Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

QUẢNG NAM 

Mukhalinga làm từ đá sa thạch là hiện vật duy nhất được phát hiện ở Việt Nam, diễn tả vũ trụ luân hồi trong văn hoá Chămpa cổ.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Pho tượng Mukhalinga nằm giữa phòng trưng bày của bảo tàng Mỹ Sơn, phía cổng vào khu di tích thánh địa Mỹ Sơn. Theo giới thiệu của bảo tàng, hiện vật này có niên đại khoảng thế kỷ 7 – 8, cao 126,5 cm gồm ba phần tròn, bát giác, vuông. Mukhalinga Mỹ Sơn được đánh giá là kiệt tác của nền điêu khắc Chăm, mang tính chuẩn mực về hình dáng và ý nghĩa biểu tượng.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Bức tượng được gọi là Mukhalinga thay vì Linga bởi phần đầu của biểu tượng sinh thực khí nam nhô ra chiếc đầu của thần Shiva, được tạc liền khối cao 23 cm, rộng 13,5 cm và búi tóc cao 5,5 cm. Mukhalinga này là tác phẩm duy nhất ở Việt Nam.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Đầu tượng nhìn từ góc cắt ngang 90 độ. Theo quan niệm của người Chăm từ hàng nghìn năm trước, Shiva là vị thần tối cao tượng trưng cho sự huỷ diệt. Vị thần này thường được thể hiện qua hình ảnh trừu tượng là Linga (bộ phận sinh dục nam). Người Chăm thờ Linga – Yoni (bộ phận sinh dục nữ) trong các ngôi đền.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Mukhalinga làm từ khối đá sa thạch màu vàng nâu, các hạt liên kết to và đường vân lạ mắt. Hình dáng Mukhalinga mô tả về nguyên lý luân hồi của vũ trụ. Trong đó phần vuông dưới cùng là thần Brahma, tượng trưng cho sự sinh thành; phần bát giác ở giữa là thần Vishnu, tượng trưng cho sự tồn tại; phần trụ tròn trên cùng là thần Shiva, tượng trưng cho sự huỷ diệt.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Vết vỡ phía sau tượng Mukhalinga. Hiện vật được phát hiện vào tháng 11/2012, sau một trận mưa lớn, cách ngôi đền E4 khoảng 10 m về phía đông tại khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Mukhalinga Mỹ Sơn đã được xếp hạng là bảo vật quốc gia năm 2015.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Khu vực phát hiện Mukhalinga ở nhóm E, quần thể có niên đại sớm nhất tại Mỹ Sơn. Những khu đền, tháp ở di tích Mỹ Sơn được ký hiệu bằng chữ, số để phân loại nghiên cứu và hướng dẫn tham quan. Các nhà nghiên cứu cho rằng, nhiều khả năng đây chính là linga trên đài thờ Mỹ Sơn E1 và được nhắc đến trong các văn bia Chăm tìm thấy tại khu di tích Mỹ Sơn.

Mỹ Sơn E1 là ngôi đền duy nhất còn giữ được những yếu tố kiến trúc, điêu khắc đầu tiên của nền nghệ thuật Chămpa thế kỷ 7-8. Hiện nay đền đã bị sập hoàn toàn, chỉ còn lại phần đế trang trí của đài thờ hiện trưng bày tại bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng cùng một số phế tích.

Tượng Mukhalinga 1.300 tuổi ở Mỹ Sơn

Bên cạnh Mukhalinga, bảo tàng Mỹ Sơn còn trưng bày nhiều hiện vật điêu khắc của khu di tích như các bia đá, tượng cổ… Trong ảnh là một đỉnh tháp làm bằng đá sa thạch có niên đại từ thế kỷ 10 của ngôi đền A1, công trình cao 28 m được đánh giá là kiệt tác tiêu biểu vào thời hoàng kim của Chămpa.

Bản vẽ ngôi đền A1 năm 1895 và tàn tích còn lại ngày nay. Ngôi đền bị phá huỷ trong chiến tranh vào tháng 8/1969. Ảnh trái: Ban quản lý Di sản văn hóa Mỹ Sơn.

VNExpress

Niềm tin về nguyên nhân của đại dịch qua bức “Đại dịch ở Rome”

Đối mặt với đại dịch, đại đa số con người hiện đại thường suy xét và đánh giá sự việc ở góc độ ảnh hưởng chính trị, kinh tế, xã hội, mà hiếm thấy có những liên tưởng về mặt tinh thần của cá nhân, của cộng đồng. Một số người vẫn còn đức tin thì luôn đau đáu câu hỏi: Vì sao ông Trời, vì sao Chúa, vì sao Phật lại để nhân loại chịu một đại nạn lớn như vậy mà vẫn mặc kệ? Có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy một chút lý giải khi ngắm bức “The plague in Rome” (Tạm dịch: Đại dịch ở Rome) của danh họa Jules-Élie Delaunay.

Bức “Đại dịch ở Rome”

Bức “Đại dịch ở Rome” do danh họa người Pháp, Jules-Élie Delaunay, vẽ vào thế kỷ thứ 19, là kết quả sau hành trình tâm linh của người họa sĩ, khi ông tìm kiếm và học hỏi nghệ thuật tại Rome vào giai đoạn 1856-1861. Sau khi Delaunay viếng thăm Vương cung thánh đường Thánh Peter tại Rome, ông đã rất ấn tượng trước những bức họa mô tả dịch bệnh tại Rome diễn ra vào nhiều thế kỷ trước đó. Từ năm 1857, ông bắt đầu phác thảo bức “Đại dịch ở Rome”, đến năm 1869 thì mới hoàn thành xong. Trong quá trình này, Delaunay đã tìm kiếm câu trả lời từ các tài liệu của Cơ đốc giáo về cuộc đời của các Thánh đồ. Sau 12 năm, Delaunay mới hoàn thành tác phẩm mang ý nghĩa dẫn dắt, gợi mở sâu sắc, mô tả niềm tin Cơ đốc về nguyên nhân của các đại dịch.

Bức “The Plague in Rome” (Tạm dịch: Đại dịch ở Rome), 1869, họa sĩ Jules-Élie Delaunay.

Điều khiến người ta phải suy nghĩ nhất, và cũng là tâm điểm của tác phẩm, chính là cảnh một vị thiên sứ đang chỉ huy ác thần (hay quỷ dịch) cầm giáo đâm vào một cánh cổng. Xung quanh họ, thây xác đầy đường, kẻ sợ hãi, kẻ than khóc, kẻ tuyệt vọng chờ đợi cái chết. Lẽ nào những con quỷ truyền bệnh lại làm việc dưới sự chỉ huy của thiên sứ hay sao? Trong lý giải của đại đa số mọi người, thiên sứ là những người cứu tế, cứu nạn, lan truyền phúc âm, cớ sao lại cùng ác thần tác quái? Muốn trả lời những câu hỏi này, cần hiểu được câu chuyện trong bức họa.

Bối cảnh lịch sử của bức họa này là chuyện Thánh Sebastian tử vì đạo.

Che giấu tín ngưỡng Cơ đốc của mình, Sebastian gia nhập quân đội La Mã, và nhờ lòng quả cảm mà được trọng dụng, dần trở thành đội trưởng đội cận vệ hoàng đế trong thời kỳ Diocletian tự xưng đế. Đây là thời kỳ La Mã đàn áp Cơ đốc giáo rất thảm khốc.

Sau này, vì tín ngưỡng của Sebastian bị lộ, Diocletian cho rằng Sebastian phản bội hoàng đế, ra lệnh bắt trói và xử tử ông bằng cách bắn rất nhiều tên vào người, rồi bỏ mặc chảy máu cho đến chết. Không ngờ Sebastian vẫn sống sót một cách kỳ diệu và được một tín đồ cơ đốc chăm sóc cho đến khi phục hồi.

đại dịch ở Rome
Bức “Martyrdom of Saint Sebastian” (Tạm dịch: Thánh Sebastian tử vì đạo), những năm 1480, họa sĩ Andrea Mantegna.

Mặc dù sống sót, Sebastian không trốn chạy, mà lại tìm cách cản đường Diocletian để ngăn hoàng đế tiếp tục bức hại tín đồ Cơ đốc. Mặc dù bất ngờ trước việc một kẻ mình cho là đã chết vẫn còn sống khỏe mạnh, Diocletian vẫn ra lệnh đánh chết Sebastian và vứt xác xuống cống.

Bức “Đại dịch ở Rome” miêu tả những sự tình tiếp theo sau khi Sebastian bị hại: Một vị thiên sứ đã chỉ huy một ác thần cầm giáo, đâm vào cổng của những nhà có người đã trợ giúp cái ác hại chết Sebastian. Trên cổng bị đâm bao nhiêu nhát thì trong nhà sẽ có bấy nhiêu người chết. Từ đó, bệnh dịch bắt đầu lan tràn…

Tuy cái chết của Thánh Sebastian đã mở đầu cho dịch bệnh tại Rome, nhưng ông lại được biết đến là vị Thánh đẩy lùi bệnh dịch sau khi người dân sám hối và cầu nguyện trước ông.

đại dịch ở Rome
Bức “Saint Sebastian Interceding for the Plague Stricken”, mô tả cảnh Thánh Sebastian mình đầy tên, quỳ xuống xin Thiên Chúa tha tội cho con người. Ngay ở dưới, một thiên thần đang chống lại ác quỷ. Trên mặt đất, người ta hoảng sợ vì dịch bệnh lan tràn. Bối cảnh trong tranh là đại dịch Justinian. Vẽ năm 1497-1499. Họa sĩ Josse Lieferinxe.

Theo ghi chép, việc dựng bệ thờ Thánh Sebastian đã đẩy lùi bệnh dịch tại Ý vào thế kỷ thứ 7. Trong suốt thời Phục Hưng, các tín đồ Cơ đốc cũng thường tìm kiếm sự bảo trợ của Thánh Sebastian trước bệnh dịch. Người dân cũng tin rằng Thánh Sebastian đã bảo vệ họ khỏi trận ôn dịch ở Milan năm 1575 và Lisbon năm 1599 sau khi họ thành tâm cầu nguyện. Tương tự, những năm 1620, cư dân Rome đã cầu nguyện và sám hối trước Thánh Sebastian vì một đợt đại dịch lớn từng khiến 10.000 người chết ở riêng Florence…

Lịch sử La Mã và những đại dịch

Kỳ thực, soi chiếu vào những trang sử La Mã, nhân loại có thể học được rất nhiều bài học lớn.

Trong quá trình tồn tại của mình từ năm 27 trước Công Nguyên, đế quốc La Mã đã chứng kiến quá nhiều thăng trầm. Sau hai thế kỷ đầu thịnh vượng là một giai đoạn bất ổn định và khủng hoảng, khiến đế quốc bị chia đôi. Trong thế kỷ tồn tại thứ tư, sự xuất hiện của Constantine Đại Đế mở đầu cho sự nở rộ của Cơ Đốc giáo.

Thế kỷ thứ năm, sau sự sụp đổ của Tây La Mã, đế quốc La Mã hợp nhất lại thành đế quốc Byzantine (đặt theo tên của thủ đô Byzantium mà Constantine Đại Đế trước đó lựa chọn), và trải qua 1000 năm cho đến khi hoàn toàn thất thủ trước Đế quốc Ottoman. Trải dài trên một diện tích rộng lớn xung quanh Địa Trung Hải, bao gồm châu Âu, Bắc Phi, và Đông Á, đế quốc La Mã nói chung đã đặt định một nền tảng quan trọng cho văn hóa nhân loại. Từ ngôn ngữ, nghệ thuật, triết học, cho đến luật pháp, không có lĩnh vực nào của phương Tây không chịu ảnh hưởng của đế quốc này.

Và tất nhiên, lịch sử của La Mã vào những thế kỷ đầu để lại rất nhiều bài học cho hậu thế, đặc biệt là ba lần dịch bệnh lớn nhất được ghi chép lại, gọi là: đại dịch Antonine (165-180 SCN), đại dịch Cyprian (249-262 SCN) và đại dịch Justinian (541-542 SCN); cùng rất nhiều lần dịch bệnh lớn nhỏ vào thời kỳ chia cắt Đông-Tây.

nguyên nhân của đại dịch qua bức "Đại dịch ở Rome"
Bức “Plague in an Ancient City”, mô tả cảnh dịch bệnh xảy ra tại một thành phố cổ đại, 1652-1654, họa sĩ Michiel Sweerts.
nguyên nhân của đại dịch qua bức "Đại dịch ở Rome"
Bức “The Plague of Ashdod”, mô tả cảnh dịch bệnh tại một thành phố cổ đại, 1628-1630, họa sĩ Nicolas Poussin.

Đại dịch được cho là có ảnh hưởng nặng nề nhất tới đế quốc La Mã là Justinian. Ngày nay, chúng ta vẫn có thể hình dung được sự tàn khốc của dịch bệnh thời ấy thông qua những miêu tả trong cuốn “Thánh đồ truyện” (Biographies of Eastern Saints) của tác giả kiêm nhà sử học John (John of Ephesus: 507-588); và nhà sử học Evagrius Scholasticus (536-594).

Trong quá trình thu thập tư liệu về cuộc đời của các Thánh, John đã chứng kiến lần bệnh dịch ở Constantinople. Còn nhà sử học Evagrius thì tự mình trải nghiệm dịch bệnh và sống sót vào thời trai trẻ, và đã chứng kiến dịch bệnh giết chết vợ, người thân, cùng lượng lớn dân số La Mã.

Những ghi chép về cảnh tượng thời ấy thật kinh khủng:

“Trên cơ thể của vài người, nó bắt đầu từ trên đầu, mắt họ chảy máu, mặt sung lên, tiếp đó là hô hấp khó khăn, sau đó thì những người này chết đi… nội tạng của vài người bị lộ ra ngoài; có người bị viêm hạch ở háng, mủ lan khắp người, và sốt cao, những người này sẽ chết trong vòng hai ba ngày. Có loại dịch bệnh mà người mắc có thể kéo dài vài ngày, nhưng có loại thì người bệnh sẽ chết trong chỉ vài phút sau khi phát bệnh. Có những người bị nhiễm bệnh một hai lần là lại khỏi, nhưng sau đó bị nhiễm lần thứ ba thì chết.”

Khắp nơi đều là “thi thể đã thối rữa nằm ở trên đường do không được ai chôn cất”.

“Có khi người ta đang nói chuyện với nhau thì đột nhiên bắt đầu run lên rồi ngã xuống đường hoặc trong nhà. Khi một người đang làm đồ thủ công, có thể anh ta sẽ ngã lăn sang bên cạnh và chết.”

“Có người ra chợ mua ít nhu yếu phẩm, khi đang đứng đó nói chuyện hoặc trả giá, cái chết sẽ đến với cả người mua và người bán một cách rất đột ngột, hàng hóa và tiền vẫn nằm đó nhưng không còn ai nhặt lên nữa.”

“Chỉ trong một ngày, có năm nghìn đến bảy nghìn người, thậm chí có thể lên đến mười hai nghìn đến mười sáu nghìn người rời khỏi thế gian. Do đây chỉ mới là bắt đầu, các nhân viên chính quyền thì đang đếm số người chết ở các bến cảng, các ngã tư đường và trước cổng thành.”

Sau khi dùng hết mộ, người chết bị ném xuống biển. Số lượng lớn các thi thể bị đưa đến bờ biển. Hàng ngàn hàng vạn thi thể “chất đầy bờ biển, giống như những thứ trôi nổi trên sông trôi theo dòng ra biển lớn.”

Chính quyền quyết định sử dụng cách xử lý thi thể khác: xây một ngôi mộ khổng lồ, mỗi phần mộ có thể chứa được hàng chục nghìn thi thể. “Do thiếu không gian nên nam, nữ, người trẻ, trẻ em đều bị ép cùng nhau, giống như vữa bị vô số những đôi chân dẫm đạp lên. Tiếp đó, họ ném vô số thi thể xuống, nam nữ quý tộc, người nhà, thanh niên và cả trẻ em và trẻ sơ sinh đều bị ném xuống như thế, ở phía dưới đáy còn bị ném đến vỡ nát.”

“Mỗi vương quốc, vùng lãnh thổ, khu vực và những thành phố hùng mạnh, toàn bộ người dân đều bị bệnh dịch đùa giỡn trong lòng bàn tay.”

Sự trừng phạt của Thượng Đế

Tại sao lại bộc phát dịch bệnh đáng sợ quy mô lớn như thế? Tại sao có những người tiếp xúc gần gũi với người bệnh sau đó vẫn sống? Người may mắn sống sót khi đó là tác giả John đã nhận ra rằng: Đây là sự trừng phạt của Thượng Đế!

Nếu như không phải là sự trừng phạt của Thượng Đế thì quả thật là có rất nhiều việc khó có thể giải thích rõ ràng được. Như nhà sử học Evagrius đã viết về sự kỳ lạ của bệnh dịch:

“Có người đã thoát ly nơi thành phố bị nhiễm bệnh, hơn nữa bản thân họ còn rất khỏe mạnh nhưng chính họ lại truyền bệnh cho những người không bị nhiễm bệnh. Cũng có một số người thậm chí là sống giữa những người bệnh, không chỉ ở cùng với người bệnh mà còn tiếp xúc với những người đã chết nhưng họ hoàn toàn không bị lây nhiễm.”

“Cũng có người vì mất đi con cái và người thân nên chủ động muốn chết theo, hơn nữa họ còn gần gũi hơn với người bệnh để mong cho chết mau hơn, nhưng dường như căn bệnh lại từ chối ý muốn đó, dù cho họ có làm cách nào thì vẫn cứ khỏe mạnh như trước.”

Để người sau này biết được sự tàn khốc của dịch bệnh và có được ví dụ thực tế, John đã viết ra những lời khuyên ngay trong khi ông trải qua đau đớn về mặt tâm linh:

“Khi một kẻ bất hạnh là tôi đây muốn ghi chép lại những sự kiện này vào tài liệu lịch sử, có rất nhiều lần dòng tư duy của tôi bị tê liệt. Hơn nữa, xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, tôi muốn quên đi tất cả: bởi vì đây xem như là tất cả những lời tôi muốn nói, cũng là những lời khó mà kể được; ngoài ra, còn bởi vì khi cả thế giới đều quay cuồng, đi đến bước đổ sập, khi mà thời gian sinh tồn của một thế hệ người đang bị rút dần đi, xem như là có thể ghi chép lại một phần nhỏ những sự kiện này, thì có tác dụng gì chứ? Còn người ghi tại tất cả mọi thứ thì là đang ghi chép lại cho ai đây?”

“Thế nhưng, tôi lại nghĩ, dùng ngòi bút của tôi, để thế hệ sau của chúng tôi biết được một phần nhỏ trong vô số những sự kiện mà Thượng Đế trừng phạt chúng tôi, thì hẳn là không sai đâu. Có lẽ trong những năm tháng còn lại của thế giới sau chúng tôi, thế hệ sau sẽ cảm thấy kinh hoàng và hoảng sợ với tai họa đáng sợ mà chúng tôi phải chịu do tội của chính chúng tôi, đồng thời có thể trở nên sáng suốt hơn vì sự trừng phạt mà những kẻ bất hạnh như chúng tôi phải chịu, từ đó có thể cứu được chính họ khỏi sự phẫn nộ của Thượng Đế cũng như tương lai đau khổ của họ.”

Vậy thì tại sao Thượng Đế lại phải trừng phạt Đế quốc La Mã? Hãy xem người La Mã lúc bấy giờ đã làm những gì khiến Thượng Đế phẫn nộ đến thế. Chắc hẳn đó là sự đàn áp đạo Cơ Đốc và các tín đồ Cơ Đốc đã khiến cả người và Thần cùng tức giận, mà sự đàn áp này xảy ra trong suốt 300 năm.

Năm 64 sau CN, Nero đốt thành La Mã và đổ tội cho tín đồ Cơ Đốc, đây là lần đàn áp tín đồ Cơ Đốc đầu tiên trong lịch sử đế quốc La Mã. Sau Nero, còn có nhiều hoàng đế khác đàn áp tín đồ Cơ Đốc, từ năm 64 sau CN đến đầu thế kỷ thứ 4, tổng cộng đã xảy ra hơn mười lần đàn áp như thế. Hình phạt dành cho các tín đồ có thể kể đến như: đóng đinh vào giá chữ thập, khoác da thú để ác thú cắn chết, đóng đinh họ vào cột làm đuốc dần dần thiêu chết… Các tín đồ Cơ Đốc hoặc là lựa chọn hối lỗi, hoặc lựa chọn cái chết. Rất nhiều tín đồ không từ bỏ đức tin bị giết. Chính từ sự đàn áp đối với tín đồ Cơ Đốc mà đế quốc La Mã bắt đầu liên tiếp phải chịu hậu quả từ thiên tai và dịch bệnh, tình hình kinh tế không ngừng xấu đi, đi đến bước đường suy vong.

Bức “Nero’s torches”, mô tả cảnh tín đồ Cơ Đốc bị treo lên làm “đuốc thịt” mua vui cho vua quan La Mã, 1876, họa sĩ Henryk Siemiradski.

Cổ ngữ phương Đông có câu: “Thiện ác cuối cùng rồi cũng có báo ứng, chỉ đến sớm hay đến muộn mà thôi.” Báo ứng có hiện báo, sinh báo, và hậu báo. Các đại dịch Antonine (165-180 SCN), Cyprian (249-262 SCN) có thể nói là ứng vào hiện báo và sinh báo. Còn hậu báo như Justinian (541-542 SCN) lại là trầm trọng mà khó nhận biết nhất, nhưng không phải là không thể nhận ra. Phần đế quốc La Mã (đế quốc Byzantine) mà Constantine Đại Đế (272-337 SCN) sùng đạo Cơ đốc đặt định cơ sở tại Byzantium, dù phải vượt qua đại dịch Justinian vẫn trường tồn trong 1000 năm, trong khi phần đế quốc còn lại vốn đàn áp Cơ đốc và chỉ dừng lại sau khi có thỏa ước với Constantine thì đoản mệnh.

Còn có người hỏi, vậy vì sao không chỉ những cá nhân ra lệnh và thi hành đàn áp, mà cả những người dân thường cũng phải chịu cảnh báo ứng, cả thế hệ sau cũng chịu cảnh báo ứng? Khi những tín đồ Cơ Đốc bị đem ra làm thú vui trong đấu trường, thì ai là những người cổ vũ và hứng khởi trên ghế khán giả? Khi những tín đồ Cơ Đốc bị lùng bắt và bị giết vô đạo, thì có ai dám đứng ra nói lời ngay chính thay cho họ? Thờ ơ trước cái ác và bán đứng lương tri liệu có phải là một điều không kém phần tàn ác? Tổ tiên làm, con cháu chịu, đây là quan niệm mà người phương Đông thời xưa hiểu vô cùng rõ.

Lịch sử lặp lại, con người ngày nay cũng có bao nhiêu người hy vọng giống như John “có thể trở nên sáng suốt hơn vì sự trừng phạt mà những kẻ bất hạnh như chúng ta phải chịu”, từ đó có thể cứu được chính họ khỏi sự phẫn nộ của Thượng Đế cũng như tương lai đau khổ? Và có bao nhiêu người biết rằng Thượng Đế đã luôn cảnh báo chúng ta?

Nhìn lại thế giới ngày nay, không ít người vì kiên định với tín ngưỡng của bản thân mà đang bị đàn áp mạnh mẽ, bị bắt nhốt vào trại giam và trại giáo dưỡng chịu tra tấn, có rất nhiều người bị giết, và có vô số người bị ép phải bỏ nhà đi… Cũng có không ít người trẻ tuổi kiên định niềm tin vào tự do và lẽ phải mà bị đàn áp. Nếu như thật sự có sự tồn tại của Thần linh, vậy thì các Thần trên trời kia liệu có thể khoan dung được hành vi trái lẽ trời này? Dịch bệnh ở đâu đều là sự cảnh tỉnh đối người con người, nếu như con người còn không tỉnh ngộ thì cảnh tượng tàn khốc năm đó ở đế quốc La Mã rất có khả năng sẽ lại xảy ra.

Cũng có người nói rằng dịch bệnh là do nhân họa, nhưng nếu là trời định thì kỳ thực nhân họa hay thiên tai có gì là khác nhau đâu? Khác nhau chỉ là cách thức biểu hiện. Chỉ cách đây ít hôm, có một chính khách đã thừa nhận trong một bài viết như thế này:

Trong nhiều năm, thế giới đã làm ngơ trước những vấn nạn vi phạm nhân quyền [và đạo đức y học] của Trung Quốc đối với các tù nhân lương tâm: người Hồi giáo, Phật giáo Tây tạng, Kitô giáo, và Pháp Luân Công. Và giờ đây [trong dịch corona], các hoạt động y sinh của Trung Quốc trở thành mối đe dọa với toàn thế giới.

“Trời không tuyệt đường của con người”, Trời vẫn rất thương xót con người, vẫn còn đang đợi con người tỉnh ngộ, nhưng thời gian còn bao lâu? Dẫu sao đi nữa, xin hãy nhớ bài học quan trọng nhất trong câu chuyện của Thánh Sebastian: Khi đại dịch ập xuống đầu, chỉ có cầu nguyện, chỉ có ăn năn, chỉ có chính nghĩa, và chỉ có đức tin mới có thể cứu rỗi nhân loại.

An Hòa / Trithucvn

Khoe khoang kiểu Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam khác gì nhau?

Gần đây có một bài viết tiếng Trung được cư dân mạng quan tâm liên quan đến quan niệm về sự giàu có, qua đó so sánh giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Mặc dù nói về người Trung Quốc, nhưng một bộ phận lớn người Việt Nam dường như cũng “có phần” trong đó.

Hoàng tử William, Công tước Cambridge tham dự buổi tiệc trà truyền thống tại Vườn Hama Rikyu trong chuyến viếng thăm Nhật Bản nằm 2015 (Ảnh: Tim Rooke – Pool /Getty Images)

Tác giả cho rằng, đa số người Nhật Bản ngày nay rất hạn chế “khoe khoang”. Trong xã hội Nhật Bản, nếu một ai đó khoe khoang bản thân “rất có tiền” sẽ bị xã hội tẩy chay và cô lập. Có một vị trí thức Nhật Bản cũng từng chia sẻ quan điểm: người thích khoe mẽ (như chạy xe thân dài hạng sang, tay cầm túi LV, đánh son môi đỏ chót) bị xã hội Nhật Bản xem là biểu tượng của “thô lỗ” và “bần cùng”.

Vào thập niên 80 thế kỷ trước là thời gian bong bóng kinh tế Nhật Bản lên đến đỉnh, khắp Tokyo toàn nhà đầu cơ bất động sản và cổ phiếu, nhiều người phát tài sau một đêm. Những người phụ nữ thì ai nấy tay cầm túi LV, nam giới thì vung tiền trong những hộp đêm.… Nhưng sau khi bong bóng kinh tế bị vỡ, người Nhật Bản mới tỉnh mộng. Nền kinh tế từ nóng chuyển sang lạnh, để lại hậu quả tồi tệ kéo dài.

Sau những chiêu trò không hay trong kinh tế được hưởng ứng một thời gian, tình hình sụp đổ sau đó cuối cùng đã khiến người Nhật Bản phải nhìn lại, tự phản tỉnh lại. Xã hội Nhật Bản bắt đầu thịnh hành “trào lưu mới”: ăn mặc giản dị; không còn muốn tăng ca, về nhà lúc 6h tối trở thành thói quen mới; người chồng vào bếp và chăm sóc con cái…

Người Nhật Bản cầu nguyện trước khi ăn (Ảnh chụp màn hình video)

Nhiều người Nhật Bản nhìn bề ngoài rất giản dị, khiêm tốn, nhưng thực tế là họ cực kỳ giàu có, đam mê những trò chơi như lướt sóng và đã từng đi lướt sóng trên nhiều bãi biển lớn trên khắp thế giới. Dường như người Nhật Bản hiện nay thích “khoe khoang” theo kiểu này.

Người Nhật cũng không thích khoe tài, nếu bạn có nghe nói đến một tài năng nào đó, thì thường sẽ là biết đến một cách bất ngờ hoặc ngẫu nhiên, chứ bản thân họ không đánh bóng tên tuổi cho mình. Do đó, khi tài hoa của họ được phát hiện, được ca ngợi, không những họ không vui thích mà còn ngại ngùng, đỏ mặt, giống như bị người bắt gặp mình mắc sai lầm gì đó. Điểm này chắc người Trung Quốc nghe sẽ cảm thấy không thể hiểu nổi.

Khác với người Nhật Bản, cách “khoe khoang” của người Trung Quốc trong xã hội hiện nay thuộc về thứ có thể gọi là “trơ trẽn”.

Hiện nay, những câu xã giao kiểu như: “Tôi mới mua cái túi hàng hiệu này…”, “Tôi rất quen biết người nổi tiếng này…”, “Nhà tôi thế này…” đã trở nên khá phổ biến trong xã hội Trung Quốc. Nếu ở Nhật Bản mà có thái độ như thế có thể lập tức bị tẩy chay, cô lập.

Cuối thế kỷ 19, cha đẻ của kinh tế học định chế (Institutional economics) là Thorstein Veblen khi chứng kiến cảnh giới nhà giàu điên cuồng theo đuổi xa xỉ phẩm, ăn chơi sa đọa, khinh rẻ người lao động, ông đã viết tác phẩm “Luận về giai cấp nhàn rỗi” (The Theory of the Leisure Class), qua đó lên án động cơ và dục vọng của họ không khác gì những người nguyên thủy man rợ, cho rằng họ sẽ đẩy xã hội vào hai cực phân hóa nghiêm trọng, gây cản trở tiến bộ xã hội, phá hủy nền tảng đạo đức giúp xã hội khỏe mạnh, vì đối với họ lao động không còn là đạo đức tốt đẹp của con người cần được ca ngợi mà bị biến thành đối tượng để khinh bỉ.

Vương Tư Minh, thế hệ con cháu giới quyền quý của Trung Quốc Đại Lục (Ảnh chụp màn hình video Youtube)

Tại Trung Quốc ngày nay, dưới tác dụng của khẩu hiệu “hãy để cho một bộ phận giàu trước nổi lên”, kéo theo đó là xu thế sống xa xỉ như tiệc vàng, vung tay hoang phí… ngày càng phổ biến, đặc biệt là ở thế hệ “Phú nhị đại”. Chuyện lượng tiêu thụ Rémy Martin của Pháp ở Trung Quốc cao hơn tổng lượng tiêu thụ của các khu vực khác trên thế giới gộp lại cũng không phải lạ.

Không chỉ riêng Trung Quốc, bệnh “thích khoe” của người Việt Nam cũng là một vấn đề dễ nhận thấy. Mới đây, trong cuộc thăm dò của Nielsen thực hiện tại 58 quốc gia, Việt Nam có tỷ lệ người tiêu dùng chuộng hàng hiệu cao thứ 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. 56% số người tham gia khảo sát trả lời rằng họ sẵn sàng trả nhiều tiền cho sản phẩm hàng hiệu hơn là những nhãn hàng ít nổi tiếng dù chức năng như nhau, bởi với họ dùng đồ hiệu là một cách thể hiện địa vị và đẳng cấp.

Giới trẻ Việt Nam hiện nay không ít người chạy theo hàng hiệu đắt tiền, sẵn sàng bỏ ra cả tháng lương để mua túi hiệu, giày hiệu… Có những cô nàng đi làm công sở, mức lương chỉ khoảng 10 triệu đồng nhưng lại mua những bộ mỹ phẩm đắt tiền với mức giá gấp 4 lần tháng lương của mình. Tâm lý thích xe sang, dùng đồ độc, đi du lịch nghỉ dưỡng ở những khu xa hoa đắt đỏ rồi chụp vài bức ảnh để đăng lên mạng xã hội khoe với thiên hạ đã không còn mới mẻ. Trong danh sách người mua những chiếc xe gắn máy phiên bản giới hạn, những mẫu iPhone đầu tiên mới ra đời nhất định không thể thiếu người Việt Nam. Trong số 50 chiếc Mercedes-Maybach S600 có giá 9,6 tỷ đồng, dự kiến sản xuất cho thị trường toàn cầu trong năm 2015, thì giới siêu giàu Việt Nam đã đặt mua 10 chiếc.

Tâm lý khoe khoang, thích thể hiện này cá biệt còn gây nên hệ quả là sự lãng phí của cả những tổ chức xã hội chứ không chỉ riêng người dân. Năm 2015, ở Việt Nam đã xác lập một kỷ lục mới khi nấu tô hủ tiếu lớn nhất với đường kính 150 cm, sâu 70 cm. Để làm ra tô hủ tiếu kỷ lục, các đầu bếp đã dùng 100kg hủ tiếu gạo, 100kg tôm, thịt, 60 lít nước súp và các loại rau, gia vị khác. Nhưng do thời gian trưng bày quá dài khiến nước phở, tôm, thịt nguội lạnh; bánh phở nở trương, không ngon và cuối cùng phải đổ đi toàn bộ. Vụ việc này đã gây nên một cuộc tranh cãi không nhỏ trên mạng xã hội xung quanh sự lãng phí của một kỷ lục.

Tô hủ tiếu kỷ lục của Việt Nam. (Ảnh: dongthaptourist.com)

Ở Nhật Bản, đề tài “mua bạo” thành điểm nóng truyền thông, vì cảnh du khách Trung Quốc điên cuồng mua xa xỉ phẩm tại Tokyo rất phổ biến, họ còn cố ý nói “quá rẻ” khiến người Nhật Bản cũng phải tròn mắt kinh ngạc. Nhưng có lẽ họ không biết rằng đó không phải thái độ tôn trọng của người Nhật Bản mà ngược lại là cảm giác phản cảm.

Ngày nay, trên đường phố Nhật Bản rất hiếm thấy có những chiếc xe hơi xa xỉ của phương Tây, chủ yếu là xe việt dã và xe nhiều chức năng (MPV), xe được chuộng nhất là loại mini bé nhỏ và xe bảo vệ môi trường. Người Nhật Bản đã không còn dùng xe hơi để đánh giá con người xem có thành đạt hay không, mà nó chỉ là thứ công cụ thay cho đi bộ, quan trọng nhất là vấn đề an toàn tiết kiệm năng lượng bảo vệ môi trường, những xe việt dã cỡ lớn của Toyota, Mitsubishi chủ yếu bán cho Trung Quốc.

Dân số Nhật Bản khoảng 130 triệu nhưng có đến cả trăm triệu người thuộc giới trung lưu, được xem là kiến trúc xã hội kiểu ô-liu điển hình, tỷ lệ lớp người trung lưu ở Nhật Bản đặc biệt cao, an sinh xã hội được đảm bảo, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội rất nhỏ, thu nhập của một CEO công ty trung bình chỉ gấp 5 – 10 lần người làm công ăn lương.

Nhà ở của người giàu Nhật Bản cũng chỉ thiết kế phong cách đơn giản, việc bày biện trong phòng những đồ dùng đắt đỏ bị xem là “tầm thường”.

Giữa giới nhà giàu Nhật Bản thịnh hành “triết lý ba không”, tức là “không có tài khoản ngân hàng (trước khi chết nhiều nhất chỉ nên có 20 triệu Yên, tương đương khoảng hơn 4 tỷ tiền Việt Nam), không có nhà, không chức tước”.

Ở Nhật Bản, có nhiều tiền và quyền lực thì khó được xã hội tôn trọng, thứ họ tôn trọng là cho dù bạn có danh giá cỡ nào thì cũng hãy kiên định không xa xỉ, sống giản dị.

Matsushita Kōnosuke, người sáng lập ra tập đoàn Matsushita, trường tư thục kinh tế chính trị Matsushita, viện nghiên cứu PHP (Ảnh chụp màn hình Youtube)

Ví dụ như Matsushita Kōnosuke được xem là “thần kinh doanh”, nhưng bản thân ông lại không mấy hứng thú với của cải, ông xem quyền lực là “trách nhiệm và nỗi thống khổ”. Năm 1961, khi phóng viên của Tạp chí Time (Mỹ) đi tìm ông lấy tin, phát hiện ông ngồi uống trà cùng ba nhà nghiên cứu trẻ trong một ngôi nhà cổ ở Tokyo, họ bàn cách làm thế nào giúp nhân loại phồn vinh và hạnh phúc hơn, thứ trí tuệ cao nhất mà ông lĩnh ngộ được là “triết lý của nước: “Làm sao để những thứ mọi người cần biến thành rẻ như nước”.

Đối với Matsushita Kōnosuke, kinh doanh chỉ là phương tiện, mục đích cuối cùng chính là để thể hiện trách nhiệm xã hội và sự mong đợi của công chúng được thể hiện thông qua các con số. Để hoàn thành lý tưởng cao xa, ông đã hoạch định viễn cảnh của công ty trong 250 năm, lấy 25 năm là một giai đoạn, hoàn thành trong 10 giai đoạn.

Khi ông qua đời năm 1989, lợi nhuận của công ty Matsushita sau 70 năm thành lập lên đến 42 tỷ đô la Mỹ, dường như đã trở thành công ty lớn nhất thế giới. Ông nói với phóng viên Tạp chí Time: “Tôi muốn nghiên cứu cuộc đời, thăm dò nguồn gốc hạnh phúc của loài người.”

Matsushita đã thành tấm gương cho những người theo đuổi của cải ở Nhật Bản. Khi đó, “người đứng đầu giới tài chính Nhật Bản” Toshiwo Doko là Hội trưởng Hội Liên hiệp Đoàn thể kinh tế Nhật Bản, dường như bữa tối hàng ngày ông chỉ ăn xuyên cá mòi, còn đại sứ trú tại Trung Quốc là Uichiro Niwa khi là giám đốc kinh doanh của tập đoàn Itochu cũng chỉ đi làm bằng tàu điện.

Nhật Bản là một xã hội trung lưu cao độ, đối với họ thái độ huênh hoang khoe của là thái độ của kẻ hèn mọn. Ngay cả các bữa tiệc chiêu đãi của những người có địa vị cao trong xã hội Nhật Bản đều tổ chức rất đơn giản, chỉ ăn tự chọn hoặc ăn theo kiểu Nhật, dường như không có “khung cảnh hoa lệ” với đầy sơn hào hải vị như thường thấy ở giới thượng lưu Trung Quốc.

Nhiều nghị sĩ quốc hội đều tuân thủ nguyên tắc “ăn 10 phút”, không lãng phí thời gian vào việc ăn uống, chỉ cần ăn đủ là được, không cầu kỳ, không phô trương lãng phí, “ăn hết thì cảm ơn, ăn thừa thì xin lỗi” là kiến thức phổ thông của người Nhật.

Trong bối cảnh “văn hóa xấu hổ” của người Nhật Bản, lãng phí là đáng hổ thẹn, cho nên hiếm khi thấy người Nhật Bản lãng phí.

Hãy thử nhìn lại giới nhà giàu Trung Quốc, đa số là xuất phát từ “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, là kiểu tư bản mờ ám dựa vào quyền lực chính trị. Rõ ràng, trò khoe mẽ của những kẻ giàu có nhờ vào thứ của cải gom được đầy thủ đoạn này, hậu quả mang đến còn khủng khiếp hơn nhiều so với những gì mà nhà kinh tế Thorstein Veblen chỉ ra.

Thành Nhân / Trithucvn

Cập nhật Covid-19 ngày 22/2: Số ca nhiễm ở Hàn Quốc tăng lên hơn 200, số trường hợp bên ngoài Trung Quốc tăng vọt

Cập nhật Covid-19 ngày 22/2: Số ca nhiễm ở Hàn Quốc tăng lên hơn 200, số trường hợp bên ngoài Trung Quốc tăng vọt

Hiện tại, số lượng ca dương tính với virus corona bên ngoài Trung Quốc đã tăng vọt, điều này gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với giới chức y tế toàn cầu – những người từng nói rằng cơ hội để dập tắt dịch Covid-19 trở thành đại dịch đang dần khép lại.

Tính đến ngày 22/2, số ca nhiễm Covid-19 mới ở Trung Quốc tăng lên 75.465 người, với 2.236 trường hợp tử vong. Tỉnh Hồ Bắc hiện chưa công bố số liệu mới về tình hình dịch bệnh.

Hàn Quốc bất ngờ trở thành quốc gia ghi nhận số ca nhiễm Covid-19 nhiều nhất sau Trung Quốc. Quốc gia này vừa báo cáo có thêm 142 ca nhiễm mới, nâng tổng số ca nhiễm lên hơn 200 – tăng 7 lần so với tuần trước và cũng đã ghi nhận trường hợp tử vong thứ 2. Hầu hết những người dương tính với virus corona đều là những tín đồ ở nhà thờ Shincheonjin tại thành phố Daegu, với hơn 400 người có triệu chứng nhiễm bệnh.

Tối 21/2, Italy đã ghi nhận ca tử vong đầu tiên do Covid-19, đây là một người đàn ông 78 tuổi sống tại Venice. Quốc gia này ghi nhận thêm 14 trường hợp nhiễm bệnh trong tối ngày hôm qua, nâng tổng số người dương tính với Covid-19 lên 17 người, có ít nhất 2 trường hợp nghi nhiễm đã được nhập viện.

WHO mới đây cho biết, một loạt ca nhiễm bệnh ở Iran và trường hợp dương tính đầu tiên ở Lebannon là mối lo ngại đặc biệt, bởi những người này không hề có mối liên hệ với Trung Quốc. WHO xác nhận rằng Iran đã có 18 trường hợp nhiễm bệnh và 4 người chết, tương đương tỷ lệ tử vong là hơn 20%. Các quan chức của cơ quan này hiện rất lo ngại về tình hình ở Iran vì số ca nhiễm bệnh tăng rất nhanh trong vài ngày.

Theo ước tính khả năng lây lan được Sangeeta Bhatia, Neil Ferguson và các đồng nghiệp tại Imperial College London thực hiện, khoảng 2/3 ca nhiễm virus corona đi từ Trung Quốc đến những nơi khác không được phát hiện, có thể khiến các nguồn lây nhiễm từ người sang người không được kiểm soát. Sử dụng dữ liệu du lịch bằng đường hàng không, nhóm nghiên cứu cho biết, họ chỉ tìm thấy 156 trường hợp được phát hiện, trong khi dự đoán là 426 đến 577 người.

Tại Úc, theo Natasha Fyles – Bộ trưởng Y tế Vùng lãnh thổ Bắc Úc, 2 người được sơ tán khỏi du thuyền Diamond Princess ở Nhật Bản đã có kết quả dương tính với virus corona, trước đó đã có 2 trường hợp tương tự. Những người này hiện đang được đưa về các bang nơi họ sinh sống. Ngoài ra, một nhóm 266 người khác được sơ tán từ Cơ sở Kiểm dịch Howard Springs ở Vũ Hán hồi đầu tháng này cũng có thể trở về nhà vào ngày mai.

Giang Ng / Theo Trí thức tre