Thổ lâu Phúc Kiến là một công trình kiến trúc của Trung Quốc được công nhận di sản thế giới, toà lớn nhất chứa được 600 người.
Tên gọi và kiến trúc
Thổ lâu là tên để chỉ những ngôi nhà có nhiều hình dạng khác nhau như hình vuông, bầu dục và ngũ giác ở Phúc Kiến. Cái tên “Thổ lâu” trong tiếng Trung Quốc ngụ ý rằng nhà được làm từ đất. Thổ lâu ở tỉnh Phúc Kiến nằm tập trung ở hai thành phố là Long Nham và Chương Châu. Trong đó tại huyện Vĩnh Định thuộc Long Nham (có khoảng 20.000 tòa thổ lâu), huyện Nam Tĩnh thuộc Chương Châu (có khoảng 15.000 tòa), ngoài ra các huyện khác như Bình Hòa, Hoa An, Chiếu An… cũng có vài trăm tòa thổ lâu. Tập hợp thổ lâu ở Phúc Kiến đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào tháng 7/2008 và thông qua tên gọi chung cho kiểu kiến trúc này là “Thổ lâu Phúc Kiến”.
Lịch sử của công trình kiến trúc độc đáo này gắn liền với những cuộc di cư của người Hán xuống miền nam cùng sinh sống với cư dân Bách Việt. Tại đây, họ luôn gặp phải những xung đột với người bản địa, thổ phỉ và buộc phòng chống thú dữ. Đó là những yếu tố dẫn đến việc hình thành ý tưởng xây dựng một ngôi nhà chung cho rất nhiều người để cùng nhau đối phó với những yếu tố bên ngoài, ổn định cuộc sống.
Vì những yếu tố trên, thổ lâu có kiến trúc kiên cố. Nơi đây không chỉ để ở, mà còn chính là “pháo đài” bảo vệ nên độ cao của các tòa thổ lâu thường từ 4 đến 5 tầng. Thổ lâu chỉ có một cửa ra vào chính và không có cửa sổ dưới tầng trệt. Cửa (hay cổng) ra vào là điểm trọng yếu, thường được gia cố bằng đá và sắt, để phòng chống hỏa hoạn và sự tấn công từ bên ngoài. Khi cổng đóng là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Những bức tường đất được xây rất dày. Chẳng hạn như thổ lâu ở huyện Nam Tĩnh tường đất có độ dày lên tới 2 m.
Ở bên trong, thổ lâu được chia ra theo từng gian phòng dành cho các hộ gia đình sinh sống. Khác hẳn với bên ngoài, bên trong thổ lâu được thiết kế rất tinh tế đem lại không khí ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè với hệ thống thông gió và chắn gió tốt. Đặc biệt là thổ lâu có thể chịu được những trận động đất mạnh. Một điểm chung của thổ lâu là tầng một được sử dụng làm bếp ăn kiêm phòng khách, tầng hai là nơi dự trữ lương thực, phòng ngủ được bố trí từ tầng ba trở lên. Cũng từ tầng ba trở lên thổ lâu mới bắt đầu có những ô cửa sổ nhỏ để thoáng khí và là nơi để tấn công kẻ địch bên ngoài.
Thổ lâu ở Phúc Kiến có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những thổ lâu lớn có Chấn Thành lâu, Thừa Khải lâu, Vĩnh Xương lâu, Phúc Dụ lâu, Điền Loa Khanh… Thổ lâu Thừa Khải với kiến trúc hình tròn, cao 4 tầng và bên trong còn chia thành bốn lớp nhà, được xem là thổ lâu có sức chứa lớn nhất. Toàn bộ tòa Thừa Khải có 400 gian phòng, có thể chứa đến hơn 80 hộ gia đình, khoảng 600 người cùng sinh sống. Tòa lầu hình tròn được xây dựng đầu tiên ở Phúc Kiến là Tề Vân lâu ở huyện Hoa An, xây vào năm 1371. Các thổ lâu khác như Chấn Thành hay Thừa Khải có lịch sử cách đây khoảng hơn 300 năm.
Thổ lâu và văn hóa của người Khách Gia
Chủ nhân của thổ lâu ở Phúc Kiến là người Khách Gia. Không ít người quan niệm người Khách Gia là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, nhưng thực tế họ là người Hán. Người Khách Gia, tiếng Anh gọi là Hakka (từ này có nguồn gốc theo cách phát âm tiếng Quảng Đông). Vì vậy mà kiến trúc thổ lâu được người phương Tây gọi là Hakka House (nhà của người Hakka) hoặc Hakkas’s Earth Buildings (thổ lâu của người Hakka).
Khi tôi đến thăm khu di sản văn hóa thế giới Nam Tĩnh thổ lâu, cô hướng dẫn viên (vốn là người Khách Gia) giải thích cho tôi biết tên cái tên “Khách Gia” là gọi tắt từ trong câu “Khách xa quê nhà”.
Người Khách Gia là cụm từ dùng để chỉ người Hán di cư từ phương bắc đến phương nam. Dù an cư lập nghiệp ở một nơi khác qua nhiều thế kỷ, họ vẫn nhận mình chỉ là người khách sống xa nhà. Một căn cứ khác về tên gọi “Khách Gia”, đó là vào thời nhà Tống trong cuộc chiến với quân Nguyên, rất nhiều người Hán di cư đến phương nam khi đó đã đăng ký xung quân. Tuy nhiên trong phần hộ tịch lúc ấy vốn có sự phân biệt “chủ” và “khách”, nên những người xung quân này được ghi là “khách tịch” để phân biệt với người dân bản địa. Sau này cái tên “người Khách Gia” thực chất là cách gọi khác của “người khách tịch”.
Từ góc độ lịch sử, người Hán ở miền bắc Trung Quốc đã có ba đợt di cư lớn về phương nam. Trong quá trình này, người Hán đã gặp phải những xung đột về văn hóa, khó khăn về điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội, thậm chí cả những tranh chấp mạnh mẽ với người bản xứ nơi đó. Những xung đột và mâu thuẫn đó là nguyên nhân hình thành kiến trúc thổ lâu và văn hóa thổ lâu của người Khách Gia.
Điều hấp dẫn ở thổ lâu chính là việc một cộng đồng gồm rất nhiều hộ gia đình sinh sống trong cùng một tòa nhà. Tuy vậy, với các gian phòng riêng trong thổ lâu, mỗi gia đình vẫn có một không gian độc lập và có sự phân chia trong cộng đồng tương đối bình đẳng.
Nói về Sài Gòn vào cuối thế kỷ 19 và những thập niên đầu thế kỷ 20 thì phải kể đến xà bông Cô Ba.
Cô Ba là ai? Có người cho rằng cái tên “Cô Ba” liên quan đến cuộc thi hoa hậu đầu tiên ở Việt Nam do người Việt tổ chức vào năm 1865. Đó là cuộc thi Miss Sài Gòn dành riêng cho các người đẹp Việt Nam. Tuy có tên như vậy nhưng điều lệ được phổ biến không chỉ ở phạm vi Sài Gòn mà còn lan ra nhiều vùng phụ cận, nên sau đó đã có gần 100 cô gái đăng ký dự thi. Kết quả người đoạt vương miện Hoa hậu là cô Ba, con gái của ông Chánh, làm nghề thư ký. Trước vẻ đẹp rực rỡ của cô Ba, nhiều người Pháp đã đề nghị cô chụp ảnh để đăng báo ở chính quốc.
Họ rất muốn chụp cô trong trang phục áo tắm nhưng cô không đồng ý. Chân dung cô sau đó được vẽ rồi in thành tem với số lượng phát hành lớn chưa từng có. Một thời gian sau đó, cô Ba lấy chồng Việt Nam bình thường và sống giản dị, bỏ lại đằng sau ánh hào quang phù phiếm và không bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây.
Sở dĩ gọi cô là “cô Ba xà bông” vì hình của người đẹp này được in nổi trên các sản phẩm của Hãng xà bông Việt Nam do ông Trương Văn Bền lập ra. Các hình ấy xuất hiện cùng lúc với các mẫu xà bông hình vuông nhiều cỡ, nặng 250 gr, 500 gr hoặc chỉ 125 gr, về sau thêm loại lớn và dài nặng gần 1 kg đúc thành cây mua về cắt từng miếng nhỏ xài dần. Mỗi loại như thế đều có sự “hiện diện” của cô Ba, lưu hành đến các nơi đô hội, dần dần đến tận các chợ miền xa ngoài Sài Gòn và lục tỉnh. Như thế cô Ba đã nghiễm nhiên trở thành “người mẫu” đầu tiên gắn liền với một thương hiệu Việt Nam mới ra đời đầu thế kỷ 20. Sự ra đời này cùng với hình ảnh cô Ba, theo một số nhà quan sát, đã nhấn mạnh sự có mặt của sản phẩm Việt và chấm dứt sự thao túng gần như độc quyền của Hãng xà bông Marseille của Pháp đối với người tiêu dùng Việt Nam lúc bấy giờ.
Về việc cô Ba được ông Trương Văn Bền chọn làm biểu tượng bên hương thơm xà bông Việt, tác giả “Sài Gòn năm xưa” đề cập đến một cách rõ nét rằng:
Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến có cô Ba, con gái thầy thông Chánh là đẹp không ai bì, đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi Nhà nước in hình vào con tem Nhà Thơ Dây Thép (Bưu điện).
Cạnh cô Ba, tác giả cũng nhắc đến một số hoa khôi khác như Tư Nhị, Sáu Hương, Hai Thời… vốn là những người đẹp đã làm nghiêng ngả nhà cửa ruộng vườn của nhiều tay hiếu sắc. Theo đó, các cô mỗi chiều ngồi trên xe Delage để mui trần, có tài xế riêng, hoặc ngồi trên xe Hoa Kỳ mới cáu cạnh để lượn đi lượn lại quanh các đường phố chính của Sài Gòn từ chợ Bến Thành qua đường Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) vòng qua trường Chasseloup – Laubat (trường Lê Quý Đôn ngày nay), xuống khu Chợ Lớn, khoe sắc trên đường nhựa “để lên Thủ Đức ăn nem hoặc đến tắm suối Xuân Trường… Tối lại dưới bóng đèn, các cô như bướm tề tựu đủ mặt cạnh sòng bài sòng me, hoặc năm ba người gầy mâm hút có đờn ca giúp vui, báo hại các cậu con chủ điền muốn lên mặt với chị em đành phải trốn về bán lúa vay bạc Chà, cố cầm sự nghiệp ông bà để lại” mà chạy theo cho kịp nếp ăn chơi của các hoa khôi đương thời.
Nhưng mà nếp sống ấy dường như không phù hợp với cô Ba xà bông. Có người bảo vì cô sinh ra trong một gia đình công chức nên không quen sống buông thả, người khác cho rằng bản tính của cô vốn vậy từ lâu.
Bán hết đất rồi thì sẽ làm gì? Nguồn thu sẽ lấy ở đâu ra? Ai cũng cảnh báo nhưng không nghe thì bây giờ đã rõ ràng quá rồi. Đà Nẵng nguy cơ sẽ chẳng còn vị thế gì…
“Đà Nẵng đã bị biến thành thành phố buôn đất”.
Đó là chia sẻ của ông Hồ Duy Diệm, Chủ tịch Hội Bảo vệ Lưu vực và dải biển Việt Nam, nguyên Phó chủ tịch Hội quy hoạch TP Đà Nẵng về những vấn đề liên quan đến phát biểu thừa nhận sai lầm trong quy hoạch phát triển Đà Nẵng thời gian qua của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa tại sự kiện đối thoại “Tọa đàm mùa xuân” diễn ra ngày 8/3/2018.
Là một người tham gia nhiều hoạt động tái thiết Đà Nẵng, cùng nhiều chuyên gia hàng đầu của Việt Nam lúc bấy giờ xây dựng các định hướng quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội Đà Nẵng trong những ngày đầu tiên. Sau những phát biểu mang tính đột phá của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa, ông Hồ Duy Diệm đã dành cho VietTimes những chia sẻ về những vấn đề liên quan.
Đà Nẵng đã mất rất nhiều vì xẻ đất đem bán
– Có thể nói phát biểu thừa nhận những sai lầm trong quy hoạch Đà Nẵng của Bí thư Trương Quang Nghĩa tại sự kiện “Tọa đàm mùa xuân” do Thành ủy Đà Nẵng tổ chức vừa diễn ra ngày 8/3 là những phát biểu đầu tiên của lãnh đạo Đà Nẵng về những hạn chế trong quy hoạch đô thị Đà Nẵng mà từ trước nay TP này luôn được khen ngợi. Ông nghĩ như thế nào về phát biểu này của ông Trương Quang Nghĩa?
– Đây là câu hỏi hay và phù hợp với bối cảnh hiện tại. Thứ nhất, khi ông Trương Quang Nghĩa phát biểu như vậy có nghĩa là ông ấy đã nhìn nhận một sự thật khách quan là Đà Nẵng đã có những sai lầm. Và vì những sai lầm đó mà Đà Nẵng đã không phát triển được xứng tầm. Việc này không chỉ ông Nghĩa mà các nhà khoa học, nhân dân cũng đã thấy từ lâu.
– Ông có thể chia sẻ một số nội dung mà ông cho rằng Bí thư Đà Nẵng đã chỉ ra rất đúng về sai lầm trong quy hoạch của Đà Nẵng?
– Bây giờ chúng ta phải xem xét đã sai lầm như thế nào từ định hướng đến thực hiện và nghiệm xét lại quy hoạch phát triển Đà Nẵng đã như thế nào thì mới nhìn thấy được sai lầm.
Để rõ những sai lầm này, chúng ta cần quay lại khi Đà Nẵng còn trực thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng thì cơ cấu chung của TP Đà Nẵng là TP công nghiệp, mà là công nghiệp sạch, hiện đại, hàm lượng công nghệ cao làm trọng điểm. Trong đó có cảng biển, giao thông vận tải, logicstic, dệt may, cơ khí chế tạo,… vì đây là năng lực, điểm mạnh mà Đà Nẵng đang có từ cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng. Còn dịch vụ thương mại, dịch vụ du lịch,…là phía sau.
Nhưng khi chia tách từ năm 1997, Đà Nẵng đã rời bỏ các điểm mạnh, vị thế sẵn có, năng lực cốt lõi của mình để rồi tổng thu ngân sách chỉ bằng một doanh nghiệp ô tô ở Quảng Nam. Còn Quảng Nam thì sao, họ vẫn giữ định hướng đó và bây giờ họ đã đạt được những kết quả bền vững về công nghiệp dù trước đó hoàn toàn là nông nghiệp.
Chỉ cần nhìn vào đó, cũng đã thấy định hướng của Đà Nẵng trong suốt thời gian qua đã sai lầm.
Hơn nữa, sai lầm này không phải Bộ Chính trị không thấy mà đã thấy và đưa ra Nghị quyết 33 năm 2003 để điều chỉnh, định hướng Đà Nẵng phát triển toàn diện, cân đối theo cơ cấu công nghiệp, thương mại dịch vụ. Điển hình là xây dựng Cảng Liên Chiểu để phát triển kinh tế biển, lợi thế logistic, lợi thế giao thông, lợi thế trung tâm kinh tế của khu vực…
Bây giờ nhìn lại hiện tại chúng ta thấy thế nào, Nghị quyết 33 đã 15 năm trôi qua, hết nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ khác, Đà Nẵng dường như đã bỏ qua các nội dung định hướng của Bộ Chính trị dành cho Đà Nẵng và đến bây giờ vẫn đang loay hoay giải bài toán này rất khó khăn dù Đà Nẵng có đầy đủ tiềm năng để phát triển hơn thế nữa. Và dù Bộ Chính trị đã chấn chỉnh nhưng Đà Nẵng vẫn chưa thực hiện được.
Đà Nẵng đẹp chỉ ở bề nổi
– Nói sai lầm liệu có phủi bỏ công sức của những người tiền nhiệm đã có công gây dựng một thành phố mà ai đến cũng trầm trồ, học tập không thưa ông?
– Có thể nói sai lầm nó diễn ra từ chỉ đạo đến thực hiện. Bởi việc quy hoạch Kinh tế-Xã hội sẽ kéo theo những quy hoạch khác như: quy hoạch không gian đô thị, giao thông, nguồn nhân lực,… Và nếu đó là định hướng phát triển cảng biển, công nghiệp công nghệ cao,…thì phải để dành nguồn lực từ đất đai, đào tạo nhân lực, tài chính để phát triển chứ không thể cứ tràn lan ra như vậy được. Còn bây giờ muốn thực hiện các định hướng như đã nói rất khó khăn vì không còn nguồn lực để thực hiện.
Quay lại vấn đề có phủi bỏ công sức của những người tiền nhiệm hay không thì theo tôi nghĩ là không. Chúng ta ghi nhận những gì người tiền nhiệm đã làm được cho Đà Nẵng, nhưng không thể chối bỏ sai lầm của họ. Bởi nếu Đà Nẵng thực hiện đúng như những định hướng được các chuyên gia kinh tế hàng đầu đưa ra theo Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị, thì Đà Nẵng không chỉ như hôm nay mà còn gấp 3, gấp 5 lần con số hiện có. Nhìn từ Quảng Nam, Bình Định, Quảng Ngãi,…sẽ thấy rõ.
Bên ngoài họ chỉ thấy bề nổi của Đà Nẵng có đường sá khang trang, không có kẹt xe,…nhưng những cái mà Đà Nẵng bị mất họ đâu có nhìn thấy được. Đó là mật độ cây xanh, đó là thiết chế văn hóa, công trình văn hóa công cộng,…Và bây giờ muốn làm thì chi phí sẽ rất cao, sẽ phải chấp nhận cay đắng nếu muốn sửa sai.
Một sai lầm nữa là Đà Nẵng chú trọng phát triển du lịch mang tính phong trào. Đà Nẵng có nhiều tiềm năng du lịch, nhiều di tích, không gian du lịch,… nhưng khi phát triển lại không chú trọng phát triển các công trình có giá trị để phục vụ du lịch mà dần xóa bỏ, cùng chủ trương mở rộng đường sá, xẻ đất chia lô bán.
Nhưng điều này cũng đã bị các chuyên gia lên án, phê phán Đà Nẵng không gìn giữ các giá trị du lịch từ văn hóa, công trình văn hóa lịch sử, tâm linh, dấu ấn văn hóa. Đơn cử đó là Thành Điện Hải, Núi Bà Nà, không gian Sơn Trà, đền Huyền Trân Công Chúa, làng cổ Nam Ô,…thời gian qua đã bị biến thành nơi màu mỡ cho các tư bản mới. Lợi ích chảy vào túi riêng một bộ phận cá nhân, doanh nghiệp, mà người dân không hề được hưởng lợi điều gì khi cây xanh cũng thiếu, các công trình văn hóa, công viên công cộng, điểm vui chơi giải trí cũng không có…
Và với quan điểm cá nhân, nếu nhìn tổng quát nhất thì một số vị đã biến Đà Nẵng thành một thành phố buôn đất, cò đất, “xẻ thịt” đất ra để bán… Và chấm hết!
Đà Nẵng phát triển không “ký ức”
– Với những sai lầm như ông chia sẻ, Đà Nẵng đã và sẽ trả giá gì cho những sai lầm đó thưa ông?
– Bán hết đất rồi thì sẽ làm gì? Nguồn thu sẽ lấy ở đâu ra? Ai cũng cảnh báo nhưng không nghe thì bây giờ đã rõ ràng quá rồi. Đà Nẵng nguy cơ sẽ chẳng còn vị thế gì, khi cảng biển thì Quảng Nam, Bình Định đang dần định hình vị thế; Cảng hàng không thì nơi nào cũng có; Đường sắt thì họ ở ngay cạnh tuyến huyết mạch đường bộ và Khu công nghiệp sản xuất…
Như tôi đã nói, nếu Đà Nẵng thực hiện đúng như những định hướng được các chuyên gia kinh tế hàng đầu đưa ra theo Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị, thì Đà Nẵng đã phát triển mạnh mẽ gấp 3, gấp 5 lần hiện tại. Nếu định hướng đúng đắn, Đà Nẵng sẽ không mất dần những giá trị văn hóa lịch sử, tâm linh,… Đà Nẵng sẽ không mất đi sự bảo tồn của Sơn Trà, không mất đi những ngôi nhà Pháp cổ, những di tích xa xưa,… Nói nôm na là Đà Nẵng đã phải trả giá đắt khi quy hoạch TP bị “băm nát”, chia lô bán nền, phát triển mà không tính đến giá trị cốt lõi của văn hóa, truyền thống lịch sử…
Hậu quả đó khiến Đà Nẵng không còn nguồn lực để phát triển mang tính bền vững hay chuyển hướng phát triển. Lớn hơn nữa, Đà Nẵng có nguy cơ mất một cái rất quan trọng đó là cơ hội, là nguồn lực con người, năng lực của con người, là những ngành nghề truyền thống có chất xám, tay nghề cao đã bị dần mai một, xóa nhòa vì định hướng sai lầm. Và trả giá lớn nhất là thời gian và nguồn lực đất đai, nguồn lực con người, là cơ hội để quay trở lại với định hướng phát triển đã vạch ra.
– Với những sai lầm như ông vừa nêu, Đà Nẵng liệu có sửa sai được không?
– Tôi chỉ có thể nói rằng, Đà Nẵng không sửa là tụt lại và vướng vào đống bùng nhùng của phát triển tự phát, lộn xộn của trật tự đô thị,… nên bằng giá nào Đà Nẵng cũng phải sửa.
Theo tôi, công trình cầu Thuận Phước là một điển hình của lãng phí, của sai lầm trong quy hoạch và xây dựng , gây hao phí từ nguồn lực, giao thông cho đến bài toán kinh tế của phát triển cảng biển. Định hướng không thành công đã làm tăng gánh nặng giải tỏa hàng hóa lên tuyến đường Ngô Quyền với nhiều tiềm ẩn an toàn giao thông, chi phí vận chuyển,… Và dù đã thấy sai, nhưng bài toán sửa sai cảng Liên Chiểu cũng vẫn chưa làm dù đã nói rất nhiều. Đến nay, cảng vẫn phát triển theo tư duy duy ý chí, phục vụ lợi ích của ai đó chứ không vì sự phát triển của đại bộ phận người dân.
Ông Nghĩa nói như vậy nhưng thực sự tôi chưa biết quyết tâm và năng lực của ông ấy thế nào. Về điều chỉnh quy hoạch, ông Nghĩa đã nói nhiều điểm rất hay. Ví dụ như quy hoạch đường ven biển, đường đi bộ, đi xe đạp,…Nhưng đó là nói, còn làm vẫn chưa thấy động tĩnh gì mấy. Như ở Nam Ô, dự án lấn chiếm biển, lấn chiếm di tích linh thiêng hàng mấy trăm năm của địa phương vẫn chưa thấy động tĩnh gì trong việc điều chỉnh. Đúng ra cần xem xét khi họ chưa làm thì mình yêu cầu dừng và điều chỉnh, phải nhảy vô làm liền, mình sai thì mình sửa,…chứ đừng để họ xây dựng rồi mới điều chỉnh, như vậy là rất khó. Nếu ông Nghĩa làm được như vậy, nhân dân chắc chắn sẽ đồng tình, ủng hộ.
Không sửa thì vô vọng
– Và làm thế nào để sửa sai, để khắc phục sai lầm?
– Theo tôi, cần xác định lại định hướng quy hoạch phát triển Đà Nẵng, điều này đã có, đã được Chính phủ phê duyệt và chúng ta chỉ cần làm theo. Đó là phát triển công nghiệp sản xuất, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, ô nhiễm thấp. Phát triển kinh tế biển, định hướng phát triển cảng biển theo hướng liên hoàn, phù hợp với tiềm năng sẵn có của Đà Nẵng. Tiếp theo là thu hồi lại đất công sản, giữ làm của để dành để sử dụng cho phát triển chung của TP. Và Đà Nẵng phải có Nghị quyết quán triệt trong toàn TP, rằng ta đã làm sai và cần đi đúng trở lại. Và đi phải tuân thủ pháp luật, cam kết theo đuổi đến cùng và cương quyết thực hiện như vậy không có tư duy nhiệm kỳ.
Hành động là cần dừng ngay những chỗ có thể dừng được, đó là những dự án chưa xây dựng, hoặc đang xây dựng dang dở, phải đừng ngay để rà soát thì mới điều chỉnh được. Cần thiết phải thu hồi ngay lại để phục vụ định hướng lâu dài.
Ví dụ như Sơn Trà, biển Nam Ô, ven biển Mỹ Khê, Non Nước chẳng hạn, phải dừng ngay những công trình chưa xây dựng, những hạng mục lấn chiếm biển,… không để chiếm tư hữu bãi biển của người dân.
Hay những di tích lịch sử, văn hóa tâm linh, các công trình kiến trúc gắn mới dấu mốc quan trọng của Đà Nẵng,…cần rà soát, tôn tạo, bảo vệ và vinh danh. Phải dừng lại tất cả những hành động xâm phạm, phải giữ đó cái đã. Như vậy mới gọi là hành động, như vậy mới quyết liệt.
Bên cạnh đó, cần xác định giá trị của Đà Nẵng là cái gì? Họ đến với Đà Nẵng là vì cái gì? Họ đến với Đà Nẵng là họ đến với hệ sinh thái cảnh quan Sơn Trà, đến với danh tích Ngũ Hành Sơn, đến với các dấu ấn xưa, với văn hóa ngàn đời, với những dinh trấn bờ cõi, với bãi biển đẹp hoang sơ được gìn giữ,… chứ không phải là những cây cầu, những hầm chui, những nhà cao tầng, hay những khu nghỉ dưỡng băm nát bãi biển. Đối với thế giới, những thứ Đà Nẵng đang theo đuổi họ còn có hơn chúng ta. Nếu họ đến, rồi họ cũng bỏ đi, bởi nó không có gì khác biệt hơn. Nên chúng ta phải gìn giữ những giá trị mà chỉ riêng chúng ta mới có.
– Vậy theo ông, Đà Nẵng sẽ mất bao nhiêu năm mới sửa được sai lầm này?
– Đây là câu hỏi khó, khó để có thể trả lời được, bởi mình làm sai 15 năm thì có khi phải mất nhiều năm mới sửa được sai. Ví dụ như về cải cách ruộng đất ngày xưa, sai lầm chỉ 1 năm, nhưng mất hơn 20 năm vẫn chưa sửa được sai và đã kìm hãm kinh tế ghê gớm. Bài học cải tạo công thương nghiệp cũng vậy, mất đến hàng chục năm mới khắc phục được.
Định hướng Đà Nẵng là đầu tàu kinh tế của khu vực, nhưng hiện tại các toa đã chạy trước đầu tàu rồi. Vậy thì quay lại với sai lầm quy hoạch của Đà Nẵng, nếu bắt đầu khắc phục sai lầm ngay bây giờ và làm quyết liệt thì chắc Đà Nẵng phải mất khá nhiều năm sau thì mới có thể quay lại mốc phát triển đã đặt ra như định hướng ban đầu của Bộ Chính trị dành cho Đà Nẵng.
Tôi hy vọng sau 20 năm nữa, sửa đổi của ông Nghĩa sẽ thành công. Nhưng muốn vậy thì phải làm ngay từ bây giờ. Còn không thì vô vọng!
Nước Nhật trong lịch sử từng hai lần được mở cửa với thế giới phương Tây, nhờ đó nhanh chóng trở thành cường quốc thế giới. Và như một định mệnh, cả hai lần mở cửa ấy đều do người Mỹ chủ động thực hiện.
Nhân vật đầu tiên mở toang cánh cổng mấy nghìn năm đóng kín nước Nhật phong kiến bảo thủ là Phó Đô đốc Hải quân Mỹ Matthew Perry (1794-1858). Ngày 14/7/1853 hạm đội do ông chỉ huy cặp bến Kurihama (nay là Yokosuka) ở vịnh Tokyo, chuyển tới chính quyền Nhật thư của Tổng thống Mỹ Millard Fillmore yêu cầu Nhật mở cửa thông thương với Mỹ. Chín tháng sau, khi hạm đội Perry quay lại Tokyo, chính quyền Nhật chấp nhận mở cửa, từ đó nước Nhật sang trang lịch sử mới, bắt đầu bước lên con đường hiện đại hóa, nhanh chóng trở thành một cường quốc. Để ghi nhớ sự kiện lịch sử ấy, năm 1901 người Nhật khánh thành Công viên Perry cùng tượng đài kỷ niệm ông tại chính địa điểm Perry lên bờ lần đầu. Nhưng cuối cùng sự nghiệp hiện đại hóa vẻ vang ấy đã bị thế lực quân phiệt Nhật chôn vùi trong đống tro tàn của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương do họ gây ra.
Lần mở cửa thứ nhất kết thúc thất bại vì nước Nhật chưa triệt để hiện đại hóa về chính trị. Nhưng sau đó nước này được mở cửa lần nữa, mở cửa toàn diện và sẽ không thể thất bại, bởi lẽ lần này nhân dân Nhật được làm chủ đất nước. Nhân vật mở cửa nước Nhật lần thứ hai lại là một người Mỹ – tướng Douglas MacArthur (1880-1964).
Nếu như ngót trăm năm trước Perry dựa vào đội tàu chiến hùng mạnh của ông để gây sức ép đòi Nhật mở cửa buôn bán với Mỹ, và ông phải chờ 9 tháng sau mới nhận được sự đồng ý của Tokyo, thì lần này MacArthur được toàn quyền quyết định số phận nước Nhật. Trong gần 6 năm chỉ huy đội quân chiếm đóng Nhật, ông đã sử dụng quyền lãnh đạo tối cao nước này để thực hiện mục tiêu tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phong kiến quân phiệt Nhật, cải tạo toàn bộ nền chính trị, kinh tế, giáo dục theo một mô hình mới người Nhật chưa từng biết, khiến nước Nhật thực sự “Thoát Á nhập Âu”, trở thành quốc gia có chế độ chính trị-kinh tế-xã hội tiên tiến, tạo điều kiện để tới năm 1968 trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
MacArthur giám sát cuộc chiếm đóng Nhật Bản từ 1945 đến 1951 và được công nhận vì những đóng góp cho những thay đổi dân chủ sâu rộng của đất nước này (Ảnh: Wiki)
Đóng góp của MacArthur đối với nước Nhật lớn tới mức ông là người nước ngoài duy nhất được xếp vào danh sách Mười hai người tạo dựng nước Nhật (The Twelve Men Who Made Japan) trong cuốn sách cùng tên của Sakaiya Taichi xuất bản năm 2003 tại Tokyo. Chương 10 sách này có đầu đề “MacArthur – Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một ‘nước Mỹ lý tưởng’”. Sở dĩ gọi là “nước Mỹ lý tưởng” vì MacArthur không hài lòng với nước Mỹ đương thời, ông tưởng tượng ra một nước Mỹ hoàn hảo hơn, và ông muốn tạo dựng nước Nhật theo hình mẫu nước Mỹ lý tưởng ấy. Quả thực ông đã đem lại cho người Nhật những thứ họ chưa từng biết đến: chế độ chính trị dân chủ, bình đẳng nam nữ, tự do ngôn luận, nền kinh tế không có các đại tập đoàn gia tộc, v.v… Nhưng không phải người Nhật chấp nhận tất cả những thứ mới lạ ấy, chẳng hạn về sau họ lại xây dựng các tập đoàn công nghiệp khổng lồ có tính sở hữu gia tộc.
Nếu Perry chỉ là một vị khách của nước Nhật thì MacArthur là chúa tể nước này trong khoảng 6 năm sau Thế chiến II, quyền lực cao hơn cả vua nước Nhật.
Người Nhật gọi đức vua của họ là Thiên Hoàng (tiếng Nhật: Tenno), vì họ tin rằng gia tộc nhà vua ấy là dòng dõi của Thiên Chiếu Đại Thần, tức Thần Mặt Trời Amaterasu, là người thần, không phải người thường, vì thế được quyền cha truyền con nối cai trị nước Nhật suốt lịch sử, chưa hề bị thay bằng người khác gia tộc (như ở Trung Quốc, Việt Nam).
Vì MacArthur chỉ huy cả đương kim Thiên Hoàng Hirohito nên người Nhật gọi ông là Thái Thượng Hoàng, tức hoàng đế đã truyền ngôi cho con nhưng vẫn nắm thực quyền.
Trước đó MacArthur đã rất nổi tiếng ở Mỹ. Ông là người Mỹ duy nhất từng chiến đấu trong 3 cuộc chiến lớn là Thế chiến I, II và Chiến tranh Triều Tiên, thập niên 1930 từng làm Tổng Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, là một trong 5 quân nhân Mỹ được phong hàm Thống tướng (General of the Army), là người Mỹ duy nhất được Chính phủ Philippines phong hàm Nguyên soái quân đội Philippines (Field Marshal). Vị tướng 5 sao này nổi tiếng với câu nói: “Trong chiến tranh không có gì thay thế được chiến thắng (In war, there is no substitute for victory). Ông có cá tính mạnh mẽ, thẳng thắn tranh cãi với cấp trên, với các Tổng thống Mỹ ông từng phục vụ. Cũng vì mâu thuẫn với Tổng thống Truman về chủ trương giải quyết cuộc chiến tranh Triều Tiên (MacArthur muốn ném bom vùng Đông Bắc Trung Quốc, Truman phản đối vì ngại Liên Xô có cớ can thiệp) mà tháng 4/1951 ông bị mất chức và phải về Mỹ, kết thúc cuộc đời binh nghiệp 52 năm.
Tháng 8/1945, MacArthur 65 tuổi được cử làm Tư lệnh Tối cao Quân đội Đồng minh (Supreme Commander for the Allied Powers, SCAP). Ngày 30/8, ông đến Tokyo. Ngày 2/9, ông thay mặt lực lượng Đồng minh ký văn kiện chấp nhận Nhật đầu hàng trong nghi lễ đầu hàng cử hành trên tàu chiến Missouri của Mỹ đậu trong vịnh Tokyo. Phát biểu tại nghi lễ ấy, ông nói về việc tạo ra một “thế giới tốt đẹp hơn” cho nước Nhật. Ngày 27/9 ông tiếp Thiên Hoàng Hirohito lần đầu tiên.
MacArthur chủ trương thiết lập chế độ chiếm đóng quân sự nhằm tạo dựng một nước Nhật phi quân sự hóa, dân chủ hóa và phi tập trung hóa, hạn chế chủ quyền quốc gia vào 4 đảo chính (Honshu, Hokkaido, Shikoku, Kyushu) và một số đảo nhỏ. Chế độ chiếm đóng kéo dài 6 năm 8 tháng kết thúc ngày 8/9/1951, khi 51 quốc gia ký với Nhật Hòa ước San Francisco. Sau khi Hòa ước có hiệu lực (28/4/1952), Nhật trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền, năm 1956 gia nhập Liên Hợp Quốc.
Nước Mỹ huy động 350.000 lính chiếm đóng đất Nhật nhằm bảo đảm sự tuân thủ các điều kiện đầu hàng. Lính Mỹ đã tiến hành giải thoát tù binh, sa thải toàn bộ viên chức chính quyền quân phiệt, tước vũ khí và giải tán quân đội Nhật, buộc toàn bộ hơn 7 triệu lính Nhật trở về gia đình. Hai Bộ Lục quân và Hải quân Nhật bị bãi bỏ, tất cả đạn dược và vũ khí, thiết bị quân sự bị phá hủy. Công nghiệp quân sự chuyển sang sản xuất hàng dân dụng.
MacArthur tự mình đưa ra hai quyết định quan trọng: giữ lại Thiên Hoàng Nhật, và trừng trị các tội phạm chiến tranh Nhật. Với quyết định thứ nhất, ông đã chống lại sức ép mạnh mẽ từ trong nước và từ các nước Đồng minh đòi xử tử đầu sỏ tội phạm chiến tranh Hirohito và thủ tiêu chế độ Thiên Hoàng. Tuy rằng bản thân Hirohito cũng tự nhận chịu toàn bộ trách nhiệm về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, nhưng MacArthur cho rằng Thiên Hoàng là biểu tượng sống của nước Nhật, biểu tượng sự ổn định và hòa hợp của người Nhật, nếu không có Thiên Hoàng thì dân tộc này sẽ hỗn loạn, các phe phái sẽ tranh giành quyền lực, gây mất ổn định chính trị, tàn binh Nhật sẽ tổ chức đánh du kích chống lại quân chiếm đóng. Quan điểm này về sau đã được chứng minh là đúng. Dân Nhật có truyền thống tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành lời Thiên Hoàng, họ không hề có hành động nào chống lại quân chiếm đóng.
MacArthur và Thiên Hoàng Hirohito gặp nhau tất cả 11 lần, Hirohito đều tiếp thu các chủ trương của MacArthur về quản trị nước Nhật. Ngày 1/1/1946, Hirohito đọc bản Tuyên ngôn Nhân gian(Ningen-sengen) trên đài truyền thanh, lần đầu tiên trong lịch sử tuyên bố Thiên Hoàng chỉ là người thường, không phải thần thánh, nghĩa là chấp nhận từ bỏ địa vị nắm quyền tối cao của quốc gia. Như vậy MacArthur là người lãnh đạo cao nhất nước Nhật.
Thi hành quyết định thứ hai, các quan tòa người Mỹ đã tổ chức xét xử tội ác chiến tranh, phát hiện hơn 4.200 quan chức Nhật có tội, trong đó 700 tội phạm nặng nhất bị kết án tử hình. Ngoài ra 186 nghìn nhân vật công chúng (public figures) bị thanh trừng. 28 quan chức chính phủ và sĩ quan cấp cao bị đưa ra Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn đông họp ở Tokyo, trong đó 25 người bị tuyên án có tội, 7 người bị kết án tử hình.
Sau khi đến Nhật, MacArthur lập tức ra lệnh cấm quân đội Đồng minh tấn công người Nhât và dùng lương thực thực phẩm của Nhật. Ông yêu cầu Chính phủ Mỹ viện trợ khẩn cấp lương thực thực phẩm cho Nhật để ngăn ngừa nạn đói và rối loạn chính trị. Sau chiến tranh, nước này chỉ còn là đống tro tàn. 9 triệu người không có nhà ở, 13 triệu người thất nghiệp. Bộ Tài chính Nhật báo cáo có 10 triệu dân bị đói. Đường phố đầy người ăn xin, phần lớn là lính giải ngũ và người tàn tật. Khẩu phần ăn của mỗi viên chức chỉ bằng một nửa so với tiêu chuẩn 2.200 calorie/ngày. Đã thế mùa màng năm 1945 lại xấu nhất trong 30 năm. Giá lương thực đắt gấp 7,5 lần. MacArthur lập tức tìm mọi cách cứu đói. Ngay từ cuối năm 1945 ông sửa lại kế hoạch đưa quân đội Mỹ đến chiếm đóng Nhật, giảm bớt 200.000 người, lấy số lương thực dôi ra để giúp dân Nhật. Năm 1946, ông đề nghị Chính phủ Mỹ viện trợ không hoàn lại cho Nhật 330 triệu USD; năm 1947 – 297 triệu USD. Quốc hội Mỹ đáp ứng mọi yêu cầu cứu đói dân Nhật do MacArthur nêu ra. Nhờ đó tới năm 1948, công chức Nhật đã được hưởng khẩu phần 2.000 calorie/ngày. Năm 1949, dự trữ lương thực từ số không lên tới 3 triệu tấn. Sản lượng gạo năm 1950 đạt 9,5 triệu tấn. Chính phủ Nhật dự định từ 4/1951 sẽ bỏ chế độ tem phiếu lương thực, nhưng sau đó phải hoãn lại, vì chiến tranh Triều Tiên bất ngờ có thay đổi do Trung Quốc đưa quân vào Triều Tiên tham chiến.
MacArthur chủ trương xây dựng tại Nhật một chế độ dân chủ kiểu Mỹ. Ông từng nói: “Xét theo tiêu chuẩn hiện đại, nước Nhật là “một bé trai 12 tuổi” (a boy of 12), cần được dẫn dắt tiến lên chế độ dân chủ và chế độ tư bản phương Tây. Một trong những việc đầu tiên ông làm sau khi đến nước này là tịch thu 5 triệu thanh kiếm Nhật – biểu tượng tinh thần thượng võ của samurai (võ sĩ), từng bị bọn quân phiệt Nhật lợi dụng để gây chiến tranh. Ông ra lệnh bãi bỏ Thần đạo nhà nước (State Shinto) tức quốc giáo của nước Nhật, tôn giáo từng được bọn quân phiệt lợi dụng để phục vụ chiến tranh xâm lược, tuy vẫn cho các tôn giáo khác hoạt động. Ngày 4/10/1945, ông ra lệnh thả hết tù chính trị, kể cả tù cộng sản Nhật, cho dù Mỹ là nước chống chủ nghĩa cộng sản.
Đồng thời với việc tiệu diệt tận gốc cơ sở của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, MacArthur đã phát động cuộc cải cách dân chủ hóa nước Nhật toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế và giáo dục, khởi đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp.
Ngay từ tháng 7/1945, khi Mỹ, Anh và Trung Hoa Dân quốc bàn về các điều kiện đầu hàng của Nhật, MacArthur đã đề xuất Nhật phải sửa đổi Hiến pháp Minh Trị (ban hành năm 1889) nhằm thực hiện dân chủ hóa nước này. Tháng 10/1945 ông chỉ thị Chính phủ Nhật tiến hành việc đó. Tháng 2/1946 phía Nhật đưa ra dự thảo Hiến pháp, nhưng MacArthur không chấp nhận. Ông lập một Hội đồng gồm 25 người Mỹ và yêu cầu trong vòng một tuần phải dự thảo xong Hiến pháp mới, tức xong trước ngày họp các nước Đồng minh (26/2/1946), như vậy nước ngoài sẽ không thể can thiệp nội trị Nhật.
Hiến pháp mới thể hiện đầy đủ quan điểm tự do dân chủ và nguyên tắc tam quyền phân lập. Thiên Hoàng bị tước bỏ địa vị nắm quyền tối cao của quốc gia, chỉ còn là “Tượng trưng của quốc gia Nhật, của khối thống nhất quốc dân Nhật; địa vị của Thiên Hoàng dựa vào ý chí của toàn dân”. Việc cải cách triệt để chế độ Thiên Hoàng đã quét sạch chủ nghĩa độc tài chuyên chế phong kiến và đánh sập trụ cột tinh thần của chủ nghĩa phát xít Nhật.
Chương II quan trọng nhất chỉ có một điều khoản (Điều 9) ghi rõ: Nhân dân Nhật vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh, vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe dọa vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Nhằm mục đích đó, nước Nhật sẽ không duy trì lục quân, hải quân, không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, không công nhận quyền tuyên chiến của quốc gia có chủ quyền.
Chế độ Nghị viện được cải cách theo hướng dân chủ hóa: Quốc hội gồm Thượng viện và Hạ viện, thành viên Quốc hội là do công dân đủ 20 tuổi trực tiếp bỏ phiếu bầu ra. Thiên Hoàng và quân đội không còn có quyền can thiệp vào công việc của Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội chỉ định, do lãnh tụ chính đảng giành nhiều phiếu nhất trong Quốc hội đảm nhiệm. Quân nhân chuyên nghiệp không được tham gia Chính phủ. Chế độ tập trung quyền lực được thay bằng chế độ địa phương tự trị. Quyền tư pháp không còn tập trung vào Thiên Hoàng như trước mà thuộc về Tòa án Tối cao và Tòa án các cấp, mở rộng tính độc lập của các cơ quan tư pháp. Các điều 10~40 của Hiến pháp mới quy định quyền lợi và nghĩa vụ công dân; phụ nữ trước đây có địa vị cực thấp trong xã hội nay được hoàn toàn bình đẳng với nam giới.
Ngày 10/4/1946, nước Nhật tổ chức tổng tuyển cử, bầu ra Chính phủ đầu tiên. Thiên Hoàng Hirohito và đại đa số dân Nhật ủng hộ Hiến pháp mới. Ngày 3/11/1946 Hirohito công bố Hiến pháp này trước Nghị viện. Từ 3/5/1947 bắt đầu thực thi Hiến pháp mới, đánh dấu thắng lợi của công cuộc cải cách chính trị.
Về giáo dục, MacArthur chỉ thị loại bỏ tư tưởng quân phiệt ra khỏi hệ thống trường học, cấm tuyên truyền giáo dục Thần đạo, phải dạy học sinh học tinh thần dân chủ chứ không dạy sùng bái nhà vua, cấm dạy tinh thần Võ Sĩ Đạo (Bushido). Luật Cơ bản về giáo dục ban hành ngày 31/3/1947 cải cách thể chế hành chính giáo dục tập trung quyền lực vào trung ương, thực hành chế độ phân quyền địa phương, Ủy ban Giáo dục các cấp do dân bầu ra sẽ phụ trách công việc hành chính trong công tác giáo dục của địa phương. Hệ thống giáo dục theo kiểu Mỹ này đã đào tạo ra những người trẻ tuổi có tư tưởng tự do dân chủ, căm ghét tư tưởng quân phiệt Nhật và ủng hộ Mỹ.
Đồng thời MacArthur tiến hành các cải cách kinh tế mạnh dạn, như cải cách ruộng đất, tổ chức lại các công đoàn, ủng hộ quyền bãi công của công nhân, tái cơ cấu các tập đoàn tư bản tài chính-công nghiệp. Công cuộc tái phân phối ruộng đất do MacArthur tổ chức được coi là hình mẫu cải cách ruộng đất thành công nhất thế giới, chính ông cũng nói đây là thành tích lớn nhất trong sự nghiệp làm chính trị của mình. Theo chỉ thị của ông, Chính phủ Nhật ban hành Luật Cải cách ruộng đất, lần thứ nhất ngày 28/12/1945, lần thứ hai ngày 21/10/1946. Các chủ đất buộc phải bán cho nhà nước theo giá quy định tất cả số ruộng đất họ không tự cày cấy, sau đó nhà nước bán lại cho nông dân chưa có đất, ưu tiên cho người đang cày thuê mảnh đất đó. Cuộc cải cách này tiến hành rất quyết liệt và triệt để, kết quả toàn bộ người cày đều có ruộng, nước Nhật thực sự không còn tầng lớp địa chủ nữa, tức không còn cơ sở của chế độ phong kiến.
Nền công nghiệp Nhật trước đây tập trung vào tay các zaibatsu (tập đoàn tài phiệt gia tộc) nhằm phục vụ chính sách xâm lược của quân phiệt Nhật. MacArthur chủ trương giải thể các zaibatsu. Bước đầu, hai zaibatsu lớn nhất là Mitsubishi và Sumimoto bị chia thành nhiều công ty cổ phần nhỏ, 56 người là gia tộc tài phiệt của 10 zaibatsu lớn bị chỉ đích danh và buộc phải nộp hơn 160 triệu cổ phiếu trị giá hơn 7,57 tỷ Yên. Bước hai, ông chỉ thị Chính phủ Nhật ban hành Luật Cấm độc quyền và lập Ủy ban Kinh doanh công bằng, nhằm ngăn chặn sự phục hồi tư bản độc quyền.
Thông thường dân nước bại trận rất sợ quân đội nước thắng trận sẽ có những hành động trả thù. Khi chuẩn bị đón lính Mỹ tới chiếm đóng, chính quyền Nhật đã lập nhiều nhà thổ, tập trung gái điếm để “phục vụ” lính Mỹ, nhằm tránh xảy ra nạn lính Mỹ cưỡng bức phụ nữ Nhật. Nhiều cô gái Nhật cắt tóc ngắn giả làm con trai, có cô mang theo thuốc độc để tự tử khi bị cưỡng bức… Thế nhưng phụ nữ Nhật đã không phải lo sợ. MacArthur chỉ thị lính Mỹ phải tôn trọng dân bản xứ, ví dụ phải bỏ giày khi vào nhà, giúp đỡ các trẻ em thiếu ăn, nhường đường cho họ v.v… Vì thế người Nhật từ chỗ e sợ trở nên quý mến người Mỹ, chỉ sau 6 tháng đổ bộ lên đất Nhật, lính Mỹ ra đường không cần mang vũ khí tự vệ nữa. Và khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, MacArthur đã có thể yên tâm rút phần lớn quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật sang mặt trận Triều Tiên chiến đấu trong lực lượng Liên Hợp Quốc do ông chỉ huy chống lại Bắc Triều Tiên.
MacArthur chưa hề đi hết nước Nhật, ông rất ít gặp người Nhật, chỉ tiếp xúc với một số quan chức Nhật cấp cao, thế nhưng đông đảo dân Nhật có thiện cảm với ông tới mức say mê, tôn kính ông như tôn kính Thiên Hoàng, coi ông là cứu tinh của nước Nhật. Họ gửi tặng ông vô số quà biếu và lời mời. Cách thể hiện tình cảm thú vị nhất là họ viết thư cho ông. Tổng cộng MacArthur đã nhận được khoảng nửa triệu bức thư từ dân chúng Nhật. Nhiều người cảm ơn chính sách rộng lượng của MacArthur và nước Mỹ. Có thư tố cáo những tên phát xít còn ẩn náu trong dân. Nhà văn Nhật Sodei Rinjiro từng viết cuốn sách có tên “Tướng MacArthur thân mến: Những bức thư gửi từ người Nhật trong thời gian Mỹ chiếm đóng” (xuất bản 2001). Sodei đã đọc hơn 10 nghìn thư, và trích đăng vào cuốn sách của mình 120 bức thư thú vị và quan trọng.
Người Nhật thích MacArthur vì ông đã giải thoát họ khỏi chiến tranh, đói nghèo, khỏi ách áp bức của chế độ chính trị chuyên chế Nhật, cũng như khỏi tâm trạng chán chường thất vọng. Dưới sự chỉ huy của MacArthur, đội quân chiếm đóng Nhật trở thành đội quân giải phóng nhân dân Nhật. Trước và trong chiến tranh, người Nhật sống dưới ách cùm kẹp của bọn quân phiệt. Hệ thống cảnh sát quân sự Kampeitai [còn viết Kenpeitai, tức Hiến binh đội, thành lập năm 1881] theo dõi thái độ chính trị của từng người, chúng không cho dân được nói ý kiến của mình, bỏ tù hoặc giết bất cứ ai dám có ý kiến khác với chính quyền hoặc không ủng hộ các nỗ lực chiến tranh. Vì thế khi SCAP ban hành các sắc lệnh thủ tiêu mọi sự hạn chế quyền lợi của dân chúng, người Nhật vô cùng cảm động, phấn khởi và biết ơn người Mỹ. Ngay từ tháng 10/1945, MacArthur đã tuyên bố toàn dân Nhật có quyền tự do phát ngôn và hội họp. Ông ra lệnh cho Thủ tướng Nhật mở rộng quyền của các công đoàn, trao cho phụ nữ quyền tự do ngôn luận và bầu cử.
Nhiều sử gia cho rằng việc đưa nước Nhật đi từ chế độ quân phiệt phong kiến lên chế độ dân chủ hiện đại là công trạng lớn nhất của MacArthur, lớn hơn bất cứ chiến công nào ông từng lập được trên các chiến trường Thế chiến I, II và chiến tranh Triều Tiên. Bản thân MacArthur cũng tự coi ông là người mở cửa nước Nhật lần thứ hai, hơn là một người chinh phục quốc gia này.
Khảng khái giúp đỡ nhân dân nước thù địch bại trận là một chính sách sáng suốt đã đem lại cho nước Mỹ thiện cảm của nhiều người. Phát xít Nhật là kẻ thù tàn bạo nhất, gây ra nhiều thiệt hại nhất cho nước Mỹ trong Thế chiến II. Nhật không tuyên chiến mà hèn hạ đánh trộm Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), làm hơn 3.000 người Mỹ thương vong, gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương tàn khốc. Lính Nhật đã tra tấn, hành hạ đến chết nhiều tù binh Đồng minh, tội ác của chúng khiến dân Mỹ kinh tởm…. Vì thế tướng MacArthur đã phải chịu sức ép lớn từ trong nước khi ông yêu cầu nước mình viện trợ lương thực cứu đói nước Nhật. Nhờ MacArthur có uy tín cá nhân rất cao trong nhân dân Mỹ, các yêu cầu của ông đã được chấp nhận. Sự viện trợ to lớn, hào hiệp của nước Mỹ đã giúp người Nhật thoát khỏi tình cảnh vô cùng khó khăn, nhanh chóng phục hồi nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Ngay từ ngày mới đến Nhật, MacArthur từng chân thành thổ lộ ý muốn biến nước Nhật thành một Thụy Sĩ phương Đông. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là thời cơ có một không hai giúp kinh tế Nhật cất cánh. Sản xuất công nghiệp tăng vọt do nhận được những đơn đặt hàng khổng lồ của quân đội Mỹ. Rốt cuộc nước Nhật thù địch trở thành siêu cường kinh tế thứ hai thế giới và đồng minh trung thành của Mỹ.
MacArthur một mình cai trị toàn diện nước Nhật bại trận trong gần 6 năm, bỏ ngoài tai mọi ý kiến bất đồng của các nghị sĩ và quan chức Mỹ; người ta gọi ông là “nhà độc tài thần thánh” (Godlike dictator). Nhưng nhà độc tài ấy được đông đảo dân Nhật thực sự tôn kính với lòng biết ơn sâu sắc. Có phụ nữ Nhật viết thư xin được sinh con với ông. Khi MacArthur tranh cử Tổng thống Mỹ năm 1948, người Nhật ủng hộ ông mạnh nhất. Ngày ông trở về Mỹ, hàng trăm nghìn người Nhật kéo nhau ra đường đưa tiễn, hô vang “Đại nguyên soái”, nhiều người nước mắt ròng ròng.
Hồi ký của Kiichi Miyazawa (Thủ tướng Nhật nhiệm kỳ 1991-1993) có đoạn viết:
Ngày 11/4/1951, báo đài đưa tin MacArthur bị miễn chức. Tin này làm người Nhật vô cùng sửng sốt, họ không thể nghĩ tới chuyện Thống tướng MacArthur – người nghiễm nhiên tự cho mình là Thái Thượng Hoàng nước Nhật lại có thể bị bãi miễn dễ dàng bởi một mệnh lệnh của Tổng thống. MacArthur là người nắm quyền lực tối cao ở Nhật. Hàng ngày ông đi làm và về nhà bằng xe cắm quốc kỳ Mỹ. Khi ấy giao thông trên các đường phố xung quanh trụ sở Bộ Tư lệnh SCAP đều bị cấm, quân cảnh Mỹ đứng trên các ngã tư chỉ huy giao thông… Ngày 16/4, MacArthur rời Tokyo về Mỹ. Hôm ấy dân chúng Nhật đứng chật kín suốt hai bên đường từ trụ sở SCAP tới sân bay Haneda. Thủ tướng Nhật cùng toàn thể thành viên Chính phủ ra sân bay tiễn đưa. Tôi đứng sau Bộ trưởng Tài chính, đối diện với chiếc chuyên cơ. MacArthur cùng vợ và con trai lần lượt bắt tay từng quan chức. Khi MacArthur bước lên thang máy bay, một quan chức Nhật bỗng hô to “MacArthur muôn năm !” Thế là tất cả mọi người đều giơ tay hô theo “Muôn năm”….
Trở về Tổ quốc sau 11 năm ở châu Á, ngày 19/4/1951 MacArthur ra trước Quốc Hội Mỹ đọc bài diễn văn từ biệt kết thúc bằng lời một khúc quân ca: “Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ phai nhạt dần (Old soldies never die; they just fade away).” “Và giống như người lính già của bài hát đó, giờ đây tôi khép lại cuộc đời binh nghiệp của tôi và mờ nhạt dần — một người lính già đã tận sức mình làm tròn bổn phận của mình khi Thượng Đế ban cho tôi ánh sáng để tôi thấy được bổn phận đó. Xin tạm biệt.” Bài nói dài 11 phút bị ngắt quãng 10 lần bởi những tràng vỗ tay và cuối cùng cử tọa đứng dậy hoan hô nồng nhiệt. Diễn văn có tên “Những người lính già không bao giờ chết” này được coi là một trong số những bài diễn văn hay nhất thế giới.
Douglas MacArthur qua đời ngày 5/4/1964 tại Washington, D.C, thọ 84 tuổi. Lễ tang ông cử hành theo quy chế quốc tang. Ông được mai táng tại Nhà Tưởng niệm Douglas MacArthur ở thành phố Norfolk, bang Virginia. Đây là nhà bảo tàng lưu giữ bộ sưu tập về cuộc đời binh nghiệp của vị danh tướng này, và cũng là nơi yên nghỉ của vợ ông – bà Jean Marie Faircloth, một nhà hoạt động xã hội (1898-2000).