Thu hoạch vải thiều ở Bắc Giang

Những ngày này, người dân Bắc Giang đeo khẩu trang, tất bật thu hoạch, vận chuyển vải thiều chính vụ.

Nhiều vùng ở Bắc Giang đang vào chính vụ thu hoạch vải thiều, vải lai Thanh Hà. Tại thôn Tòng Lệnh 1 (xã Trường Giang, huyện Lục Nam), gia đình ông Nguyễn Văn Trung thu hoạch hơn 300 cây vải từ sáng sớm. Năm nay vải được mùa, được giá.

Vải được cắt bằng kéo, bó thành từng chùm ngay tại vườn. “Ở vùng này trồng được ba loại là vải u hồng chín sớm, vải thiều lai Thanh Hà và vải thiều chính vụ. Trong đó, vải thiều Thanh Hà quả to, vỏ đỏ, chín sớm nên dễ bán. Tuy nhiên, vải thường chín rộ nên phải thu hái nhanh nếu không sẽ bị già cùi và nhạt”, bà Nguyễn Thị Nhàn (đội nón), vợ ông Trung nói.

Mỗi chùm quả tươi nặng khoảng 4-5 kg, được cắt tỉa lá trước khi đưa đi tiêu thụ.

Cách đó khoảng 500 m, anh Nguyễn Xuân Tài đẩy từng xe vải từ vườn ra đường để đưa đi bán. Gia đình anh Tài có 200 cây vải, thu hơn 2 tấn quả.

“Thu nhập chính của gia đình nhờ vào vườn vải nên từ 5h, tôi phải đưa chuyến vải đầu tiên đi bán, một ngày nếu chở bán nhanh có thể được 2 chuyến, mỗi chuyến từ 150 kg đến 200 kg, đến 9h30 thì nghỉ”, bà Nguyễn Thị Ngự (trái), mẹ anh Tài, nói.

Dòng xe máy chở vải từ huyện Lục Nam qua cầu phao Tòng Lệnh đến các chợ đầu mối ở huyện Lục Ngạn bán cho thương lái. Lúc cao điểm, hai con đường dẫn xuống cầu kẹt cứng, người dân phải mất hơn một tiếng để qua lại.

Cây cầu hoạt động gần 5 năm nay, là con đường gần nhất để người dân đi lại, giao thương. Ngày mưa, nước dâng cao, cầu tròng trành; ngày nước thấp, lòng sông rộng tạo dốc cao khiến nhiều xe vải bị bốc đầu, ngã xuống sông.

Trên quốc lộ 31, đoạn thuộc huyện Lục Ngạn giao với huyện Lục Nam, cảnh sát cơ động hướng dẫn xe chở vải qua chốt kiểm dịch.

Do Covid-19 căng thẳng, huyện Lục Ngạn đã lập 3 chốt kiểm dịch lớn đặt trên quốc lộ và 39 chốt ở các xã. Mỗi chốt có khoảng 16 người gồm dân quân, cảnh sát, nhân viên y tế…, chia 2 ca làm việc suốt 20 ngày nay.

Theo quy định, người vận chuyển, thu mua vải hầu hết là người địa phương. Thương lái từ tỉnh khác đến huyện phải được xét nghiệm Covid-19 và có giấy chứng nhận âm tính, khi qua các chốt của xã được đo thân nhiệt và khai báo y tế.

Vải đưa đến nơi thu gom sẽ được phát phiếu báo giá, lái buôn ngã giá và mời chào ngay khi nhìn thấy quả to đỏ và đều.

Tại điểm thu mua, lái buôn thường thuê hàng chục thanh niên vận chuyển vải lên xe. Những người này được trả từ 400.000-1.000.000 đồng một ngày công tùy theo công việc.

Vài tiêu thụ ở các tỉnh lân cận thường được bốc xếp bằng xe tải hạng nhẹ. Những quả vải đưa đi tiêu thụ ở nơi xa và xuất đi Trung Quốc được ướp đá lạnh và chở bằng xe container.

Theo UBND huyện Lục Ngạn, đến ngày 9/6, toàn huyện đã tiêu thụ khoảng 30.000 tấn, trong đó vải sớm tiêu thụ được 24.622 tấn, vải chính vụ là 5.259 tấn. Giá bán hiện từ 10.000 đến 26.000 đồng/kg. Để tạo thuận lợi cho việc thu mua, tiêu thụ sản phẩm, huyện đã xét nghiệm Covid-19 cho hơn 1.100 người, chủ yếu là thương nhân, lái xe, người lao động, đồng thời cấp 544 giấy chứng nhận lô vải an toàn dịch bệnh.

Đến trưa 11/6, toàn tỉnh Bắc Giang ghi nhận 3.764 ca Covid-19, là vùng dịch lớn nhất cả nước.

Theo Viêtnam Express

Wavy Mosaic, nguồn cảm hứng truyền thống cho ngôi nhà hiện đại

Wavy Mosaic, dòng gạch kiến trúc vừa ra mắt của INAX, có thể tái hiện sự chuyển dịch của ánh sáng trong không gian, như những tia nắng nhảy múa khi chiếu xuyên qua tấm rèm tre.

Thương hiệu gạch kiến trúc INAX, với hơn 100 năm hình thành và phát triển, luôn tìm cảm hứng thiết kế trong những vật dụng mang phong vị Nhật Bản cổ truyền. Sản phẩm mới Wavy Mosaic là một biến tấu đến từ những tấm rèm tre Sudare truyền thống.

Cảm hứng từ những tấm rèm tre

Trong thiết kế, ý tưởng độc đáo thường đến từ những điều tưởng chừng rất đơn sơ, như tấm rèm Sudare trong ngôi nhà truyền thống Nhật Bản là một cảm hứng để INAX sáng tạo nên dòng gạch kiến trúc Wavy Mosaic. Sudare được đan hoàn toàn thủ công từ tre hoặc trúc, người Nhật thường treo rèm xung quanh hiên nhà để vừa che nắng, vừa giữ cho làn gió có thể lùa vào nhằm giảm nhiệt độ khi nóng bức. Từ ý tưởng đó, Wavy Mosaic mô phỏng hoàn hảo cấu trúc và cách ánh sáng phản chiếu dưới mặt trời của tấm rèm tre, mang tới công năng ấn tượng cùng tính mỹ thuật cho không gian sống.

Tấm rèm tre Sudare cổ kính mang nét đẹp mộc mạc từ thiên nhiên. Ảnh: Shutterstock.
Tấm rèm tre Sudare cổ kính mang nét đẹp mộc mạc từ thiên nhiên. Ảnh: Shutterstock.

Vân gạch được bố trí hài hoà tạo thiện cảm cho người ngắm

Để tái hiện nét đẹp của chất liệu tre trúc truyền thống, từng đường vân của Wavy Mosaic đã được tạo tác tinh xảo, 2 gam màu đậm nhạt được bố trí khéo léo, thể hiện được trọn vẹn kiến trúc Nhật Bản.

Nếu có dịp thấy các tia nắng nhảy múa khi chiếu xuyên qua tấm rèm tre Sudare, bạn sẽ kinh ngạc vì Wavy Mosaic cũng có thể tái hiện sự chuyển dịch của ánh sáng như vậy. Điều này là kết quả của quá trình quan sát, tìm hiểu và dày công sản xuất của các kỹ sư INAX, để khi Wavy Mosaic được ốp lên tường, từng mảng sáng trong không gian sẽ nổi bật, gây ấn tượng.

Wavy Mosaic sở hữu có 4 màu sắc khác nhau giúp dễ dàng biến tấu và trang trí cho ngôi nhà, tất cả đều hàm chứa sự tỉ mỉ, tinh tế đã làm nên thương hiệu của gạch kiến trúc INAX.

(Mỗi vỉ gach Wavy Mosaic chỉ có 2 gam màu nhưng dường như hàm chứa bên trong cả tinh hoa thiết kế của người Nhật Bản)
Mỗi vỉ gạch Wavy Mosaic chỉ có 2 gam màu nhưng dường như hàm chứa bên trong cả tinh hoa thiết kế của người Nhật Bản. Ảnh: INAX.

Gạch Wavy Mosaic giúp công trình đẹp từ ngoài vào trong

Như nhiều dòng gạch của thương hiệu INAX, Wavy Mosaic có thể sử dụng cho cả nội thất và ngoại thất, tạo nên nét hoàn mỹ, tinh tế cho ngôi nhà.

Với ngoại thất, gạch kiến trúc Wavy Mosaic sẽ gây ấn tượng thị giác đặc biệt cho bất kỳ ai có dịp chiêm ngưỡng. Nhờ sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại, gạch Wavy Mosaic mang đến độ bền lâu dài, góp phần bảo vệ công trình khỏi các tác nhân ngoại cảnh: chống tia tử ngoại, chống thấm, chống xước, chống hóa chất, chống cháy, dễ dàng vệ sinh.

Gạch kiến trúc Wavy Mosaic  tạo ấn tượng thị giác độc đáo cho ngoại thất ngôi nhà.
Gạch kiến trúc Wavy Mosaic tạo ấn tượng thị giác độc đáo cho ngoại thất ngôi nhà. Ảnh: INAX.

Với không gian nội thất, Wavy Mosaic có những ưu điểm như sạch sẽ, dễ dàng vệ sinh, nhất là giúp không gian nhà biến hoá theo từng khoảnh khắc, giảm thiểu sự trùng lặp đơn điệu, mang đến cảm giác hài hoà thư thái cho gia đình giữa bộn bề lo toan.

Không gian nội thất ốp gạch Wavy Mosaic mang lại cảm giác thư thái cho người sử dụng. Ảnh: INAX
Không gian nội thất ốp gạch Wavy Mosaic mang lại cảm giác thư thái cho người sử dụng. Ảnh: INAX.

“Là sản phẩm mới nhất đúc kết được từ tinh hoa hơn một thế kỷ của thương hiệu INAX, gạch kiến trúc Wavy Mosaic sẽ là lựa chọn hoàn hảo cho công trình đương đại, từ nhà phố đến villa”, đại diện INAX khẳng định.

Diệp Chi /Vietnam Express

10 thành phố đáng sống nhất thế giới năm 2021

Australia một lần nữa chiếm nhiều vị trí trong danh sách các thành phố đáng sống nhất thế giới năm 2021. Tuy nhiên, vị trí đầu bảng lại là một đại diện đến từ New Zealand.1. Auckland, New Zealand: Cuộc khảo sát của Economist Intelligence Unit (cơ quan nghiên cứu kinh tế toàn cầu – EIU) năm 2021 đã đánh giá Auckland là thành phố đáng sống nhất thế giới. Đứng đầu bảng xếp hạng, thành phố ở New Zealand là nơi đẩy lùi đại dịch Covid-19 một cách nhanh chóng, các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại sớm được dỡ bỏ ở thành phố này.

10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 1
1. Auckland, New Zealand: Cuộc khảo sát của Economist Intelligence Unit (cơ quan nghiên cứu kinh tế toàn cầu – EIU) năm 2021 đã đánh giá Auckland là thành phố đáng sống nhất thế giới. Đứng đầu bảng xếp hạng, thành phố ở New Zealand là nơi đẩy lùi đại dịch Covid-19 một cách nhanh chóng, các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại sớm được dỡ bỏ ở thành phố này.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 3
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 2
2. Osaka, Nhật Bản: Trung tâm kinh tế lớn thứ hai Nhật Bản đã vươn lên vị trí thứ 2 của danh sách, tăng 2 bậc so với năm 2019. Osaka sở hữu nét kiến trúc độc đáo với nhiều điểm đến thu hút đông đảo du khách mỗi năm.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 4
3. Adelaide, Australia: Thành phố lớn thứ 5 của Australia năm nay đã có mặt trong danh sách những nơi đáng sống nhất toàn cầu, xếp ở vị trí thứ 3. “Những thành phố vươn lên dẫn đầu trong bảng xếp hạng năm nay chủ yếu là những địa danh đã thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp nhằm ngăn chặn đại dịch Covid-19”, Upasana Dutt, thành viên cấp cao của ban quản lý tập đoàn The Econnomist cho biết.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 8
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 7
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 6
4. Wellington, New Zealand: Thủ đô của New Zealand nằm trong top 4 thành phố đáng sống năm 2021. Hiện, công dân ở thành phố Wellington và Auckland đang tận hưởng nhịp sống tương tự thời điểm trước đại dịch.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 9
5. Tokyo, Nhật Bản: Thủ đô của Nhật Bản là một trong những thành phố thuộc top 5 danh sách đáng sống trên thế giới. Năm 2020, linh hồn của đất nước Mặt trời mọc cũng được xếp hạng là thành phố có chất lượng cuộc sống cao nhất khi địa phương này có những biện pháp quyết liệt ứng phó với đại dịch Covid-19.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 10
6. Perth, Australia: Thành phố đông dân thứ 4 Australia nổi tiếng với lợi thế môi trường sống yên ả, ít ô nhiễm. Nơi đây có sự phong phú về văn hóa, người dân thân thiện, thu hút nhiều sinh viên quốc tế đến học tập và xây dựng cuộc sống. Năm nay, Perth xếp hạng thứ 4, là một trong 4 thành phố của Australia vào top 10 của danh sách xếp hạng.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 11
7. Zurich, Thụy Sĩ: Thành phố Zurich được biết đến là một trong những nơi có chất lượng sống cao nhất châu Âu. Du khách thế giới mê đắm vẻ đẹp của thành phố này, muốn khám phá nền văn hóa độc đáo nơi đây. Thành phố sở hữu hơn 50 bảo tàng và nhà hát, địa danh du lịch.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 12
8. Geneva, Thụy Sĩ: Bất chấp một số hạn chế giãn cách xã hội còn đang áp dụng ở Thụy Sĩ, quốc gia Trung Âu vẫn chứng kiến 2 thành phố lên hạng trong danh sách. Năm 2019, Zurich và Geneva từng đứng thứ 11 và 14, năm nay đã lần lượt lên vị trí thứ 7 và 8. Geneva cũng được biết đến là một trong những thành phố yên bình, có chi phí sinh hoạt thuộc hàng đắt đỏ nhất thế giới, tương tự Zurich.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 14

10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 13
9. Melbourne, Australia: Thành phố lớn nhất bang Victoria đã tụt xuống hạng thứ 9 trong báo cáo chỉ số chất lượng sống trên toàn cầu năm 2021. Trước đó, Melbourne từng đứng đầu danh sách các thành phố đáng sống nhất thế giới suốt 7 năm liền (2011-2017), sau đó xuống hạng 2 cho đến năm 2019. Báo cáo năm nay cho thấy chỉ số về chăm sóc sức khỏe và văn hóa, môi trường tại Melbourne đều giảm.
10 thanh pho dang song nhat the gioi nam 2021 anh 15
10. Brisbane, Australia: Đứng thứ 10 trong danh sách các thành phố đáng sống nhất toàn cầu là Brisbane, trung tâm đông dân thứ 3 Australia. Thành phố này là sự kết hợp đan xen giữa nét truyền thống và hiện đại của đô thị trẻ, năng động. Dù một số địa danh có xuống hạng, nhưng các thành phố của Australia vẫn chiếm quá nửa danh sách top 10 nơi có chất lượng sống cao nhất toàn cầu.

Vén màn sương huyền thoại về Napoléon

Cuốn tiểu sử “Napoléon Bonaparte” tái hiện chân dung sống động về một trong những nhân vật nổi tiếng, gây tranh cãi bậc nhất lịch sử thế giới.

Đã có nhiều cuốn sách viết về nhà quân sự, chính khách Napoléon Bonaparte. Mỗi tác phẩm nhìn nhận, phân tích, nghiên cứu nhân vật này theo những khía cạnh khác nhau. Trong một số sách, ông là một thiên tài quân sự, trong một số tác phẩm khác, ông là một bạo chúa bị ám ảnh bởi chiến tranh.

Sach Napoleon Bonaparte anh 1
Sách Napoléon Bonaparte do NXB Văn học và Đông A phát hành. Ảnh: Đ. A.

Thiên tài hay tội đồ?

Nhà sử học Adam Zamoyski đã xé bức màn giai thoại bao phủ lên cuộc đời nhân vật, lý giải Napoléon dựa trên bối cảnh thời kỳ Khai sáng châu Âu. Cuốn sách của ông mới được xuất bản tiếng Việt với tên Napoléon Bonaparte, do dịch giả Nguyễn Quí Hiển chuyển ngữ.

Cuốn sách 916 trang gồm 44 chương, xây dựng tiểu sử Napoléon Bonaparte từ khi sinh ra trên đảo Corse, con đường thăng tiến, cho đến ngày qua đời trên đảo Saint Helena. Tác giả dành dung lượng lớn tìm hiểu về những năm tháng hình thành nên con người Napoléon, để lý giải một người vẫn còn gây tranh luận.

Tác giả cũng tập trung viết về chiến dịch Italy lần thứ nhất (1796-1797), sự kiện cho thấy Napoléon trên cơ đối thủ và các đồng sự của mình như thế nào. Chiến dịch nước Nga được tác giả nhìn nhận “là mấu chốt cho sự suy tàn của Napoléon, và cho thấy những bối rối trong tâm tưởng ông đã dẫn đến hành vi tự tử về mặt chính trị như thế nào”.

Adam Zamoyski sớm tiếp xúc với những góc nhìn trái ngược, các giai thoại bao phủ về Napoléon: Một thiên tài thần thánh, một hiện thân của lý tưởng lãng mạn chủ nghĩa, một con quỷ hung ác, hay chỉ là một nhà độc tài xấu xa vóc người nhỏ bé.

Những nghiên cứu lịch sử khiến Adam Zamoyski không tán đồng với quan điểm nào trong đó.

Trong Lời nói đầu sách, tác giả nêu mục tiêu thực hiện nghiên cứu: “Quyển sách này không phải là thanh minh hay lên án, mà nhằm sắp xếp lại những mảnh ghép cuộc đời của con người sinh ra dưới cái tên Napoleone Bonaparte, và xem xét làm sao ông lại trở thành ‘Napoléon’ và đạt được những thành tựu ông có, cũng như vì sao ông lại đánh mất tất cả cơ đồ này”.

Với quan điểm Napoléon là một thiên tài, Adam Zamoyski cho rằng ông không thấy nhân vật này có gì siêu phàm, nhưng có nhiều phẩm chất phi thường.

Napoléon vẫn là một con người bình thường dưới nhiều góc độ, “tuy đã đạt được vô số vinh quang, lại đích thân chỉ huy trận chiến thảm họa bậc nhất lịch sử quân sự (một thảm họa tự ông gây nên), và tự một tay tiêu diệt cái cơ đồ vĩ đại mà mình cùng với bao người khác đã dày công gây dựng”.

Sử gia Adam Zamoyski đánh giá Napoléon là một nhà chiến thuật xuất sắc; nhưng ông không phải là nhà chiến lược, bởi vậy, cuối đời ông nhận kết cục bi thảm.

Với quan điểm Napoléon là “con quỷ khát máu chiến tranh”, tác giả bác bỏ khi đặt nhân vật vào bối cảnh lịch sử. Theo tác giả, động cơ, tham vọng của Napoléon cũng giống những người đương thời như Sa hoàng Aleksandr I, Công tước Wellington, Bá tước Blucher…

Trước khi Napoléon trỗi dậy, cuộc tranh chấp bá quyền đã nổ ra. Nước Anh chiếm Canada, một phần lớn Ấn Độ; Áo giành được nhiều tỉnh ở Italy; Ba Lan và Phổ tăng thêm diện tích… Nhưng những người đứng đầu không bị chỉ trích là khát máu chiến tranh.Cuốn

Sach Napoleon Bonaparte anh 2
Cuốn sách được đánh giá là tiểu sử chân thật về Napoléon. Ảnh: Đ. A.

Đặt nhân vật vào bối cảnh lịch sử

Viết cuốn tiểu sử, tác giả đặt Napoléon vào bối cảnh lịch sử, bỏ qua những quan điểm đã được công nhận cùng những định kiến.

Để làm được điều này, tác giả đã chú trọng vào nhiều nguồn tư liệu mà ông cho là khả tín. Ông tham khảo lượng tài liệu lớn tại các cơ quan lưu trữ chính phủ, thư viện quốc gia của nhiều nước, đến các sách, báo đã lưu hành, và nghiên cứu của các sử gia trước đó.

Tác giả cũng nghiên cứu hồi ký của những người liên quan như Bourrienne, Fouché, Barras… với sự thận trọng. Ông cho rằng các nhân vật này vốn viết hồi ký chủ yếu để tự biện minh hoặc để xây dựng hình ảnh của chính mình.

Cuốn sách đã nhận phản hồi tích cực từ giới nghiên cứu, báo chí. The Times Anh viết: “Đây có lẽ là một trong những tiểu sử chân thật nhất về Napoléon”.

Ngoài hệ thống chú thích ở chân trang và Thư mục tham khảo được trình bày theo sách gốc, phiên bản tiếng Việt có bổ sung hệ thống Chỉ mục theo tiếng Việt. Điều này giúp độc giả có thể tra cứu thêm các nguồn sử liệu mà tác giả đã tham khảo khi viết sách, tạo trải nghiệm tiện lợi và khoa học.

Ấn bản tiếng Việt của Napoléon Bonaparte còn có minh họa từ cuốn Histoire de l’Empereur Napoléon, tác giả Laurent de l’Ardèche, hoạ sĩ Horace Vernet vẽ.

Phần phụ bản sách là 36 hình ảnh về cuộc đời Napoléon qua tranh vẽ của các hoạ sĩ đương thời. Đó là chân dung Napoléon, chân dung người thân của ông, các nhân vật liên quan, địa danh, các sự kiện (như Điện Tuileries, Khải hoàn môn Carrousel, Lễ đăng cơ của Napoléon)…

Tác giả Adam Zamoyski (1949) là nhà nghiên cứu lịch sử người Anh. Ông có thể nói được năm thứ tiếng Anh, Ba Lan, Pháp, Italy, Nga. Hiện ông đang giảng dạy tại Anh, Mỹ và châu Âu.

Adam Zamoyski viết nhiều sách về lịch sử Ba Lan và châu Âu. Ông là tác giả của 3 tác phẩm về Napoléon là: Napoléon Bonaparte (Napoleon: A Life), Moscow 1812: Napoleon’s Fatal March on Moscow (1812 – Chiến dịch chết chóc của Napoléon ở Moscow), Rites of Peace, The fall of Napoléon & the Congress of Vienna (Nghi lễ hòa bình – Sự sụp đổ của đế chế Napoléon và Hội nghị Vienna).

Y Nguyên / Sách hay / Zing

Các đặc tính và tệ nạn của văn hóa Trung Quốc

Tác giả: Dư Thu Vũ | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
1. Các đặc tính của văn hóa Trung Quốc
Rất nhiều học giả đã phát biểu về đặc tính của văn hóa Trung Quốc. Tôi không tán thành phần lớn các ý kiến của họ. Nguyên nhân chỉ có một: những “đặc tính” họ tìm ra thì không có gì khác với các tính đặc thù thực sự của các nền văn hóa khác.
Ví dụ: “mạnh mẽ, đầy triển vọng”, “vươn lên không biết mệt mỏi”, “nội dung bao la mênh mông”, “tôn sư trọng giáo”, “khoan dung nhường nhịn”, “hậu đức tải vật”,[1] những thành ngữ này luôn được thay nhau dùng để khái quát các đặc tính của văn hóa Trung Quốc. Thoạt xem dường như không có gì sai cả, nhưng một khi dịch ra tiếng nước ngoài thì rắc rối, vì trong những sách kinh điển của hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có cách nói tương tự, chẳng qua chúng ta trình bày bằng văn ngôn của Hán ngữ mà thôi.
Điều đó cho thấy sự nhất trí đáng quý của văn hóa Trung Quốc với văn hóa thế giới. Nó cũng cho thấy chúng ta không thể lấy tính nhất trí đó để thuyết minh đặc tính của văn hóa Trung Quốc. Điều quan trọng hơn là, những từ ngữ đẹp đẽ ấy phần lớn là lời dạy và lời tuyên bố với mọi người của các nhà tư tưởng cổ đại, không thể nói rõ những thứ đó đã được người ta áp dụng vào thực tế hay chưa. Đúng là có một số thứ các nhà tư tưởng cổ đại đã nhìn thấy nhưng người ta lại chưa làm được, cho nên họ mới đưa ra những lời răn dạy. Vì thế cái gọi là đặc tính văn hóa ắt còn phải có tính thực tiễn rộng rãi và lâu dài.
Xét theo tiêu chuẩn tính độc đáo và tính thực tiễn, tôi khái quát các đặc tính của văn hóa Trung Quốc thành ba thứ “Đạo”:
– Thứ nhất, trên mô thức xã hội, văn hóa Trung Quốc đã xây dựng nên “Đạo Lễ nghi”;
– Thứ hai, trên mô thức nhân cách, đã xây dựng được “Đạo Quân tử”;
– Thứ ba, trên mô thức hành vi, đã xây dựng được “Đạo Trung dung”.
Dùng ba thứ “Đạo” này để thuyết minh sự khác biệt căn bản giữa văn hóa Trung Quốc với các loại văn hóa khác, người nước ngoài có thể tiếp thụ được không?
Bắt đầu từ cách đây sáu năm, tôi được mời đến nói chuyện tại các trường đại học Harvard, Yale, Columbia, Maryland và Thư viện Washington ở Mỹ, tại các nơi đó tôi đều nói theo mạch suy nghĩ này, người nghe có phản ứng rất tích cực. Sau mỗi lần nói chuyện, tôi đều thảo luận với các giáo sư và học giả sở tại. Nhìn chung có thể khẳng định, mạch suy nghĩ ấy của tôi tương đối dễ được giới học giả quốc tế chấp nhận.
Sau đây tôi xin dùng lời lẽ đơn giản nhất để nói qua về ba thứ “Đạo” này.
Trước hết nói về “Đạo Lễ nghi”. Tổ tiên chúng ta từ sớm đã phát hiện văn hóa tuy mềm mại nhưng muốn lưu truyền văn hóa thì phải tạo cho nó một hình thái cụ thể. Phần lớn văn hóa dân gian truyền lại từ xã hội nguyên thủy đều được thực hiện rộng rãi theo phương thức cứng rắn của những phong tục xấu [?]. Như vậy không thể để những thứ mà các nhân vật tinh hoa tư tưởng muốn thực hiện rộng rãi như nhân ái, cao thượng, hiền lành, kính trọng lẫn nhau, nhường nhịn, trật tự… trở thành thứ sáo rỗng, mà phải thiết kế ra một bộ quy phạm hành vi, thông qua các nghi thức nhất định để tiến hành truyền bá những thứ đó theo kiểu bán cưỡng chế hóa. Thí dụ văn hóa Hiếu xuất phát từ luân lý tình thân, trẻ nhỏ chưa hiểu sâu thì cũng phải học được thói quen hàng ngày đến hỏi thăm sức khỏe cha mẹ. Sự hỏi thăm ấy chính là quy phạm hành vi bán cưỡng chế hóa, cũng là sợi dây làm cho văn hóa Hiếu có thể tiếp diễn. Vì thế cái gọi là “Lễ nghi” là một loại nghi thức văn hóa đã đời sống hóa, tiện cho việc cố định, thực hành, xem xét, kế thừa. Những người đặt ra quy phạm đó tin rằng chỉ cần quy phạm và nghi thức còn tồn tại thì tinh thần văn hóa chứa đựng trong đó sẽ có khả năng tồn tại; nếu không thì tinh thần văn hóa sẽ chỉ có thể theo gió mà bay mất. Bởi thế Tuân Tử nói: “Lễ giả, nhân đạo chi cực dã”. Nghĩa là lễ nghi là cái gốc của đạo đức nhân văn. Dĩ nhiên lễ nghi cũng sẽ đem lại cho mỗi người rất nhiều cái mất tự do; điều đó Khổng Tử từ sớm đã nhận thấy, bởi vậy ông nói “Khắc kỷ phục lễ”.[2] Chính là sự nỗ lực của Khổng Tử và các vị thầy tiền bối khác đã làm cho Trung Quốc được nhiều lần gọi là “Nước của lễ nghi”.
Lấy “Lễ nghi” làm mô thức xã hội, điều này cũng làm cho Trung Quốc trong mấy nghìn năm qua vẫn giữ được một kiểu đoan trang đáng quý. Khuyết điểm là “Lễ nghi” quá chú trọng hình thức bên ngoài và lễ nghi rắc rối, điều đó đã hạn chế sự vỡ lòng của tâm linh và sự biểu đạt cá tính, lại càng cản trở phần lớn học giả Trung Quốc tiến hành tư duy siêu nghiệm, trừu tượng và có kết cục cuối cùng.
Tiếp theo xin nói về “Đạo quân tử”. Giới Nho sĩ muốn cải tạo xã hội mà không làm được việc đó, cuối cùng họ bèn biến mục tiêu cải tạo xã hội thành cải tạo nhân cách. Thoạt tiên họ xác định trình tự hành vi là “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tu thân là điểm xuất phát, ngờ đâu vất vả tu thân bao năm đến cuối cùng thì dự định trị quốc, bình thiên hạ về cơ bản lại tan vỡ; vì thế điểm xuất phát lại biến thành nơi đến. Hình mẫu nhà Nho tu thân là quân tử.
Lấy quân tử làm lý tưởng nhân cách – đây là đặc trưng độc đáo của văn hóa Trung Quốc. Tại đây chúng ta có thể làm một đối chiếu vĩ mô: Trên thế giới này có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là “Giác giả” [người tu hành đã giác ngộ, Buddha], có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là “Nhà Tiên tri”, có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là “Người khổng lồ” [Giant], có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là “Thân sĩ” [Gentlement], có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là “Kỵ sĩ” [Hiệp sĩ, Knight], có dân tộc coi lý tưởng nhân cách là là “Võ sĩ”. Nhưng lý tưởng nhân cách của dân tộc Trung Hoa là “Quân tử” thì không lặp lại các lý tưởng nhân cách nói trên.
Tổ tiên chúng ta không định nghĩa quân tử là gì. Nhưng điều còn đặc sắc hơn là các vị ấy xác định rõ ràng mặt đối lập của quân tử —— tiểu nhân. Hơn thế nữa, trên tất cả các vấn đề còn tiến hành đối chiếu quân tử và tiểu nhân với nhau, đối chiếu trực tiếp ở cự ly gần. Phương thức lý luận đó có hình ảnh rõ ràng, tương phản mạnh, dễ cảm nhận, lại có thể cao giọng nói ra, [vì thế] cực kỳ dễ lưu truyền.
Các bạn xem đấy, xưa nay bất cứ người Trung Quốc nào có chút văn hóa đều có thể buột miệng nói những câu như “Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân thường thích thích”, “Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”, “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”, “Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”, “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”[3]…  Kết quả là hơn hai nghìn năm qua, giới hạn giữa quân tử với tiểu nhân trở thành ranh giới thứ nhất của văn hóa Trung Quốc. Bất cứ người Trung Quốc nào, cho dù thất bại thì cũng mong muốn thất bại như người quân tử mà không mong muốn chuyển biến thành kẻ tiểu nhân thành công; cho dù bị người khác nói mình là kẻ xấu thì cũng không muốn bị nói là kẻ tiểu nhân. Điều đó ăn sâu vào lòng người, chứng minh các nhà Nho cổ đại đúng là đã đem tất cả mọi giấc mơ chính trị, giấc mơ lễ nghi ngưng tụ thành giấc mơ quân tử, giấc mơ nhân cách.
Cuối cùng xin nói về “Đạo Trung dung”. Nói dễ hiểu, tức là văn hóa Trung Quốc về bản tính không tín nhiệm mọi sự hấp dẫn cực đoan hóa. “Đạo trung dung” cho rằng các lời lẽ cực đoan tuy rằng nghe thì sướng tai đấy, vui đấy nhưng nhất định là hại người hại mình. Vì vậy phải cảnh giác với cái sướng và vui ấy, phải đi tìm sự thích hợp và thích đáng; phải từ bỏ sự cứng nhắc và hẹp hòi mà đi tìm kiếm sự co dãn và khoan dung.
“Đạo trung dung” là một phương thức tư duy tổng thể. Nó phản đối sự chia cắt mà đề xướng sự chỉnh hợp; nó mong muốn sự rõ ràng nhưng lại dung thứ sự hỗn độn; nó yêu cầu kết quả nhưng cũng thừa nhận quá trình; nó biết phải trái nhưng lại khẳng định sự chuyển hóa; nó cho rằng tổng thể của sự bổ khuyết lẫn nhau, tác động lẫn nhau, dịch chuyển lẫn nhau là bộ mặt thật của thế giới, mà tư duy cực đoan hóa là tư duy giả tạo.
Trong lịch sử, tại Trung Quốc cũng từng xuất hiện không ít sự kiện cực đoan hóa, gần đây có Nghĩa Hòa Đoàn, “Cách mạng Văn hóa” v.v… nhưng thời gian không dài [?]. Các sự kiện chiếm địa vị chủ đạo trong lịch sử vẫn là triết lý “trung dung”, “trung hòa”, “trung đạo” dựa trên luân hồi bốn mùa của văn minh nông canh, sự hỗ sinh của âm dương. Loại triết lý này qua sự trình bày sâu sắc và áp dụng vào thực tiễn của Nho giáo và Đạo giáo đã trở thành mô thức hành vi cơ bản của người Trung Quốc, hình thành sự đối chiếu rõ rệt với những nơi khác trên thế giới bao lâu nay mê đắm với chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và chủ nghĩa bành trướng quân sự. Tôi cho rằng trong số mấy nền văn minh lớn của loài người, nền văn minh Trung Hoa có thể trở thành nền văn minh duy nhất may mắn còn lại, chưa bị gián đoạn và tiêu vong; việc này có rất nhiều nguyên nhân, trong đó bí mật quan trọng nhất là “Đạo Trung dung”. Trong nhiều tai nạn lớn, “Đạo trung dung” có tác dụng làm dịu, tác dụng ngăn ngừa bùng nổ và tác dụng chữa lành vết thương, vừa bảo toàn bản thân vừa bảo vệ thế giới. Ví dụ nền văn hóa dòng chính của Trung Quốc không tán thành các cuộc viễn chinh đưa quân đội ra nước ngoài. Điều này rất khác với các nền văn minh lớn trên thế giới. Sự khác biệt này ngay cả rất nhiều giáo sĩ phương Tây đến Trung Quốc truyền giáo cũng phải trải qua thời gian rất lâu mới hiểu được, họ phát hiện nguồn gốc là “Đạo trung dung”. Năm 2005 tôi có đọc tại Đại hội Văn minh thế giới của Liên Hợp Quốc bài diễn văn “Giải đáp của Matteo Rici”,[4] trong đó tôi dùng một loạt sự thực lịch sử từ góc độ triết học văn hóa để phản bác “Thuyết Trung Quốc đe dọa”.
Tóm lại, ba thứ “Đạo”, mô thức xã hội, mô thức nhân cách, mô thức hành vi thật là đầy đủ, hơn nữa lại tổ hợp nghiêm chỉnh, tạo ra một loại “thế chân vạc” của nền văn hóa lớn. Cái vạc văn hóa này vừa là lý do ngưng tụ tinh thần người Trung Quốc lại vừa là một công trạng lớn của người Trung Quốc trên trái đất này. Nếu người khác không thừa nhận thì đó là do họ không có kiến thức mà thôi.
Cho tới nay còn có những người vẫn hay dùng một số quan niệm xã hội do phương Tây tạo dựng trong thời kỳ cận đại để chê bai Trung Quốc và người Trung Quốc. Đúng là các quan niệm ấy của phương Tây đều rất ưu tú, rất đáng được chúng ta học tập, nhưng tôi cũng có chút không phục. Bởi lẽ trước khi các quan niệm đó ra đời thì văn hóa Trung Quốc đã sống tương đối mạnh mẽ ít nhất 5000 năm. Chứng cứ của sự “tương đối mạnh mẽ” là trong khi các láng giềng cùng tuổi đã liên tiếp chết sớm thì văn hóa Trung Quốc vẫn tràn trề sinh lực sống cho tới ngày nay, sinh ra chư tử bách gia, sinh ra các triều Tần, Hán, Đường, Tống, sinh ra số dân đông đảo. Sống lâu như thế, lớn như thế, lẽ nào lại không có giá trị tinh thần của mình ư?
Cách đây vài tháng, tại Đài Bắc, tôi có tranh cãi với một nhà chính luận người Mỹ gốc Hoa. Ông ấy nói: “Hệ thống giá trị của phương Tây là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của toàn bộ các vấn đề chúng ta thảo luận.” Tôi nói: “Có phải là điểm kết thúc hay không, ông và tôi đều không có tư cách phán đoán. Nhưng tôi có tư cách khẳng định khởi điểm không ở đấy.”
2. Các tệ nạn của văn hóa Trung Quốc
Sau khi đã nói về công trạng của văn hóa Trung Quốc thì cũng cần bàn một chút về các tệ nạn của nó.
Văn hóa Trung Quốc có tầm vóc lớn, tuổi thọ dài, đương nhiên tệ nạn rất nhiều. Để tương ứng với ba thứ “Đạo” đã nói ở trên, tôi cũng chọn ra ba thứ “Yếu”.
Điểm yếu thứ nhất của văn hóa Trung Quốc là xa lạ với không gian công cộng.
“Không gian công cộng” (public space) được coi là một mệnh đề xã hội học và được trường phái học thuật Frankfurt ở Đức tái giải thích, thực ra là một điểm sáng lớn tự cổ chí kim của văn hóa châu Âu. Văn hóa Trung Quốc xưa nay tương đối u ám về điểm này, xưa nay bao giờ cũng nhấn mạnh trên phải không hổ thẹn với xã tắc triều đình, dưới phải không hổ thẹn với gia đình, người thân, tức cái gọi là “Trung hiếu vẹn toàn”. Nhưng có trung, hiếu thì đã “vẹn toàn” chưa? Chưa đâu. Giữa triều đình và gia đình còn có một “không gian công cộng” rộng rãi. Đây là một vùng mù của văn hóa Trung Quốc.
Bạn xem đây, thời xưa khi một vị quan ngồi kiệu đến một không gian công cộng nào đó thì phía trước nhất định phải có lũ người hầu giơ hai cái biển trên viết mấy chữ: “Yên lặng”, “Tránh ra”. Thế là thoắt một cái, không gian công cộng biến mất. Như vậy dường như chỉ còn để người trí thức quan tâm tới không gian công cộng. Thế nhưng các văn nhân Trung Quốc lại tuân theo một câu khẩu hiệu tự răn mình: “Hai tai chớ nghe chuyện bên ngoài cửa sổ, một lòng chỉ đọc sách thánh hiền”. Cái “bên ngoài cửa sổ” nói ở đây tức là không gian công cộng, nơi các văn nhân không được để ý tới. Cũng có khi họ nói “Thiên hạ hưng vong” nhưng chủ yếu nói sự hưng vong của triều đình.
Đối chiếu bệnh này với lời bàn quan trọng sau đây của triết gia Kant thì sẽ thấy rõ hơn. Kant nói, người trí thức có trách nhiệm cao cả là “Dám vận dụng lý trí tại mọi không gian công cộng.”
Khi đi du lịch nước ngoài, tôi thường nghe thấy các bạn ngoại quốc oán trách du khách Trung Quốc có những hành vi xấu như nhổ bậy, nói to, đánh bài trong đại sảnh khách sạn v.v…, cho như thế là không có đạo đức. Tôi thường hay nói vài câu bào chữa cho đồng bào mình, như nói mấy người nói to ấy là phụ nữ nhà quê, rất có thể họ từng nhận nuôi vài trẻ mồ côi đấy ạ. Thái độ thiếu tư cách của họ chỉ nói lên họ không biết quy tắc hành vi tại nơi không gian công cộng. Lỗi không phải ở họ mà là ở văn hóa Trung Quốc. Đương nhiên rốt cuộc chuyện ấy đúng là cũng có liên quan tới đạo đức, đó là thiếu đạo đức công cộng.
Khiếm khuyết này của văn hóa Trung Quốc ngày nay chỉ có thể trông mong vào sự bổ khuyết của những người đương đại chúng ta. Rất nhiều đô thị đề xuất phải xây dựng “Đô thị mạnh về văn hóa”. Tôi cho rằng điều quan trọng nhất không phải là đưa ra bao nhiêu tác phẩm, mà là ở chỗ xây dựng lại không gian công cộng.
Không gian công cộng là tác phẩm văn hóa lớn nhất đồng thời lại là lớp học văn hóa lớn nhất. Nhân cách tập thể và thói quen thẩm mỹ của đông đảo người dân đô thị đều được đào tạo tại đây.
Điểm yếu thứ hai của văn hóa Trung Quốc là xa lạ với ý thức thực chứng.
Cố giáo sư sử học người Mỹ gốc Hoa ông Hoàng Nhân Vũ nói, tệ nạn lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc là “thiếu sự quản lý số hóa”. Ông cố ý hài hước dùng một từ ngữ mới để trình bày một vấn đề cũ. Ông đặc biệt nêu lên ví dụ sách “Minh Thực Lục”, tài liệu về triều đình nhà Minh, phát hiện thấy phần lớn số liệu ghi ở đây đều rất không chính xác, thậm chí cực kỳ xằng bậy, nhưng người biên soạn, sao chép, người soát cho tới người đọc, người trích dẫn dường như đều rơi vào vùng mù. Ở Trung Quốc hiện nay, vùng mù ấy chỉ tăng chứ không giảm. Nhất là những số liệu xem ra ở tư thế có chứng cớ thực tế nhất thì lại thường là khó tin hơn cả. Nào là “Dẹp loạn thành công trong ba tháng”, “sản lượng lúa mỗi mẫu 20 vạn cân”, “95% phái đương quyền đã thối nát” v.v… những con số thịnh hành trong cả nước ấy, liệu cái nào đã được chứng thực là có?
Thiếu ý thức thực chứng cũng là thiếu ý thức khoa học. Khuynh hướng này làm cho văn hóa Trung Quốc trong một thời gian dài ngụp trong vũng bùn “Chỉ quan tâm chuyện trung thực và gian dối, không quan tâm thật giả”. Thực ra không làm rõ thật giả thì mọi thứ khác đều mất cơ sở nền tảng. Chuyện ấy cũng có liên quan tới việc mất chữ tín khiến mọi người đau lòng hiện nay. Nước nào cũng có hàng giả, nhưng hàng giả gây tai hại nhất với Trung Quốc; tin đồn nhảm nước nào cũng có nhưng tác hại sâu sắc nhất với Trung Quốc. Đó là do văn hóa Trung Quốc không có cơ chế và trình tự phát hiện thật giả, ngăn chặn làm giả, xóa bỏ tin đồn nhảm.
Nhiều năm nay tôi phát hiện thấy bất cứ ai khi phải hứng chịu tin đồn nhảm nhằm vào mình thì họ không thể tìm được biện pháp văn hóa nào để xóa bỏ tin đồn ấy. Thế nào là “biện pháp bản thân văn hóa”? Đó là không cần phải dựa vào sự điều tra làm rõ của cơ quan nhà nước, cũng chẳng cần phải tự tử, mà chỉ dựa vào năng lực phân biệt chứng cớ của đa số dân chúng trong xã hội và sự nhạy cảm logic đối với sự giả dối, thì đã có thể phục hồi chân tướng của sự việc. Nền văn hóa Trung Quốc hoàn toàn bất lực đối với chuyện đó. Đa số văn nhân Trung Quốc tiếp tay cho kẻ xấu, hầu như mọi tin đồn có hậu quả xấu nhất đều do các văn nhân đặt ra. Lẽ ra sự phát triển truyền thông và Internet có thể giúp cho việc tìm kiếm chứng cớ, dẹp tin đồn, nhưng sự thực cho thấy là trên mức độ rất lớn, các phương tiện này lại chắp cánh cho tin đồn bay khắp nơi.
Tóm lại, trên vấn đề này, văn hóa Trung Quốc hình thành cục diện kỳ quặc, tôi từng dùng 8 câu ngắn để khái quát như sau: – phao tin đồn không chịu trách nhiệm; – truyền tin đồn không gặp cản trở; – trúng tin đồn không ai giúp; – muốn bác bỏ tin đồn không có cách nào; – bác tin đồn: không hiệu quả; – phá tin đồn: không hứng thú; – tin đồn cũ vừa qua, tin đồn mới đã đến; – tin đồn nhiều không đếm xuể.
Từ đây liên tưởng đến tình hình chung toàn xã hội, khi nào có kẻ cố ý phao tin đồn gây sự thì nhất định sẽ xảy ra một tai nạn nhân văn khó kiểm soát. Mấy năm nay tôi ngạc nhiên phát hiện thấy ở Hong Kong có rất nhiều văn nhân cố chấp tin rằng cho đến nay hiện trường nạn động đất ở Văn Xuyên [Tứ Xuyên, 12/5/2008] vẫn còn “khắp nơi kêu la rên xiết, dân chúng lầm than điêu đứng”. Tôi gắng sức dùng những điều chính mình tai nghe mắt thấy để phản bác nhưng không có kết quả. So sánh với các nước khác trên thế giới từng xảy ra thiên tai, tuy hoạt động cứu trợ của họ thua xa Trung Quốc, thế nhưng họ lại không có những tin đồn như vậy. Bởi thế tôi không thể không nhận định rằng ở đây đúng là ẩn chứa một căn bệnh lớn của văn hóa Trung Quốc.
Điểm yếu thứ ba của văn hóa Trung Quốc là xa lạ với quan niệm pháp chế.
Khi bàn vấn đề này, tôi không xuất phát từ góc độ chính trị mà xuất từ góc độ văn hóa. Cho tới nay, loại hình văn học nhiều người đọc nhất ở Trung Quốc vẫn là tiểu thuyết kiếm hiệp. Về thủ pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết kiếm hiệp có rất nhiều cây bút cự phách, nhưng về quan niệm văn hóa [họ] lại cứ nhất thiết ca ngợi các “anh hùng ngoài vòng pháp luật”. Ở nước ngoài cũng có loại anh hùng này, như Robin Hood, Zorro, song địa vị văn hóa của họ kém xa địa vị trong văn hóa Trung Quốc. “Hảo hán” trong văn hóa Trung Quốc bao giờ cũng thách thức luật pháp, “giang hồ” bao giờ cũng cách xa luật pháp, “lương dân” bao giờ cũng chặn kiệu quan để tố cáo, “quan thanh liêm” bao giờ cũng diễn trò nhân đức ở ngoài vòng pháp luật. Còn có thể kể tiếp những cái “bao giờ cũng” ấy –– điều đó cho thấy xưa nay phần đông linh hồn dân gian Trung Quốc đều nằm ngoài vòng pháp chế hoặc phiêu bạt ở vùng ngoại vi.
Dĩ nhiên điều đó có liên quan tới các tật bệnh của pháp chế Trung Quốc xưa nay. Để so sánh, ta thấy “cướp biển Bắc Âu” hầu như cùng thời với “hảo hán Thủy Hử”, nhưng đều trải qua quá trình chuyển hóa đau khổ từ “trả thù nhà” đến “xét xử lý trí”. Quá trình chuyển hóa này của Trung Quốc rất muộn, tới nay mới bắt đầu, nhưng trên mặt văn hóa thì vẫn chưa thực sự bắt đầu. Vấn đề này tôi có bàn khá chi tiết ở phần viết về cướp biển Bắc Âu trong cuốn “Hành giả vô cương” .
Sự xa lạ phai nhạt quan niệm pháp lý của văn hóa Trung Quốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc đông đảo dân chúng tiến nhanh lên văn minh hiện đại. Điều làm người ta lo lắng là hiện nay có rất nhiều quan chức còn đang bận trình diễn các cử chỉ tách rời trình tự pháp chế gọi là “thân dân”, dùng tiền bạc để vỗ về sự phi pháp, kết quả luật pháp bị hạ thấp, chính nghĩa bị bỏ xó, kẻ hung dữ đắc lợi, người lương thiện bị thiệt hại. Điều nghiêm trọng hơn là không ít văn nhân hoạt động sôi nổi trong giới truyền thông và internet còn đem sự huyên náo quây lại thành “tòa án nhân dân [nguyên văn: dân gian]”. Thực ra lịch sử Trung Quốc và nước ngoài đều đã chứng tỏ tất cả những cái “Tòa án nhân dân” trên thế giới đều là sự phá hoại lớn nhất đối với luật pháp [ví dụ các toà án trong cuộc Cải cách ruộng đất ở TQ].
Văn hóa Trung Quốc còn có rất nhiều chỗ yếu. Tôi từng nói một cách rất hệ thống vấn đề này trong cả một năm trên đài truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng ở Hong Kong. Hôm nay vì thời gian hạn chế, chỉ xin nêu lên ba điểm kể trên. Nhưng chỉ ba điểm này thì đã đủ trầm trọng rồi. Muốn khắc phục, e rằng cần trải qua vài thế hệ nữa.
Dư Thu Vũ (1946-), 20 tuổi tốt nghiệp khoa Văn học kịch nói Học viện Hý kịch Thượng Hải, năm 1985 trở thành giáo sư văn học trẻ nhất Trung Quốc; năm 1987 được tặng danh hiệu Chuyên gia có cống hiến đột xuất cấp Nhà nước, hiện là Giám đốc Học viện Nghệ thuật nhân văn Macau. Bài này trích từ bài viết rất dài có đầu đề “Nỗi lo của văn hóa Trung Quốc” công bố tháng 9/2012.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung 余秋雨:中国文化的隐忧  12-09-13 

Theo nghiên cứu Quốc Tế.