Những người Việt thêm màu sắc cho bức tranh ẩm thực Mỹ

Mở nhà hàng nấu món ăn quê nhà là lựa chọn khả dĩ của nhiều người nhập cư gốc Việt ở Mỹ để nuôi sống bản thân và gia đình.

nhung-nguoi-viet-them-mau-sac-cho-buc-tranh-m-thuc-my

Món nem cuốn nướng của nhà hàng Brodard ở thành phố Garden Grove, phía bắc quận Cam, bang Caliornia, Mỹ. Ảnh: KCET Food.

Cảnh thực khách xếp hàng dài diễn ra thường xuyên trước nhà hàng Việt Nam “Brodard” nằm trong khu Little Sài Gòn, ở thành phố Garden Grove, phía bắc quận Cam, bang California, Mỹ. Họ đến đây để thưởng thức ẩm thực Việt, bao gồm món nổi tiếng nhất của nhà hàng này là “nem cuốn nướng” chấm nước mắm, trang KCET Food đưa tin.

Sau nhiều năm gây dựng, thương hiệu Brodard hiện có ba nhà hàng hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, cô Chau Dang-Haller, 46 tuổi, đồng sáng lập Brodard cho biết mở nhà hàng vốn không phải là mơ ước của cô và chị gái khi đặt chân đến nước Mỹ vào năm 1986.

Cha mẹ của cô Dang-Haller, tiếp nối truyền thống làm bánh mì ba thế hệ ở Việt Nam, mở một cửa hàng nhỏ ở Mỹ để kiếm tiền nuôi các con ăn học.

“Cũng giống như các gia đình Việt khác, hồi đó, chúng tôi kinh doanh chỉ để tồn tại được trên đất Mỹ, để lao động và nuôi nấng con cái học hành tử tế”, Dang-Haller nhớ lại.

Câu chuyện của cô Dang-Haller khá phổ biến trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở Mỹ. Nhiều gia đình, khi loay hoay tìm cách kiếm sống ở nơi xứ người, đã chọn cách mở nhà hàng nấu các món ăn mang hương vị quê nhà.

“Người Việt Nam di cư, dù từng có vị trí xã hội như thế nào ở quê hương, thường gia nhập tầng lớp lao động ở Mỹ, đặc biệt ở giai đoạn mới đến,” Phuong Nguyen, tác giả nhiều cuốn sách nghiên cứu về cộng đồng người Việt ở Mỹ, nhận xét kinh doanh nhà hàng trở thành một trong những cách “kiếm kế sinh nhai” khả dĩ nhất.

“Cái hay của việc mở nhà hàng là ở chỗ việc này không đòi hỏi thời gian đào tạo lâu, gần như không cần bằng cấp hoặc sự chuyên nghiệp, ít nhất là về mặt ngắn hạn”, Phuong Nguyen nói.

Theo Erica J. Peters, giám đốc trung tâm nghiên cứu văn hóa ẩm thực ở vùng nam Californina, những người nhập cư nhớ hương vị các món ăn ở quê nhà và họ chia sẻ với nhau công thức nấu các món ăn hoặc chỉ cho nhau biết chỗ nào tìm được nguyên liệu chế biến. Rồi họ khuyến khích và liên kết với nhau để xây dựng mạng lưới trong cộng đồng giúp họ mở cửa hàng, cung cấp các nguyên liệu đặc trưng của quê hương.

Binh Nguyen mở nhà hàng phở “Pho Hoa” đầu tiên ở San Jose, giờ đã thành một chuỗi gồm 70 nhà hàng có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới.

“Sau làn sóng nhập cư vào năm 1980, chúng tôi muốn tạo ra cảm giác ấm áp và hương vị quê nhà cho những người Việt Nam di cư”, Quoc Phan, 38 tuổi, chủ chuỗi “Pho Hoa”, cho biết.

Truyền thống và hiện đại

thay-anh-chu-nha-hang-viet-cajun

John Nguyen, 38 tuổi, chủ nhà hàng Cajun Kitchen ở Houston, Texas. Ảnh: Culture Map Houston.

Tính đến năm 2014, theo số liệu Viện chính sách di cư, có 1,3 triệu người Việt Nam nhập cư sống ở Mỹ, đa số tập trung sinh sống ở các thành phố Los Angeles, San Jose và Houston, nơi khí hậu nắng ấm và gần biển thuận lợi cho nghề đánh bắt cá.

John Nguyen, 38 tuổi, sở hữu nhà hàng Cajun Kitchen ở Houston, Texas cho biết sau siêu bão Katrina năm 2005, một làn sóng người gốc Việt từ New Orleans đổ về Houston để tái định cư. Số lượng người Việt tăng nhanh kéo theo những nhà hàng bán tôm đất pha trộn giữa hương vị địa phương và ẩm thực Việt Nam mọc lên như nấm. Những nồi cua đất chế biến theo phong cách của bang Louisiana béo ngậy mùi bơ tỏi giờ đây được nêm nếm thêm vị chua của chanh và mùi thơm của lá sả.

“Cơn sốt tôm đất vị Việt, hay còn gọi là Viet-Cajun, ở Houston có lẽ bắt đầu nhen nhóm khoảng năm 2000-2001. Lúc đó chỉ có một hoặc hai nhà hàng và 4-5 năm sau đó thị trường không có nhiều cạnh tranh”, John Nguyen nói tuy nhiên mọi việc thay đổi hoàn toàn từ năm 2005 khi các nhà hàng mới mọc lên san sát.

John, vốn là một kế toán trong ngành dầu khí, đã mua lại Cajun Kitchen vào năm 2013 từ người chủ cũ cũng là một người gốc Việt. Anh John tự tin món tôm đất vị Việt là “độc đáo”, “có một không hai” và không giống bất cứ công thức chế biến món cajun nào có trong sách vở.

Trong khi đó, cô Vuong, chủ nhà hàng Lilly’s Cafe ở New Orleans, lại nhất quyết nấu các món ăn thuần vị Việt, không lai tạp hay pha trộn với ẩm thực từ các nền văn hóa khác. Nhà hàng của cô không ít lần đón tiếp các chuyên gia đánh giá ẩm thực có tiếng ở Mỹ. Hàng năm, cô Vuong và chồng đồng thời là bếp trưởng Kiet Le đều về Việt Nam để cập nhật sự thay đổi trong cách nấu phở ở quê hương.

“Ai cũng có thể nấu phở nhưng không phải ai cũng có thể nấu phở ngon bởi vì đây là món ăn đòi hỏi sự kiên trì và tận tâm. Không đơn giản là anh nấu vài khúc xương với nước, xong gọi đó là ‘phở’”, cô Vuong nhấn mạnh.

Ngoài tình yêu mãnh liệt với ẩm thực truyền thống của Việt Nam, cô Vương cho biết New Orleans là một trung tâm tập trung đông các gia đình gốc Việt, điều đó có nghĩa là có rất nhiều các bà nội trợ với kỹ năng của một đầu bếp siêu hạng nấu những bữa ăn ngon hàng ngày, tạo ra một nhóm thực khách kỹ tính và kén chọn khi đi ăn nhà hàng Việt.

“Vậy nên khi anh ra ngoài ăn ở nhà hàng, anh sẽ kỳ vọng được thưởng thức các món có hương vị giống hoặc ngon hơn (so với đồ ăn nấu ở nhà). Nếu không như thế, anh sẽ không đến nhà hàng đó nữa”, cô Vuong nói.

Tuy nhiên, những người trẻ như Dang-Haller lại cho rằng ẩm thực cũng như thời trang, người đầu bếp phải đi theo xu hướng, luôn đổi mới và tạo ra bản sắc riêng. Theo Dang-Haller, đó là lý do tại sao nhà hàng Brodard thành công như vậy suốt nhiều năm qua. Ví dụ khoảng 10 năm trước, khi cá ngừ vây vàng áp chảo bỗng trở thành “cơn sốt” ở Mỹ, đầu bếp của Brodard nhanh chóng bắt kịp nhu cầu của khách hàng và dùng loại cá này làm nhân cho món nem thay vì thịt lợn như loại truyền thống.

Dù trung thành với truyền thống hay nhanh nhạy với xu hướng, tất cả các chủ nhà hàng gốc Việt đều tin rằng chìa khóa cho thành công của họ là làm việc chăm chỉ.

“Là người nhập cư, chúng tôi hiểu rằng nếu bỏ học giữa chừng, nếu không chăm chỉ làm việc, chúng tôi sẽ không thể tồn tại được”, Dang-Haller nói. “Chúng tôi không thể trông chờ vào ai cho không cái gì cả, kiểu như bố mẹ anh giàu có và để lại cho anh thừa kế cái này, cái kia”.

Còn cô Vuong cho rằng ngoài tính chăm chỉ, cần mẫn, “gia đình chính là nền tảng cho mọi thứ”.

An Hồng / TapchiHoaky

Suy ngẫm về ‘tính quần chúng’ của cái ác

Trong tác phẩm Tội ác và hình phạt của văn hào Nga Dostoevski, chàng sinh viên Rashonikov trước khi quyết định giết chết bà già cho vay nặng lại tự đặt ra cho mình câu hỏi: Trong trường hợp này Napoléon sẽ làm gì? Tính mạng của một cá nhân tồi tệ, ăn bám xã hội có nghĩa lý gì so với cuộc sống của một vĩ nhân, người có thể mang lại biết bao lợi ích cho nhân quần [1]?

Và Rashonikov – người vẫn tự nghĩ về mình như một vĩ nhân – đã phạm tội, không phải vì anh ta cần tiền mà vì anh ta coi đó là một thử thách cần vượt qua đối với một “Napoléon” bởi lẽ “vô độc bất trượng phu”. Điều ác mà anh ta làm được biện minh bởi một thứ lý tưởng hay triết lý sống nào đó mà anh ta thực sự tin tưởng và sẵn sàng trả giá cho

Thế kỷ 20 là thế kỷ có nhiều cuộc chiến tranh kinh khủng nhất: số người chết vì tay đồng loại trong thế kỷ 20 nhiều hơn tất cả những thời gian trước đó trong lịch sử tồn tại của loài người. Tại sao lại có thể như thế? Triết gia người Đức Hannah Arendt từng suy nghĩ về bản chất của cái Ác trong suốt 30 năm, kể từ năm 1933 – năm Hitler lên nắm quyền và thi hành chính sách phát xít, bài Do Thái ở Đức trước khi có được câu trả lời trong tác phẩm Eichmann ở Jerusalem – Báo cáo về sự tầm thường của cái Ác” (Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil).

Hannah Arendt sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Hanover, Đức. Bà từng theo học triết học với hai bậc thầy triết học vĩ đại nhất của nước Đức trong thế kỷ 20 – Heidegger và Karl Jaspers. Bà cũng từng là người yêu của Heidegger – cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh – trong một thời gian dài. Năm 1941, trước sự khủng bố người Do Thái của phát xít Đức, Arendt trốn thoát sang Mỹ. Bà nhập quốc tịch Mỹ năm 1950, tham gia giảng bài ở nhiều trường đại học danh tiếng và là nữ giáo sư chính (full professor) đầu tiên ở Princeton vào năm 1959. Năm 1961, nhận lời của tạp chí New Yorker, bà sang Israel theo dõi phiên toà ở Jerusalem xử tên trung tá SS Adolf Eichmann – một trong những kẻ phải chịu trách nhiệm chính cho thảm họa Holocaust của người Do Thái ở châu Âu. Eichmann tham gia lập kế hoạch và người trực tiếp chỉ đạo việc bắt nhốt người Do Thái trong các trại tập trung cũng như đưa họ vào các lò thiêu người. Các bài viết của bà trên tạp chí New Yorker về phiên toà này sau đó được tập hợp và bổ sung thành tác phẩm Eichmann ở Jerusalem – Báo cáo về sự tầm thường của cái Ác, xuất bản năm 1963. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành kinh điển và là một kiệt tác chính trị-đạo đức học trong thế kỷ 20.

Chúng ta vẫn quen nghĩ rằng cái ác là một cái gì đó thật ghê gớm và những kẻ phạm tội ác là những kẻ khác xa với người bình thường. Nhưng trong tác phẩm của mình, Hannah Arendt lý giải hành động của Eichmann không phải do những thú tính, cũng không phải do sự cuồng tín vào lý tưởng Quốc xã hay chủ nghĩa bài Do Thái. Eichmann chưa bao giờ tỏ ra ghét người Do Thái, thậm chí còn có một số bạn bè là người Do Thái. Y tham gia SS hoàn toàn là một sự tình cờ và để có việc làm chứ không phải do lý tưởng Quốc xã. Về khía cạnh tâm lý, trong phiên toà, chính phủ Israel đã cử sáu chuyên gia tâm lý tìm hiểu về Eichmann và họ đều không tìm thấy bất cứ một trục trặc tâm lý nào, dù là nhỏ nhất, ở kẻ được mệnh danh là “tên đồ tể của châu Âu” này. Dựa trên những chứng cứ thu thập về cuộc đời của Eichmann, Hannah Arend nhận thấy động cơ duy nhất của tên sát nhân này chỉ là muốn thăng tiến trong công việc. Y không hề cảm thấy cắn rứt lương tâm khi làm điều ác vì y cho rằng y chỉ làm đúng và làm tốt những gì mà cấp trên giao phó và luật pháp cho phép. Theo Eichmann, y không phải chịu trách nhiệm gì vì không những y chỉ tuân thủ mệnh lệnh cấp trên mà y còn làm đúng theo tinh thần luật pháp nước Đức lúc đó. Nói tóm lại, kẻ giết sáu triệu người Do Thái tỏ ra là một công dân Đức bình thường, một người nếu trong hoàn cảnh khác rất có thể sẽ là một nhà kinh doanh năng nổ hay một công chức tuân thủ pháp luật, một người chồng, người cha tốt, người hàng xóm thân thiện.

Từ trường hợp Eichmann, Hannah Arendt viết về “sự tầm thường của cái Ác”. Bà bác bỏ một luận điểm phổ biến thời đó (và có lẽ cả bây giờ) rằng những tên tội phạm Quốc xã là những kẻ bất bình thường tâm lý và khác biệt với những người bình thường. Theo bà, tội ác của Eichmann, cũng như của rất nhiều tên tội phạm Quốc xã khác, bắt nguồn từ sự mù quáng tuân thủ mệnh lệnh và những điều luật vô đạo đức của một chính thể vô đạo đức. Tội ác đó càng trở nên trầm trọng hơn bởi sự khuyến khích từ dư luận phổ biến trong xã hội đó và sự đồng phạm của những người xung quanh y. Eichmann từng thú nhận, y cảm thấy nhẹ cả người như Pontius Pilate [2] sau khi rửa tay, khi chứng kiến việc những thành viên có vị thế trong xã hội đều nhiệt tình hưởng ứng Giải pháp Cuối cùng cho vấn đề Do Thái của Hitler. Cái gốc của tội lỗi đó, chính là ở việc nhân danh một thể chế quyền lực trên cao (luật pháp, cấp trên), Eichmann đã đánh mất khả năng lựa chọn và chịu trách nhiệm đạo đức cá nhân với các hành động của mình, đánh mất sự tưởng tượng, đặt mình vào địa vị những nạn nhân và tự đối thoại với bản thân. Với Eichmann, việc đưa người Do Thái vào các lò thiêu người cũng không khác gì các công việc bàn giấy quan liêu khác mà y phải thực hiện. Trong sự ý thức về hành động của cá nhân và trách nhiệm đạo đức, Eichmann rất khác với nhân vật Rashonikov của Dostoevsky. Dù động cơ lệch lạc, nhưng Rashonikov vẫn có được tự do ý chí. Eichmann thì không, y để kẻ khác chọn lựa cho y và mù quáng đi theo sự lựa chọn có sẵn đó.

Cuốn sách của Hannah Arendt khi ra đời gây một cú sốc lớn trong dư luận thời đó. Một số học giả lên tiếng phản đối Arendt, cho là bà bào chữa cho những tên tội phạm Quốc xã (làm sao cái bọn ghê tởm đó lại có thể giống người bình thường được!), thậm chí còn kết tội bà kỳ thị người Do Thái ở Đông Âu – những nạn nhân chính của Eichmann. Nhưng ngày nay, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý với quan điểm của Hannah Arendt. Một khi đánh mất ý thức trách nhiệm cá nhân, những người bình thường nhất cũng có thể trở thành đồng loã với cái ác. Đã có nhiều bằng chứng trong lịch sử về điều này.

Dưới thời Đức phát xít đã không chỉ có một Eichmann mà hẳn còn rất nhiều Eichmann khác mà chúng ta không biết tên. Ở một phạm vi rộng hơn, những tội ác thời Quốc xã còn có sự tán đồng hay bàng quan của rất nhiều người dân bình thường trong xã hội. Trong cuốn Những đao phủ tự nguyện của Hitler (Hitler’s Willing Executioners) xuất bản năm 1996, nhà chính trị học Daniel Jonah Goldhagen cho rằng người dân Đức bình thường không những biết mà còn ủng hộ việc thanh toán người Do Thái. Luận điểm này nhận được những phản ứng khác nhau từ dư luận nhưng không phải không có lý khi chúng ta biết rằng trong thời Hitler nắm quyền và khủng bố người Do Thái, hầu như không có một hoạt động kháng cự hay bảo vệ người Do Thái một cách có tổ chức nào ở nước Đức. Trong một cuốn sách khác có tên là Những người bình thường: Tiểu đoàn cảnh sát trù bị 101 và Giải pháp cuối cùng ở Ba Lan, nhà sử học Christopher Browning nghiên cứu một đơn vị cảnh sát đóng ở các trại tập trung Ba Lan vào năm 1941. Những người lính trong đơn vị này hoàn toàn không phải là các tín đồ Quốc xã mà hầu hết đều là những người dân bình thường ở độ tuổi trung niên bị bắt lính nhưng không đủ sức khỏe nên được chuyển sang công việc coi trại tập trung. Thế nhưng chính những người bình thường này, chứ không phải lực lượng cảnh sát SS nổi tiếng tàn bạo, đã bắt, nhốt và thủ tiêu người Do Thái. Điều đáng nói là khi viên sĩ quan chỉ huy đơn vị này cho phép những người lính có thể chọn không làm nhiệm vụ nếu họ cảm thấy việc giết chóc là quá nặng nề thì hầu hết vẫn chọn lựa tiếp tục công việc này. Tác giả Christopher Browning cho rằng những người lính trong đơn vị 101 phạm tội ác không phải vì hằn thù hay ý thức hệ mà chỉ đơn giản là thi hành mệnh lệnh cấp trên và để không bị gạt ra ngoài rìa.

Khi quân Đồng minh chiếm được nước Đức năm 1945, họ ngạc nhiên trước việc có rất nhiều người Đức tự nhận mình là không ủng hộ chế độ, nhưng đều không làm gì cả và bỏ mặc cho những tội ác diễn ra. Những người Đức đó được người Mỹ gọi một cách mỉa mai là “Những người Đức tốt” (Good Germans). Một bài báo trên tờ New York Times tháng 5/1945 viết về họ như sau: “Trong quân đội của chúng ta, binh lính bảo nhau là chẳng có một tên Quốc xã thực thụ nào ở Đức cả. Chỉ có “những người Đức tốt” thôi. Tất cả những tội ác chống lại loài người mà nước Đức phạm phải đều do một ai khác làm”.

Đó là trong thời Quốc xã, dưới một chế độ phân biệt chủng tộc, khủng bố, chà đạp quyền con người và đòi hỏi người dân phải tuân thủ những luật lệ khắc nghiệt của nó. Trong các điều kiện ít khốc liệt hơn, liệu những luận điểm của Hannah Arendt về “sự tầm thường của cái Ác” có còn thuyết phục? Tiếc thay, một số thí nghiệm của các nhà khoa học dường như lại khẳng định điều này. Tháng Bảy năm 1961, ba tháng sau phiên tòa xử Eichmann ở Jerusalem và loạt bài chấn động dư luận của Hannah Arendt trên tờ New Yorker, nhà tâm lý học Stanley Milgram ở trường Đại học Yale bắt đầu thực hiện một loạt thí nghiệm được gọi tên là “Thí nghiệm Milgram” nhằm đo lường mức độ cá nhân sẵn sàng tuân thủ những mệnh lệnh trái với lương tâm mình.

Thí nghiệm Milgram gồm một người đóng vai giáo viên và một người đóng vai học sinh. Người ta nói với người tình nguyện tham gia thí nghiệm và một người khác (cũng đóng vai tình nguyện tham gia thí nghiệm nhưng thật ra là người của Milgram) là họ sẽ tham gia thí nghiểm kiểm tra tác động của hình phạt tới việc tiếp thu kiến thức. Người tình nguyện thực sự sẽ đóng vai giáo viên. Hai người sẽ được cách ly để không thể nhìn thấy nhau. “Giáo viên” được trao một dụng cụ có thể tạo ra sốc điện cho nạn nhân. “Giáo viên” sẽ đưa ra lần lượt một bảng câu hỏi (đã được chuẩn bị) cho “học sinh”. Nếu “học sinh” trả lời sai, “giáo viên” sẽ tăng điện áp như là một hình phạt với học sinh. Trong suốt cuộc thí nghiệm, các nhà khoa học làm cho “giáo viên” tin rằng “học sinh” thực sự đang bị trừng phạt bằng điện giật nhưng thực ra họ sẽ gắn một băng ghi âm ghi các lời rên la của “học sinh” khi điện áp đạt tới mức nào đó. Trong băng ghi âm, tới một mức điện áp nào đó, “học sinh” sẽ kêu lên rằng mình có bệnh tim và xin được ngừng thí nghiệm. Lúc này các “giáo viên” đều hỏi người tổ chức thí nghiệm có nên dừng không. Nhưng khi được trấn an là họ sẽ không phải chịu trách nhiệm gì nếu có bất trắc xảy ra thì hầu hết trong số họ đều lựa chọn tiếp tục tăng điện áp. Trong quá trình làm thí nghiệm, khi các “giáo viên” muốn dừng thí nghiệm, người phụ trách sẽ yêu cầu họ tiếp tục. Chỉ sau 5 lần được yêu cầu liên tục thì người phụ trách mới cho dừng (tất nhiên, các “giáo viên” không được biết điều này). Bằng không, thí nghiệm sẽ được tiếp tục tới tận cùng, khi mức điện áp đạt mức tối đa 450 Volt.

Kết quả thí nghiệm của Milgram là có tới 65% số người tình nguyện tham dự tiếp tục tăng điện áp cho tới mức tối đa 450 Volt, dù đa số đều cảm thấy khó chịu và một số sẵn sàng trả lại tiền để ngừng thí nghiệm. Một loạt các thí nghiệm sau đó của Milgram và của các tác giả khác cũng cho kết quả tương tự – khoảng 2/3 số người tình nguyện “tuân thủ” mệnh lệnh tăng điện áp tới mức tối đa, bất chấp các bứt rứt hay e ngại có thể. Thí nghiệm Milgram cho thấy dưới áp lực của mệnh lệnh và khi không phải chịu trách nhiệm cá nhân, rất nhiều người bình thường sẽ thực hiện những việc làm có thể đưa lại hậu quả tai hại tới sức khỏe và tính mạng người khác.

Một thí nghiệm tâm lý nổi tiếng khác là thí nghiệm “Nhà tù Stanford” (Stanford prison experiment) của Philip Zimbardo và các đồng sự ở trường Đại học Standford. Thí nghiệm này chia các sinh viên tham gia thành 2 nhóm một cách ngẫu nhiên, trong đó một nhóm đóng vai tù nhân và nhóm kia đóng vai cai ngục. Các điều kiện của thí nghiệm được tạo ra mô phỏng với nhà tù thực. Các cai ngục mặc đồng phục, có gậy gỗ, đeo kính đen và làm việc theo ca. Trong khi đó, tù nhân mặc đồng phục tù bằng vải sơ không có đồ lót, được gọi bằng số thay vì tên (nhằm làm mất tính cá nhân của đối tượng). Tù nhân mặc áo có gắn số hiệu và phải đeo một cái xích nhỏ quanh cổ chân để khiến họ luôn nhớ rằng họ đang ở trong tù. Ngoại trừ việc không được xâm phạm về thân thể với tù nhân, các cai ngục được phép làm bất cứ những gì cần thiết để duy trì trật tự của nhà tù.

Kết quả thí nghiệm Stanford cho thấy diễn biến tâm lý phức tạp của hai nhóm và sự xuống cấp về đạo đức. Trong quá trình thí nghiệm, xảy ra đụng độ giữa tù nhân và cai ngục, cai ngục tấn công tù nhân bằng bình chữa cháy, trừng phạt những người cứng đầu bằng cách giam cách ly… Khoảng 1/3 số người đóng vai “cai ngục” có dấu hiệu trở nên khoái trá với việc làm hại người khác (sadistic) trong khi rất nhiều “tù nhân” bị khủng hoảng tinh thần. Tình trạng khủng hoảng và biến đổi về nhân cách này khiến thí nghiệm phải dừng lại sớm hơn dự định, chỉ sau 6 ngày so với thời gian dự tính là 2 tuần.

Hai thí nghiệm của Milgram và Zimbardo gợi ra những điểm đáng sợ về khả năng một người bình thường có thể trở nên tàn nhẫn và phạm điều ác trong nhiều trường hợp: khi họ không phải chịu trách nhiệm cá nhân, khi cái tôi của họ và của nạn nhân bị mờ đi, khi họ không phải trực tiếp chứng kiến sự chịu đựng của nạn nhân, và khi một thứ quyền lực nào đó ở trên họ ra lệnh hay dung túng cho họ làm điều đó… Đã có một số bộ phim được xây dựng trên các thí nghiệm này, ví dụ như phim Thí nghiệm (Das Experiment) của Đức năm 2001 mô phỏng thí nghiêm Nhà tù Stanford.

Nhưng đáng sợ hơn cả là những gì xảy ra trên thực tế. Khi vụ tai tiếng ở nhà tù Abu Ghraib xảy ra tháng Ba năm 2004, nhiều người đã bị sốc khi chứng kiến sự tương đồng kỳ lạ giữa thí nghiệm Stanford và những gì thực tế xảy ra ở nhà tù Abu Ghraib ở Iraq. Dù một số người cho rằng sự kiện này chỉ là hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng các nghiên cứu kỹ lưỡng về tâm lý các cai tù Abu Ghraib và về điều kiện ở nhà tù này cho thấy hoàn toàn không phải vậy. Những cai ngục như Charles Graner, như Lynndie England trước đó đều không có vấn đề gì về tâm lý và đều được gia đình, bạn bè, hàng xóm đánh giá như những công dân tốt, thân thiện. Để bào chữa cho mình, cả Lynndie England lẫn Charles Graner đều cho rằng họ chỉ là những người lính và họ chỉ biết tuân thủ lệnh trên. Không những thế, cả gia đình, bạn bè họ cũng bào chữa cho họ. Mẹ của England, nữ cai ngục tai tiếng với bức ảnh thòng dây vào cổ một tù nhân để kéo như với súc vật, phát biểu “Bọn chúng chỉ làm những trò trẻ con ngốc nghếch thôi. Chỉ là mấy trò nghịch ngợm”. Sự kiện nhà tù Abu Ghraib là hiện thực hóa những gì từng xảy ra trong thí nghiệm Stanford và cho thấy sự tha hóa tiềm ẩn của con người [3] .

Trái với Mạnh Tử khi cho rằng con người mang thiện tính từ lúc mới lọt lòng mẹ, Tuân Tử nói: con người sinh ra, tính vốn ác. Từ xưa tới nay, cả các nhà triết học lẫn các nhà khoa học vẫn loay hoay tìm hiểu đâu là bản chất con người nhưng đều không có một câu trả lời nào thoả đáng. Hannah Arendt không tìm cách trả lời đâu là bản chất con người. Cái mà bà muốn tìm hiểu là bản chất của cái ác? Theo bà, cái ác thật tầm thường – vì lẽ nó ở trong mỗi con người bình thường và bất cứ khi nào nó cũng có thể quẫy đầu đứng dậy.

Như thế có phải Arendt bi quan, mất lòng tin vào con người không? Liệu có phải hầu hết mọi người bình thường đều có thể trở thành một Eichmann, đều có thể phạm những tội ác kinh tởm nếu có động cơ phù hợp? Không phải vậy. Arendt vẫn tin vào khả năng lựa chọn đạo đức của con người trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi người lựa chọn hoàn toàn bất lực về chính trị. Bà viết: “Dưới những điều kiện kinh khủng, hầu hết mọi người sẽ chọn tuân thủ nhưng vẫn có một số sẽ bất tuân thủ”. Bà lấy ví dụ trường hợp Đan Mạch, khi người dân nước này từ chối không giao người Do Thái cho Hitler dù rằng Đan Mạch lúc đó đang bị quân Đức chiếm đóng. Khi Hitler định trực tiếp bắt người Do Thái ở Đan Mạch, y nhận ra rằng ngay cả các viên chức Quốc xã ở Đan Mạch cũng đã nhiễm tinh thần nhân đạo ở nơi này và không thể xuống tay với mức độ nhẫn tâm như những kẻ đồng sự ở nhiều nơi khác tại châu Âu.

Người ta vẫn luôn có thể chọn cách nói không với cái Ác, thay vì việc chấp nhận biến mình thành một công cụ của nó, hoặc trở thành một kẻ ngoài cuộc “mũ ni che tai” mặc cho nó hoành hành. Và những câu chuyện về những anh hùng như doanh nhân Oskar Shindler (nguyên mẫu phim Bản danh sách Schildler), như chủ khách sạn Paul Rusesabagina (nguyên mẫu phim Khách sạn Rwanda) sẽ luôn là những khích lệ đối với chúng ta. Nếu những kẻ như Eichmann trước khi thành hung thần cũng là những người bình thường thì những Shindler, Rusesabagina cũng không khác gì với đa số những người quanh họ trước khi có những hành động anh hùng cứu sống hàng trăm, hàng ngàn người. Con người luôn có thể lựa chọn giữa Thiện và Ác dù hoàn cảnh thế nào. Và Hannah Arendt vẫn luôn tin như vậy.

———————————

Chú thích:

[1]Cũng Dostoevsky có một câu trả lời khác cho câu hỏi này qua lời nhân vật Alyosha trong Anh em nhà Kazamazov. Khi được hỏi Alyosha có sẵn sàng đổi lấy việc một đứa trẻ bị tra tấn tới chết lấy hạnh phúc của nhân loại hay không, câu trả lời của Alyosha là không.
[2]Pontius Pilate, tổng trấn La Mã ở Jerusalem, rửa tay phủi bỏ trách nhiệm sau khi giao Jesus cho người Do Thái đóng đinh.
[3]Tác giả của thí nghiệm Stanford là Zimbardo đã viết một cuốn sách có tên Hiệu ứng Lucifer: Để hiểu tại sao người tốt lại trở thành kẻ ác (The Lucifer Effect: Understanding How Good People Turn Evil) so sánh sự kiện nhà tù Abu Ghraib với thí nghiệm Stanford.

Theo TALAWAS

Tội lỗi của Bắc Hà có sự tiếp tay của Hữu Ước!

 

FB Trần Đình Triển

Năm 2008, cơ quan Công an truy quét ổ chứa mại dâm tại một khách sạn lớn ở Hà Nội. Khi phóng viên Báo Công an nhân dân thâm nhập viết phóng sự về vụ án này; “Cô gái ấy” đã trao cho phóng viên bức thư gửi ông Hữu Ước nhờ cầu cứu; chính ông Bắc Hà đã đẩy cô ấy đến bước đường cùng phải làm nghề bán dâm để sống.

Hữu Ước nhận lá đơn này và cuộc gặp với Bắc Hà tại “Biệt phủ” của Hữu Ước ở Sóc Sơn thì bức thư này đã “hoá khói”.

Nếu lá đơn này được Báo Công an làm văn bản gửi đến Chính phủ, UB kiểm tra trung ương, Thống đốc Ngân hàng nhà nước VN và Đảng uỷ Khối kinh tế trung ương,… thì chắc chắn Bắc Hà đã bị khai trừ Đảng, cách chức từ năm 2008. Bắc Hà không có cơ hội làm mưa làm gió, oanh tạc trong 10 năm trời “dưới một người, trên 90 triệu người”.

Trước đây tôi đưa lá đơn này lên fb phải che kín tên tuổi; vì vậy mà Hữu Ước tưởng có cơ hội tố cáo tôi vu khống. Nay Bắc Hà đã bị bắt, tính mạng cô ấy không còn bị đe doạ; tôi đăng lên đây để bạn đọc thấy sự nhơ bẩn của một bè nhóm. Tôi mất gần 1 năm, gian nan vất vả đi tìm cô gái ấy, quê cô ở vùng sâu vùng xa thuộc một tỉnh miền núi phía bắc.

Ngoài pháp luật phải xử lý nghiêm minh; qua vụ việc này tôi thấy hình như có quy luật nhân quả; Biệt phủ của Hữu Ước cũng đã 4 người nối nhau ra đi rồi đó sao?

Cá nhân tôi và tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam cảm phục và kính yêu TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng, Bộ Chính trị, BBT và các cơ quan có thẩm quyền đã và đang tiệt trừ bè lũ tham nhũng hại nước hại dân; lấy lại niềm tin yêu của nhân dân với Đảng và nhà nước.

______

Một số hình ảnh từ FB Trần Đình Triển:

Bình Luận từ Facebook

Thời Thủ tướng Dũng ‘đi ngược Đổi Mới do tác động của lợi ích nhóm’?

Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí nhấn mạnh nhu cầu cải cách thể chế.
Image captionTiến sỹ Phạm Đỗ Chí nhấn mạnh nhu cầu cải cách thể chế để Việt Nam vượt lên các vấn đề hiện nay

Một chuyên gia kinh tế Việt kiều sống ở Mỹ chỉ trích con đường kinh tế Việt Nam giai đoạn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nắm quyền.

Trong cuộc phỏng vấn với BBC News tiếng Việt tại London, Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí, cựu quan chức cao cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cũng nói về con đường “Đổi Mới 2”.

Đầu tiên, ông kể lại giai đoạn làm việc tại Việt Nam từ 2006 đến 2014, và đã chứng kiến các thay đổi ở Việt Nam khi đó.

Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí: Khi về Việt Nam, ngoài vai trò chuyên gia kinh tế trưởng cho quỹ đầu tư VinaCapital trong một vài năm, và sau đó tôi cũng làm việc cho chương trình USAID với vai trò cố vấn kinh tế cho chương trình này. Và có thời gian tôi đã được mời làm vào ban tham vấn riêng về kinh tế cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Đây là khoảng thời gian lâu dài và hào hứng nhất trong giai đoạn tôi về làm việc ở Viêt Nam. Mình có thể hăng say, muốn đóng góp và mình có cả khả năng để đóng góp. Thế nhưng những điều mình đề nghị đóng góp có được nghe hay không thì lại là chuyện khác. Đây cũng chính là thời gian tôi cảm nhận được sự chua chát bởi những đóng góp cải cách của mình đã bị bỏ ngoài tai.

BBCNhưng giai đoạn ông về làm việc tại Việt Nam là giai đoạn hậu thời kỳ Đổi Mới?

Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí: Những thay đổi thời kỳ ông Dũng, do ảnh hưởng mạnh của các nhóm lợi ích, lại là các chính sách đi ngược thời Đổi Mới trước đó. Thời kỳ có chính sách Đổi Mới thực sự là dưới thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tiếp theo bởi Thủ tướng Phan Văn Khải. Phải nói rằng trong 10 năm trước khi ông Dũng lên làm thủ tướng thì chương trình Đổi Mới đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp.

Từ năm 2001 đến 2007 là chính sách kinh tế của Việt Nam là hoàn toàn thất bại và gây ra một loạt các vấn đề lớn cho cả nền kinh tế lẫn tài chính.

Tôi phải thành thật mà nói là nếu người ta có nghe là kinh tế và tài chính Việt Nam bây giờ sắp sụp đổ thì cũng không ngoa vì đó là kết quả của 7 năm thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng.

Tôi phải thành thật nói vậy. Trong những năm gần đây thì họ cố gắng gỡ rối những vấn đề của thời ông Dũng như nợ xấu ngân hàng, nợ công quốc gia và đồng thời tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng. Nhưng có chuyện mà không ai có thể phủ nhận khiến kinh tế Việt Nam không thể có bước nhảy vọt là vấn đề tham nhũng.

BBCÔng có thể nói cụ thể hơn về cái gọi là tham nhũng?

Tiến sỹ Phạm Đỗ ChíChuyện này tôi nghĩ là đã được báo chí giai đoạn đó hay mới đây trình bày rất đầy đủ nhưng nói một cách tóm tắt với những ví dụ cụ thể nhất mà không ai có thể phủ nhận là những vấn đề như Vinashin, Vinalines gây ra nhưng thâm thủng lớn. Mới đây với những vụ án liên quan tới các ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh ….

Theo tôi thì có lẽ cái vụ lớn nhất chưa được khui ra đủ chính là vấn đề tài nguyên dầu hỏa của Việt Nam đi về đâu. Những vấn đề như Thủ Thiêm thì mình chưa được nghe đầy đủ để biết được cái tầm quan trọng về tài chính nhưng mà có cả các vụ như Mobifone mua AVG chưa kể các vụ án liên quan tới các ngân hàng khác nữa.

Tổng bí thư Trọng đang nhận được sự ủng hộ mạnh trong nỗ lực chống tham nhũngBản quyền hình ảnhAFP
Image captionTổng bí thư Trọng đang nhận được sự ủng hộ mạnh trong nỗ lực chống tham nhũng

BBCTheo ông nói thì những nhà lãnh đạo hiện nay đang khắc phục những gì được để lại từ giai đoạn đó? Vậy đà cải cách nếu có là gì?

Tiến sỹ Phạm Đỗ Chí: Với bao nhiêu vụ được khui ra mới đây thì đó là vấn đề lớn nhất của phát triển của Việt Nam. Theo tôi nếu không có những cải cách thể chế, hay nói theo kiểu bây giờ là lò đốt tham nhũng, một cách có thật và cụ thể thì khó mà có thể tiếp tục được việc cải cách kinh tế.

Việt Nam đã có những thành công sơ khởi cho giai đoạn khoảng 20 năm cải cách kinh tế nhưng nếu không có cải cách chính trị thì không thể tiếp tục cải cách kinh tế được. Do đó nan đề là sự lựa chọn của các nhà lãnh đạo.

Phải cải cách được thể chế một cách dân chủ thì mới cải cách được kinh tế cho giai đoạn tới. Tức là Đổi Mới lần hai.

Bây giờ để giải quyết tất cả những chuyện này thì cũng không thể dùng một vài biện pháp mà phải là cuộc cải cách thể chế toàn diện và đó là một quyết định chính trị mà đó liệu các nhà lãnh đạo của Việt Nam có dám can đảm lĩnh hội và thực hiện hay không.

Nếu chúng ta không tỉnh ngủ thì không thể giải quyết được những chuyện hiện giờ từ thể chế chính trị lẫn cải cách kinh tế.

bbc

Đối thoại Trump-Tập: TQ chủ trương “1 điều nhịn, 9 điều lành”, ông Trump mừng thắng lợi lớn

Đối thoại Trump-Tập: TQ chủ trương "1 điều nhịn, 9 điều lành", ông Trump mừng thắng lợi lớn
Bữa tối được cả thế giới mong chờ của hai nhà lãnh đạo Donald Trump và Tập Cận Bình. Nguồn: CGTN.

Đằng sau thỏa thuận “đình chiến” khiến đôi bên đều hài lòng vẫn là lời đe dọa cứng rắn, rằng Trung Quốc sẽ lĩnh đòn đau nếu họ không thỏa mãn được các điều kiện của Mỹ.

Ông Trump ca ngợi “thỏa thuận tuyệt vời” với Trung Quốc

Hôm 1/12 vừa qua, lãnh đạo hai nước Mỹ – Trung Quốc đã đạt được đồng thuận về thỏa thuận “đình chiến” tạm thời trong cuộc chiến thương mại kéo dài trong nhiều tháng qua, sau 2,5 giờ thảo luận trong bữa tối làm việc bên lề hội nghị thượng đỉnh G20 Argentina.

Cụ thể, ông Trump đã đồng ý hoãn quyết định tăng mức thuế lên 25% đối với 200 tỉ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc trong vòng 90 ngày (kể từ ngày 1/1/2019) để hai bên tiếp tục thương lượng. Số hàng hóa này vốn đang phải chịu mức thuế 10%.

“Cuộc gặp này thật sự rất tuyệt vời và hiệu quả, nó mang đến những tiềm năng bất tận cho cả hai nước Mỹ và Trung Quốc”, ông Trump phát biểu trước khi lên đường trở về Mỹ. “Tôi rất vinh dự khi được gặp gỡ và trao đổi với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình”, ông Trump nói.

Trả lời câu hỏi của báo giới trước khi bước lên chiếc máy bay Không Lực Một, ông Trump cho biết: “Đó là một thỏa thuận rất tuyệt vời. Tôi đã tạm hoãn lại việc áp thuế bổ sung. Trung Quốc sẽ mở cửa, và có thể được loại bỏ khoản thuế [nhập khẩu] hiện tại. Trung Quốc sẽ mua vào thật nhiều hàng hóa của chúng ta”.

Được biết, ông Trump đạt được thỏa thuận với Bắc Kinh ngay sau khi giành được “thắng lợi” đáng kể tại G20, khi các nước tham gia nhất trí cải tổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ông Trump thường xuyên có những ý kiến phê bình và chỉ trích cách hoạt động của tổ chức này.

Đối thoại Trump-Tập: TQ chủ trương 1 điều nhịn, 9 điều lành, ông Trump mừng thắng lợi lớn - Ảnh 2.

Ngành trồng đậu tương của Mỹ đã lâm vào cảnh “khốn đốn” vì cuộc chiến thương mại. Ảnh: AP.

Trung Quốc chủ trương “một điều nhịn, chín điều lành”?Thông cáo chính thức của Nhà Trắng đã xác nhận các điều khoản nhượng bộ của Trung Quốc:

“Tuy chưa kí kết thỏa thuận, nhưng Trung Quốc sẽ đồng ý mua một số lượng đáng kể các sản phẩm nông nghiệp, năng lượng, và các mặt hàng khác của Mỹ nhằm cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước.

Phía Trung Quốc đã đồng ý bắt đầu nhập các sản phẩm nông nghiệp từ những người nông dân Mỹ ngay lập tức”.

Lãnh đạo hai nước cũng nhất trí sẽ tổ chức các cuộc đàm phán về vấn đề thay đổi cơ cấu trong các lĩnh vực chuyển giao công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ, hàng rào phi thuế quan, an ninh mạng, dịch vụ và nông nghiệp, Nhà Trắng cho biết.

Bên cạnh đó, Nhà Trắng cũng tiết lộ rằng phía Bắc Kinh đã đồng ý thông qua một số thỏa thuận mà nước này từng từ chối trước đây, ví dụ như việc chấp thuận để công ty Qualcomm của Mỹ mua lại hãng bán dẫn Hà Lan NXP Semiconductors. Đây là thương vụ tưởng chừng đã “đổ bể” chỉ vì cái lắc đầu cứng rắn của Bắc Kinh.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng đồng ý tham gia cuộc chiến thuốc phiện với Mỹ, khi ông Tập đồng ý đưa fentanyl vào diện bị kiểm soát. Điều này có nghĩa là những người buôn bán fentanyl cho Mỹ sẽ phải chịu hình phạt tối đa, chiểu theo luật pháp của Trung Quốc.

Phía Nhà Trắng đã ca ngợi quyết định trên của ông Tập là “hành động nhân đạo tuyệt vời”.

Đối thoại Trump-Tập: TQ chủ trương 1 điều nhịn, 9 điều lành, ông Trump mừng thắng lợi lớn - Ảnh 4.

Ông Tập còn chịu nhượng bộ Mỹ cả trong “cuộc chiến thuốc phiện” Fentanyl. Ảnh: Reuters.

Tối hậu thư của Mỹ

Theo yêu cầu của phía Mỹ, sự “chuyển giao và chuyển đổi” này buộc phải hoàn thành trong vòng 90 ngày tới.

Như vậy, phía sau thỏa thuận “đình chiến” tạm thời mà hai ông Trump-Tập vừa đạt được vẫn là tối hậu thư và lời cảnh cáo cứng rắn của Mỹ: Nếu phía Trung Quốc không thể thỏa mãn các điều kiện này, thì mức thuế 25% sẽ tiếp tục được áp dụng như lời đe dọa trước đó của ông Trump.

Hành trình trước mắt không hề dễ dàng, nhưng cũng như ông Trump, phía Bắc Kinh cũng tỏ ra lạc quan hơn về triển vọng giải quyết những bất đồng giữa hai nước trong cuộc thương chiến dai dẳng.

Ông Vương Nghị, Ngoại trưởng kiêm Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Vương Nghị, cho biết cuộc đàm phán giữa hai bên đã diễn ra trong không khí thân thiện và thẳng thắn. Hai bên đã cam kết sẽ tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán song phương vào thời điểm thích hợp.

“Cuộc thảo luận về các vấn đề kinh tế và thương mại [giữa hai nước] diễn ra trong không khí lạc quan và mang tính xây dựng. Người đứng đầu hai nước đã đồng thuận tạm ngừng tăng mức thuế nhập khẩu nhằm vào đối phương”, ông Vương nói.

“Trung Quốc sẵn sàng tăng cường nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và người dân trong nước, trong đó gồm các sản phẩm từ Mỹ, để từng bước cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước.

Hai bên đã nhất trí cùng mở cửa thị trường với đối phương, và những mối bận tâm của Mỹ sẽ được tháo gỡ dần dần khi Trung Quốc tiến hành vòng cải cách mới”, ông Vương phát biểu.

theo Thời đại