Một con tàu Nhật Bản trên đường ra khơi. Vị thuyền trưởng đi tắm nên tháo nhẫn để trên bàn. Khi quay lại, ông phát hiện chiếc nhẫn đã biến mất.
Thuyền trưởng ngay lập tức triệu tập 5 thuyền viên khả nghi và hỏi mỗi người đã ở đâu và đang làm gì trong 15 phút trước đó.
Đầu bếp: “Tôi đang trong phòng lạnh lấy thịt để nấu ăn.”
Kỹ sư: “Tôi đang kiểm tra động cơ phát điện.”
Thủy thủ: “Tôi đang trên cột buồm sửa lại lá cờ bị lộn ngược.”
Sĩ quan radio: “Tôi đang nhắn tin trao đổi với một công ty về chuyến hàng sắp đến.”
Sĩ quan hàng hải: “Tôi đang ngủ trong cabin của mình.”
Thuyền trưởng ngay lập tức biết tên trộm là ai. Tại sao vậy?
Các bạn thử giải dáp xem sao.Ngày mai sẽ có câu trả lời.Hehehe !
Đáp án:
Người lấy trộm chiếc nhẫn chính là thủy thủ. Vì đây là chiếc thuyền Nhật Bản nên sẽ treo cờ Nhật Bản; và cờ Nhật Bản thì dù xuôi hay ngược cũng giống hệt nhau.
Sinh con là thời kỳ khó khăn nhất trong đời người phụ nữ. Người mẹ cần được nghỉ ngơi, chăm sóc và hỗ trợ theo cách mà cô ấy chưa bao giờ cần trước đây. Em bé sơ sinh cũng cần được chăm sóc và đòi hỏi phải có thức ăn cũng như các biện pháp giữ gìn vệ sinh thích hợp, đúng cách. Hơn thế nữa, các ông bố cũng đóng một vai trò hỗ trợ, động viên quan trọng trong thời kỳ khó khăn này của người phụ nữ. Vì thế, có thể nói thời gian nghỉ thai sản cũng như những phúc lợi xã hội cho các ông bố, bà mẹ thời kỳ sau sinh là vô cùng quan trọng.
Hãy cùng tìm hiểu về chế độ thai sản tại một số quốc gia tiên tiến trên thế giới.
1. Singapore: Chính phủ trả lương cho người chồng nghỉ giúp vợ sau sinh
Ở Singapore, từ năm 2013 người chồng có thể nghỉ một tuần có lương để giúp đỡ người vợ mới sinh. Trường hợp người vợ sẵn sàng chia sẻ một tuần trong 4 tháng nghỉ thai sản của mình cho chồng thì người chồng có thể hưởng thêm một tuần nghỉ nữa. Lương trong 2 tuần nghỉ phép này của người chồng sẽ do Chính phủ chi trả. Số tiền cao nhất mỗi tuần là khoảng 38 triệu VND.
Sản phụ sinh 2 con đầu có thể hưởng 8 tuần trợ cấp thai sản của Chính phủ, sinh con thứ 3 hoặc nhiều hơn có thể hưởng 16 tuần trợ cấp thai sản.
2. Hàn Quốc: Chủ doanh nghiệp vi phạm chế độ thai sản có thể bị 2 năm tù giam
Theo luật mới sửa đổi tháng 7/2014 của Hàn Quốc, sản phụ sinh song thai hoặc đa thai có thể nghỉ thai sản từ 90 ngày đến 120 ngày. Theo thống kê, tỉ lệ sinh song thai, đa thai ở Hàn Quốc năm 2002 là 1,98% và năm 2012 tỉ lệ này lên đến 3,23%. Chủ doanh nghiệp nào vi phạm quy định này sẽ bị xử phạt tối đa 2 năm tù giam và mức tiền phạt cao nhất là 10 triệu won, tương đương 187 triệu VND.
Trong 120 ngày nghỉ thai sản đó, trợ cấp 75 ngày do doanh nghiệp trả, 45 ngày còn lại do Chính phủ đảm nhiệm với mức trợ cấp là 100% lương bình thường.
3. Thụy Điển: Con dưới 8 tuổi, cha mẹ được giảm ¼ thời gian làm việc
Tại đất nước Bắc Âu này, thời gian nghỉ thai sản có thể kéo dài đến vài năm và được chia cho cả bố và mẹ. Sản phụ có thể nghỉ ở nhà 7 tuần trước thời gian dự sinh. Từ khi đứa trẻ sinh ra đến khi được 1,5 tuổi, cha mẹ đều được nghỉ ở nhà chăm con. Trước khi trẻ lên 8 tuổi hoặc học xong tiểu học, cha mẹ có thể được giảm 1/4 thời gian làm việc. Chẳng hạn như mỗi ngày làm việc 8 tiếng, ông bố bà mẹ nào có con nhỏ chỉ cần làm việc 6 tiếng mà thôi.
Tuy nhiên, nhà tuyển dụng không trả lương cho nhân viên trong thời gian nghỉ thai sản, mà chủ yếu dựa vào trợ cấp của Chính phủ. Từ khi đứa trẻ sinh ra đến 8 tuổi, cả cha và mẹ có thể lãnh 480 ngày trợ cấp, số tiền tương đương 80% thu nhập thực tế trước khi nghỉ. Một số nhà tuyển dụng vì muốn giữ chân nhân tài vẫn sẵn sàng trả một phần lương cho nhân viên nghỉ thai sản.
4. Đan Mạch: Bố mẹ được nghỉ tổng cộng 1 năm
Mỗi cặp vợ chồng ở đây khi sinh con sẽ được nghỉ tổng cộng 1 năm. Trong đó, thời gian nghỉ của các bà mẹ là 18 tuần, các ông bố là 2 tuần, và 32 tuần còn lại sẽ được chia cho cả bố và mẹ.
Chính phủ sẽ trả một phần lương cho họ tùy thuộc vào công việc cụ thể. Chẳng hạn, những người lao động chân tay được nhận khoảng 90% lương trong khi những người khác có thể nhận được khoảng 50% thu nhập trước khi sinh.
5. Pháp: Hai vợ chồng đều có thể nghỉ thai sản
Các bà mẹ ở Pháp là những người được hưởng chế độ thai sản rất tuyệt vời, khi sinh nở, phụ nữ ở đây sẽ được hưởng 16 tuần nghỉ thai sản với 100% lương. Trong khi các ông bố cũng được nghỉ 11 ngày liên tiếp.
Ngoài ra, người mẹ còn được nghỉ phép và bảo lưu việc làm cùng thu nhập đến 3 năm để ở nhà chăm sóc con, được nhận trợ cấp chăm sóc trẻ và các trợ cấp khác khá hào phóng, và trong thời gian này nhà tuyển dụng không được sa thải phụ nữ đang nghỉ thai sản.
6. Hà Lan: Hỗ trợ 100% lương và chế độ nghỉ thêm tới khi bé 8 tuổi
Thời gian nghỉ thai sản tại Hà Lan là 16 tuần với 100% lương, ngoài ra các cặp vợ chồng cũng có thể lựa chọn nghỉ thêm 26 tuần không lương để chăm sóc con cho tới khi bé 8 tuổi.
7. Đức: Cho đến khi con 3 tuổi, cha mẹ có thể xin nghỉ ở nhà chăm con
Người Đức cho rằng, 3 năm đầu của trẻ rất cần có cha mẹ bầu bạn nên các bậc phụ huynh cần dành nhiều thời gian để ở bên cạnh trẻ. Vì thế, trước khi trẻ 3 tuổi, cha mẹ đều có thể nghỉ thai sản. Nghỉ thai sản của nước Đức được chia thành nghỉ sinh con của người mẹ và nghỉ nuôi con của cả cha lẫn mẹ, thời gian nghỉ dài nhất đến khi bé tròn 3 tuổi. Trong đó, có 1 năm là nghỉ phép có lương.
Người mẹ nghỉ thai sản tổng cộng khoảng 14 tuần: trước khi sinh 6 tuần và sau khi sinh 8 tuần. 6 tuần trước khi sinh, trừ khi thai phụ đồng ý, nhà tuyển dụng không thể yêu cầu họ làm việc. 8 tuần sau sinh, cho dù sản phụ có muốn làm việc đi chăng nữa cũng vẫn phải nghỉ ở nhà. Trong trường hợp sinh sớm hoặc đa thai, thời gian nghỉ đẻ có thể kéo dài đến 12 tuần.
Từ khi đứa trẻ sinh ra đến khi 3 tuổi, cha mẹ bé đều có thể xin nghỉ ở nhà chăm con và hưởng 65% – 67% thu nhập bình quân trước khi nghỉ, trợ cấp trung bình mỗi tháng từ 300 Euro – 1800 Euro (khoảng 6,8 triệu VND – 41 triệu VND). Theo thống kê, năm 2014, Chính phủ Đức đã thanh toán 53,7 tỉ Euro trợ cấp nuôi con, chiếm 73% tổng ngân sách dành cho gia đình.
8. Na Uy: Bố mẹ được nghỉ tổng cộng 46 tuần
Khi sinh con, một cặp vợ chồng tại đây có tổng cộng 46 tuần nghỉ với 100% thu nhập hoặc 56 tuần với 80% thu nhập.
9. Canada: Trợ cấp hàng tháng cho tới khi con 18 tuổi
Phụ nữ tại nước này được nghỉ tới 17 tuần khi sinh nở, ngoài ra có thêm 35 tuần nữa được chia cho cả bố và mẹ. Tất cả các chế độ này đều được trợ cấp bởi chính phủ, không phải các công ty tư nhân.
Thêm vào đó, chính phủ Canada còn trợ cấp hàng tháng để giúp các gia đình nuôi dạy con cái dưới 18 tuổi.
10. Iceland: Bố mẹ được nghỉ tổng cộng 1 năm với 80% thu nhập
Iceland là một trong những quốc gia có chế độ ưu đãi tuyệt vời nhất dành cho các bà mẹ.
Chế độ nghỉ thai sản đã có ở quốc gia này đã có từ những năm 1970, và năm ngoái một chính sách mới mang tên 5-2-5 đã được ra đời.
Chính sách này cho phép các các bà mẹ và ông bố mỗi người được nghỉ 5 tháng khi có con. Thêm 2 tháng nghỉ nữa hai người có thể tự thỏa thuận phân chia với nhau. Ngoài ra, các vị phụ huynh cũng có đến 2 năm để sử dụng thời gian nghỉ này và được hưởng 80% thu nhập trong thời gian đó.
11. Nga: Nghỉ thai sản 140 ngày hưởng 100% lương
Tình trạng dân cư thưa thớt, thiếu lao động luôn là vấn đề nan giải ở Nga. Vì vậy, chế độ thai sản của quốc gia này rất ưu ái cho sản phụ để việc sinh nở thuận lợi hơn.
Theo pháp luật hiện hành của Nga, sản phụ có thể hưởng 3 hình thức nghỉ thai sản đó là 100% lương, 50% lương và không lương.
Trong đó, 140 ngày hưởng 100% lương bao gồm 70 ngày trước sinh và 70 ngày sau sinh. Thời gian này, công ty phải trả đầy đủ lương cho sản phụ. Trường hợp song (đa) thai hoặc biến chứng khi sinh thì thời gian nghỉ thai sản sẽ gia tăng tương ứng. Sau khi nghỉ hết phép được trả 100% lương, sản phụ có thể tiếp tục nghỉ phép 50% lương, cho đến khi đứa trẻ được 1,5 tuổi.
Trong thời gian này, sản phụ có thể lĩnh khoản trợ cấp tương ứng với 40% lương ban đầu, khoản trợ cấp này do quỹ Bảo hiểm Xã hội của quốc gia chi trả. Sau khi trẻ được 1,5 tuổi, nếu vẫn muốn nghỉ ở nhà chăm sóc con, người mẹ có thể tiếp tục nghỉ không lương cho đến khi trẻ 3 tuổi, nhà tuyển dụng vẫn phải bảo lưu chức vị của người mẹ.
Nga không có quy định riêng dành cho cha đứa trẻ nhưng nếu trong một số trường hợp người mẹ không nghỉ thai sản thì người giám hộ của đứa trẻ có thể hưởng 3 hình thức nghỉ thai sản như trên.
12. Anh: Chồng có thể thay vợ… nghỉ thai sản
Ở Anh, sản phụ có thể nghỉ 26 tuần, bất luận là làm việc toàn thời gian hay bán thời gian, sản phụ có thể nghỉ trước ngày dự sinh 11 tuần. Người cha có thể nghỉ phép 2 tuần, tuần đầu hưởng lương cơ bản, tuần thứ hai hưởng trợ cấp của Chính phủ. Tuy nhiên, người cha bắt buộc phải nghỉ phép trong thời gian từ khi đứa trẻ sinh đến 56 ngày, quá hạn sẽ không còn hiệu lực.
Nếu người mẹ không nghỉ hết thời gian thai sản đã đi làm lại thì người cha có thể tiếp tục nghỉ. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng, những đứa trẻ nhận được sự chăm sóc của người cha sẽ thông minh, khỏe mạnh hơn.
13. Phần Lan: Mỗi bà mẹ và trẻ sơ sinh đều được tặng một chiếc hộp quà tặng rất ý nghĩa
Những bà bầu ở Phần Lan có thể nghỉ 7 tuần trước ngày dự sinh. Sau đó, chính phủ sẽ cung cấp một khoản trợ cấp trong vòng 16 tuần cho thai phụ, bất kể người đó là sinh viên, đang thất nghiệp hay kinh doanh tự do.
Sau khi đứa trẻ lên 3 tuổi, cha mẹ cũng có thể được hưởng chế độ nghỉ phép để ở nhà chăm sóc con, với điều kiện phân chia thời gian cho gia đình và công việc một cách hợp lý. Điều này sẽ được kéo dài cho đến khi đứa trẻ bắt đầu học lớp hai.
Mỗi bà mẹ sinh con còn được nhận một thùng quà cho bà mẹ và trẻ sơ sinh (Äitipakkaus) bắt đầu từ năm 1937 nhằm trợ giúp cho những bà mẹ tương lai thuộc diện có thu nhập thấp và nhiều trẻ sơ sinh bị tử vong vì điều kiện kinh tế còn khó khăn. Cùng với một cái hộp có thể dùng làm giường ngủ cho em bé, các thứ trợ giúp lúc đó trị giá khoảng 450 marka (tiền Phần Lan dùng trước khi đổi sang Euro năm 2002) tức 1/3 lương của một công nhân làm trong nhà máy. Từ năm 1949 trở đi tất cả các bà mẹ có trẻ sơ sinh trong cả nước đều được nhận món quà này.
14. Mỹ: Nghỉ thai sản không được hưởng lương
Khác với luật pháp về chế độ thai sản ở các nước, sản phụ Mỹ có thể nghỉ thai sản 12 tuần không hưởng lương. Mỹ là nước có kỳ nghỉ thai sản ngắn nhất trong các quốc gia phát triển. Người Mỹ không nghỉ thai sản, sinh con xong có thể đi làm ngay.
“Thomas Jefferson: Tác giả ‘Tuyên ngôn độc lập’ và Dự luật Tự do Tôn giáo Virginia, người sáng lập Đại học Virginia, an táng tại đây”. Vị Tổng thống Mỹ đời thứ 3 Thomas Jefferson yêu cầu viết một câu ngắn gọn duy nhất trên bia mộ của mình, một chữ không được thay đổi. Có lẽ ông muốn nhắc nhở đời sau, đó là ba việc ông xem trọng nhất.
“Tôi xin thề trước bàn thờ Chúa, sẽ mãi mãi chống lại mọi âm mưu độc quyền khống chế tự do tư tưởng của loài người”. – Thomas Jefferson (khắc trên Đài kỷ niệm Jefferson)
Trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng của vị Tổng thống Mỹ đời thứ 3 Thomas Jefferson ngày càng được nhiều người ghi nhớ. Ông từng là Nghị sĩ và Thống đốc bang Virginia, Nghị sĩ Quốc hội, Đặc phái viên trú tại Pháp, Quốc vụ khanh, Phó Tổng thống và hai khóa Tổng thống.
Rất nhiều người, cả tổng thống Kennedy, đều phải thừa nhận Thomas Jefferson là vị tổng thống thông tuệ nhất trong các đời tổng thống Mỹ. Một lần chiêu đãi tiệc 49 người đạt giải Nobel ngay tại Nhà Trắng ông đã nói hài hước, trong lịch sử những người từng dùng bữa ở đây có lẽ chỉ có trí tuệ của Jefferson là vượt qua tổng số tài năng của những người có mặt tại đây ngày hôm nay.
Monticello, một trang viên đặc biệt thuộc khu Charlottesville tươi đẹp nằm phía bắc Virginia, mỗi ngày đều tấp nập du khách đến từ các nơi, trong nước Mỹ cũng như trên thế giới. Họ là những người ngưỡng mộ vị tổng thống đời thứ 3 Thomas Jefferson của nước Mỹ. Trang viên Monticello là do đích thân tổng thống Jefferson thiết kế là một trang viên mang phong cách kiến trúc Rome cổ xưa. Thomas Jefferson đã sống tại đây 40 năm.
Ngày nay, trang viên Monticello vẫn giữ nguyên kiểu dáng như hai trăm năm về trước, chiếm một diện tích vùng đồi núi khoảng ba ngàn mẫu Anh (1 mẫu anh bằng 4.048,86 mét vuông), ngôi nhà của Thomas Jefferson ở được xây tại khu đất bằng trên đỉnh núi.
Cứ khoảng 40 phút, hướng dẫn viên lại dẫn một nhóm du khách đi từ bảo tàng dưới chân núi lên đỉnh núi, trong khi đó bên trong ngôi nhà, trong những căn phòng khác nhau, các hướng dẫn viên vẫn đang kể lại những câu chuyện về Thomas Jefferson. Qua những câu chuyện, mọi người có thể thấy Thomas Jefferson không chỉ là một nhà chính trị: ông rất ham đọc sách, mê cuộc sống điền viên, mê thiết kế sáng tạo, là một thiên tài trên nhiều phương diện: kiến trúc, toán học, nông nghiệp, ngoại ngữ…
“Thomas Jefferson: Tác giả ‘Tuyên ngôn độc lập’ và Dự luật Tự do Tôn giáo Virginia, người sáng lập Đại học Virginia, an táng tại đây”. (Ảnh: twitter)
Mọi người bình đẳng vì đều do Chúa tạo ra
Dĩ nhiên, không ai có thể phủ nhận “Tuyên ngôn độc lập” của Thomas Jefferson là áng văn bất hủ trong lịch sử nhân loại.
“Chúng ta phải khẳng định một chân lý hiển nhiên: Con người do Chúa tạo ra nên mọi người đều bình đẳng; Chúa cũng trao cho họ những quyền không thể bị tước đoạt; những quyền này bao gồm quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Trích “Tuyên ngôn độc lập”)
Hơn hai trăm năm qua, áng văn giản dị mà sâu xa này đã cổ vũ tinh thần mạnh mẽ cho các nước trên thế giới, khắp nơi người ta không ngừng tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ, độc lập, tự do.
Dĩ nhiên, có thể hiểu tại sao Thomas Jefferson muốn chúng ta nhớ đến Đại học Virginia do ông sáng lập. Cho đến ngày nay Đại học Virginia vẫn nằm trong tốp trường đại học công lập có chất lượng ưu việt nhất. Thomas Jefferson luôn mong muốn nước Mỹ có một ngôi trường thật sự biết cống hiến cổ vũ cho tinh thần tự do tư tưởng của loài người.
Sau khi kết thúc hai nhiệm kỳ tổng thống, Thomas Jefferson đã nỗ lực dốc tâm sức trong mười năm cuối đời để xây dựng nên Đại học Virginia, ông đích thân làm tất cả mọi việc to nhỏ: thiết kế ngôi trường, mời giáo sư giảng dạy, xây dựng chương trình học tập.
Đạo luật tự do tôn giáo mới mẻ
Dĩ nhiên sẽ có nhiều người băn khoăn tại sao Thomas Jefferson không nhắc đến hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ, ký kết văn kiện mua vùng đất Louisiana giúp mở rộng gấp đôi diện tích lãnh thổ nước Mỹ. Vì sao lại xem trọng Đạo luật Tự do Tôn giáo Virginia (the Virginia Statute for Religious Freedom), vốn chỉ là Đạo luật tại một bang của nước Mỹ, và chỉ có hiệu ứng pháp luật trong một kỳ Nghị viện? Chúng ta phải làm sao để hiểu được nỗi ưu tư trăn trở của con người tiên phong kiến tạo nên nước Mỹ hiện đại này?
Vào một ngày mùa thu năm 1776, sau khi hoàn thành tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, Thomas Jefferson lại nhận chức Nghị sĩ bang Virginia, sẵn sàng cho việc đưa vào thực tiễn đời sống bang Virginia “Tuyên ngôn độc lập” của mình. Không lâu sau, ông lại khởi thảo Đạo luật Tự do Tôn giáo Virginia, vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay, theo đó tôn giáo tín ngưỡng phải độc lập với chính quyền Nhà nước.
Năm 1979, lần đầu Dự thảo được đưa ra Nghị viện nhưng không được thông qua. Bảy năm sau, vào năm 1786, lúc đó Thomas Jefferson là Đặc phái viên tại Pháp, ông đã thuyết phục được bạn mình là James Madison, Nghị sĩ bang Virginia. Với nỗ lực của hai người, Đạo luật Tự do Tôn giáo Virginia lần thứ hai được đưa ra, cuối cùng đã được thông qua.
Xin dẫn một đoạn sâu sắc trong “Lời dẫn” của Đạo luật Tự do Tôn giáo Virginia:
“Tư tưởng của con người không thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Nếu chúng ta cho phép quan chức chính phủ kéo dài quyền lực của họ xen vào đời sống tín ngưỡng, cho phép họ quyết định tôn giáo nào là chính hay tà, nghĩa là sẽ khống chế những người tu hành truyền đạo, như vậy là vô cùng nguy hiểm, nghĩa là không còn quyền tự do tôn giáo.
Vì quan chức lấy kiến giải cá nhân để đánh giá chuyện đúng hay sai của tôn giáo tín ngưỡng; họ lấy mình làm chuẩn để khen ngợi hay trách phạt đối với cách suy nghĩ của người khác… Lịch sử đã chứng minh, sự kết hợp giữa giáo hội và chính quyền luôn dẫn đến chuyên quyền và áp bức. Khi tôn giáo biến thành công cụ của quốc gia sẽ gây an nguy cho tự do, vì chỉ có sự sai trái mới cần dựa dẫm vào chính phủ nâng đỡ, còn chân lý luôn đứng hiên ngang, độc lập”.
Sau phần lời dẫn là phần Chính văn của Dự luật: “Nghị viện (Bang Virginia) không thể ép buộc bất cứ cá nhân nào tham gia hoặc ủng hộ cho một tôn giáo, cũng không thể vì cách nhìn của mình về một tôn giáo hay tín ngưỡng mà bị cưỡng chế, ép buộc, quấy rối, gây đau đớn về thân xác, mất mát tài sản hoặc những đau khổ khác; mọi người đều có quyền lên tiếng tranh luận bảo vệ cho quan niệm về tôn giáo của mình, không thể vì điều này mà địa vị xã hội được nâng cao hơn, bị hạ xuống hay chịu bất kỳ ảnh hưởng nào”
Phần thứ ba của Dự luật là Tuyên ngôn. Tuy Dự luật chỉ được một kỳ Nghị viện thông qua, nhưng Thomas Jefferson vẫn long trọng tuyên bố:
“Chúng tôi tuyên bố, Dự luật này chủ trương quyền tự do tôn giáo là quyền tự nhiên của con người, sau này nếu có bất kỳ pháp lệnh nào muốn hủy bỏ hoặc thu hẹp phạm vi của Dự luật này, tức là đã xâm phạm quyền tự nhiên!”.
Sau khi Nghị viện bang Virginia cho thông qua dự luật này, nhiều bang khác cũng nhiệt liệt hưởng ứng theo. Văn kiện này cũng được lan truyền đến các nước châu Âu, được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Ý, được truyền bá rộng rãi trong giới làm luật ở châu Âu.
Sau đó không lâu, Thomas Jefferson lại căn cứ vào Dự luật Tự do Tôn giáo để viết Tu chính án Hiến pháp (lần thứ nhất), còn gọi là “Dự luật về Quyền tự do”. Ngay đoạn mở đầu đã viết: “Quốc hội không được lập ra điều luật để khai lập một tôn giáo, ngăn cản quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng, hạn chế tự do ngôn luận và tự do xuất bản, ngăn cản người dân biểu tình ôn hòa ra yêu sách yêu cầu chính phủ sửa sai những bất công”. Tu chính án này đã được thông qua năm 1791.
Bức tượng Thomas Jefferson trên khuôn viên trường đại học Virginia được đặt vào ngày 28 tháng 8, 2013. (Ảnh: Campus Reform)
Từ đây, nước Mỹ trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới mà quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của nhân dân được bảo đảm bằng Hiến pháp, khởi đầu thời đại dân chủ đích thực với xã hội mở mang đậm tinh thần khoan dung.
Nhà tư tưởng và sử gia nổi tiếng người Pháp là Alexis de Tocqueville vào thập niên 30 thế kỷ XIX đã đi tới nước Mỹ để theo dõi chế độ dân chủ của đất nước mới nổi vô cùng độc đáo này. Ông đã sửng sốt khi thấy “tinh thần tự do” đi cùng với “niềm tin tâm linh”, ở châu Âu, hai giá trị này là “thù địch” đối lập nhau, nhưng ở quốc gia này lại chung sống hòa bình với nhau!
Ngọn đèn tự do của thế giới
Trên đỉnh đồi Monticello trời xanh mây trắng, những ngày đầu hạ nhìn ra xa là một màu xanh thăm thẳm nhưng vẫn có thể lờ mờ trông thấy đỉnh vòm hình tròn kiểu kiến trúc Rome cổ xưa của tòa nhà chính khu trường Đại học Virginia, trang viên to rộng khoáng đạt. Cuộc sống điền viên yên tĩnh mới thật đáng giá, vậy mà cho đến tận những năm tháng cuối đời Thomas Jefferson mới có cơ hội được hưởng thụ cuộc sống hòa điệu cùng thiên nhiên.
Nếu như mọi người bình thường, có tài trí cao xa, họ thường sẽ mong muốn trở thành kiến trúc sư, nhà khoa học, nhà giáo dục, nhưng Jefferson hiểu rõ sứ mệnh lịch sử quan trọng, từ “Tuyên ngôn độc lập” đến “Dự luật Tự do Tôn giáo”, với trí tuệ vượt trước người đương thời, ông muốn nhắn nhủ cho người đời sau:
Tự do, gồm tự do tinh thần, tự do tôn giáo tín ngưỡng, không phải do chính quyền trao cho chúng ta, mà là Chúa hoặc Thần linh tạo dựng ra nhân loại trao cho chúng ta, không ai có quyền tước đoạt hay xâm phạm.
Với trí tuệ cao xa, bản tuyên ngôn tài hoa của Thomas Jefferson không chỉ là hòn đá tảng của nền dân chủ Mỹ mà còn là ngọn đèn tự do soi sáng cho thế giới. Người Mỹ có trách nhiệm kế tục sự nghiệp của cha ông để bảo vệ quyền tự do tôn giáo trên toàn thế giới, vì đây chính là nguồn cội của những quyền tự do khác.
Năm 1988, Quốc hội Mỹ đã thông qua “Luật Tự do Tôn giáo Quốc tế”. Theo luật này, Quốc vụ viện Mỹ đã sáng lập Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế (United States Commission on International Religious Freedom). Ủy ban có trách nhiệm giám sát tình hình tự do tôn giáo trên toàn cầu, hàng năm đều có Báo cáo về tình hình tự do tôn giáo trên thế giới, đưa ra kiến nghị về tình hình tự do tôn giáo với Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ.
Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (Ảnh: abcnews)
Ngày 4 tháng 7 năm 1826, vào lúc bản “Tuyên ngôn độc lập” tròn 50 năm, Thomas Jefferson đã hoàn thành sứ mệnh và lặng lẽ ra đi, chẳng lẽ đây chỉ là sự trùng hợp của lịch sử?
Ông đã để lại những áng văn bất hủ cổ vũ cho chúng ta, đặc biệt đã có rất nhiều người sống trong chế độ chuyên chế không tiếc phải trả giá bằng cả tính mạng của mình để đi theo con đường khai sáng mà ông đã hiến dâng cả cuộc đời mình.
(Tác giả: Zhang Di (张迪), Tiến sĩ Đại học Illinois, hiện là Giáo sư Văn hóa và Ngôn ngữ Trung Quốc).
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung Đoàn Thanh biên dịch
hình ảnhGETTY IMAGESTrong buổi sáng ngày thứ hai, tòa thẩm vấn ba nhân chứng, những người khai đã chứng kiến trực tiếp vụ bắt cóc hôm 23/7/2017 tại Berlin
Hôm nay, 25/4/2018, tòa án ở Berlin tiếp tục ngày thứ hai, phiên xử nghi phạm vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, với bị cáo là ông Long N. H., 47 tuổi, người mang quốc tịch Việt Nam và quốc tịch Czech, thường trú tại Czech trước khi bị bắt và dẫn độ về Đức, 8/2017.
Bị cáo Long N. H. bị cáo buộc hai tội danh, gồm tội hoạt động gián điệp cho nước ngoài trên lãnh thổ Đức, và tội hỗ trợ cho vụ bắt cóc nghiêm trọng, tức là vụ bắt cóc có thời gian thực hiện trên một tuần, luật sư Petra Schlagenhauf đại diện cho ông Trịnh Xuân Thanh tại tòa, cho BBC biết.
Trong buổi sáng thứ Tư, tòa tiến hành thẩm vấn ba nhân chứng, gồm một người Pháp, trình bày qua phiên dịch, một người Đức, và một người Thổ Nhĩ Kỳ nói tiếng Đức rất tốt.
Những người này đã trình báo với giới chức rằng họ trực tiếp chứng kiến những gì diễn ra tại vườn thú Berlin hôm 23/7/2017.
Hôm nay, họ ra khai báo trước tòa với tư cách nhân chứng.
Có mặt tại chỗ theo dõi phiên xử, nhà báo tự do Lê Mạnh Hùng cho BBC biết nhân chứng người Thổ Nhĩ Kỳ khai trước tòa rằng khi nhìn thấy những gì xảy ra, ông đã đề nghị người bạn đang đi cùng quay xe đuổi theo chiếc xe van bắt người “cho đến cổng thành Brandenburger Tor thì không theo được nữa”.
Người này sau đó đã báo cho cảnh sát, và trong quá trình theo dõi lâu như vậy, nhân chứng đã “nhớ được cả biển số xe, mác xe”, nhà báo Lê Mạnh Hùng nói.
Thẩm vấn nhân chứng
Trong phiên tòa sáng nay, tên của tướng Đường Minh Hưng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh Việt Nam được nhắc tới nhiều lần.
“Các nhân chứng được tòa hỏi là họ có quen biết, hay có mối quan hệ gì với bị cáo, với một người đàn ông được hiện đang bỏ trốn, hay với vị tướng Việt Nam được tòa nêu tên hay không, nhằm đảm bảo tính khách quan trong lời khai,” nhà báo Lê Mạnh Hùng nói.
hình ảnhGETTY IMAGESBị cáo Long N. H và luật sư biện hộ trong phiên xử 25/4/2018
“Theo tôi, đó là thủ tục thẩm vấn thông thường, nhưng cũng cho thấy tính khách quan và nghiêm ngặt của tòa.”
“Cả bên công tố, bên tòa án và bên bào chữa cho bị cáo Long đều thẩm vấn, kiểm tra chéo rất kỹ các nhân chứng này.”
“Bản thân họ khi khai các chi tiết, thì đúng là bởi từ lúc sự việc xảy ra tới nay đã là một thời gian dài, nên họ miêu tả cũng có một chút khác nhau.”
“Những điểm khác nhau như thế đều bị bà chủ tọa hỏi xoáy rất kỹ.”
“Luật sư của bị cáo Long cũng đưa ra nhiều câu hỏi để thách thức độ đáng tin cậy của các nhân chứng này.”
“Điều khiến tôi ngạc nhiên là sau mỗi lần nhân chứng phát biểu, bà quan tòa đều mời tất cả các nhân chứng, luật sư, công tố, lên để bà cho xem chứng cứ, tài liệu bà có trong tay.”
“Các nhân chứng được cho phép nhận diện những người có trong một xấp ảnh mà bà chủ tọa đưa ra, rất nhiều, gồm ảnh những người được cho là có liên quan tới vụ này.”
Được biết trong phiên tòa hôm nay có sự hiện diện của hai nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin. Đại diện của phân xã Thông tấn xã Việt Nam tại Berlin cũng có mặt.
Tuy nhiên, không rõ có ai là người đại diện cho cơ quan ngoại giao Việt Nam từ Cộng hòa Czech, hoặc đại diện từ Việt Nam tới dự hay không, nhà báo Lê Mạnh Hùng nói.
Trong phiên xử hôm qua, ngày đầu tiên tòa khai mạc, các đại diện của Đại sứ quán Việt Nam tại Đức cũng có mặt, nhưng “theo tôi biết thì không có ai từ văn phòng lãnh sự của Việt Nam tại Czech hoặc từ nơi khác tới”, luật sư Petra Schalagenhauf nói với BBC.
‘Bị cáo bình tĩnh, trầm lặng’
hình ảnhPOOL/GETTY IMAGESBị cáo Long N. H bị cơ quan công tố Đức cáo buộc các tội danh hoạt động gián điệp và hỗ trợ vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh
Trong suốt quá trình tòa thẩm vấn nhân chứng, bị cáo Long ‘hoàn toàn giữ im lặng’, nhà báo Lê Mạnh Hùng cho biết.
“Ông ấy chỉ làm theo những gì nhân viên tòa án yêu cầu và không có ý kiến gì mỗi khi được tòa hỏi.”
“Bị cáo giữ thái độ bình thường, không tỏ vẻ hốt hoảng, lo lắng gì. Ông tỏ ra rất trầm lặng.”
Trước đó, ông Long được trông đợi sẽ đưa ra lời tuyên bố của mình trong ngày xét xử đầu tiên.
Tuy nhiên, việc đó đã không diễn ra.
Hôm thứ Ba 24/4, luật sư Stephan Bonell biện hộ cho ông Long tuyên bố rằng việc buộc tội thân chủ ông “cần phải được đặt trong bối cảnh chính trị”.
Ông chỉ trích chính phủ Đức về việc không cân nhắc các cáo buộc của Việt Nam theo đó nói ông Trịnh Xuân Thanh tham nhũng, cũng như yêu cầu của Hà Nội đòi Berlin trục xuất ông Thanh.
Điều đó khiến Việt Nam, luật sư Bonell lập luận, không còn cách nào khác ngoài việc phải tiến hành vụ bắt cóc, từ đó dẫn đến những việc rắc rối khác.
Luật sư Bonell cũng tuyên bố có thể sẽ cân nhắc việc nộp đơn yêu cầu Thủ tướng Đức Angela Merkel ra làm nhân chứng liên quan tới các vấn đề trên.
Bản ảnhPOOL/GETTY IMAGESÔng Stephan Bonell là luật sư biện hộ cho ông Long trước tòa án Đức
‘Nhiều người liên quan’
Trong phần nội dung cáo trạng được công bố trước tòa trong hôm qua, nhiều cái tên được nêu ra, mà cơ quan công tố Đức nói là có liên quan tới vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh.
BBC được biết những người bị nêu đích danh có ba người được xác định là thuộc cơ quan an ninh Việt Nam, gồm Trung tướng Đường Minh Hưng cùng các ông Le Anh Tu và Vu Quang Dung.
Một người nữa cũng thuộc cơ quan an ninh nhưng được hưởng quy chế ngoại giao là ông Nguyễn Đức Thoa, đại diện Cục tình báo tại Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin, bị Đức tuyên bố là người không được hoan nghênh (persona non-grata) và bị buộc phải rời Đức sau khi xảy ra vụ bắt cóc.
Ngoài ra, có một người Việt sống tại Prague, Cộng hòa Czech, Dao Quoc Oai, được nêu tên trong cáo trạng.
Có một số người khác được nhắc tới trong hồ sơ, nhưng không xuất hiện trong nội dung cáo trạng đọc trước tòa trong ngày đầu tiên.
Phiên xử nghi phạm ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’
Trong số họ này, BBC được biết có vợ của tùy viên quân sự tại Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin, người cũng đồng thời là nhân viên làm việc tại cơ quan đại diện ngoại giao này, và một viên chức lãnh sự.
Hai phụ nữ này được cho là đã tham gia vào các hoạt động sau khi xảy ra vụ bắt cóc nhằm “đưa cô Thi Minh P. D. [người bị bắt cùng ông Trịnh Xuân Thanh] về Việt Nam”, hồ sơ vụ án nói.
Một người khác cũng được nhắc tới trong hồ sơ vụ án là một trong hai người đi cùng chuyến bay đưa cô Thi Minh P. D. về Việt Nam. Chuyến bay diễn ra ngay vào tối Chủ Nhật 23/7/2017, là ngày diễn ra vụ bắt cóc, qua ngả Bắc Kinh. Người này đã bị Đức tuyên bố là người không được hoan nghênh trong tháng 9/2017.
Một người nữa, bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin, được xác định là đã tới lấy hành lý của cô Thi Minh P. D. tại khách sạn, sau khi xảy ra vụ bắt cóc.
Ngoài ra, còn có một số người Việt khác nữa chưa được xác định danh tính, bị cho là đã tham gia vào vụ bắt cóc.
Phiên tòa theo kế hoạch sẽ diễn ra trong 21 ngày không liên tục, từ 24/4 đến cuối tháng 8/2018.
Tổng thống Mỹ Donald Trump và phu nhân Melania Trump tiếp đồng nhiệm Pháp Emmanuel Macron và phu nhân Brigitte đến dự dạ tiệc tại Nhà Trắng ngày 24/04/2018.REUTERS/Brian Snyder
Đề tài quốc tế được các báo Pháp ngày 25/04/2018 bàn luận sôi nổi nhất vẫn là chuyến công du Hoa Kỳ của tổng thống Pháp Emmanuel Macron. Nhật báo Le Monde đăng hình hai nguyên thủ Pháp – Mỹ cùng nhau trồng cây sồi tại Nhà Trắng và đề tựa « Trump – Macron : Biểu tượng trước, bất đồng sau ».
Sau những lời lẽ hoa mỹ trao cho nhau trước các ống kính và micro của giới truyền thông, ca ngợi « tình hữu nghị thắm thiết giữa hai nước từ hơn hai thế kỷ nay », cuộc trao đổi trực diện giữa hai nguyên thủ tại Nhà Trắng đã làm nổi rõ các điểm bất đồng trong thương mại, môi trường và nhất là thỏa thuận hạt nhân Iran, chủ đề gây căng thẳng nhất.
Trong hồ sơ này, tổng thống Mỹ Donald Trump vẫn giữ nguyên lập trường trước đồng nhiệm Pháp, khẳng định đây là một thỏa thuận « khủng khiếp » lẽ ra « không bao giờ được ký kết ». Trong khi đó, các nước còn lại vẫn muốn duy trì thỏa thuận này. Trước thái độ kiên quyết của chủ nhân Nhà Trắng, dường như nguyên thủ Pháp đã có những nhượng bộ. Les Echos cho biết cả hai nguyên thủ « kêu gọi một thỏa thuận sâu rộng hơn ».
Theo đề xuất của Paris, một thỏa thuận bổ sung khác, cho phép duy trì văn bản gốc đã được ký kết, sẽ được hình thành dựa trên bốn điểm trụ cột : Ngăn cấm mọi hoạt động hạt nhân của Iran cho đến năm 2025; Ngăn cản các hoạt động hạt nhân trong dài hạn; Ngưng các hoạt động thử tên lửa đạn đạo của Iran và Tạo điều kiện cho việc bình ổn chính trị cho khu vực, kể cả Syria. Đây sẽ là nền tảng cho các cuộc « mặc cả » lớn sau này.
Le Figaro trong bài viết đề tựa « Trump và Macron xích lại gần nhau về hồ sơ Iran », còn cho biết thêm là trong trụ cột cuối cùng của dự án thỏa thuận bổ sung, liên quan đến tình hình Syria, tổng thống Mỹ đã nhấn mạnh rằng : « Tôi muốn rút hết binh sĩ Mỹ ra khỏi Syria, nhưng tôi không muốn để ngỏ cánh cửa cho Iran đi vào Địa Trung Hải ».
Do đó, trong trường hợp các nước châu Âu khác đồng ý, Iran có thể sẽ phải chuẩn bị rút quân ra khỏi Syria trong khuôn khổ quy chế hòa bình chung cho khu vực. Bằng như ngược lại, tổng thống Mỹ đe dọa « Teheran sẽ phải trả giá đắt như một số nước đã phải hứng chịu » nếu như Iran vẫn cố thủ.
“Hoàng đế đỏ” Tập Cận Bình tại Berlin ngày 05/07/2017.REUTERS/Fabrizio Bensch
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Le Figaro hôm nay 24/04/2018, David Shambaugh, một trong những chuyên gia Mỹ giỏi nhất về Trung Quốc, tỏ ra lo ngại về việc đảng Cộng Sản toàn quyền khống chế xã hội, đồng thời cảnh báo về nguy cơ xảy ra chiến tranh với Đài Loan.
Ông David Shambaugh, giáo sư khoa học chính trị ở George Washington University là tác giả của nhiều cuốn sách về Trung Quốc. Năm 2015, ông đã gây tranh cãi khi cho đăng một bài báo trên Wall Street Journal, dự báo sự suy tàn của chế độ cộng sản Trung Quốc.
Nay Tập Cận Bình đã nắm trọn quyền lực chính trị chưa từng thấy, với nhiệm kỳ trọn đời qua việc sửa đổi Hiến Pháp hồi tháng Ba. Tân hoàng đế đỏ nay thách thức Donald Trump, giương móng vuốt đe dọa châu Á. Từ Washington, giáo sư Shambaugh phân tích cho đặc phái viên Le Figaro về sự đảo lộn nhanh chóng đã gây bất ngờ cho nhiều chuyên gia.
Ông có ngạc nhiên về sự tập trung quyền lực vào tay Tập Cận Bình ?
Tôi ngạc nhiên về việc tập trung hóa và cá nhân hóa quyền lực. Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc quay lại với chế độ chúa tể thời Mao Trạch Đông. Quá trình định chế hóa dần dần mà chúng ta đã chứng kiến trong những thập niên gần đây đã bị một con người duy nhất xóa bỏ. Ông Tập lập ra nhiều ủy ban mà ông là lãnh đạo, phải báo cáo trực tiếp cho ông. Tư tưởng Tập Cận Bình thì được ghi vào Hiến Pháp. Thật là đáng sợ !
Ông ta có thể tiến xa hơn không ?
Việc sùng bái cá nhân lãnh tụ, vốn đã nặng nề, sẽ còn đi xa hơn nữa. Tập Cận Bình đã trở thành “người cầm lái vĩ đại”, người lãnh đạo dân tộc, nhưng vẫn chưa được thần thánh hóa như Mao. Trái với thời kỳ Cách mạng văn hóa, vẫn còn có các định chế, nhưng bị Tập thống trị.
Có thể giải thích như thế nào về việc nắm trọn quyền lực như vậy ?
Tập Cận Bình tìm tòi trong mô hình xô-viết. Ông ta có tầm nhìn, biết sẽ đi đến đâu, và muốn rằng bộ máy cũng tuân theo răm rắp. Ông coi Đảng như là quân đội. Tập không tin vào sự đa dạng, nhưng vào sự tập trung hóa để đạt được mục tiêu. Ông ta muốn đưa Trung Quốc đi theo kiểu mẫu Liên Xô thập niên 50 và 60, khi cha của ông là Tập Trọng Huân (Xi Zhongsun, phó thủ tướng bị Mao thanh trừng năm 1962) còn nắm quyền.
Ông Tập muốn đi đến đâu, và mục tiêu của ông là gì ?
Tập Cận Bình rất tự tin vào bản thân và về Trung Quốc. Ông nghiên cứu kỹ tình hình quốc tế, và nhìn thấy cơ hội mang tính chiến lược. Tập theo dân tộc chủ nghĩa. Trong kỳ họp Quốc Hội mùa thu vừa rồi, ông tuyên bố rằng Trung Quốc là một cường quốc và cần phải được thế giới tôn trọng. Tập Cận Bình thúc đẩy một chính sách đối ngoại mang tính bành trướng, bằng chứng là chính sách Con đường tơ lụa mới, với việc tăng cường quân sự và nâng tầm nền kinh tế.
Ông có nghĩ là Tập Cận Bình sẽ ra tay đối với Đài Loan ?
Nguy cơ là khá cao. Tập Cận Bình muốn đẩy Đài Loan vào cái thế phải đầu hàng. Ông ta vận dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế, hạn chế đầu tư, du lịch, đồng thời siết chặt gọng kềm ngoại giao đối với đảo quốc này.
Hoa Kỳ sẽ làm gì ?
John Bolton, tân cố vấn an ninh của tổng thống Donald Trump là một người bạn của Đài Loan. Tôi dự đoán rằng ông ấy sẽ thách thức Trung Quốc. Ông Bolton có khả năng dẫm lên các lằn ranh đỏ mà Bắc Kinh vạch ra – chủ yếu là đe dọa sẽ hành động nếu các chiến hạm Mỹ thăm Đài Loan, hoặc hợp tác quân sự. John Bolton sẽ cho Tập Cận Bình thấy là ông ta đã lầm to. Quý vị cứ theo dõi hồ sơ này đi, trong tương lai sẽ bùng nổ đó !
Còn Biển Đông, một bất đồng khác với Washington thì sao ?
Trung Quốc đã xây dựng được các đảo nhân tạo tại Biển Đông, và sẽ không thối lui. Cuộc chơi đã kết thúc. Tuy nhiên tính biến động của hồ sơ Đài Loan chưa được đánh giá đúng mức. Tôi rất quan ngại.
Ông phân tích như thế nào về chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Kim Jong Un, theo lời mời của Tập Cận Bình ?
Trung Quốc lo cho lợi ích của bản thân mình, không muốn bị gạt ra ngoài lề tiến trình. Tuy nhiên Tập Cận Bình và Kim Jong Un không phải là một « cặp đôi » hạnh phúc.
Ông có cho rằng chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ xảy ra ? Ai sẽ thiệt hại nhiều hơn ?
Bắc Kinh sẽ trả đũa, nhưng tôi không tin rằng sẽ leo thang. Trung Quốc sẽ bị thiệt nhiều hơn Hoa Kỳ, vì rất cần xuất khẩu được hàng hóa để duy trì tăng trưởng. Một cuộc xung đột sẽ làm yếu đi khả năng nâng cấp nền kinh tế của Trung Quốc, do chính quyền bị buộc phải dùng ngân sách để hỗ trợ cho việc làm và tăng trưởng để bù đắp lại các thị trường bị mất, thay vì nhắm vào chất lượng.
Tôi không cho rằng các tập đoàn đa quốc gia Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Tình hình của các công ty ngoại quốc tại Trung Quốc đã xấu rồi, khó thể tệ hại hơn nữa. Thị trường Trung Quốc là một giấc mơ từ một thế kỷ qua, và vẫn sẽ là một giấc mơ ! Nhưng một cuộc xung đột sẽ không dẫn đến việc nền kinh tế Trung Quốc bị sụp đổ, vì dựa trên những cơ sở vững chắc. Bắc Kinh có thể bù đắp được những thiệt hại nội bộ, và nếu cần thiết thì đóng cửa với thế giới.
Hồi năm 2015, ông dự báo rằng chế độ Trung Quốc sẽ suy sụp. Ông đã lầm lẫn chăng ?
Từ ngữ được dùng làm tít là « crack up » (sụp đổ), là chọn lựa của các biên tập viên Wall Street Journal. Tôi chưa bao giờ dự báo chế độ Trung Quốc sẽ « sụp đổ », nhưng là sự « suy tàn » chậm chạp của nó, và giờ đây tôi vẫn nhấn mạnh như thế. Hệ thống ấy sẽ không sụp đổ, nhưng Trung Quốc không mạnh như người ta vẫn tưởng.
Tôi rất ấn tượng trước nghịch lý : giữa sự tự tin của Tập Cận Bình trong đối ngoại, và sự hoang tưởng của ông ta trong đối nội – mà ông xử sự theo cách phòng ngự. Ông Tập bị ám ảnh bởi sự sụp đổ của Liên Xô cũ. Ông ta gây áp lực lên chế độ, với các vụ thanh trừng và chiến dịch chống tham nhũng, gây rất nhiều bất bình. Chúng ta không nghe thấy những tiếng nói phản biện, nhưng những tiếng nói này thực sự hiện diện. Tôi dự đoán Trung Quốc sẽ suy tàn trong mười, hoặc hai mươi năm nữa.
Hai mươi năm tới, Tập Cận Bình vẫn còn đó ?
Vâng, có lẽ thế.
Người ta đã chứng kiến việc đàn áp tàn bạo tất cả những tiếng nói đối lập. Xã hội Trung Quốc còn chấp nhận tình trạng này bao lâu nữa ?
Đó là một câu hỏi quan trọng. Trung Quốc là một xã hội chất chứa đầy xung đột, bất bình đẳng tột độ và những thách thức dân số quan trọng, trong đó có tình trạng lão hóa. Tôi cảm thấy một xã hội không thể chấp nhận sống vĩnh viễn trong một Nhà nước toàn trị. Người Trung Quốc chẳng phải là ngu. Họ sẽ rời khỏi đất nước. Sự tính toán của Đảng là phải dựa dẫm vào chủ nghĩa dân tộc.