắc chắn ông phải coi chúng nó như con cái mới dám rủi ro đưa hàng mà không nhận tiền trước như vậy. Thời gian chúng nó ở Bun cũng là lúc Việt Nam đóng cửa với Trung Quốc nên khan hiếm hàng từ nước này. Bun vẫn nhập nhiều loại vải của Trung Quốc như tơ tằm, vải len dạ, nhung kẻ… nhưng người Việt chỉ quan tâm đến vải nhung the.

Nó rất nhớ lô vải nhung the duy nhất mà ông nhập được là ba ngàn mét, giá gốc 16 Lê-va/mét, ông vẫn đưa hết lô vải cho nó mang đi giao ở khu Lâm Đồng rồi 2 tuần sau mới thu tiền. Số tiền này là giá trị 1 căn hộ 3 phòng ngủ mà đến gần 60 tuổi ông bà vẫn chưa mua nổi. Nó lo lắng cho lòng tốt của ông nên hỏi ông “Ông ơi! Ông có nghĩ đến trường hợp chúng con không trả ông tiền hàng không?”. Nó không ngờ ông trả lời rất nhẹ nhàng “Con ạ, con biết là nếu con không trả thì ông sẽ phải chịu hậu quả thế nào rồi nhưng ông chắc chắn không con cái nào lại muốn bố mình vào tù cả!” Nó rưng rưng nước mắt vì biết là ông đã coi nó là con từ lâu rồi nhưng nó vẫn dặn ông “Ông ơi, ông chỉ được làm việc này cho chúng con thôi nhé, con không muốn ông bị rủi ro với bất kỳ người nào khác!”. Rồi ông kể cho nó nghe nhiều đồng hương của nó gặp ông trả giá cao hơn nhưng ông không quan tâm vì với chúng nó ông vừa có thu nhập thêm và lại có thêm con cháu, có một hai lần ông bán cho vợ chồng anh Th. chút vải vì mối quan hệ cũ với anh C. Nhân dịp này nó “thú tội” với ông về việc nói dối ông lúc đầu để bắt mối quen với ông, ông nghe xong giận lắm nói sẽ không quan tâm đến vợ chồng Th. nữa. Ông nói ông rất cảm động vì chúng nó luôn hiểu và quan tâm đến những sở thích của ông bà, luôn gần gũi trò chuyện… Chắc ông hiểu nó bù đắp phần chênh lệch giá mà người khác trả cao hơn nó chính là những đồ nó mua sắm cho ông bà. Ông có vẻ là người thích “công nghệ” (nói theo ngôn ngữ bây giờ) nên cứ nhìn thấy mẫu mã cassette hay TV nào mới là tỏ ra thích thú, chúng nó lại thu hồi mẫu cũ về và mang ngay cái mới sang thay thế. Thực ra chúng nó chẳng bị thiệt đồng nào vì những đồ đã sử dụng này mang bán cho dân Zigan vẫn thu về thừa tiền mua đồ mới cho ông.

Ông là người chu đáo thích quan tâm đến người khác, thỉnh thoảng ông gọi nó vào trung tâm, dẫn đến cửa hàng bán đồ trẻ em để mua quần áo cho hai bé, loại quần áo nhập ngoại chỉ để cho các mối quen biết chứ không bao giờ bày bán trên quầy hoặc ông điện thoại nói nó “có áo nhập khẩu rất đẹp, ông mua cho bà rồi, con qua xem có ưng để ông mua cho”. Nhờ vậy mà nó và hai con luôn được ăn diện model.

Sau hơn một năm làm ăn cùng chúng nó, ông đổi được căn hộ 1 phòng ngủ sang căn 2 phòng ngủ ở ngay góc đối diện của ngã tư vào đầu mùa hè 1987.

Nói thêm về chuyện con cái của ông bà: ông bà có một anh con trai tên Rumen, hơn nó gần 10 tuổi đã ly dị vợ và về ở cùng với ông bà trong căn hộ chật hẹp một phòng ngủ. Thỉnh thoảng ông bà đón thằng cháu nội Xasko 3 tuổi tới nhà chơi nhưng dường như việc đón cháu không dễ dàng vì mối quan hệ với vợ cũ của anh Rumen không tốt lắm. Nó chỉ quan sát và tự hiểu chứ không dám hỏi ông bà về việc này. Anh Rumen cũng quản lý một cửa hàng vải nhỏ, chủ yếu bán các loại vải len dạ cho quần áo lạnh, anh trầm tính và có không thích giao tiếp nên thỉnh thoảng gặp nó cũng chỉ chào hỏi anh cho qua chuyện. Chắc anh được ông bà chiều chuộng lắm nên ông rất vất vả khi hoàn thiện căn hộ mới theo ý anh.

Chúng nó sang thăm và giúp ông thu dọn, vệ sinh và làm sạch những đốm sơn bị vương trên cửa kính, ông than thở “Ông phải thay lại gạch men mới ốp tường nhà tắm vì Rumen không chịu màu này, mà màu nó thích lại không kiếm được nên chưa biết làm thế nào?” Nó xui ông “Ông đưa tiền cho anh ấy đi mua cho đúng ý!” và cuối cùng là chẳng phải thay đổi gì. Hơn một tuần liền, chiều nào nó cũng dẫn con sang phụ giúp ông bà thu dọn vệ sinh nhà mới, ông bà nhận trông hai cháu nhưng lúc đầu hai bé không chịu lại gần ông nên ông có vẻ hơi buồn. Kỉ niệm vui nhất là hôm đó trời nắng khô, ông lôi bia ra ban công để cả nhà nhâm nhi, vô tình ông cho 1 bé nhấm thử ly bia của mình, nó nhăn mặt một chút rồi đòi uống tiếp vì bia mát lạnh, đứa kia thấy vậy cũng đòi uống theo. Một lúc sau cả hai đứa xà vào lòng ông bà bi bô ầm ĩ, ông vui quá nói “A! hôm nay ông biết cách để cho 2 cháu theo ông rồi, cứ cho uống chút bia là chúng nó vui ngay!”.

Nhà mới rộng rãi hơn nên chúng nó hay mang con sang chơi ở nhà ông bà hơn và đây là quãng thời gian mà chúng nó thực sự được hòa mình vào gia đình lớn. Anh Rumen cưới vợ mới là một chị rất xinh xắn, hòa đồng và kinh doanh giỏi. Sau đám cưới anh Rumen vui vẻ và cởi mở hơn nên không khí gia đình càng đầm ấm và hai bé thì quấn quít với ông bà nhiều hơn. Mùa thu là lúc các loại trái cây chín rộ nhất, cứ loại trái cây nào vào vụ ngon nhất là ông chở bà cùng mẹ con nó tới nhà người quen ở những ngôi làng quanh Plovdiv ăn thoải mái và mua đầy cốp xe mang về thành phố.

Khi mùa đông tới cũng là lúc ông Xa-sô phát hiện bị tiểu đường phải nằm bệnh viện điều trị. Qui định của bệnh viện rất nghiêm ngặt: chỉ cho người nhà gọi điện thoại hoặc vào thăm người bệnh từ 11h đến 12h trưa hàng ngày, thức ăn trong bệnh viện rất đơn giản chỉ gồm mấy đồ nguội như xúc xích, phomai và súp. Bà Elena và anh Rumen thỉnh thoảng điện thoại chuyện trò với ông mà không vào thăm hay mang thức ăn tới (thói quen của người Bun là như vậy). Văn hóa chăm sóc người bệnh của người Việt lại rất phù hợp với tính cách của ông là người thích trò chuyện và ăn ngon. Hàng ngày nó chuẩn bị thức ăn mang vào rồi trò chuyện với ông trong khoảng thời gian cho phép. Mấy ngày đầu ông có vẻ ngại phiền vì chúng nó phải đi quãng đường xa nên nói chúng không cần chăm ông như vậy nhưng thực lòng là ông rất mừng khi thấy chúng nó tới với túi thức ăn nóng hổi và được nói chuyện tưng bừng. Cuộc sống đã mang lại cho nó một quãng đời quý giá với ông bố bà mẹ khác màu da tuyệt vời vậy đó.

LÒNG TAN CHẢY THEO TUYẾT TRẮNG

Chuyến hàng vải hôm đó khoảng 5000 mét. Nó đi tàu lên khu Lâm Đồng và đợi xe anh Ivan chở hàng lên nhưng xe tới trễ mất hơn một tiếng so với bình thường. Vội vàng bốc hàng và nhận tiền xong là hơn 7 giờ tối, hai anh em lên xe chạy về Plovdiv. Từ Sofia về Plovdiv theo đường cao tốc chừng 2 giờ đồng hồ nhưng tối đó đúng thời điểm tuyết tan đường trơn nên xe chạy chậm hơn. Nó nói chuyện lung tung để có cảm giác được về nhà nhanh hơn và thỉnh thoảng sốt ruột nhìn biển báo khoảng cách quãng đường còn lại. Đang vui vì chỉ còn 30 km nữa là về tới thành phố Plovdiv thì tự nhiên xe bị giật giật và chậm lại, anh Ivan nhanh tay tạt xe vào cạnh đường, xe chạy chậm dần rồi dừng hẳn. Ivan xuống xe ngó nghiêng rồi lên xe nổ máy nhưng xe cứ xình xịch rối tắt lịm. Loay hoay kiểm tra cuối cùng anh Ivan thốt lên “hết xăng rồi!”.

Ivan là người rất cẩn thận, đã đổ xăng đầy trước khi đi nhưng hôm đó số lượng vải nhiều nặng hơn, chất đầy kín thùng xe, đường trơn nên không thể chạy nhanh cả lúc đi lẫn về vì vậy xăng cạn nhanh hơn. Sau khi nghe giải thích và nói chỉ còn mỗi cách là nhờ xe kéo đến trạm xăng, nó hăng hái xuống xe để cùng anh Ivan vẫy các xe chạy trên cao tốc nhờ trợ giúp. Xe bị dừng giữa đoạn đường mà hai bên là cánh đồng mênh mông, nhìn rất xa mới thấy những ánh đèn nhấp nháy của một ngôi làng nào đó. Xe dừng lúc gần 10 giờ đêm, trên đường cao tốc chỉ có xe container và xe tải chở hàng liên vận quốc tế sang Thổ Nhĩ Kỳ chạy vội vã và hầu như không xe nào quan tâm tới sự cầu cứu của xe nó. Khi vừa ra khỏi xe chỉ thấy gió lạnh táp vào mặt mà chưa cảm nhận được hết cái lạnh của gió lúc tuyết tan. Ivan chợt nghĩ ra điều gì và bảo nó “Cô vào ngay trong xe, đêm khuya tụi lái xe tải quá cảnh nhìn thấy phụ nữ sợ không an toàn cho cô đâu, để mình tôi đứng vẫy thôi!”. Phần vì sợ nhưng cũng là lúc nó cảm nhận được cái lạnh đang thấm dần vào cơ thể gầy guộc nên nó chui ngay vào xe.

Ai đã từng sống ở châu Âu đều hiểu được cái lạnh khi tuyết tan là thế nào đặc biệt là giữa cánh đồng hoang vu với những cơn gió rít vù vù bên tai. Cả nó lẫn anh Ivan đều không lường trước được tình huống này, chỉ mặc đủ ấm cho quãng đường ngắn lúc đổi tàu xe nên là rất phong phanh giữa trời đêm tuyết tan. Ngồi trong xe được một lúc nó cũng phải ra khỏi xe vì nhiệt độ trong và ngoài xe đã cân bằng như nhau, ngồi ở trong vừa ngộp hơi vừa không cử động được càng cảm giác lạnh hơn nên nó đứng sát vào cánh cửa bên phải xe tránh không bị nhìn thấy, vừa đứng vừa dậm hai chân liên tục cho bớt lạnh. Xe vẫn nườm nượp chạy nhanh qua, gió vẫn rít đều đều mà chả có cái nào chịu dừng. Nước mắt nước mũi chảy liên tục vì lạnh, lạnh nhói hai thái dương, hai chân buốt cứng vì không đi giày đủ ấm, anh Ivan cứ kiên trì vẫy còn nó vẫn đứng dậm chân, nhảy cò cò tại chỗ cố gắng chống chọi với cái lạnh cho tới gần 1 giờ đêm mới có một xe tải chở hàng giống xe của anh Ivan dừng lại.

Một sự may mắn hiếm có vì đó là đồng nghiệp của anh Ivan! Các anh nhanh chóng móc dây kéo và hai xe kéo nhau hơn 30 phút thì tới trạm xăng, anh bạn cẩn thận chờ anh Ivan đổ xăng và nổ máy ngon lành rồi mới chia tay. Về tới nhà nó là hơn hai giờ sáng, anh Ivan thả nó cùng bọc tiền ở cửa ký túc xá rồi vội vã chạy luôn. Làm phiền ông bảo vệ mở cửa ký túc xá giữa đêm khuya, nó leo lên nhà, gõ cửa nhẹ và khẽ gọi chồng vì sợ gây ồn cho các gia đình khác. Gọi mãi không được, nó đành gọi to hơn và chắc chắn chồng nó đã nghe thấy nhưng vẫn im lặng, sự im lặng gây cho nó cảm giác bực bội và mệt mỏi, nó quay xuống nhờ ông bảo vệ bấm chuông để buộc chồng nó phải mở cửa. Ông bảo vệ cũng chạy lên cùng nó thì cửa mở và một khuôn mặt hằm hằm nhìn nó với một câu hỏi gọn lỏn “làm gì mà giờ này mới về?” như dội thêm ca nước đá lên đầu nó. Nó kể nhanh về sự cố hết xăng nhưng dường như lão chồng không tin và buông mấy lời đầy ngờ vực nó mà chả quan tâm là nó vẫn chưa cắt được cơn lạnh vừa trải qua. Nó lặng lẽ đi thay quần áo, mò ra bàn ăn vì nghĩ thế nào cũng có phần cơm tối cho nó nhưng mặt bàn trồng rỗng và lại được hắt thêm vào tai “tưởng về muộn là phải được Ivan nó dẫn đi ăn ngon rồi chứ?”. Không thể làm gì khác, nó lẳng lặng lên giường nằm ôm con với cái bụng đói meo cộng cái lạnh của sự vô cảm kia làm lòng nó như tan chảy cùng với tuyết ở nơi đồng không mông quạnh mà nó vừa thoát khỏi nhưng dù sao nó vẫn cảm thấy may mắn là đã về được tới nhà với các con.

VỀ NƯỚC LẦN ĐẦU

Lão chồng bị đau dây thần kinh tọa và quen với ông bác sĩ điều trị – ông bác sĩ rất maphia so với thời đó. Chính ông là người gợi ý việc làm bệnh án để lão chồng được đúp 1 năm học (tất nhiên phải trả “phí bệnh án” khá cao) và đó cũng là cơ hội để chúng nó kéo dài thêm thời gian ở Bun. Một sự may mắn khác, bà Ivanova phụ trách sinh viên ngoại quốc của trường đã đề xuất và giúp nó làm thủ tục xin Bộ Đại Học Bungari cho nó ở lại thêm một năm vì có hai con nhỏ. Bà còn tư vấn nó nên bảo vệ luận văn trước và chỉ để lại môn thi quốc vào năm sau. Thế là hai bé của nó có cơ hội được hưởng cuộc sống đầy đủ thêm một năm nữa ở xứ Tây.

Các loại thuốc như vitamin B1, B6, B tổng hợp, thuốc khớp prednisone đặc biệt thuốc Anagin của Bun đã được nhiều người săn lùng mua về Việt Nam. Ông bác sĩ rất quan tâm sau khi nghe lão chồng nó nói chuyện về nhu cầu mua các loại thuốc trên. Ông lần mò mua thử từ mấy hiệu thuốc quen ở trong thành phố và khi biết nhu cầu “bao nhiêu cũng cân” thì ông đã lập rõ chiến lược. Mục đích mua thuốc là để đóng hàng mang về chứ không để bán lại nên chúng nó trả giá tương đối cao: giá 1 hộp thuốc chứa 100 vỉ khoảng 1,5 lần giá gốc nên ông rất hào hứng đi gom. Nguồn thuốc ở các cửa hàng ở Plovdiv dường như đã dành cho các mối của người Việt nên sau gần 1 năm ông bác sĩ cũng chỉ mua được một lượng đủ cho nó mang về theo đường hàng không.

Ai cũng nghĩ chúng nó kiếm được nhiều tiền lắm vì chúng nó làm chủ mối vải lớn nhất Bun. Cứ nhìn giá đầu vào và đầu ra thì đúng thế thật nhưng ít người hiểu được các chi phí, rủi ro,… Có những lô vải không hợp thị hiếu chỉ cố bán sao cho không bị lỗ là may mắn lắm rồi. Có những con nợ vay vài ngàn Lê-va không bao giờ trả vì lão chồng cho đồng hương là con bạc vay với lý lẽ rất vô tư “yên tâm anh ấy sẽ trả vì là đồng hương rất thân mà!”.

Cuối năm 1988, nó về nước trước cùng hai con gái với mấy thùng carton thuốc tây gửi theo đường hàng không và hai thùng hàng gửi tàu biển toàn vải trị giá khoảng 20 “viên gạch” thuộc loại khá giả trong số sinh viên về nước. Vốn để lại cho tay chồng ở lại làm phiên dịch cho chi nhánh của Tổng công ty Xây dựng Hà Nội mở tại Plovdiv khoảng 3-4 “viên gạch”. Số hàng nó mang về bán được khoảng 20 cây vàng, lo liệu mua nhà ở quê cho bố mẹ chồng và để lại vốn cho gia đình nhà chồng làm ăn là hết một nửa số vốn của nó. Nó quan niệm rất rõ ràng là lo cho bố mẹ chồng đàng hoàng để chúng nó yên tâm đi làm ăn xa quê vì mục đích là nó sẽ cùng các con quay lại Bun để xin việc làm và ở lại lâu dài.

CHẠY TRỐN KHỎI BUNGARI

Cuối tháng 12/1989 nó đã xin được visa quay lại Bun cho ba mẹ con. Số tiền còn lại nó mua ít son gió Thái Lan và chuyển hết sang Đô Mỹ. Cuộn chặt từng đồng 100$ như đoạn đầu đũa, nó tỉ mỉ luồn vào các lỗ của thành thùng carton giấy 5 lớp rồi dùng bàn ủi là phẳng mặt giấy carton sau đó cho đồ dùng và quần áo đóng thành kiện hàng ký gửi theo máy bay – cách chuyển Đô Mỹ ngày đó đơn giản vậy đó và chả ai nghĩ đến rủi ro thất lạc hành lý hay xảy ra như bây giờ. Ba mẹ con khởi hành vào ngày 22/12 với hy vọng sẽ được cùng gia đình ông bà Xa-sô đón Noel. Khi hạ cánh ở sân bay Sheremetyevo mẹ con nó chứng kiến ngay cảnh mọi người nằm ngồi chật ních ở các phòng chờ, hỏi thăm mới biết do bạo động ở Rumani và thời tiết xấu nên tất cả các chuyến bay từ 2-3 ngày trước đó đều bị hủy. Lo lắng chờ đợi hết buổi sáng thì có chuyến bay đầu tiên sang Sofia ưu tiên cho người đi cùng trẻ nhỏ và người lớn tuổi. Nó đang hướng dẫn hai con bám vào cái túi kéo ba tầng để nó dẫn qua an ninh vào phòng chờ ra máy bay thì đột nhiên một bác người Việt chạy tới bế thốc một bé lên chạy thật nhanh về hướng an ninh, nó hốt hoảng tay xách bé kia và kéo túi chạy theo thì bác kia quay lại nói “Cho anh mượn 1 cháu để anh được bay chuyến này vì anh nằm ở đây 3 ngày rồi!” Ôi! Hết hồn không hiểu chuyện gì xảy ra trước đó nhưng nó lại cười ngặt nghẽo khi nghe bác ý giải thích và cám ơn. Quản lý chuyến bay ngày đó thật đơn giản, không có thẻ lên máy bay mà chỉ chìa vé và hộ chiếu ra để kiểm tra là xong nên nó đã giúp được bác này bay được chuyến đầu tiên dễ dàng như vậy.

Về tới căn hộ lão chồng đã thuê ở 1 năm khi nó về nước thì được biết vốn liếng nó để lại cùng khoản tiền lão chồng làm được trong năm qua đã tan biến. Nó chỉ biết nghe lão chồng kể lại mà chả biết hư thực ra sao: sau khi nó về nước, ông bác sĩ đã tạo thêm được mối thuốc lớn ở thành phố Dimitorov Grad cách Plovdiv chừng 1 tiếng tàu hỏa. Lão chồng thuê căn hộ để ở và chứa thuốc cách khu ký túc xá cũ khá xa nhưng vẫn hay về đó vui chơi cùng lứa em các năm sau. Theo lão thì một thằng em ở trường Hóa đã “chơi” lão khi biết lão có mối thuốc lớn bằng cách báo công an theo dõi. Lão bị công an chộp khi đang mang thuốc từ Dimitorov Grad về Plovdiv. Khám căn hộ, công an chỉ tóm được thuốc mà không có vải (đây là điều may mắn cho ông Xa-sô). Chuyện xảy ra mới được 1 tuần thì ba mẹ con sang tới nơi. Lão chồng dặn chưa nên sang thăm ông bà Xa-sô vì vẫn sợ bị công an theo dõi. Hàng ngày lão chồng phải gặp công an để viết tường trình về vụ thuốc tây và rất có khả năng phải hầu tòa.

Sau một năm mà Bungari đã biến đổi rất nhiều theo chiều hướng xấu hơn. Kiếm thức ăn hàng ngày đã trở thành vấn đề khó khăn: hầu hết các cửa hàng thực phẩm không có thịt cá bày bán mà chỉ có ít trứng, bơ và đồ hộp. Hàng tuần một hoặc hai cửa hàng trong thành phố nhập về một lượng nhỏ thịt lợn, bò hay gà nên mọi người đã xếp hàng dài ngay khi nhìn thấy xe chở hàng tới. Người Việt Nam cũng tạo ra nhiều vụ scandal lớn nên nhận được sự kỳ thị rõ ràng từ người Bun. Nhiều người Việt đã bị dân Bun đánh khi đi ngoài đường hoặc trên tàu xe. Nó rất căng thẳng sau 1 tháng không tìm nổi căn hộ khác để thuê chỉ vì nó là người Việt Nam. Công việc của người Việt cũng xấu đi rất nhiều: nhiều công ty Việt Nam bị cắt giảm việc và bị chậm thanh toán tiền lương. Thời gian này vải Bun đã hết giá trị cũng là lúc ông Xa-sô chuẩn bị nghỉ hưu. Nó cảm nhận sự bất ổn của môi trường quanh nó và cũng cảm nhận rõ ràng sự đi xuống trong tình cảm vợ chồng sau 1 năm xa cách. Là người mạnh mẽ nhưng nó lại không thích cuộc sống bất ổn nên hết mùa đông nó quyết định trở về Việt Nam, lão chồng cũng đồng ý ngay vì sợ bị hầu tòa vụ thuốc tây.

Trả căn hộ ở Plovdiv, nó mang con đi chào tạm biệt ông bà Xa-sô và bạn bè thân, lên Sofia ở nhờ nhà bạn, bán hết đồ và tiền Đô mang từ Việt Nam sang để mua thuốc mang về. Nó phải mua thuốc Gentamicin ở khu Lâm Đồng, nhờ chỗ đóng thùng để gửi theo đường tàu biển mà không hề chắc chắn được là hàng có được chuyển về hay không. Hơn một tháng chờ đợi nó mới kiếm được vé về cho ba mẹ con, lão chồng cố tình đăng ký chuyến sau 1 tuần mà sau này nó mới biết là để lão có thời gian “vấn vương” với mối tình mà lão có trong thời gian 1 năm xa vợ.

Nó gửi con chỗ bạn và chạy vội về Plovdiv để gặp ông bà Xa-sô một lần nữa. Khác với lần chia tay năm trước, ông bà ôm nó khóc rất nhiều. Hình như ông bà đã đoán được điều sẽ xảy ra với gia đình nó nên dặn dò nó cố gắng thu xếp cuộc sống cho ổn và chăm sóc hai cháu của ông bà thật cẩn thận. Ông ra tận bến xe tiễn nó, tần ngần nhìn nó cứ như cảm nhận sẽ không bao giờ được gặp lại nó nữa.

KẾT

Nó vẫn liên lạc được với ông bà vài năm sau khi về nước. Sau đó bao biến cố xảy ra, số điện thoại nhà ông bà thay đổi nên nó mất liên lạc với ông bà tới năm 2000 nó mới nhờ bạn bè tìm lại được ông bà. Thì ra ông bà đã bán căn hộ về quê ở cách Plovdiv chừng 30km. Năm 2003 ông bà quay lại thành phố, mua căn hộ 1 phòng ngủ ở góc đối diện xéo căn hộ đầu tiên của ông bà (ba căn hộ của ông nằm trên ba góc của 1 ngã tư) và đến năm 2004 ông đã ra đi mãi mãi. Nó rất buồn vì không có cơ hội được gặp lại ông. Năm 2011, nó quay lại Bungari, anh Rumen đón nó ở sân bay Sofia chở về nhà bà. Bà gây bất ngờ cho nó với chiếc giường phủ tấm trải và hai gối bằng sa tanh màu đỏ đô thêu hoa là món quà đầu tiên nó tặng ông bà, rồi bà chỉ lên tường treo hai tấm mành mành cùng lọ hoa bằng đá để ngay bàn dưới các tấm mành đó. Tất cả quà Việt Nam nó tặng ông bà đều được giữ nguyên vẹn sau hơn hai mươi hai năm xa cách. Bà kể chuyện ngày ông còn sống, cứ tới mùa trái cây là ông lại hồi tưởng lại những chuyến ông chở cả nhà đi mua ở những làng quanh Plovdiv, ông vẫn luôn nhớ tới con và các cháu. Nó muốn đi thăm mộ ông nhưng bà nói mộ ông ở xa lắm không thể tới được.

Năm 2016, nó đưa hai con gái sang nơi “chôn nhau cắt rốn” để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 30 của chúng nó. Những tấm hình theo trend “30-29-28 năm trước và bây giờ” được bọn trẻ cùng bà, bác Ivan và các anh chị Bun hào hứng diễn. Chỉ tiếc là ông đã đi xa nên không thể có tấm hình “ngày nay” của ông bà cùng các cháu. Anh Rumen nói sẽ đưa ba mẹ con đến một nơi rất đặc biệt, nó nói nó muốn đến thăm mộ ông thay vì tới nơi đó nhưng anh nói mộ ông nằm ở nghĩa trang ngay trên đường đi nên ghé vào rất tiện. Nghĩa trang nơi ông yên nghỉ ở cách trung tâm Plovdiv khoảng 15 phút đi xe hơi! Khi tới thăm ông nó mới hiểu ra lần trước nó sang Bun khi bà đã 75 tuổi nên khoảng cách như vậy với bà là “rất xa”. Rất may lần gặp này nó lại đòi anh Rumen chở đi nên ba mẹ con đã được nhìn thấy nơi ở vĩnh hằng của ông. Bungari quan niệm rằng người chết sau khi chôn được 8 năm là thân xác đã được hòa vào cát bụi và những người thân mất sau có thể được an táng ngay trên ngôi mộ của người mất trước này như thể họ lại được gặp nhau. Người Bun thường dùng quan tài gỗ nhưng nắp bằng bìa giấy cứng và đặt hoa bên trong quan tài tạo ra vi sinh giúp thân xác người quá cố hòa vào lòng đất nhanh hơn. Ông Xa-sô đã được đoàn tụ với bố mẹ mình trong ngôi nhà chung được “xây dựng” lần đầu cho mẹ ông vào năm 1940 (mẹ ông mất năm 1940). Một sự tình cờ rất vui là nơi anh Rumen muốn chở ba mẹ con tới chính là Tu viện Baukovski nơi ông đã dẫn gia đình nó tới 28 năm về trước và khi đó ông đúng bằng tuổi anh Rumen năm này. Anh Rumen kể mọi sự kiện trọng đại của gia đình từ thời ông nội đều được tổ chức tại đây như lễ đặt tên của ông Xa-sô, lễ cưới của ông bà, lễ đặt tên anh và các con của anh và đây là nơi đặc biệt nhất đối với gia đình anh và cũng chính là lý do tại sao anh muốn dẫn ba mẹ con tới. Bà Elena đã ra đi vào giữa năm 2018, anh Rumen đã mang tro bà về đặt ở Tu viện này.

Ông Xa-sô và vợ con sẽ mãi là những người thân thiết, ruột thịt đối với nó. Nếu không bị Covid hoành hành thì giờ đây nó đang chuẩn bị cho chuyến đi như đã hẹn với người thân và bạn bè rằng cứ mỗi 5 năm nó sẽ trở lại thăm họ một lần. Nó vẫn luôn da diết về thành phố Sofia và Plovdiv với đầy ắp kỷ niệm vui buồn, với nhiều loại hoa hồng thơm ngát, trái cây ngọt ngào và những con người thắm đậm tình người. Như một định mệnh, nó đã có quê hương thứ hai là Bungari từ gần 40 năm trước mà từ khi hạ cánh xuống đây, bất chấp bao thăng trầm nó đã có món quà quý giá nhất Bề Trên ban cho: hai con gái hoàn toàn Việt Nam nhưng khai sinh với tên Xaska và Elena – hai cái tên luôn nhắc nó về lòng tri ân với ông bà Xa-sô!

Благодаря! Благодаря!

Ghi chú: hai vợ chồng đã chia tay từ lâu, câu chuyện này không phải là dịp người vợ cũ “kể tội” ông chồng năm xưa, mà muốn nói về một thời đã xa nhưng không thể nào quên tại Bungaria và về hai ông bà Xa-sô, họ đối với gia đình mấy mẹ con nó đã và luôn thân thương và gần gũi nhường nào.