Month: Tháng Ba 2017
Bí kíp giữ trái tim khỏe mạnh
Để có trái tim khỏe, bạn cần dành thời gian thư giãn như cười nhiều, nghe nhạc, ngủ đủ, tập yoga, năng động…, theo Livewell.

Hà An / VietnamExpress
Điều gì khiến một quốc gia hạnh phúc?
Một góc ở Amsterdam, Hà Lan, nước thuộc top hạnh phúc nhất thế giới. Nguồn: Good.is
Chất lượng sống nói chung và yếu tố tài chính nói riêng đóng vai trò rất quan trọng đối với bảng xếp hạng “quốc gia hạnh phúc”. Nhưng chắc chắn, khái niệm nặng về cảm tính này vẫn rất dễ gây tranh cãi.
Tuần trước, Na Uy trở thành thiên đường số một thế giới sau khi vượt qua Đan Mạch để xếp đầu danh sách quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Danh sách này nằm trong Báo cáo về hạnh phúc Thế giới (WHR), nhân Ngày Hạnh phúc Quốc tế (20/3), do Mạng lưới Giải pháp Phát triển Bền vững của Liên Hiệp Quốc công bố.
Theo báo cáo trên, việc xếp hạng các nước dựa vào những yếu tố tạo nên hạnh phúc, ví dụ từ xã hội là sự chăm sóc, tự do, sức khỏe; về kinh tế là thu nhập, sự hào phóng; về chính trị là sự bền vững và niềm tin vào chính phủ… Những yếu tố này có thể gộp chung thành một khái niệm tương tự sự thịnh vượng, và vì thế nó không nhất thiết phải gắn quá chặt vào tiền bạc. Đồng nghĩa, không phải một nước giàu là một nước hạnh phúc.
Về cơ bản, tiền vẫn mang lại cơ sở nhất định. Nhóm các nước hạnh phúc nhất nhiều năm gần đây vẫn nằm quanh quẩn ở Bắc Âu, nơi khá yên bình về chính trị và mức sống của người dân khá cao, ngoài ra còn tạo một hình ảnh đẹp rất đặc trưng ở phúc lợi xã hội, giáo dục miễn phí… Ngược lại, các điểm nóng chính trị lại ít hạnh phúc hơn. Mỹ lọt xuống thứ 15, còn Trung Quốc “mất dạng” dù đây là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Thực tế, câu “tiền không mang lại hạnh phúc” vẫn đúng, vì trong top 5 nước đứng đầu, ngoại trừ Iceland thì Na Uy, Đan Mạch, Thụy Sĩ và Phần Lan đều có tăng trưởng GDP bình quân thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của thế giới trong giai đoạn 2014-2016, theo số liệu của WHR.
Giải thích về điều này, Bloomberg dẫn lời các nhà kinh tế học nổi tiếng như Effrey Sachs, Richard Layard và John Helliwell cho biết, sự giàu có rất dễ định lượng. Nhưng khi đạt đến một mức độ giàu có nhất định, các yếu tố khác như an sinh xã hội, tuổi thọ, sự tự do, sự hào phóng và nhận thức về tham nhũng sẽ bắt đầu thể hiện vai trò trong hạnh phúc.
Bloomberg đưa ra một kết luận rằng, chính sách đúng đắn có thể mang ý nghĩa rất lớn đối với sự hạnh phúc của một quốc gia, và ví dụ như Mỹ, đó là cuộc khủng hoảng xã hội, chứ không phải khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên, có một sự thật rằng nếu ai theo dõi kết quả khảo sát khác có tên Báo cáo Cảm xúc Toàn cầu (GER), đo lường dựa trên trải nghiệm hằng ngày của người dân, thì đứng top là các quốc gia… Mỹ Latinh với Paraguay là những quốc gia hạnh phúc. Khu vực này nổi tiếng với sự nghèo khó, hoặc ít ra là bất bình đẳng thu nhập và tình trạng lạm phát, tham nhũng. Nhưng bù lại, người dân nơi đây gắn liền với hình ảnh hào phóng, mê thể thao, yêu những điệu nhảy, những lễ hội – tiệc tùng.
Tại Paraguay, nơi có loại ngôn ngữ địa phương gọi là Guarani để phân biệt với tiếng Tây Ban Nha, là một thế giới hạnh phúc khác, khác xa Na
Thái Duy.
Đau đầu, cổ, vai thường xuyên coi chừng bị bệnh rễ tủy cổ
Bệnh rễ tủy cổ xảy ra khi có tổn thương rễ thần kinh gần các đốt sống cổ, gây đau vùng cổ, vai và cánh tay.
Bác sĩ Paul D’Alfonso cho biết đau đầu là triệu chứng phổ biến nhất, hầu như mọi người đều trải qua cảm giác này nhiều lần trong cuộc đời. Những cơn đau đầu thoáng qua thường không nguy hiểm, còn nhức đầu do stress chỉ cần nghỉ ngơi, thư giãn là hết. Tuy nhiên cần cảnh giác khi cơn đau kéo dài thường xuyên và tăng dần, đó có thể là dấu hiệu của một số bệnh nguy hiểm như:
Bệnh lý rễ tủy cổ
Bệnh xảy ra khi có những tổn thương của rễ thần kinh gần các đốt sống cổ. Tình trạng này gây đau vùng cổ, vai và cánh tay kèm theo rối loạn cảm giác và vận động ở vùng bị chi phối bởi rễ thần kinh đó. Nguyên nhân gây bệnh lý rễ tủy cổ có thể do chứng thoát vị đĩa đệm cổ, hẹp đốt sống cổ hoặc thoái hóa đốt sống cổ.
![]() |
Bệnh rễ tủy cổ do thoát vị đĩa đệm cột sống gây ra. Ảnhh: Spine-health. |
Đau đầu do bệnh cột sống
Theo nghiên cứu tại Việt Nam, cứ 10 người trưởng thành có 8 người phải chịu đựng các cơn đau nhức đầu. Chứng đau đầu có thể do thức ăn, tiếng ồn, ánh sáng, mất ngủ, thay đổi lượng đường trong máu hoặc các bệnh lý khác. Một trong những nguyên nhân phổ biến gây đau đầu thường xuyên là tình trạng căng cơ cổ, chèn ép dây thần kinh và mạch máu não. Tư thế xấu cũng dẫn đến các áp lực ở vùng cổ và da đầu làm cho máu không thể tuần hoàn lên não, gây đau đầu, đau sau mắt và chóng mặt. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến suy nhược cơ thể, giảm thị giác và các chức năng khác.
Chứng đau nửa đầu
Báo cáo trong Hội nghị Khoa học Tai Mũi Họng toàn quốc năm 2017 diễn ra tại Ninh Bình ngày 8/1, bác sĩ Paul D’Alfonso đã trình bày kết quả nghiên cứu về chứng đau nửa đầu thực hiện trên 50 bệnh nhân từ 10 đến 70 tuổi ở Việt Nam. Bệnh nhân đều bị đau nửa đầu mạn tính, thời gian đau trung bình 18,1 năm. Triệu chứng đau nửa đầu của các bệnh nhân bao gồm đau nhói, buồn nôn, ói, sợ ánh sáng, sợ tiếng động, chuyển động đầu – cổ nặng nề.
Nghiên cứu được đánh giá thông qua các tiêu chí chính là tần suất cơn đau, thời gian đau, cường độ đau và mất bao lâu để quay lại trở lại công việc bình thường. Được điều trị với phương pháp nắn chỉnh cột sống bằng tay với biên độ ngắn, tốc lực cao, kết quả theo dõi cho thấy tần suất các cơn đau nửa đầu của bệnh nhân thuyên giảm đáng kể. 22% người bệnh cho biết giảm 90% triệu chứng đau sau 2 tháng điều trị. 50% cải thiện tốt về hiệu suất lao động và chất lượng cuộc sống.
![]() |
Bác sĩ Paul D’Alfonso đang nắn chỉnh cột sống cho bệnh nhân bị bệnh lý ở cổ. Ảnh: TT. |
Bác sĩ Paul giải thích cơ chế nắn chỉnh cột sống cổ là tác động lực vừa đủ nhằm giải tỏa các áp lực đè nén vào các dây thần kinh ở vùng cổ. Nhờ đó giúp máu lưu thông lên não tốt hơn và triệt tiêu cơn đau. Một liệu trình bao gồm các bước nắn chỉnh bằng tay, massage sâu ở vùng dưới cột sống cổ và trên cột sống ngực. Trong số 50 bệnh nhân bị đau nửa đầu tham gia nghiên cứu trên, 36% cho biết đã giảm sử dụng thuốc giảm đau, 69% giảm thời lượng đau nhức và 36% giảm cường độ đau đầu sau khi được bác sĩ nắn chỉnh cổ.
Những bệnh nhân mắc bệnh lý rễ tủy cổ do thoát vị đĩa đệm cổ cần được nắn chỉnh với một lực dứt khoát, tốc độ cao, biên độ thấp, giúp đốt sống ở vùng này chuyển động tốt hơn và giải toả áp lực lên dây thần kinh. Nghiên cứu trên 50 bệnh nhân từ 18 đến 65 tuổi ghi nhận sau 3 tháng nắn chỉnh, 85,7% bệnh nhân cho biết tình trạng của họ cải thiện rõ rệt và không gặp biến cố bất lợi nào.
Theo bác sĩ Paul, phương pháp trị liệu thần kinh cột sống còn có tác dụng chữa đau cho toàn bộ cơ thể mà không dùng thuốc hay phẫu thuật. Đặc biệt phù hợp cho bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm, thoái hóa đốt sống, đau thần kinh tọa, tê nhức chân tay… Phương pháp này được phát triển bởi một số bác sĩ người Mỹ từ năm 1895, đến nay đã phổ biến ở nhiều quốc gia song còn khá mới mẻ tại Việt Nam.
Đường phố thênh thang sau chiến dịch giành lại vỉa hè
Sau chiến dịch ra quân “đòi” lại vỉa hè cho người đi bộ kéo dài suốt hơn 2 tháng qua, đến nay vỉa hè của nhiều tuyến đường ở trung tâm quận 1, TPHCM đã trở nên thông thoáng và rộng thênh thang, đẹp mắt.
TPHCM:
Theo ghi nhận của PV Dân trí , vỉa hè các tuyến đường ở khu vực quận 1 trước thời điểm ông Đoàn Ngọc Hải – Phó Chủ tịch quận 1 ra quân chỉnh trang đều rất bát nháo. Hầu hết vỉa hè đều bị người dân chiếm dụng làm nơi để xe và kinh doanh.
Tuy nhiên đến thời điểm này, tại những tuyến đường lớn, nạn lấn chiếm vỉa hè đã giảm hẳn, vỉa hè nhiều tuyến đường thông thoáng, sạch đẹp, giúp người dân và du khách đi bộ dễ dàng và an toàn.
Một số hình ảnh do PV Dân trí ghi lại ngày 28/3:
![]() |
Vỉa hè nhiều tuyến đường thênh thang sau chiến dịch “đòi” lại vỉa hè. |
![]() |
Vỉa hè đường Nguyễn Trung Trực trước đây thường xuyên bị các quán nhậu lấn chiếm nhưng nay đã khác |
![]() |
Du khách thoải mái đi bộ trên vỉa hè đường Đồng Khởi rộng thênh thang |
![]() |
Diện mạo các tuyến đường ở quận 1 đã thay đổi rõ rệt |
![]() |
Vỉa hè đường Tôn Đức Thắng trước đây các phương tiện đậu chật kín, chiếm hết lối của người đi bộ. |
![]() |
Xe cộ xếp hàng ngay ngắn chừa lối đi cho người đi bộ trên đường Hàm Nghi |
![]() |
Hình ảnh hiếm có trên đường Calmette (phường Nguyễn Thái Bình) |
![]() |
Người dân đi bộ trên vỉa hè đường Nguyễn Thái Học rộng thênh thang |
![]() |
Hàng loạt bậc thềm của khách sạn New World đã được đập bỏ để trả lại vỉa hè thông thoáng cho người đi bộ. |
![]() |
Vỉa hè đường Trần Quang Khải (phường Tân Định) thông thoáng hiếm có, tuyến đường này cũng là điểm nóng về tình trạng lấn chiếm trước đây |
![]() |
Vỉa hè đường Pasteur |
![]() |
Vỉa hè đường Lý Tự Trọng |
![]() |
Vỉa hè đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa |
![]() |
Vỉa hè đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (phường Bến Nghé). |
Đình Thảo
Tỷ phú Elon Musk sáng lập startup Neuralink, cải tiến bộ não người để đạt được trí tuệ siêu phàm
Có vẻ như việc tạo ra những chiếc ô tô chạy bằng điện, xây dựng nhà máy năng lượng Mặt Trời lớn nhất thế giới, hay đưa con người lên sao Hỏa chưa phải tham vọng lớn nhất của tỷ phú Elon Musk . Vừa mới đây, CEO của Tesla và SpaceX đã giới thiệu Neuralink, một startup công nghệ có thể thay đổi hoàn toàn nhân loại trong tương lai.
Neuralink đang theo đuổi công nghệ có tên là “Neural Lace”. Nó cho phép cấy các điện cực nhỏ xíu vào não, mà sau đó chúng ta có thể kết nối với máy tính và tải lên hoặc tải xuống các ý tưởng, dữ liệu và thông tin.
![]() |
Tỷ phú Elon Musk sẽ nắm vai trò lãnh đạo quan trọng tại Neuralink. |
Elon Musk không chỉ là người đồng sáng lập Neuralink, mà ông cũng sẽ là người có vai trò lãnh đạo vô cùng quan trọng. Như vậy, tỷ phú Elon Musk sẽ đồng thời là CEO của Tesla, CEO của SpaceX, đồng sáng lập Open AI và giờ đây là người điều hành startup công nghệ Neuralink.
Với công nghệ của Neuralink, Elon Musk đang có tham vọng giúp nhân loại đuổi kịp được trí tuệ nhân tạo, thứ công nghệ đang phát triển với tốc độ chóng mặt trong vài năm trở lại đây. Elon Musk đã từng bày tỏ sự lo lắng của mình: “Với bất kỳ sự phát triển nào của công nghệ AI, nhân loại đang bị bỏ lại rất xa phía sau”.
Về cơ bản, công nghệ Neural Lace của Neuralink sẽ tạo ra một lớp “giao diện vỏ não”, nằm phía bên ngoài vỏ não của chúng ta. Đây thực chất là một hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể kết nối trực tiếp với não người, nó có thể giúp con người đạt được những trình độ cao hơn tương tự AI.
![]() |
Về cơ bản bộ não của chúng ta có thể được gắn những con chip để đạt được trí tuệ siêu phàm. |
Bước đầu tiên của Neuralink sẽ là cấy ghép những điện cực đơn giản, giúp điều trị các căn bệnh rối loạn thần kinh khó chữa. Đây cũng là thị trường trị giá hàng tỷ USD, hứa hẹn đem lại một nguồn lợi nhuận lớn để giúp Neuralink và Elon Musk tiếp tục tham vọng của mình.
“Chúng ta xử lý các dữ liệu một cách chậm chạp. Đầu vào của chúng ta tốt hơn bất kỳ hệ thống máy móc nào, băng thông của chúng ta cũng lớn hơn nhiều các trung tâm dữ liệu”.
Chính vì vậy mà công nghệ của Neuralink hứa hẹn sẽ là bước đột phá của nhân loại, giúp trí não của con người có thể xử lý một lượng thông tin khổng lồ với tốc độ cực nhanh. Hãy thử tưởng tượng chúng ta có thể đọc hết một cuốn sách trong vài phút và ghi nhớ tất cả kiến thức trong đó. Ý tưởng điên rồ đó đang dần trở thành hiện thực.
Tham khảo: Wall Street Journal
——————————————–
Tesla giúp giảm hóa đơn tiền điện tới 92%, người thật việc thật đang diễn ra tại Úc, phải cảm ơn Elon Musk
Mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch của chúng ta sẽ không thể giảm xuống đến chừng nào chúng ta đẩy nhanh việc sản xuất các công nghệ năng lượng tái tạo.
Thử tưởng tượng bạn sống trong một căn nhà với bốn phòng ngủ cùng với hàng loạt các thiết bị được điểu kiển bằng điện. Bạn tính được trung bình mỗi năm phải dành khoảng 2.289 USD cho tiền điện. Nhưng từ năm ngoái, sau khi lắp đặt hệ thống pin Powerwall của Tesla, một loại pin lithium có thể sạc điện đi kèm với hệ thống pin mặt trời công suất 5kWp, bộ biến tần SolarEdge và hệ thống giám sát Reposit. Tiền điện cho ngôi nhà của bạn chỉ còn ở mức 178,71 USD.
Câu chuyện trên hoàn toàn có thật và nó thuộc về Nick Pfitzner, người Úc đầu tiên lắp đặt hệ thống pin Powerwall của Tesla cho ngôi nhà của mình. Một năm sau khi lắp đặt, ông nhận thấy chi phí cho tiền điện của mình đã giảm tới 92%, với hóa đơn tiền điện hàng quý giảm từ 572 USD vào năm 2015 xuống chỉ còn 45 USD vào năm 2016. Thậm chí, trong một quý nhất định, ông còn bỏ túi 50 USD do điện năng thừa được bán ngược vào lưới điện.
Hệ thống sẽ ưu tiên cung cấp điện cho bất cứ thứ gì bạn cần trong ngôi nhà, sau đó điện năng sẽ được sạc vào pin và nếu còn thừa nó mới được bán ngược lại vào lưới điện
Tổng chi phí cho hệ thống thái dương năng của Pfitzner là khoảng 16.790 USD, và ông tin rằng mình sẽ thanh toán hết số chi phí này trong vòng 8 năm.
Tesla có tầm nhìn về một tương lai được thắp sáng bởi năng lượng sạch và loại pin Powerwall chỉ là một phần trong đó. Nhà máy Gigafactory 1 của Tesla hiện đang sản xuất cả hai loại pin là Powerwall và Powerpack, đây là một phần quan trọng trong tầm nhìn đó. Đồng thời, nó cũng là động lực cho sự tiến bộ trong việc tạo ra các công nghệ năng lượng bền vững có giá rẻ hơn và có thể tiếp cận rộng rãi đến công chúng.
Năm ngoái, Tesla đã hợp tác với SolarCity để tạo ra những Tấm Lợp Mặt Trời và dự án sẽ được hoàn thành trong năm nay. Những Tấm Lợp Mặt Trời này chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành năng lượng để sử dụng trực tiếp hoặc lưu trữ trong hệ thống pin Powerwall. Elon Musk cũng gợi ý rằng công nghệ này có thể được sử dụng trong việc phát triển xe hơi chạy bằng thái dương năng.
Musk cũng đã bắt đầu một dự án với tên gọi “The Boring Company”, mục tiêu của nó là giảm tình trạng tắc nghẽn giao thông bằng cách xây dựng các đường hầm lưới lòng đất ở các thành phố đông dân cư. Những đường hầm này có thể được sử dụng như một hệ thống giao thông thứ cấp.
Nhưng đừng quên một mục tiêu khác của Tesla đó là xe điện. Mẫu xe Model S đã đặt mục tiêu chạy được cự ly 1.000 km chỉ sau một lần sạc trong năm nay. Và đến năm 2020, cự ly đó có thể tăng lên đến 1.199 km.
Với tất cả những gì đang thực hiện, thật khó để tưởng tượng rằng Tesla có thể hoàn thành được mọi thứ. Nhưng với tầm nhìn của Elon Musk về tương lai đã được rất nhiều người ủng hộ, và sự hỗ trợ này sẽ giúp công ty thực hiện được các sứ mệnh của mình. Trên bình diện toàn cầu, mức tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch của chúng ta không thể giảm xuống đến chừng nào chúng ta đẩy nhanh việc sản xuất các công nghệ năng lượng tái tạo, vì vậy Tesla và các công ty cùng chí hướng khác sẽ đi đầu, giúp chúng ta tạo ra một con đường hướng tới tương lai của năng lượng sạch.
Tham khảo futurism
Mùi vị trong miệng sau khi ngủ dậy báo hiệu bệnh gì
Nếu miệng đắng kèm theo nước tiểu màu vàng, có thể bạn bị chứng viêm nóng mật. Miệng đắng kèm theo trướng bụng bên phải, nặng hơn khi ăn thực phẩm dầu mỡ thì nên đề phòng có sỏi mật.
![]() |
Ảnh minh họa: healthsina. |
Theo Health Sina, mỗi buổi sáng ngủ dậy, hầu như bộ phận nào của cơ thể cũng vừa trải qua một đêm bài trừ độc tố. Da mặt bóng dầu, tóc bết dầu, miệng hôi… đều là biểu hiện khi mới ngủ dậy. Vậy những dấu hiệu này có tốt hay không? Theo các chuyên gia, không quá cường điệu khi nói rằng trạng thái cơ thể khi ngủ dậy phản ánh chính xác và kịp thời về tình trạng thể chất của một người. Trong đó, hôi miệng là một trong những tín hiệu không nên bỏ qua.
Miệng đắng coi chừng bệnh sỏi mật
Nếu miệng đắng kèm theo nước tiểu có màu vàng, nên xem xét đến chứng viêm nóng mật. Bệnh này có thể cải thiện bằng cách ăn khổ qua để giải nhiệt. Nếu miệng đắng kèm theo trướng bụng bên phải, đặc biệt nặng hơn khi ăn thực phẩm nhiều dầu mỡ thì phải đề phòng bị sỏi mật.
Miệng ngọt có thể do tiểu đường
Miệng ngọt là biểu hiện tỳ vị bị nhiệt, nhắc nhở nên ăn nhiều rau, ít thịt và chất béo, đồng thời tăng cường hoạt động thể chất, giảm thức khuya. Miệng ngọt kèm theo uống nước nhiều, tiểu nhiều, đề phòng bệnh tiểu đường.
Miệng mặn liên quan bệnh thận
Miệng mặn đôi khi là biểu hiện của thận hư, thường kèm theo các triệu chứng như đi tiểu nhiều, đau thắt lưng, ớn lạnh, mệt mỏi.
Miệng chua cảnh giác rối loạn tiêu hóa
Miệng chua biểu hiện gan và dạ dày có vấn đề. Bệnh nhân thường có các triệu chứng mệt mỏi, suy nhược, chán ăn và khó tiêu.
Miệng nhạt do cảm, tỳ hư
Nhạt miệng tức là ăn gì cũng không thấy mùi vị, vị giác kém. Đây có thể là dấu hiệu bệnh cảm và tỳ hư. Ăn cháo khoai lang, đậu trắng có thể cải thiện phần nào triệu chứng này.
Miệng tanh là dấu hiệu nhiệt phổi
Miệng có mùi tanh cần nghĩ đến chứng nhiệt phổi. Trường hợp này nên ăn diếp cá, quả lê, hạnh nhân là thích hợp.
Tự viết cáo phó cho mình, người đàn ông khiến cả nhà sững sờ vì thông điệp gây sốc nhưng đầy nhân văn
Đứng trước nỗi sợ hãi lớn nhất của đời người – cái chết, có nhiều người chọn buông xuôi tất cả theo tiếng thở dài, để niềm tuyệt vọng kéo tuột đi trước khi cái chết thực sự đến. Nhưng có những con người, với một tinh thần mạnh mẽ, tươi sáng, họ có thể làm được những điều tuyệt vời cho những người khác trong những giây phút cuối cùng ấy. Walter Harris là một người có trái tim dũng cảm đó.
Về mặt sinh học, ung thư là sự phát triển không bình thường của một nhóm tế bào trong cơ thể. Chúng vượt thoát những quy luật phát triển, sinh trưởng chung, sinh sôi rất nhanh, theo nhịp độ riêng, tạo nên những khối tế bào lạ trong thân thể, gây cản trở lớn tới sự vận hành nhịp nhàng của cả hệ thống. Nguy hại nhất, chính là những tế bào “bất kham” này sẽ gieo rắc sự “bất quy tắc” của chúng khắp thân thể con người, làm đảo lộn và phá hoại triệt để hoạt động của những nơi chúng xâm chiếm.
Tế bào ung thư. (Ảnh: Internet)
Chính vì bản chất “vượt ra khỏi quy luật và phá vỡ mọi cân bằng” của mình, căn bệnh ung thư mang tới cho người bệnh rất nhiều đau đớn về thể xác. Người mắc bệnh chỉ có thể nhờ đến sự trợ giúp của nhiều loại thuốc để xoa dịu cơn đau. Nhưng với họ, điều dằn vặt nhất không dừng lại ở nỗi đau thân thể, mà việc phải chấp nhận rằng cuộc sống của mình sắp kết thúc, và việc chứng kiến sự đau khổ của những người thân yêu trong gia đình sẽ khiến tâm hồn của đa số các bệnh nhân luôn chất chứa những cảm xúc tiêu cực: tủi thân, sợ hãi, dằn vặt, tự coi mình là gánh nặng của gia đình… Những suy nghĩ này sẽ lớn lên mỗi ngày, dẫn người bệnh đi vào con đường tăm tối của sự tuyệt vọng: Cuộc sống trở thành những ngày chờ đợi cái chết.
Nhưng ở quận Ross thuộc tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, Walter Harris lại có một cách nhìn khác về việc phải đối mặt với cái chết và việc khó khăn nhất – nói lời từ biệt với những người thân yêu. Ông đã có một hành động thực sự kỳ lạ và không phải người bình thường nào cũng có thể làm. Harris đã viết cáo phó cho chính mình để đăng tải trên trang báo địa phương. (Ở các nước phương Tây nổi bật như Hoa Kỳ, theo thông tục, gia đình sẽ viết một bài báo nhỏ – mẩu tin nhỏ nhằm thông báo về sự qua đời của một người cùng với những thông tin nổi bật về người quá cố, đồng thời thông báo sẽ cung cấp những thông tin chi tiết hơn về thời gian, địa điểm tổ chức tang lễ. Thông báo này giúp cho những người thân, hoặc những người quen biết người đã khuất có thể kịp tới để nói lời từ biệt).
Những người thân trong gia đình của Harris, đặc biệt là em trai ông, Ciff Harris rất bất ngờ khi đọc được thông tin về anh trai mình trên tờ Pittsburgh Post-Gazette ngày 2 tháng 2 năm 2017. Nhưng ông Ciff cho biết, trong một cuộc phỏng vấn, ông không hề bị sốc khi biết Walter sẽ làm một việc như vậy, vì điều đó chính là tính cách của anh trai ông, một người hài hước điển hình.
Harris đã viết cáo phó cho chính mình để đăng tải trên trang báo địa phương. (Ảnh: Internet)
Trong bức cáo phó của mình, Walter đã viết một số dòng hài hước gây “sốc” như sau: “Walter D.Harris, 56 tuổi, sống ở Ross Township, Pennsylvania, đã qua đời vào ngày 30 tháng 1 năm 2017, sau một trận chiến cam go và khốc liệt với căn bệnh ung thư. Tuy nhiên, các bạn không cần quan tâm tới địa điểm ông qua đời, vì đó không phải là vấn đề của bạn”.
Một đoạn cáo phó của Walter Harris. (Ảnh Internet)
Gia đình Walter không biết ông viết cáo phó cho chính mình chỉ tới khi cáo phó được đăng. Tuy nhiên, hai người bạn thân thiết của Walter đã biết về sự việc này. Steve, một trong hai người bạn lâu năm biết về việc cuối cùng mà Walter làm cho gia đình, bùi ngùi chia sẻ về người bạn đã mất: “Walter luôn cho rằng tất cả mọi người hoặc chí ít là những người Mỹ luôn coi bản thân họ và cuộc sống quá nghiêm túc”. Có thể nhiều người sẽ thấy quan điểm này lạ lùng, nhưng Steve giải thích rõ hơn về những gì người bạn chí cốt của ông thực sự cảm thấy: “Tôi nghĩ anh ấy không muốn dạy đạo đức cho ai cả, đơn giản, Walter muốn nói rằng: Tôi Walter Harris không coi mọi chuyện xảy đến trong cuộc sống là gì đó quá nghiêm trọng, đặc biệt là trong tình huống rất đặc biệt này (căn bệnh ung thư và sự ra đi đã được báo trước)”.
Tòa soạn báo nơi đăng cáo phó của Walter Harris. (Ảnh: Internet)
Những điều cuối cùng mà Walter viết giống như một thông điệp mà anh muốn gửi tới gia đình, tới những người mà anh thực sự yêu quý. Nếu có cơ hội nghe được những lời tâm sự chân thành của em trai anh, anh Ciff sau khi đọc tin, Walter có lẽ có thể cười mãn nguyện khi biết rằng: Trong những lúc khó khăn nhất, tâm hồn tràn đầy tiếng cười của anh đã mang lại sự an ủi rất lớn cho những người ở lại. “Đó là sự dí dỏm, hài hước của anh ấy. Vẫn luôn là cách mà anh ấy sống. Điều này thực sự tuyệt vời vì nó đã mang lại cho tôi một nụ cười trong thời điểm vô cùng khó khăn này”.
Bạn của Walter (Ảnh: Internet)
Trong những dòng cuối cùng Walter để lại trên cuộc đời, những người thân có lẽ đã cảm nhận được vị trí của họ trong trái tim anh, theo lối diễn đạt hài hước điển hình của mình: “Walter sống sót được là nhờ con trai, mẹ, vợ cũ, ba anh em trai và người dì yêu quý của anh”, đó là cách mà người đàn ông có thể chọc cười người khác mọi lúc mọi nơi này thể hiện lòng biết ơn đối với những người thân nhất. Đặc biệt, Walter không muốn bất kì ai quá đau khổ vì sự ra đi của mình, khi nhấn mạnh rằng mình không muốn có bất kì cuộc viếng thăm hay những nghi lễ tiễn đưa cầu kì.
Có lẽ thói quen nhìn cuộc sống với một đôi mắt hài hước đã giúp Walter vượt lên được nỗi sợ hãi vô hình có thể bóp nghẹt trái tim bất kì ai khi họ phải đối diện với cái chết. Cho dù đã không còn hữu hình trong cuộc sống, nhưng khi những người thân quen đọc được những dòng chữ cuối cùng anh viết, thay vì giọt nước mắt đau khổ, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí họ chính là khuôn mặt tươi cười của anh. Theo đó, những kỉ niệm về con người đầy niềm vui ấy sẽ ùa về. Tiếng cười trong quá khứ và sự dí dỏm trong những con chữ của hiện tại sẽ giúp những người ở lại hiểu rằng Harris đã sẵn sàng cho chuyến đi lần này. Thêm vào đó, Walter đang mong muốn gửi tới mọi người một thông điệp: Hãy nhớ về Walter Harris với một niềm vui trong trái tim và một nụ cười trên môi.
Tham khảo Diply
Nguồn ảnh: Diply
Hạo Hà – Ly Ly
Cuộc sống tù túng của người Việt trồng cần sa ở Anh
Những nạn nhân người Việt bị bán sang Anh trồng cần sa đa phần là trẻ em. Dù bị buộc phải làm công việc này, họ có thể vẫn bị bắt giữ và kết tội.
Bị đánh đập, đe dọa và không được liên hệ với bên ngoài, những lao động trẻ em bị bán sang Anh trồng cần sa không biết mình đang sống trong cảnh nô lệ và không có cách nào trốn thoát.
Năm 2012, người Việt chiếm 96% số nạn nhân bị bán sang Anh, 81% số này là trẻ em.
Từ cửa sổ tầng 1 trong căn hộ nơi mình bị giam giữ, Tùng, khi đó 15 tuổi, lần đầu biết tới nước Anh. Cậu thích ngắm khu phố đông đúc với vài ba cửa hiệu, nhà hàng pizza và một trạm xăng.
Người ta bảo cậu không bao giờ được bật đèn. Bởi vậy, cậu thường ngồi cạnh cửa sổ trong bóng tối, chăm chăm nhìn ra bên ngoài.
Cậu bị nhốt một mình trong căn hộ này trong 2 tháng. Tháng đầu tiên, Tùng gần như phát điên. Cậu chỉ muốn ra ngoài, nói chuyện với ai đó. Đến tháng thứ 2, Tùng quen hơn với cảnh sống này.
Tùng là một trong những thiếu niên Việt Nam bị mạng lưới buôn bán ma túy quốc tế bắt để trồng cần sa ở vùng ngoại ô của Anh. Gần như cứ vài tuần, một trang trại trồng cần sa lại bị phát hiện và cảnh sát lại tiến hành các vụ bắt giữ.
Theo Guardian , phần lớn trẻ em bị buôn bán vào nước Anh đến từ Việt Nam. Năm 2012, người Việt Nam chiếm 96% số nạn nhân bị bán sang Anh, 81% trong số này là trẻ em.
“Khi nghe thấy mọi người cười nói vui vẻ với bạn bè, tôi càng thêm buồn và cô đơn. Tôi thường chơi Candy Crush trên điện thoại để quên đi”
Bảo, một nạn nhân buôn người.
Bất chấp lo sợ bị các nhóm buôn người trả thù, 2 trẻ em đã đồng ý trả lời phỏng vấn Guardian với điều kiện giấu tên. Họ hy vọng câu chuyện của mình có thể cảnh báo những người khác.
Cô độc và sợ hãi
Khi bị bỏ lại một mình trong căn hộ ở Anh với hàng trăm cây cần sa, Bảo mới 15 tuổi. Cậu có đủ thức ăn dùng trong 1 tháng. Người ta nói rằng nếu làm tốt, cậu sẽ được cung cấp thêm thực phẩm đồng thời đe dọa cậu sẽ bị bỏ đói nếu không tưới nước cẩn thận.
Hầu hết thời gian, Bảo ở một mình. Đôi khi đến vài ba tuần, cậu không được liên hệ với ai. Thỉnh thoảng, 2 người đàn ông sẽ tới đây để kiểm tra xem các cây có phát triển tốt không.
“Họ thọc vào các chậu cây xem đất có bị khô không. Mỗi lần họ kiểm tra, tôi đều rất sợ. Nếu cây không đủ tốt, họ sẽ đánh tôi”, Bảo kể.
![]() |
Bảo, 15 tuổi, kể lại cuộc sống của mình ở Anh với Guardian với điều kiện giấu kín danh tính. Ảnh: Guardian. |
Việc tưới cây kéo dài 2 đến 3 tiếng vào buổi sáng. Sau đó, Bảo không có việc gì để làm cho đến 10h tối, khi cậu phải tưới cây thêm 3 tiếng nữa. Hai ngày một lần, cậu nhận được cuộc gọi của một phụ nữ Việt Nam hướng dẫn cậu phải chăm sóc cây như thế nào.
Các cửa sổ đều bị bịt kín nên Bảo không thể nhìn ra bên ngoài. Cậu chỉ có thể thỉnh thoảng nghe thấy tiếng máy bay và tiếng ồn của đám đông trong quán rượu đối diện.
“Khi nghe thấy mọi người cười nói vui vẻ với bạn bè, tôi càng thêm buồn và cô đơn. Tôi thường chơi Candy Crush trên điện thoại để quên đi”, Bảo nói.
Dù không bị nhốt trong căn hộ ở Anh, Bảo cũng không nghĩ tới việc trốn thoát. Cậu không nói được tiếng Anh, không đọc được các biển hiệu và không một xu dính túi.
Thi thoảng, khi cảm thấy quá ngột ngạt vì hơi nóng và mùi cần sa, cậu sẽ ra ngoài đi bộ. “Tôi đã nghĩ ở đây chẳng có ai tốt cả, tốt nhất là mình nên ở lại”, Bảo nói.
![]() |
Sấy cần sa trong một hầm trú bom hạt nhân ở Wiltshire. Ảnh: Guardian. |
Cha mẹ Bảo, những ngư dân ở vùng nông thôn Việt Nam, mất vì tai nạn ôtô khi cậu còn nhỏ. Bảo sống cùng ông bà đến khi cả hai đều mất. Từ năm 10 tuổi, Bảo lên thành phố, lang thang bán vé số mưu sinh.
Năm 14 tuổi, cậu bị 2 người đàn ông bắt cóc khi đang ngủ dưới gầm cầu. Bảo bị đưa đến Trung Quốc, tới Pháp rồi tới Anh, làm những công việc tệ hại, bị bỏ đói và bị đánh đập trước khi được đưa tới căn hộ trồng cần sa.
Trong căn hộ này, dây điện được treo khá thấp khắp nơi, cậu luôn phải cẩn thận để không bị bỏng và bị cháy tóc. Bảo được dặn không được trả lời bất cứ ai tới gõ cửa. Bởi vậy, khi cảnh sát tới đây, họ đã phải phá cửa xông vào.
Bảo tìm cách giấu các cây cần sa mới nở hoa đi. Tuy nhiên, cảnh sát đã phát hiện ra cậu. Bảo bị còng tay và bị bắt giam một đêm. Luật sư khuyên cậu nhận tội trồng cần sa, không bận tâm tới thực tế cậu chỉ là một đứa trẻ bị bắt cóc.
Vỏ bọc của giới tội phạm
Thanh tra Paul Franklin, đội trưởng đội đặc nhiệm chống ma túy ở Wiltshire, cho biết trong khoảng 10 năm qua, tội phạm có tổ chức ở Việt Nam đã liên hệ với các băng đảng ở Anh để cung cấp lao động.
Các em gái bị bán làm gái mại dâm hoặc nhân viên làm móng. Các em trai bị bắt trồng cần sa. Cần sa được trồng ở Anh nhiều đến nỗi nước này đã trở thành nước “xuất siêu” ma túy.
Ông cũng nói thêm rằng cần sa không phải là ưu tiên của cảnh sát như heroin hay cocaine đá, bởi vậy việc loại bỏ triệt để các điểm trồng cần sa là không dễ dàng.
![]() |
Cảnh sát thu giữ các cây cần sa bên trong một căn hầm ở Wiltshire, Anh. Ảnh: Guardian. |
Hai tháng trước, Helen Jenkins gặp cú sốc lớn khi được cảnh sát thông báo họ đã phát hiện một trang trại cần sa trong ngôi nhà mà cô sở hữu ở Plymouth. Họ cũng tìm thấy một cậu bé Việt Nam khoảng 13 tuổi bị thương tích trên mặt.
Jenkins không hề biết căn nhà của cô đã được cho thuê lại và bị biến thành nơi trồng cần sa. Khi cô tới nơi, cảnh sát đã chuyển những cây cần sa đi, để lại 400 chậu đất và một tủ lạnh đầy thức ăn đông đá.
Cảnh sát tiết lộ rất ít thông tin về những gì xảy ra sau đó với thiếu niên bị bắt giữ nói trên. Báo chí địa phương đưa tin cậu đã bỏ trốn không lâu sau khi được đưa tới trại trẻ mồ côi.
Điều này không có gì lạ vì hầu hết nạn nhân nợ tiền bọn buôn người và biết gia đình sẽ gặp rắc rối nếu không phục tùng. Bởi vậy, họ thường trốn khỏi các trung tâm bảo trợ và quay lại làm việc cho chúng.
Không lối thoát
Giống như Bảo, Tùng cũng bị buộc phải trồng cần sa. Anh rời Việt Nam khi mới 15 tuổi và đến Anh vào mùa hè năm 2010. Mẹ Tùng đã phải chi 10.000 bảng Anh để anh có thể đến đó sống cùng cha, người đã bỏ đi vì không thể trang trải cuộc sống bằng nghề nông.
Tùng tới nước Anh trong một chiếc xe tải, đi qua Nga và kết thúc hành trình tại một thị trấn mà anh đến giờ vẫn không biết tên. Anh được dẫn vào một căn hộ đã được biến thành trang trại cần sa.
“Nếu có ai bảo bạn vay tiền để đến đây và hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp hơn thì đừng nghe họ. Bạn sẽ bị buộc phải làm những việc mình không bao giờ muốn làm”
Tùng, một nạn nhân buôn người để trồng cần sa.
Tùng bị dị ứng với mùi cần sa và các hóa chất mạnh được sử dụng trong việc canh tác giống cây này. Khi phóng viên Guardian gặp Tùng tại trung tâm phục hồi ở Yorkshire, anh ho khùng khục và nói chuyện khó khăn.
“Tôi không sợ mà chỉ cảm thấy buồn, cô đơn và lo lắng cho gia đình. Tôi đã nghĩ mình nên cố gắng làm việc và trả nợ càng sớm càng tốt”, anh nói.
Với chiếc ti vi đã hỏng trong căn hộ đó, Tùng không có gì để làm. Hầu hết cửa sổ được che màn để ngăn hàng xóm nhìn thấy bên trong và ngăn mùi thoát ra. Tùng thường xuyên nói chuyện với mẹ nhưng không nói mình bị nhốt vì không muốn làm bà phiền lòng.
![]() |
Các cây cần sa được phát hiện bên trong một trung tâm giải trí cũ ở thành phố Newport ở Wales. Ảnh: Wales New Service. |
Một đêm nọ, căn hộ bị cảnh sát đột kích và Tùng bị bắt đi. Anh không hiểu tại sao mình lại bị bắt và không hề biết rằng anh đang trồng cần sa bất hợp pháp. Sau đó, Tùng mới biết một trực thăng theo dõi ảnh nhiệt đã phát hiện nhiệt lượng nóng từ những bóng đèn trồng cần sa.
Anh được đưa tới cho một gia đình nuôi dưỡng, nhưng đêm tiếp theo, anh đã gọi cho bọn buôn người. Họ tới và đưa anh đi. “Giờ tôi thấy đó là một sai lầm nhưng lúc ấy tôi vẫn hy vọng tìm được cha mình”, anh nói.
Trong vài năm sau đó, Tùng bị buộc phải làm những công việc vặt và thường sống trong xe tải. Bọn buôn người bảo anh rằng các khoản nợ đã tăng lên 100.000 bảng Anh. Vì vậy vào ban đêm, anh bị buộc phải bán dâm.
“Tôi bỏ trốn rồi lại bị họ tìm thấy và đánh đập. Họ nói những chuyện tồi tệ sẽ xảy ra với cha mẹ tôi. Họ mang tôi từ nơi này sang nơi khác. Tôi được trả khoảng 100 bảng một tháng. Tôi không dám hỏi về nợ nần, bởi vì mỗi khi tôi hỏi, tôi lại bị đánh đập”, Tùng kể lại.
Sau đó, anh bị buộc phải làm việc tại một xưởng cần sa phía sau một tiệm bánh. Tùng bị bắt khi cảnh sát đột kích nơi này và bị kết án 3 năm tù. Khi đó, anh 20 tuổi. Bản án sau đó được giảm xuống còn 12 tháng do anh đã nhận tội tại sở cảnh sát.
Tùng đồng ý nói về trải nghiệm của mình bởi anh muốn người dân ở Việt Nam hiểu rõ hơn về những nguy hiểm của việc nhập cư bất hợp pháp sang Anh.
“Nếu có ai bảo bạn vay tiền để đến đây và hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp hơn thì đừng nghe họ. Bạn sẽ bị buộc phải làm những việc mình không bao giờ muốn làm”, anh cảnh báo.
Hiện tại, điều khiến Tùng lo sợ nhất là khả năng bị trục xuất về Việt Nam, nơi anh có thể sẽ bị các băng nhóm tìm thấy và bị bán đi lần nữa.
Daikynguyen
Lịch sử cuộc bành trướng của đạo Hồi
Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á.
![]() |
Lịch sử cuộc bành trướng của đạo Hồi |
Cuộc chinh phục của người Hồi Giáo bắt đầu sau cái chết của vị sứ giả Hồi giáo Muhammad. Ông thành lập một chính thể thống nhất Bán đảo Ả Rập và sau đó được mở rộng bởi Rashidun và Umayyad Caliphates.
Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước Âu Châu, đó là Hy Lạp.
Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc – Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.
Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.
![]() |
Lịch sử cuộc bành trướng của đạo Hồi |
Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân 1: Qua nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí… Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo quần chúng.
Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn minh giàu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.
Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a power vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.
Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin có các thiên thần v.v… Cho nên người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:
– Thời kỳ I – từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là “người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền “. Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.
– Thời kỳ II – từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.
I. THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS
(The Caliphate Rulers)
*Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là RASHIDUN
– Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là : Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
– Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic confederacy)
– Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644) . Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:
– Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được đánh nhau.
– Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng là “Tư lệnh của các tín đồ” (The commander of the faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
* Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.
* Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.
* Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.
* Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và Maroc.
Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro – Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi Giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo Hồi là “đức tin của bạo lực” (A violent faith) hoặc là một “tôn giáo quân phiệt” (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.
3. Uthman (644-656) . Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
– Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.
– Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
– Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).
Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình thân ban đầu.
Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662) . Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rễ của Muhammad. Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là “Caliphate Rulers”, có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự (military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO – TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1. Đế Quốc Mughul – Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
– Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.
– Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara, Damacus… đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.
– Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi Giáo Sharia.
Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:
– Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.
– Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal..
– Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
– Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi Giáo.
– Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
– Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.
– Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.
– Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia.
– Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo.
– Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây nam biển Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là “Vua Hồi Giáo” (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt như sau: “Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo”.
Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
– Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
– Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
– Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.
Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul.
(Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
– Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
– Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.
– Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu Châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là “tôn giáo của lưỡi gươm” (Religion of Sword) hoặc “tôn giáo quân phiệt” (Militaristic Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là “Cuốn sách của tử thần” (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: “đức tin hung bạo” (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
– Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
– Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và Trung Đông.
– Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Ki Tô Giáo và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của đế quốc Vatican.
(Sách hiếm)