Kỳ Duyên Và Nguyễn Ngọc Ngạn – Một Phần Tư Thế Kỷ

Bài viết của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hồi tưởng lại quá trình 25 năm đứng chung sân khấu của đôi MC được yêu thích nhất trong lịch sử đại nhạc hội Việt Nam: Nguyễn Ngọc Ngạn & Kỳ Duyên.

Hồi tưởng lại chuyến bay đêm của hãng Air France đưa tôi từ Toronto sang Pháp giữa tháng 8 năm 1992, tôi chẳng bao giờ hình dung trước là mình sẽ có mặt trên Paris By Night đến nay đã 26 năm. Từ nhỏ tới giờ, chưa có công việc nào tôi làm lâu như thế! Nói đúng ra, trước đó, trong làng văn nghệ Việt Nam, MC chưa hề là một cái job được người ta chú ý kể cả quốc nội lẫn hải ngoại.

Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là tôi đứng liên tục được bên cạnh Kỳ Duyên 25 năm. Chuyện này mới thật là lạ bởi vì một cặp tuổi tác chênh lệch quá lớn, khác nhau về cách suy nghĩ, về lối sống và về ảnh hưởng văn hóa, làm việc với nhau thường khó tránh khỏi xích mích, có thể cãi nhau, thậm chí đánh nhau, rồi chia tay! Tôi nghĩ: Có lẽ chúng tôi bền chặt được là vì đôi bên cùng chịu đựng lẫn nhau! Tính tôi thì trách nhiệm quá, Kỳ Duyên thì vô tư quá. Tôi lúc nào cũng bận tâm, làm cho cô ấy bực mình. Trái lại, Kỳ Duyên lúc nào cũng thản nhiên, làm tôi không khỏi sốt ruột! Nhưng lâu dần, hiểu tính nhau, nhường nhịn nhau nên cũng thành quen. Tôi hay gay gắt mỗi khi ngồi soạn chương trình Paris By Night. Kỳ Duyên tất nhiên lắm lúc cũng giận tôi. Nhưng chuyện gì cô cũng mau quên, không để bụng. Cái “văn hóa thù dai” không có ở cô! Và tuy là dân Bắc Kỳ nhưng cô không bao giờ hờn dỗi! Tôi nhớ năm 1995, khi chuẩn bị thu hình chương trình “Hai Mươi Năm Nhìn Lại” ở đại hí viện Shrine Auditorium tại Hollywood, có thêm Mai Phương bên cạnh Kỳ Duyên. Mai Phương lần đầu tiên làm MC chương trình lớn, cứ tò mò đặt ra nhiều câu hỏi về ca sĩ, không chú tâm vào nhiệm vụ của mình. Tôi nổi nóng nạt mấy câu làm cô ngồi khóc hu hu bên cạnh sân khấu. Kỳ Duyên bảo Mai Phương:

– Anh Ngạn nói gì kệ anh ấy. Đừng có quan tâm! Nếu Duyên mau nước mắt như Mai Phương thì lần nào làm chương trình cũng sẽ phải khóc vì tính Anh Ngạn nóng nảy lắm!

Kỳ Duyên nói đúng. Nhưng tôi chỉ nóng lúc làm việc thôi vì tôi không muốn vấp váp khi thu hình Paris By Night. Tôi nhớ anh La Thoại Tân, một nghệ sĩ kỳ cựu dày dạn sân khấu mấy chục năm mà hôm làm MC cho Paris By Night ở bên Pháp, nói sai nhiều quá đến nỗi khi ráp nối (editing) cô Thủy phải xóa bỏ toàn bộ phần MC của anh, rồi mời anh qua Paris một lần nữa để giới thiệu lại tất cả mọi tiết mục trong một phòng thu không có khán giả. Tôi rất sợ chuyện đó xảy ra với mình. Mai Phương là diễn viên xinh đẹp nổi tiếng trong nước từ lúc còn trẻ, là con gái của đạo diễn Đoàn Bá, được chiều chuộng quen rồi nên không ngờ tôi dám lớn tiếng mắng cô trước mặt Kỳ Duyên. Nhưng rồi cô cũng hiểu cái thái độ nghiêm khắc của tôi chẳng qua chỉ vì tinh thần trách nhiệm mà thôi.

Cũng từ show ấy tôi mới thấy thêm được cái đáng quý hơn nữa ở Kỳ Duyên là hòa đồng với mọi người, lúc nào cũng vui đùa, không kiêu căng, không ganh ghét và nhất là bao giờ cũng thành thật. Nói đúng ra thì thế hệ con cháu chúng ta sinh ra hoặc lớn lên ở hải ngoại, không bị ô nhiễm bởi cái xã hội nhiễu nhương quốc nội, thì chẳng những thật thà mà còn khinh bỉ sự dối trá. Những năm sau này vì nhu cầu của Facebook, Kỳ Duyên mới chú ý đến trang phục để chụp hình, chứ hơn 10 năm đầu đi show cô chỉ khoác cái áo lạnh cũ rích, đi đường chẳng mấy ai nhận ra! Nhiều khán giả chạy lại nói chuyện với tôi, một lúc sau nhìn quanh mới kêu lên: “Ơ! chị Kỳ Duyên đây à!”.

Nhắc lại buổi đầu đặt chân vào thế giới văn nghệ, một điều mà cho đến nay tôi vẫn tự hào cho rằng mình “sáng suốt”, là kéo Kỳ Duyên về với Paris By Night. Lúc ấy, năm 1992, tôi chưa lần nào gặp Kỳ Duyên ở ngoài đời, chỉ thấy cô một lần trên băng Hollywood Night đứng với anh Nam Lộc, tôi đã đề nghị Thúy Nga mời cô ngay. Ông Tô Văn Lai chần chừ mãi, một năm sau mới đồng ý. Trong thời gian đó, Kỳ Duyên tiếp tục làm MC chung với Công Thành, Trần Quang, Hoàng Thi Thơ, Đức Huy, Quốc Bảo. Ai nữa tôi không nhớ, chỉ biết thời gian ấy, MC nữ chỉ có mình cô cho nên trung tâm nào cũng mời.

Một điều may mắn cho Kỳ Duyên là cả thế giới chả ai thấy cô quan trọng! Cho nên khi Thúy Nga kêu, cô vẫn còn available, nghĩa là chưa có trung tâm nào mời cô ký độc quyền! Hóa ra chỉ có mình tôi nhìn ra tiềm năng của cô ngay từ phút ban đầu. Dĩ nhiên lúc ấy ai cũng chê tiếng Việt cô chưa rành, nhưng tôi nói với ông Tô Văn Lai:

– Không giỏi tiếng Việt thì có thể làm cho giỏi được. Nhưng không có duyên thì không cách nào làm cho có duyên được! Anh cứ kêu cô ấy giùm tôi!

Tôi nói thế vì tôi quan niệm rằng: muốn làm ca sĩ thì phải có giọng hát. Muốn làm MC thì phải có giọng nói. Đó là điều căn bản! Kỳ Duyên có giọng nói rất hay lại được thêm yếu tố quan trọng nữa là có duyên sân khấu. Ông Tô Văn Lai là dân trường Tây, văn chương Pháp rành hơn văn chương Việt, nên khi vớ được tôi, nghe tôi nói chuyện văn hóa Việt Nam, ông mừng lắm và ông thấy chỉ mình tôi là đủ rồi. Nhưng tôi hiểu khán giả hơn ông: Một người đàn ông lớn tuổi như tôi – khi vào Thúy Nga tôi đã 47 – dù nói hay tới đâu, người ta cũng dễ chán, nên tôi cần một người đẹp đứng bên cạnh. Vì vậy tôi mới yêu cầu ông mời Kỳ Duyên. Như vậy, không phải tôi mời cho tôi mà mời cho khán giả!

Năm sau, mùa Hè 1993, nhân kỷ niệm 10 năm Paris By Night, Thúy Nga sang Mỹ thu hình lần đầu tiên, đem theo toàn bộ ê-kip chuyên viên của Pháp: Đó là Paris By Night 24 và đó cũng là lần đầu Kỳ Duyên lên sân khấu với tôi ở Cerritos, Nam Cali. Ngày ấy Kỳ Duyên vừa tốt nghiệp trường luật, đang chuẩn bị thi Bar để lấy bằng hành nghề. Thi Bar ở 3 tiểu bang California, New York và Texas là khó nhất nước Mỹ vì những nơi này quá dư luật sư. Nhưng Kỳ Duyên vốn thông minh lại có số khoa bảng nên thi cái gì cũng chỉ một lần là xong. Cô học luật theo lời hối thúc của mẹ, chứ thực ra cô không say mê ngành này. Cô rất hợp với nghề phóng viên truyền hình, nhưng đối với cộng đồng Việt Nam thì bác sĩ, luật sư, bao giờ cũng danh giá hơn những nghề khác, nên cô chiều ý mẹ. Những người quen thân với cô, như tôi, không ngạc nhiên chút nào khi thấy cô chỉ mở văn phòng luật sư một thời gian ngắn rồi đóng cửa vì “đi show vui hơn”! Tôi an ủi:

– Cô bỏ nghề là đúng! Tất cả các thăm dò ở Mỹ đều cho thấy, khi liệt kê những nghề được dân chúng kính trọng thì luật sư luôn luôn đứng gần chót!

Rồi tôi nhắc lại hai câu chuyện vui:

1- Một chiếc tàu bị đắm ở vùng biển toàn cá mập. Khi trực thăng đến cứu thì tất cả hành khách đều bị cá mập ăn thịt hết, chỉ có ông luật sư sống sót. Người ta hỏi bí quyết thì ông nói:
– Chả có bí quyết gì cả. Chỉ vì cá mập không ăn thịt đồng loại!

2- Có cặp vợ chồng vừa cưới nhau, trên đường đi honeymoon thì bị tai nạn chết cả hai. Lên Thiên Đàng thánh Phêrô thấy tội nghiệp, cho chung sống với nhau. Mấy năm sau hai người đến gặp thánh Phêrô và hỏi:
– Thưa ngài! Trên này có ly dị được không?
Thánh Phêrô đáp:
– Được chứ con! Nhưng thiên đàng làm gì có luật sư mà làm thủ tục cho các con ly dị!

Dĩ nhiên đó chỉ là những chuyện jokes của Mỹ mà thôi. Luật sư Việt Nam thường chỉ phục vụ khách Việt Nam, rất ít khi có những vụ án hình sự lớn lao như O.J. Simpson để tính tiền không nương tay.

Trở lại năm 1993, trước ngày thu hình Paris By Night 24, ông Tô Văn Lai đưa tôi và bà xã tôi đến nhà Kỳ Duyên để soạn chương trình. Đây là lần đầu tiên tôi trực tiếp gặp cô, đang sống chung với mẹ và bà ngoại trong căn nhà khang trang. Cả nhà đã coi tôi trên Paris By Night và ông cậu Đặng Trần Hiếu bảo Kỳ Duyên ngay sau khi nhìn thấy tôi lần đầu trong PBN 17:

– Cháu muốn làm MC thì nên làm với ông này!

Rất may là Kỳ Duyên viết được tiếng Việt, tuy còn nhiều lỗi chính tả hoặc đánh vần sai. Điều đó cũng dễ thông cảm bởi tiếng Anh coi như tiếng mẹ đẻ của cô. Từ mẫu giáo và tiểu học ở Sài Gòn, cô đã học chương trình Mỹ và học thêm mấy năm tiếng Pháp. Sang đây lại học luôn một lèo ra luật sư, làm sao đòi hỏi cô giỏi tiếng Việt được. Cô viết được là đã đáng khen lắm rồi! Khi soạn kịch bản, tôi đọc cho cô đánh máy từng câu để cô dễ học thuộc lòng. Tất nhiên tôi cũng yêu cầu cô phải sửa câu văn của tôi theo lối nói đơn giản của cô, bởi người chưa rành tiếng Việt mà nói văn chương lưu loát quá thì khán giả sẽ thấy giả tạo lắm. Trước khi gặp tôi, mỗi lần sắp đi show, mẹ cô cũng chỉ cho cô từng lời giới thiệu hoặc từng câu chuyện vui.

Quả nhiên ngay lần đầu đứng với tôi trên Paris By Night 24, cô đã thành công vững vàng nhờ những đối đáp rất tự nhiên và thoải mái.

Phải nói là từ khi qua sân khấu Paris By Night, Kỳ Duyên nổi đình nổi đám rất nhanh. Năm ngoái, khi Nguyễn Đạt, giám đốc Thời Báo, phỏng vấn tôi trong chương trình “Nhìn Lại Một Chặng Đường”, tôi có kể lại với khán giả là mấy năm đầu, có những ông bầu show ở nhiều địa phương chỉ mời Kỳ Duyên mà không mời tôi. Họ mời Kỳ Duyên để họ đứng làm MC chung với Kỳ Duyên vì họ tưởng hễ cứ đứng bên Kỳ Duyên thì họ sẽ nổi tiếng. Ý tôi muốn nói đến cái “duyên sân khấu” của Kỳ Duyên đã tạo sức hút mãnh liệt khiến nhiều ông mong được đứng làm MC bên cạnh. Chỉ có điều họ không nhìn ra một thực tế quan trọng là, họ phải vượt được Kỳ Duyên về một mặt nào đó, thì khán giả mới chú ý tới họ. Nếu không họ sẽ bị chìm vì cái hình ảnh Kỳ Duyên vốn đã quá lớn trong ấn tượng mọi người rồi. Kỳ Duyên bảo tôi:

– Khi em đứng chung với anh, anh là người lead chương trình, em chỉ phụ họa thôi, thì mới ăn khớp được. Còn khi em làm MC với mấy ông khác. Em bất đắc dĩ trở thành người lead, mấy ông kia đóng vai phụ thì không thể nào hay được! Nói chung, người đàn ông vẫn phải là chính!

Những năm sau này cô cũng cho tôi xem Facebook của cô, trong đó hàng loạt fan viết cho cô:

– Chị Kỳ Duyên ơi! Thà chị đứng một mình. Chị đứng với ông nào cũng chỉ làm khán giả nhớ tới chú Ngạn!

Có một kỷ niệm khá vui là năm 1995, thu hình tại Las Vegas. Lúc ấy Kỳ Duyên còn độc thân và còn đang hành nghề luật sư. Trên sân khấu tôi hỏi Kỳ Duyên:

– Đối với cô, người đàn ông lý tưởng mà cô lựa chọn phải có những điều kiện gì?

Kỳ Duyên đáp:

– Kỳ Duyên không cần người giàu, đẹp trai hay học giỏi. Chỉ cần khi đứng bên cạnh, người đó phải… cao hơn Kỳ Duyên!

Khi cuốn băng phát hành, có bà phone đến văn phòng luật sư, gay gắt chửi Kỳ Duyên. Bà nói:

– Bộ cô tưởng cô đẹp lắm hay sao mà cô cứ chê ông Ngạn hoài vậy!

Thật là oan cho Kỳ Duyên! Đó chỉ là một cái joke do chính tôi chế ra để Kỳ Duyên nói cho vui. Nhiều lần khác, cô nói bóng gió chê tôi già hay thấp, tất cả đều do tôi nghĩ ra để làm vui sân khấu. Những câu thơ có chọc ghẹo tôi cũng thế! Đều do tôi làm hoặc tôi góp ý. Nhiều bà khán giả không hiểu, cứ tội nghiệp tôi rồi trách Kỳ Duyên. Cô lớn lên trong môi trường văn hóa Mỹ, tất nhiên cô thừa biết người Mỹ không bao giờ nhắc đến mấy chữ “già, lùn, mập” khi nói về người khác. Bà vợ xấu hoắc, vẫn giới thiệu là “my beautiful wife”, vì đó là nét lịch sự truyền thống ở xứ này! Chê một người thấp, mập hoặc già, xã hội Mỹ coi là những ngôn từ độc ác!

Trên sân khấu, chỉ có những câu hỏi về văn hóa, chẳng hạn ca dao tục ngữ, phong tục tập quán, điển tích văn chương hay lịch sử, là do Kỳ Duyên tự đặt ra cho tôi bởi vì chính cô muốn tìm hiểu. Cô nói: Em học trong sách cũng được. Nhưng nghe anh trả lời thì dễ hiểu và dễ nhớ hơn.

Cũng có nhiều câu do khán giả gửi tới và cô hỏi thay cho họ. Cụ thể nhất là cuốn Xuân Tha Hương, cô đã hỏi tôi biết bao nhiêu câu về phong tục ngày Tết, chẳng hạn tại sao Táo Quân lại cưỡi cá chép lên chầu Ngọc Hoàng. Những sự tích về đốt pháo, cây nêu, cành đào, bánh chưng, tịch điền, múa lân… xuất phát từ đâu? Những câu hỏi của cô chính là những thắc mắc chung của lớp khán giả ở lứa tuổi cô mà các bậc phụ huynh không có thì giờ giải đáp nên nhờ tôi nói giùm.

Làm văn nghệ một thời gian, gặp gỡ, chung đụng với nghệ sĩ, tôi học được nhiều điều ở thế hệ trẻ. Điều đầu tiên là họ thẳng thắn. Họ suy nghĩ thế nào thì họ nói ra điều đó và xong thì thôi, không để bụng. Đó là một nét văn hóa Mỹ rất đáng trân trọng. Tôi nhớ một lần lưu diễn Âu Châu. Hôm ấy đi show ở Tiệp Khắc (tên mới bây giờ gọi là Cộng hòa Séc) vào mùa Noel. Lúc bấy giờ, người Việt ở Tiệp đa số sống bằng chợ trời, bán sỉ những mặt hàng bình dân cho người địa phương. Khu chợ trời rộng lớn ngày ấy còn nghèo, mấy trăm cửa hàng san sát chỉ toàn là vách ván mái tôn, mùa Đông rét căm căm mà đồng bào mình thì ai cũng sẵn sàng chịu thương chịu khó để gây dựng vốn liếng, nuôi con cái đi học hoặc gửi về giúp đỡ quê nhà. Năm ấy bỗng chợ trời bị cháy. Ngọn lửa lan đi rất nhanh bởi các gian hàng đều sát vách với nhau mà lại cháy giữa đêm khuya. Khi đội cứu hỏa đến nơi thì chỉ còn thấy cả một khoảng trời mênh mông chìm trong biển lửa. Bao nhiêu người thất nghiệp, đứng nhìn tài sản bị thiêu rụi, gào khóc mà không xông vào được vì cảnh sát và lính cứu hỏa triệt để canh giữ, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Họ đồn nhau có người đốt chứ không phải vô tình. Mất hết hàng hóa đã đành mà đa số chủ nhân lại để tiền mặt hoặc vàng ở ngay tại tiệm, vì họ ra bán hàng từ 3 giờ sáng, tiền bạc để ở nhà không an toàn. Hàng loạt người trắng tay, thậm chí nhiều người toan tự tử!

Trong hoàn cảnh như thế, còn tâm trí đâu mà đi coi văn nghệ! Cho nên show hôm ấy chỉ có chưa đầy nửa rạp. Bầu show gặp tôi xin bớt tiền cát-xê. Tôi đồng ý ngay. Một lúc sau Kỳ Duyên gặp tôi, gay gắt mắng:

– Tại sao anh bớt tiền mà không hỏi ý tụi em?

Tôi ngơ ngác không hiểu tại sao mình bớt tiền mà lại phải xin phép người khác! Kỳ Duyên giải thích:

– You make me look bad!

Bấy giờ tôi mới hiểu. Tôi chưa gặp trường hợp này lần nào. Tôi bớt tiền, bầu show đem tôi ra “làm gương” để xin mấy người kia cùng bớt. Họ không bớt thì cảm thấy áy náy vì tôi đã bớt rồi! Tôi nhận cái lỗi đó! Từ nay không bớt tiền nữa. Bớt tiền đã tiếc lắm rồi lại còn bị cằn nhằn!

Thật ra thì Kỳ Duyên và mấy nghệ sĩ kia đúng chứ không sai! Họ cứng rắn áp dụng nguyên tắc công bằng. Tổ chức show ca nhạc tức là làm business, mà business thì phải có khi lỗ, có khi lời. Khi vé sold out, bầu show có lời lớn, họ đâu có trả thêm bonus cho ca sĩ. Như vậy thì khi bị lỗ tại sao ca sĩ phải bớt tiền!

Đó là những kinh nghiệm mà khi mới đi show tôi không rành. Điều tôi muốn nói ở đây là giới trẻ như Kỳ Duyên không ấm ức để bụng rồi thù vặt. Cần là nói ra ngay. Nói xong rồi quên, như vậy mới làm việc với nhau lâu dài được. Thế hệ của tôi thường bị căn bệnh cả nể, nhiều điều bực bội nhưng cứ giấu trong lòng và nuôi mãi sự giận hờn ngấm ngầm. Đó là “nền văn hóa thù dai” nên xóa bỏ!

Có một dạo Huỳnh Thi định đem truyện của tôi thực hiện thành phim, cả phim ngắn lẫn phim bộ. Đó là lý do Thúy Nga sang tận Hàn Quốc thu Paris By Night, vì muốn cộng tác với đài truyền hình Hàn Quốc vốn nổi tiếng là sản xuất phim bộ đẹp nhất Á Châu. Kỳ Duyên với Lưu Bích hăm hở muốn đóng phim. Tôi lắc đầu bảo Kỳ Duyên:

– Cô chỉ đóng được những vai cà chớn thôi!

Điều này thì tôi nói thật, dù có thể sai, nhưng tôi nghĩ như vậy. Tôi xem phim Mỹ rất nhiều và để ý thấy rằng: Những tài tử chuyên đóng các vai nghiêm trang như Marlon Brando, Clint Eastwood hoặc thậm chí Robert De Niro, lâu lâu vẫn có thể chuyển sang phim hài và thành công nhờ kịch bản. Nhưng những diễn viên chuyên về hài như Jim Carrey, Adam Sandler, Eddied Murphy… khi chuyển sang đóng phim đứng đắn thì rất khó thành công. Không phải họ diễn xuất dở mà vì cái hình ảnh hài hước của họ đã nằm sâu trong ký ức khán giả mất rồi. Kỳ Duyên đóng những tiểu phẩm hài trên Paris By Night rất hay, như Tiểu Long Nữ hoặc Hoa Hậu Cà Chớn, vô tình tạo cho khán giả thấy đó mới là lãnh vực sở trường của cô. Bởi vậy khi cô muốn chuyển sang chính kịch, đóng vai nghiêm chỉnh, thì rất khó thay đổi được thành kiến của khán giả. Cô quả quyết với tôi:

– Em đóng được! Đóng vai bi được! Anh không tin, em khóc cho anh coi!

Tôi bảo:

– Cô khóc thì khán giả sẽ cười!

Thấy tôi tỏ ý nghi ngờ khả năng đóng phim, Kỳ Duyên và Lưu Bích liền rủ nhau đi Hollywood, ghi danh học khóa diễn xuất ngay. Ngày ấy Kỳ Duyên và Lưu Bích rất thân nhau. Lưu Bích tốt nghiệp cử nhân thương mại, làm cho ngân hàng mấy năm rồi mới nghỉ để đi hát full time. Có đến hơn 10 năm, show nào hễ có Kỳ Duyên là có Lưu Bích.

Thế hệ của họ khác hẳn thế hệ của tôi: Họ quyết định nhanh và chịu học hỏi. Thấy tôi không sốt sắng mời họ đóng phim, họ đi học ngay, không phân trần mất thì giờ.

Rất tiếc là ý định làm phim của Thúy Nga phải bỏ cuộc vì nạn sang băng lậu lúc ấy bắt đầu lan tràn khắp nơi, sản xuất ra sẽ mất nghiệp! Các đài truyền hình hải ngoại đều còn nghèo, làm phim bộ dù hay đến đâu, họ cũng không đủ khả năng mua.

Tôi hay đọc tạp chí văn nghệ của Mỹ nói về hậu trường sân khấu phim ảnh và các show truyền hình. Ở đó tôi khám phá ra là có những show mà các diễn viên Mỹ kèn cựa nhau từng chút, người viết kịch bản hoặc đạo diễn phải phân chia thật đều từng lời thoại, không thể để người này lấn lướt người kia, diễn viên này nói nhiều hơn diễn viên khác. Tôi và Kỳ Duyên thì hoàn toàn ngược lại. Khi thu hình Paris By Night, không ai muốn nói nhiều, không ai muốn xuất hiện nhiều. Tôi muốn chia đều, nhưng dứt khoát Kỳ Duyên không chịu, thành ra gần như mục nào tôi cũng phải ra sân khấu, hoặc một mình tôi hoặc với Kỳ Duyên. Tuổi càng lớn, tôi cần muốn nghỉ bớt, mà Kỳ Duyên thì ngại phải ra đứng một mình vì sân khấu đổi cảnh lắm khi kéo dài lâu quá. Nói về Mỹ thì có thể nói cả ngày. Nhưng nói về văn hóa Việt thì tất nhiên kiến thức cô có giới hạn. Như tôi thường nói: Làm MC cho Paris By Night có thể nói là khó nhất thế giới, bởi mỗi bài hát là một cảnh khác nhau. MC phải nói cho đến khi nào sân khấu đổi xong thì mới giới thiệu mục kế tiếp. Nhưng cũng nhờ khó như vậy Paris By Night mới tạo được một dấu ấn nổi bật về nghệ thuật và về phổ biến văn hóa mà quốc nội không theo kịp, dù nhân lực và tài chính dồi dào gấp bội hải ngoại. Và vì khó khăn như vậy nên khi soạn chương trình tôi hay gắt gỏng với Kỳ Duyên, chẳng qua là vì muốn toàn hảo.

Kỳ Duyên cũng có cái hay nữa là bao nhiêu truyện cười cô sưu tầm được trên net hoặc các fan hâm mộ gửi về, cô đều đưa cho tôi mặc dầu tôi luôn luôn khuyến khích cô kể. Nhưng cô cứ đẩy cho tôi và bảo:

– Anh kể đi! Anh kể hay hơn em nhiều!

Cô nhận ra như vậy là đã giỏi rồi bởi ngôn ngữ tiếng Việt làm sao cô rành hơn tôi được. Kể chuyện cười căn bản là phải chọn chữ cho đúng và câu văn chỉ vừa đủ, dài quá sẽ bị nhạt, không thể cười được!

Điểm nổi bật nhất của Kỳ Duyên trên sân khấu có lẽ là sự thản nhiên, sự điềm tĩnh. Ca sĩ hát sai một câu, MC nói sai một lời, thường dễ mất tinh thần, đâm ra lúng túng. Cô thì không. Giới thiệu sai, cô cười cười nói lại. Thí dụ bài Tàn Tro cô giới thiệu là Tro Tàn. Bài Hành Trang Giã Từ cô giới thiệu là Giã Từ Hành Trang. Cái hay của cô là không chút bận tâm, mục kế tiếp sẽ ra đính chính lại. Rất khó có ai tập được cái tính tỉnh bơ như cô!

Năm rồi, 2017, bầu show khắp nơi, từ Hoa Kỳ, Âu Châu sang tới Úc, đã liên tục tổ chức cho tôi chương trình “Nguyễn Ngọc Ngạn 25 năm sân khấu”. Rất may là chỗ nào cũng thành công. Dĩ nhiên tôi phải cảm ơn các bầu show vì đó là một niềm hãnh diện lớn cho tôi: Đem tên một cụ già 73 tuổi ra làm chủ đề mà khán giả vẫn còn nồng nhiệt chiếu cố thì lịch sử văn nghệ Việt Nam ít khi thấy!

Nguyễn Ngọc Ngạn, 2018
Nguồn: thoibao.com

Ảnh thiếu nữ khỏa thân in trên đá

Nhiều ảnh khỏa thân nghệ thuật từ hai tập sách “Xuân Thì” và “Miền cổ tích” của Thái Phiên được chọn lọc và in trên đá.

Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 1
Thái Phiên là nghệ sĩ theo đuổi đề tài ảnh khỏa thân nghệ thuật. Trong nhiều năm qua, anh không chỉ miệt mài sáng tác mà còn là người lên tiếng mạnh mẽ để ảnh khỏa thân được nhìn nhận như một thể loại nghệ thuật.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 2
Thái Phiên từng phát hành Xuân thì – cuốn sách ảnh và bộ lịch khỏa thân nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam. Năm 2008, việc phát hành sách Xuân thì được Đài Tiếng nói Nhân dân TP.HCM bình chọn là một trong mười sự kiện văn hóa nổi bật. Năm 2018, anh phát hành sách ảnh Miền cổ tích.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 3
Tháng 6/2018, triển lãm ảnh khỏa thân nghệ thuật đầu tiên của Thái Phiên được tổ chức. Triển lãm Miền cổ tích diễn ra tại TP.HCM, giới thiệu 26 tác phẩm tượng trưng cho 26 năm theo đuổi ảnh nude nghệ thuật của nghệ sĩ.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 4
Tháng 7/2018, một triển lãm ảnh nude nghệ thuật do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đứng ra tổ chức ở Hà Nội. Thái Phiên là một trong những nghệ sĩ tham gia chương trình. Triển lãm này được Thái Phiên ví như động thái “cởi trói” cho ảnh nude nghệ thuật.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 5
Mới đây nhất, Thái Phiên giới thiệu những tác phẩm độc đáo của mình. Anh cho in các bức ảnh khỏa thân nghệ thuật lên trên đá.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 6
Thái Phiên cho biết, các viên đá để in ảnh có từ hàng triệu năm trước, với đủ hình dáng tự nhiên khác nhau, được chọn trong các khe suối ở Phú Yên, Lâm Đồng.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 7
Các nghệ nhân mang đá về mài dũa theo từng dáng, từng thế để phù hợp với các bức ảnh. Vì thế, mỗi viên đá in ảnh khỏa thân nghệ thuật là một tác phẩm độc bản.
Anh thieu nu khoa than in tren da hinh anh 8
Nhiếp ảnh gia cho biết các tác phẩm này có giá vừa phải và không bán rộng trên thị trường.

Y Nguyên / Zing

‘Con người trở nên lố lăng, kệch cỡm khi chạy theo sự bất tử’

Trong “Sự bất tử”, Milan Kundera cho rằng thói háo danh sẽ giết chết nhân cách, tốc độ phát triển của thế giới hiện đại có thể tàn phá đời sống cá nhân.

Milan Kundera (sinh ngày 1/4/1929 tại Tiệp Khắc, hiện mang quốc tịch Pháp), là một tên tuổi lớn của văn chương đương thời. Nhiều tác phẩm của ông được giới phê bình và độc giả yêu thích như: Đời nhẹ khôn kham, Sự bất tử, Những mối tình nực cười, Trò đùa, Chậm, Nghệ thuật tiểu thuyết, Những di chúc bị phản bội, Màn, Cuộc sống không ở đây

Tác phẩm của Milan Kundera được dịch khá nhiều ở Việt Nam. Gần đây, tiểu thuyết quan trọng của ông, Sự bất tử, được tái bản. Dịch giả Ngân Xuyên (Phạm Xuân Nguyên) có cuộc trò chuyện về văn chương Milan Kundera cũng như việc dịch tác phẩm của ông sang tiếng Việt.

Viết văn là để tìm câu trả lời cho đời sống, nhân sinh

– Ông dịch “Sự bất tử” vào những năm 1990, khi ấy Milan Kundera chưa được biết nhiều ở Việt Nam. Làm thế nào để người dịch có thể phát hiện ra một nhà văn hay để chuyển ngữ?

– Tôi học ngoại ngữ, thích đọc sách vở nước ngoài. Bây giờ tôi dịch cả tiếng Anh, Pháp, Nga, nhưng ban đầu thì tôi chỉ dịch tiếng Nga. Những năm 1990, tôi công tác ở Viện Văn học. Nơi đây đặt nhiều sách báo của Nga. Số báo nào mới về tôi đều mượn đọc. Năm 1994, tôi đọc trên tạp chí về văn học nước ngoài của Nga có in tiểu thuyết của Kundera.

Tác phẩm của ông ấy vừa hay lại lạ so với cách viết tiểu thuyết của chúng ta. Vì vậy tôi quyết định dịch. Việc tôi chuyển ngữ Kundera như một cái duyên tình cờ và có một chút may mắn nữa.

'Con nguoi tro nen lo lang, kech com khi chay theo su bat tu' hinh anh 1
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên – người dịch ba tác phẩm của Milan Kundera với bút danh Ngân Xuyên.

Thật ra tôi không phải người đầu tiên dịch Milan Kundera ở Việt Nam. Trước đó nhà văn Nguyên Ngọc đã bắt đầu dịch những tiểu luận của ông: Nghệ thuật tiểu thuyết, Những di chúc bị phản bội. Có lần, nhà văn Nguyễn Khải nói với tôi rằng ông đã đọc một tập phê bình của Kundera do Nguyên Ngọc dịch. “Giá mà tôi đọc được cuốn này từ trước, thì tôi đã viết khác đi”, Nguyễn Khải nói như vậy.

– Quá trình dịch Milan Kundera của ông diễn ra như thế nào?

– Tôi đọc Sự bất tử trên tạp chí của Nga và bắt đầu dịch vào năm 1994. Năm đó tôi chưa có tên tuổi, mới bắt đầu phê bình, dịch thuật chưa có thành tựu gì. Tôi thích tác phẩm quá thì cứ dịch ra, không biết làm xong sẽ đưa ai, gửi tới chỗ nào để xuất bản.

Tối tối, trong căn nhà 9 m2, với tờ tạp chí gốc, một cuốn từ điển, một ngọn đèn tù mù, tôi cặm cụi dịch, viết tay bằng bút mực trên giấy xấu. Thỉnh thoảng, tôi cũng đưa vài đoạn cho bạn bè đọc.

Đến năm 1996, tạp chí Văn học Nước ngoài của Hội nhà văn Việt Nam ra đời, tôi gửi tác phẩm tới dịch giả Đoàn Tử Huyến (là Phó tổng biên tập tạp chí). Sự bất tử được đăng trên số đầu tiên của tạp chí Văn học Nước ngoài.

Sau đó, một cuốn sách tập hợp ba tiểu thuyết của Milan Kundera do tôi dịch được xuất bản, gồm: Sự bất tử, Bản nguyên, Chậm. Gần đây, Sự bất tử được in riêng thành một cuốn sách đẹp, tôi rất thích. Đó là điều thôi thúc tôi dịch tiếp một cuốn nữa của Milan Kundera: Le livre du rire et de l’obli (Sách cười và lãng quên).

– Khi dịch tác phẩm của một văn tài như vậy, ông gặp những thách thức gì, và làm thế nào để vượt qua?

– Khi dịch tác giả nào đó, nhất là tác giả lớn, tôi phải tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt để hiểu về ông. Khó khăn thứ hai là những kiến thức về môi trường văn hóa xã hội mà tác giả sống, bối cảnh của tác phẩm. Khó khăn thứ ba chính là tìm ra được cách dịch để chuyển tải được giọng điệu tác phẩm.

Trong quá trình dịch, tôi cố gắng tiệm cận bản gốc. Sau này, tôi có đối chiếu các bản dịch từ tiếng Nga của mình với các bản tiếng Pháp.

'Con nguoi tro nen lo lang, kech com khi chay theo su bat tu' hinh anh 2
Ba trong số các tác phẩm của Milan Kundera xuất bản tại Việt Nam. Ảnh: NN

– Mới đây, tại Hà Nội diễn ra buổi tọa đàm với tên “Milan Kundera hay một cái tên bất tử”. Theo ông, tại sao ta có thể nói Kundera bất tử?

– Tên tọa đàm là một sự chơi chữ, vì Kundera đó là tên cuốn sách của ông: Sự bất tử. Trong sách đó, ông bàn về sự bất tử của con người, như thế nào là lưu danh sử sách, lưu lại tên tuổi.

Bằng cách đặt tên này, những người thực hiện chương trình muốn khẳng định vị trí, vai trò của Kundera, những đóng góp xuất sắc của ông cho văn học thế giới. Từ lâu người ta đã chờ đợi một giải Nobel Văn học cho Kundera. Các bảng xếp hạng văn học hàng đầu đều có tên ông. Người ta nói Nobel không trao giải cho Kundera là một sự thất bại của giải này.

Riêng với Kundera, nếu đọc tên chương trình này, chưa chắc ông đã thích. Vì trong tiểu thuyết, ông thể hiện quan điểm: con người đôi khi trở nên lố lăng, kệch cỡm khi chạy theo sự bất tử. Với ông, viết văn là để tìm kiếm câu trả lời cho cuộc sống, nhân sinh.

Kỹ tính như Milan Kundera

– Kundera muốn mọi tác phẩm của ông khi xuất bản ở nước ngoài phải dịch từ tiếng Pháp. Điều gì khiến bản dịch từ tiếng Nga của Ngân Xuyên sang tiếng Việt được Kundera chấp thuận?

– Milan Kundera là một người kỹ tính. Sách của ông in ra ở các nước trên thế giới đều được chính tác giả duyệt rất kỹ từ bìa tới nội dung. Bìa sách của ông hoàn toàn trắng, không có hình tác giả, không có tiểu sử, không lời có cánh của những nhà báo, nhà phê bình. Ý ông muốn nói: “tôi là những con chữ được viết ra”. Ai muốn hiểu ông hãy đọc tác phẩm.

Ông rất chặt chẽ về mặt ngôn ngữ. Từ khi rời Tiệp Khắc, ông chỉ mang đi một số tác phẩm viết trước đó. Khi sang Pháp, ông thấy hóa ra người ta dịch tác phẩm của ông từ tiếng Tiệp sang tiếng Pháp không đúng với nguyên tác. Sợ tam sao thất bản, ông đòi hỏi rất kỹ chuyện dịch thuật. Kundera yêu cầu khi chuyển ngữ tác phẩm sang một ngôn ngữ nào đó phải dịch từ tiếng Pháp.

Tiểu thuyết Sự bất tử của ông được tôi dịch từ tiếng Nga từ những năm 1990. Lúc ấy chưa có Internet, thông tin không nhanh và nhiều như bây giờ nên tôi không biết quy định của ông. Việt Nam khi ấy cũng chưa tham gia công ước Bern, nên tôi cứ hồn nhiên dịch.

Cho đến nay, khi đơn vị phát hành là Nhã Nam muốn in lại sách, họ gửi CV của tôi sang, không hiểu vì lý do gì mà Milan Kundera chấp thuận bản dịch qua tiếng Nga của tôi.

'Con nguoi tro nen lo lang, kech com khi chay theo su bat tu' hinh anh 3
Nhà văn Milan Kundera.

– Sau khi đi khỏi Tiệp Khắc, Kundera sáng tác bằng tiếng Pháp. Ông ấy có tính toán gì không khi sử dụng một ngôn ngữ mạnh, phổ biến hơn?

– Có thể ông ấy cũng nghĩ tới việc viết bằng tiếng Pháp để tác phẩm của mình được phổ biến rộng rãi hơn. Nhưng rõ ràng, ông sống ở Pháp đã nhiều năm, sử dụng tiếng Pháp, chỉ cho dịch tác phẩm từ tiếng Pháp. Đó là lựa chọn để đưa đến độc giả trên thế giới một bản dịch tốt nhất.

– Đâu là nghệ thuật đặc sắc của Kundera khiến cái tên của ông được ghi nhận trong văn đàn thế giới?

– Kundera đưa đến một quan niệm hoàn toàn mới về tiểu thuyết. Trước ông, chúng ta cho rằng tiểu thuyết để kể một câu chuyện. Ông coi tiểu thuyết là sự khám phá những tình huống mà con người không được trải qua. Với tiểu thuyết, Kundera không kể câu chuyện, mà “chơi” cấu trúc. Vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống âm nhạc, tiểu thuyết nào của ông cũng như một bản giao hưởng bảy phần.

Kundera cũng giúp thế giới phát hiện ra một nền văn học trung Âu bị lãng quên. Đặc biệt ông viết tiểu luận rất hay, sâu sắc, có tác động tới quan niệm về tiểu thuyết của nhiều nhà văn trên thế giới.

– Các tác phẩm của Milan Kundera đã được đón nhận ra sao ở Việt Nam?

– Có bốn người dịch tác phẩm của Kundera sang tiếng Việt là tôi, nhà văn Nguyên Ngọc, dịch giả, nhà nghiên cứu Cao Việt Dũng, dịch giả Trịnh Y Thư. Khi Sự bất tử xuất bản, một số nhà phê bình rất thích, hy vọng nó tạo ra sự bùng nổ, tác động tới văn đàn. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn từng nói đọc tác phẩm này chắc sẽ tạo cú hích cho các nhà văn Việt. Nhưng điều đó không xảy ra. Bạn bè văn chương của tôi có đọc, nhưng chưa chuyển biến trong nhận thức nghệ thuật, lối viết.

Tuy vậy, vẫn có nhóm bạn đọc rất thích, say mê tác phẩm của Kundera. Tôi hy vọng thời gian tới, chúng ta sẽ đọc, hiểu hơn về một tài năng của văn chương thế giới.

Tấn Tấn / Zing

‘RỪNG CHUNG CƯ’ Ở VIỆT NAM VÀ VẾT XE ĐỔ CỦA CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG

Ở Hà Nội và TP.HCM, các nhà đầu tư bất động sản đang dựa vào hệ thống hạ tầng nhà nước, hưởng lợi từ nó nhưng lại thiếu những đóng góp cho phát triển hạ tầng chung.

'Rung chung cu' o Viet Nam va vet xe do cua cac nuoc lang gieng hinh anh 2

'Rung chung cu' o Viet Nam va vet xe do cua cac nuoc lang gieng hinh anh 3

Huỳnh Thế Du

Giảng viên chính sách công

Ông Huỳnh Thế Du là giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý thuộc Đại học Fulbright Việt Nam. Ông thường xuyên tham gia các thảo luận chính sách ở Việt Nam. Ông có các bài báo được đăng trên các tạp chí danh tiếng quốc tế. Ông nhận bằng thạc sĩ quản lý công tại Trường Harvard Kennedy năm 2010 và bằng tiến sĩ tại Trường Kiến Trúc Harvard năm 2013.

Không khó để điểm danh những tuyến đường với không gian chật cứng cao ốc. Hậu quả nhãn tiền là cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng quá tải trong bế tắc.

Các cao ốc không có lỗi. Trái lại, mật độ cao ở đô thị trung tâm hay các đầu mối và dọc các tuyến giao thông là lựa chọn hợp lý cho những nơi đất chật người đông. Vấn đề là cách thức đóng góp để có cơ sở hạ tầng phù hợp.

KHÔNG NÊN QUÁ KỲ VỌNG VÀ ĐỔ LỖI CHO QUY HOẠCH

Bấy lâu nay chúng ta luôn bức xúc với những tòa cao ốc khi được xây dựng “không theo một quy hoạch nào” hay “quy hoạch lỗi thời”. Tuy nhiên, trên thế giới quy hoạch thường không thực tế, và vì vậy, không nên quá kỳ vọng vào công cụ này.

Ví dụ, trong Seoul: Tạo dựng một đô thị lớn, hai tác giả Kim và Choe đã chỉ ra rằng: “Kể từ khi lập kế hoạch tổng thể cho 5 triệu dân vào năm 1966, hơn 20 năm trôi qua mà không có một bản kế hoạch sửa đổi nào để quan chức thành phố có thể sử dụng như một tài liệu hướng dẫn phát triển có ý nghĩa.” Dân số của Seoul vào cuối thập niên 1980 là hơn 10 triệu người.

Thượng Hải cũng rơi vào tình trạng tương tự với điển hình nhất là quá trình phát triển của Phố Đông. Quá trình phát triển của khu đô thị có diện tích bằng Hồng Kông và dân số và nguồn thu ngân sách hiện nay tương đương với Singapore này không hề được dựa trên những bản vẽ quy hoạch hoàn chỉnh ngay từ ban đầu nào cả.

Vai trò của quy hoạch ở nhiều thành phố khác thậm chí còn tệ hơn rất nhiều và Việt Nam, các quy hoạch luôn theo đuôi thị trường, vừa phê duyệt đã lỗi thời.

Ví dụ, theo Quy hoạch năm 1993 của TP.HCM, hướng phát triển chính được chọn là đông bắc và hai hướng phụ là hướng tây bắc và hướng nam; nhưng đến năm 1998 bổ sung thêm hướng nam và đông nam; đến năm 2010, hướng phát triển chính là nam và đông nam và ba hướng phụ là tây bắc, tây và tây nam, trong khi hướng đông bắc không còn nằm trong quy hoạch nữa.

Thêm vào đó, tuy dân số dự kiến đến năm 2010 trong Quy hoạch 1996 xấp xỉ số thống kê chính thức, nhưng phân bố dân cư thì khác hắn. Quy hoạch này đã dự báo sự gia tăng dân số tuyệt đối ở nửa đông nam sẽ chiếm 70% tổng số gia tăng dân số tuyệt đối trong giai đoạn 1996-2010. Con số thực tế là 23%, trong khi nửa còn lại chiếm 77%.

Những vấn đề tương tự cũng đang xảy ở Hà Nội và các đô thị khác của Việt Nam.

Không ai có thể ngồi mà vẽ được chính xác 10-20-30 năm nữa bộ mặt đô thị sẽ ra sao, chỗ này sẽ là nhà cao tầng, chỗ kia là trường học, bệnh viện.

THỊ TRƯỜNG QUYẾT ĐỊNH DIỆN MẠO THÀNH PHỐ

Trục trặc tại các đô thị Việt Nam xuất phát từ việc nhầm tưởng về vai trò của Nhà nước với các quy hoạch. Thực tế, trong quá trình phát triển đô thị, Nhà nước chỉ đóng vai trò rất nhỏ.

Nguyên chủ nhiệm chương trình đô thị của Ngân hàng Thế giới Alan Bertaud cũng chỉ ra rằng các lực thị trường trong dài hạn sẽ tạo dựng thành phố, và nhà nước chỉ có thể tác động lên quá trình này ở mức độ cận biên (nhỏ) thông qua ba công cụ: các qui định về sử dụng đất, đầu tư cơ sở hạ tầng, và thuế khóa.

Diện mạo thành phố do thị trường và các nhà đầu tư bất động sản quyết định. Đây là thực tế xảy ra ở gần như tất cả các nơi trên thế giới.

Vai trò của nhà nước là “nắn dòng” chứ không thể chặn dòng. Phải dựa vào thị trường mà nắn dòng vốn đầu tư một cách hiền hoà, mang lại lợi ích về kinh tế. Các công cụ cần phải được sử dụng một cách thông minh và có chiến lược.

VẾT XE ĐỔ CỦA PHILIPPINES, INDONESIA

Đô thị nén là phương án hiệu quả. Mật độ dân số cao dẫn đến sử dụng không gian hiệu quả hơn, làm cho các thành phố trở nên gắn kết hơn.

Ngay tại châu Á, số phận của các đô thị lại rất khác nhau. Hong Kong, Seoul, Singapore, Thượng Hải hay Tokyo được đánh giá thành công thì Jakarta và Manila lại là các mô hình thất bại. Hệ thống giao thông công cộng là một nguyên nhân trọng yếu.

Tại Seoul, hơn 70% người dân di chuyển trong thành phố bằng phương tiện công cộng với hệ thống tàu điện ngầm và xe buýt hiện đại gắn với việc làm ở khu vực chính thức và nhà ở căn hộ. Trái lại, Manila cũng tỷ lệ tương tự đang sử dụng giao thông công cộng, nhưng là xe jeepney chạy cùng các phương tiện cá nhân khác dẫn đến kẹt cứng.

Đáng tiếc, Hà Nội và TP.HCM lại đang đi vào vết xe đổ của Manila hay Jakarta khi chỉ chú trọng xây nhà mà không đi kèm hạ tầng giao thông công cộng. Nếu hình thành được các tuyến hạ tầng giao thông trọng yếu, nhất là giao thông công cộng có lẽ bộ mặt đô thị sẽ tốt hơn. Còn không, Hà Nội, TP.HCM sẽ chẳng khác nào là Manila, Jakarta – “những bãi đậu xe khổng lồ” trong một tương lai rất gần.

Phát triển đô thị ở Hà Nội và TP. HCM đang có thiên hướng giống như Jakarta và Manila khi các nhà đầu tư bất động sản dựa vào hệ thống hạ tầng được nhà nước đầu tư, hưởng lợi từ nó nhưng lại thiếu những đóng góp cho phát triển hạ tầng chung.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thuế bất động sản, thuế cải thiện và phí phát triển cùng với các cách thức trực tiếp khác là những công cụ hữu dụng. Chính những khoản thu này sẽ trở thành nguồn vốn cho đầu tư hạ tầng. Đáng tiếc là điều này chưa được phát huy ở Việt Nam.

Trên thực tế, hiện cả nước chỉ có Đà Nẵng là địa phương duy nhất khai thác được giá trị của đất, từ đó xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng khá khang trang. Còn ở hai đô thị trung tâm, kết quả là rất khiêm tốn. Các giá trị hay lợi ích tăng thêm từ đất đang rơi vào túi ai?

MỤC TIÊU GIÃN DÂN ĐÃ THẤT BẠI

Trên thực tế, các quy hoạch hiện có ở Hà Nội và TPHCM đều là giãn dân, không khuyến khích tập trung vào các đô thị lớn, khu trung tâm. Việc tập trung vào khu trung tâm, các đô thị lớn được dẫn dắt bởi thị trường và sự kém cỏi của cơ quan chức năng.

Như trường hợp TPHCM, ngay từ đầu thập niên 1990, phát triển khu Nam là theo hướng giãn dân; việc phát triển bán đảo Thủ thiêm là để “chia lửa” với trung tâm hiện hữu; phát triển bán đảo Thanh Đa cũng đã có trong quy hoạch cách đây ba thập kỷ và phát triển khu Tây Bắc cũng đã gần hai thập kỷ rồi.

Trong bản thân thành phố, tất cả các ý tưởng phát triển đô thị vệ tinh để giãn dân đều chưa thành hiện thực. Chỉ có Nam Sài Gòn là thành công nhưng đang tắc nghẽn trong việc kết nối với khu trung tâm.

Nhìn rộng ra cả vùng TPHCM, Bình Dương đã xây thành phố mới, Đồng Nai đã triển khai thành phố Nhơn Trạch. Đến giờ này, TP Mới Bình Dương thì có lác đác mấy ngôi nhà và Nhơn Trạch về cơ bản vẫn là một bãi đất trống.

Điều tương tự cũng xảy ra với Hà Nội.

Những nỗ lực giãn dân “trên giấy” hay theo quy hoạch đã được thực hiện một cách bền bỉ trong mấy chục năm qua và kết quả là cái đang có. Chính sách của Nhà nước là phân tán nhưng thị trường lại tụ vào, và Nhà nước buộc phải chạy theo thị trường một cách bị động.

Tóm lại, bài toán của hai đô thị trung tâm của Việt Nam là mật độ cao kết hợp với hệ thống hạ tầng giao thông theo định hướng giao thông công cộng chứ không phải giãn dân do thực tế đang tạo ra sự thiên lệch về cảm nhận hay nhận thức của công chúng.

Việc cần làm của nhà nước hiện nay là xây dựng bằng được hệ thống giao thông công cộng và sử dụng các công cụ để các nhà phát triển bất động sản cùng những người sở hữu bất động sản đóng góp vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng từ lợi ích mà họ có được.

Tiếp cận quy hoạch tổng thể đã lỗi thời và không thực tế. Cách làm hợp lý hơn cả là chỉ nên có các quy hoạch định hướng chiến lược gắn với việc xây bằng được các hạ tầng trọng yếu và sử dụng các công cụ về thuế khóa và hỗ trợ để định hình sự phát triển đô thị theo triết lý nắn dòng.

Huỳnh Thế Du / Illustration: Hà My

Xung đột Mỹ – Trung: Nguyên nhân là gì, và bây giờ thì sao?

Xung đột Mỹ - Trung: Nguyên nhân là gì, và bây giờ thì sao?

Ông Trump nhận rõ những bất ổn trong mối quan hệ Mỹ Trung và quyết tâm “sửa chữa”, nhưng dường như ông chỉ tập trung hạn hẹp vào cuộc chạy đua về kinh tế và công nghệ mà không hướng đến gốc rễ của vấn đề.

Tác giả bài viết là Zhiqun Zhu, giáo sư ngành khoa học chính trị và quan hệ quốc tế tại ĐH Bucknell University, bang Pennsylvania, Mỹ và là giáo sư cao cấp tại Viện Đông Á trực thuộc ĐH Quốc gia Singapore.

Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc mà Tổng thống Donald Trump khởi xướng đã leo thang trong mấy tuần gần đây, mà gần nhất là ông Trump đe dọa sẽ đánh thuế mọi hàng hóa được nhập khẩu từ Trung Quốc và tuyên bố kế hoạch khẩn cấp quốc gia để loại bỏ Huawei hoàn toàn khỏi thị trường Mỹ.

Trong bối cảnh đó, các nhà quan sát ngày càng quan tâm đến tương lai của mối quan hệ song phương có thể nói là rất quan trọng đối với thế giới. Tại sao quan hệ Mỹ Trung xấu đi? Vấn đề nằm ở đâu? Và làm thế nào để hai cường quốc có thể thoát khỏi thế tiến thoái lưỡng nan như hiện nay?

Đầu tiên, cần nói rõ rằng sẽ là sai lầm nếu đổ tội cho mình ông Trump đã gây ra tình trạng căng thẳng hiện nay. Ông Trump đã khiến căng thẳng trầm trọng hơn, nhưng ông không phải là người tạo ra nó.

Kể từ chuyến thăm lịch sử của cựu Tổng thống Richard Nixon tới Trung Quốc năm 1972, có một quan điểm mà người Mỹ luôn thống nhất: một Trung Quốc mở cửa và thịnh vượng sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ. Quan điểm này cũng chính là nền móng cho cách hành xử của Mỹ đối với Trung Quốc suốt từ đó đến nay. Mặc dù có một vài sự kiện như vụ Thiên An Môn năm 1989, vụ Mỹ đánh bom đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade năm 1999 hay vụ máy bay của hai bên va chạm ở đảo Hải Nam năm 2001, quan hệ Mỹ Trung không hề suy suyển.

Trong suốt quãng thời gian này, Mỹ thực sự kỳ vọng rằng Trung Quốc sẽ ngày càng trở nên giống Mỹ sau khi hội nhập sâu hơn vào hệ thống tự do quốc tế mà trong đó Mỹ là đầu tàu dẫn dắt. Tuy nhiên, đến cuối những năm 2010, Trung Quốc nhanh chóng nổi lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới nhưng vẫn đi theo chế độ một đảng duy nhất, với mô hình chính trị đối lập hẳn với hệ thống chính trị Mỹ, Mỹ bắt đầu cảm thấy bị đe dọa và thậm chí là thất vọng. Quan điểm mới là Trung Quốc đã trở thành một thách thức lớn, thậm chí là một mối đe dọa.

Bước vào nhiệm kỳ thứ hai, cựu Tổng thống Barack Obama đã bắt đầu chú tâm giải quyết “thách thức Trung Quốc”. Cách tiếp cận của ông là chiến lược “xoay trục châu Á” và cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton chính là “kiến trúc sư” của cách tiếp cận này. Cũng chính vì những lời chỉ trích của bà Hillary về tình hình nhân quyền ở Trung Quốc mà Chính phủ cũng như nhiều người dân Trung Quốc thích ông Trump thắng cử hơn trong cuộc bầu cử năm 2016.

Ông Trump cũng nhận rõ những bất ổn trong mối quan hệ Mỹ Trung và quyết tâm “sửa chữa”, nhưng dường như ông chỉ tập trung hạn hẹp vào cuộc chạy đua về kinh tế và công nghệ mà không hướng đến gốc rễ của vấn đề.

Thứ hai, quan hệ Mỹ – Trung ngày càng chuyển từ thế hợp tác sang đối đầu là do những xung đột sâu sắc xuất phát từ việc cả hai bên đều đang cố gắng điều chỉnh để thích nghi với những thay đổi trong hệ thống quốc tế.

Người Mỹ ngày càng trở nên cứng rắn với Trung Quốc. Bắt đầu từ bài phát biểu chống Trung Quốc đầy gay gắt của Phó Tổng thống Mike Pence tại Viện Hudson hồi tháng 10 năm ngoái, nhiều quan chức trong chính quyền Trump có thái độ “diều hâu” đối với Trung Quốc. Giám đốc FBI Christopher Wray cảnh báo về gián điệp Trung Quốc, trong khi giám đốc hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao Mỹ Kiron Skinner gọi đây là “cuộc xung đột giữa các nền văn minh”.

Trong các vòng đàm phán thương mại bế tắc gần đây, về cơ bản thì ông Trump đang cố gắng áp đặt những yêu cầu của mình lên Trung Quốc. Đó là điều tối kỵ trong văn hóa Trung Quốc, nơi mà thể diện luôn được đề cao. Bên cạnh đó, với không nhiều hiểu biết về lịch sử Trung Quốc kể từ cuộc chiến thuốc phiện, sự kiện mà cho đến tận ngày nay người dân Trung Quốc vẫn coi là một sự hạ mình không đáng có, có vẻ như ông Trump khó có thể hiểu được tại sao Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ không dễ chùn bước trước áp lực từ phía Mỹ. Ông Trump sẽ không thể gọi ông Tập là bạn trong khi “kề dao vào lưng” ông ấy.

Sớm hay muộn thì cả hai nước cũng sẽ đạt được 1 thỏa thuận thương mại phục vụ lợi ích của cả hai bên. Tuy nhiên, cuộc đua giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ tiếp diễn. Khi mà cả hai siêu cường đều đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, bức tranh “hai hổ cùng chia một núi” có lẽ là viễn cảnh quá xa xôi.

Thứ ba, thách thức khó nhằn nhất mà Mỹ và Trung Quốc phải đối mặt là quá trình chuyển giao quyền lực của vị trí số 1 thế giới trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ như hiện nay. Ở thời điểm hiện tại, có vẻ như chiến lược của Mỹ là làm chậm lại quá trình phát triển của Trung Quốc và củng cố sự thống trị của Mỹ. Ông Trump có thể nghĩ rằng mình đang chiến thắng trong cuộc chiến thương mại, nhưng khi người tiêu dùng Mỹ nhận ra rằng họ mới là người phải chịu gánh nặng thuế quan, sự ủng hộ dành cho ông Trump sẽ vơi đi ít nhiều.

Cả hai nước cần phải điều chỉnh để phù hợp với thực tế mới mẻ là Trung Quốc đã trở thành đối thủ ngang cơ với Mỹ trên rất nhiều khía cạnh. Mỹ vẫn sẽ tiếp tục thống trị hệ thống quốc tế, nhưng Trung Quốc sẽ nhanh chóng thu hẹp khoảng cách. Trung Quốc thường nghĩ dài, và sẽ có rất nhiều bóng đen phủ lên quan hệ Mỹ Trung.

Liệu Trung Quốc có thể chiếm lấy vị trí số 1 thế giới của Mỹ? Liệu Mỹ có sẵn lòng chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc? Đây đều là những câu hỏi khó trả lời, đặc biệt khi mà lòng tin mà hai bên dành cho nhau đã xuống rất thấp.

Mặc dù Trung Quốc vẫn luôn nói rằng họ không muốn quyền bá chủ, dự án Vành đai con đường đầy tham vọng vươn ra khắp thế giới và bị Mỹ coi là một thách thức trực tiếp đe dọa vị thế của Mỹ, đặc biệt là ở những vùng từ trước đến nay vẫn chịu ảnh hưởng lớn từ Mỹ.

Thế giới đang bước vào thời kỳ bất ổn khi mà cuộc chạy đua giữa hai cường quốc ngày càng trở nên khốc liệt. Và khi mâu thuẫn nổ ra, người ngoài bao giờ cũng có cái nhìn sáng suốt hơn so với người trung cuộc. Như Bộ trưởng Ngoại giao Singapore Vivian Balakrishnan phát biểu mới đây tại Washington, để tránh xung đột thì hai bên nên chấp nhận bản chất của nhau. Khi bảo vệ hiệp định TPP, ông Obama từng nói Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, nên là bên viết ra các luật lệ thương mại. Giờ là lúc Mỹ và Trung Quốc cùng nhau tạo ra các quy tắc không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà là trong tất cả các lĩnh vực, để có thể đảm bảo duy trì một hệ thống quốc tế công bằng và hợp lý, trong đó cả hai siêu cường đều có vai trò dẫn dắt.

Thu Hương / Theo Trí thức trẻ/National Interest