VALENTINE’S DAY – NGÀY CỦA TÌNH YÊU

ngoc-duyen-4
QUA NHÀ
Hôm nào cũng muốn gặp em
Hôm nào cũng đến nhà em, không vào
Nhỡ em chẳng tiếp thì sao?
Nhỡ em chẳng muốn tôi vào nhà chơi?
Nhỡ em chẳng chịu… mời ngồi?
Bố mẹ em chẳng muốn tôi đến nhà?
Nhỡ em đã hẹn hôm qua
Với người nào đó đến nhà hôm nay?
Nhỡ chẳng may,
Nhỡ không may
Thật là phiền phức, thôi quay về nhà
Nhưng nhỡ em cũng mong ta?
À ừ, quay lại, nhưng mà… nhỡ… thôi!
Thơ : Đỗ Minh Hùng

Chúng ta ai cũng đi tìm tình yêu đích thực, nhưng chưa chắc đã biết bản chất của tình yêu là gì

Lời giải đáp có thể sẽ khác xa so với tất cả những gì mà bạn hằng tưởng tượng về một tình yêu đích thực, thật đấy!

Nếu bạn đang nói về những tình yêu oanh oanh liệt liệt, nồng nồng nàn nàn mà bạn thường thấy trên phim ảnh, trên báo chí, hay qua lời kể truyền miệng của ai đó… thì chắc chắn rằng bạn chỉ đang nhìn thấy một sự khởi đầu cho một mối quan hệ. Và như thế thì chưa thể khẳng định được đó là tình yêu. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự nồng nàn, sự mãnh liệt trong một cuộc tình thường kéo dài không quá 2 hoặc 3 năm. Nhiều nhất, cũng sẽ không quá 7 năm.

2 năm, 3 năm, hay 7 năm… quả là một con số quá bé nhỏ nếu so với tuổi tác của những cuộc tình trong đời người, đúng không? Nhưng chúng ta buộc phải chấp nhận một sự thật rằng, tình yêu là một cuộc hành trình, và nó cũng được chia ra thành các giai đoạn. Đối với mỗi giai đoạn của tình yêu, chúng ta phải buộc thêm vào hành lý của mình không ít những điều mới mẻ. Và đến cuối cùng, để cùng nhau đi tới cuối con đường, ít nhất thì chúng ta phải trang bị cho nhau đủ những điều sau: sự đồng hành, sự ủng hộ, sự thân mật, và sự tôn trọng.

Thậm chí, còn vô vàn những thứ “lỉnh kỉnh” khác để mối quan hệ có thể được bền chặt và tiến xa hơn. Qua thời gian, mọi cảm xúc mới mẻ đều trở nên cũ kỹ, mọi rung cảm mãnh liệt đều bị thay thế bởi những toan lo và tất bật của đời thường. Cho nên, chúng ta cảm thấy nảy sinh sự nhàm chán cũng là lẽ đương nhiên.

Chúng ta ai cũng đi tìm tình yêu đích thực, nhưng chưa chắc đã biết bản chất của tình yêu là gì - Ảnh 1.

Chúng ta chẳng còn nồng nồng nàn nàn với nhau nữa, chúng ta chẳng còn tha tha thiết thiết khi gọi tên nhau nữa. Và chúng ta ngỡ rằng tình yêu đã bay đi rồi, đã hết thật rồi, đã đến lúc cần phải chấm dứt thật rồi.

Có những người sẽ nản chí nản lòng mà đi tìm kiếm người mới – người sẽ lại gieo những hạt mầm cảm xúc mới mẻ, mở ra những cánh cửa mới, và hứa hẹn những điều hân hoan hơn – mặc dù không lâu sau đó, mọi thứ sẽ lại đi vào vòng lặp của cuộc tình trước đó.

Và chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là quá trình tự nhiên của tất cả các mối quan hệ trên thế gian này. Làm gì có thứ gì mãi mãi tươi mới qua thời gian? Cho nên khi bạn yêu một người, sau khi đã nhấm nháp hết lớp men say của tình ái, sau khi đã trao và nhận hết những đắm đuối u mê, bạn sẽ phải chuyển sang một giai đoạn mới trong tình yêu. Ở giai đoạn này, không còn là tình yêu mãnh liệt nữa, mà là tình yêu thương và sự chấp nhận lẫn nhau.

Chúng ta ai cũng đi tìm tình yêu đích thực, nhưng chưa chắc đã biết bản chất của tình yêu là gì - Ảnh 2.

Bạn có thể bị thu hút bởi một ánh mắt, bởi một nụ cười và yêu ai đó vì họ là người mang đến cho bạn những cảm giác khác biệt so với những người khác. Nhưng tình yêu đích thực thì không đơn thuần chỉ có thế. Tình yêu đích thực là một sự kết hợp của tất cả những điều sau :

Nhu cầu: Bạn yêu người đó vì bạn có cảm giác cần anh ấy hoặc cô ấy trong cuộc sống của mình.

Lợi ích: Bạn yêu người đó vì anh ấy hay cô ấy cho bạn những thứ mà bạn khao khát.

Vô điều kiện: Bạn yêu người đó chẳng vì điều gì cả, không có bất cứ lý do nào cả.

Có thể bạn không tin, nhưng trước khi có được một tình yêu vô điều kiện với một người, chúng ta đều yêu người đó bởi “nhu cầu” hoặc “lợi ích” của cá nhân mình. Và điều này không phải là một sự thật đáng xấu hổ, nó chỉ đơn thuần là một sự thật mà bạn cần phải biết, để rõ hơn về tình yêu mà thôi.

7 điều phụ nữ cố tỏ ra quyến rũ nhưng đàn ông không thích

Mặc quần áo hở hang, càng gày càng tốt… là một trong những điểm phụ nữ nghĩ đàn ông thích nhưng thực sự họ không quá để tâm.

1. Ăn mặc hở hang: Để gây ấn tượng với đàn ông, nhiều phụ nữ cố chọn những bộ trang phục hở hang như khoét cổ, xẻ cao đến đùi, hở toàn bộ lưng… Điều này đôi khi gây tác dụng ngược lại, vì đàn ông có thể đánh giá cô gái này là người có đời sống phóng túng, dễ dãi. Họ sẽ chỉ muốn chơi bời chứ không muốn gắn bó lâu dài. Nếu muốn đàn ông chú ý, hãy bỏ qua những chi tiết đó, mà thay thế bằng những chi tiết nữ tính hơn như chiếc vòng tay, túi xách…

2. Cố gắng đạt tới hình mẫu của một ai đó: Body thon gọn là tiêu chuẩn của hàng triệu cô gái trên thế giới. Họ sẽ làm mọi cách ăn kiêng, tập tành để có được thân hình mà họ cho đạt chuẩn. Nhiều người thậm chí để tóc, phẫu thuật thẩm mỹ để giống một cô diễn viên, người mẫu… Hãy dừng lại việc này, vì nếu bạn cứ mải miết như vậy, bạn sẽ đánh mất cá tính bản thân và không còn là bạn nữa. Đàn ông không thích những người phụ nữ suốt ngày chăm chút vẻ bề ngoài. Họ thích những người biết cách ăn mặc phù hợp với ngoại hình và không mù quáng sao chép những tiêu chuẩn ngoài xã hội.

3. Phụ thuộc quá nhiều vào một người đàn ông hoặc độc lập quá mức: Cả hai kiểu người phụ nữ này đàn ông đều không thích, họ thích một người phụ nữ dung hòa được cả hai yếu tố này: Một chút nũng nịu, cần mình, và biết tự lập trong nhiều hoàn cảnh. Hai người sẽ tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, đó là tiêu chuẩn cần thiết để xây dựng bạn đời.

4. Cống hiến: Nhiều phụ nữ đã quên đi cuộc sống của riêng mình, suốt ngày chạy theo chiều chuộng, hầu hạ người đàn ông họ yêu. Họ nghĩ cách này sẽ lấy được cảm tình và khiến người kia chú ý đến mình. Nhưng cách này hoàn toàn không đúng. Đàn ông bị thu hút bởi một người phụ nữ có sở thích và cá tính riêng, không bị mờ nhạt, giống một ai đó và quan trọng là có chính kiến riêng. Điều này rất quan trọng để kéo dài một mối quan hệ.

5. Đời sống tình dục phức tạp: Nhiều phụ nữ luôn cố tỏ ra là mình biết hết các “chiêu trò” khi quan hệ, thậm chí còn yêu cầu, chỉ trỏ đối tác nên làm thế này thế kia. Họ nghĩ rằng việc thành thạo chuyện này sẽ khiến nửa kia khâm phục. Đàn ông thích người phụ nữ “biết yêu”, mang cho họ cảm giác khoái cảm, nhưng không thích bị chỉ đạo, họ đánh giá cao khả năng hòa hợp nhẹ nhàng, tinh tế.

6. Hành vi ngốc nghếch: Nhiều phụ nữ nghĩ rằng đàn ông không thích những cô gái thông minh nên thường tỏ ra ngờ nghệch một chút, vụng về và ngơ ngác. Thế nhưng một nghiên cứu chỉ ra rằng, đàn ông luôn muốn có một phụ nữ thông minh làm bạn đời.

7. Trang điểm quá sáng: Một số người nghĩ trang điểm đậm, trắng sáng sẽ khiến đàn ông thích và để ý nhiều. Nhưng qua một cuộc thử nghiệm, đàn ông chọn các cô gái trang điểm vừa phải hoặc rất nhẹ hơn là những người tô vẽ quá nhiều.

Mộc Miên
Ảnh: Brightside

 

Sự hiện hữu của một cuộc khủng hoảng giá trị nhân văn

Sự hỗn loạn của lễ hội thể hiện qua nhiều biểu hiện khác nhau. Nhưng theo tôi, đó là một bức tranh thể hiện cuộc khủng hoảng về các giá trị nhân văn trong xã hội.

Chia sẻ của TS Trần Trọng Dương (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).  V.V.Tuân ghi.

Đồng thời cũng là một cuộc khủng hoảng về niềm tin và các hệ giá trị của đời sống xã hội.

Lỗi ở phía từng cá thể người dân cũng có, lỗi tại nhà đền nhà chùa cũng có, lỗi tại các cơ quan quản lý cũng có, lỗi của hệ thống hành chính từ thượng tầng đến địa phương cũng có…

Một mặt ta vừa sử dụng các giá trị của quá khứ như những cơ hội tồn tại cho đời sống hiện tại (như những cơn khát các danh hiệu UNESCO); một mặt ta lại đồng thời làm biến dạng nó, hiện đại hóa nó và lợi nhuận hóa tất cả những gì có thể sinh lời, trong đó có cả văn hóa tâm linh!

Các loạn khai ấn không chỉ phản ánh “cơn hoảng loạn tâm hồn” mà còn cho thấy sự bơ vơ của không ít người đang ở trong hệ thống quan trường, hay hệ thống thương trường quá nhiều bất trắc và rủi ro.

Lễ hội và văn hóa tâm linh đã và đang trở thành một cơ hội cho những ai đang muốn “giải ngân tâm hồn mình”, cho những ai đang muốn “rửa tiền, rửa tâm” thông qua các hoạt động nghi lễ trong thực hành tín ngưỡng.

Một đất nước của lễ hội như Việt Nam thì lễ hội đã trở thành một hiện tượng văn hóa mang nét hằng xuyên.

Về bản chất, lễ hội là một hệ thống biểu tượng mang những giá trị truyền thống, là một loại hình hoạt động văn hóa tâm linh của cộng đồng, là nơi gìn giữ nhiều nét đẹp nhân văn của quá khứ.

Nhưng những biến tướng “xấu xí” của lễ hội trong hơn chục năm trở lại đây đã và đang trở thành những vấn đề thời sự nóng hổi.

Muốn ngăn chặn các mặt chưa tốt, những hiện tượng tiêu cực trong lễ hội thì cần phải có các nghiên cứu cơ bản có hệ thống, những nghiên cứu ấy cần sự hợp tác giữa các cơ quan nghiên cứu với các cơ quan quản lý văn hóa, với hệ thống báo chí truyền thông.

Chẳng hạn, cần phải đặt hành lang pháp lý và các biện pháp chế tài cụ thể để xử phạt các cá nhân, tổ chức đặt tiền vàng vào tay tượng Phật hay ban tam bảo… Để tránh tình trạng cướp lộc thì tạm thời có thể cấm việc phát lộc của các nhà đền, nhà chùa.

Chính cái tư duy “phát lộc” là nguyên nhân gây ra hiện tượng “cướp lộc”, tư duy “phát ấn” để cầu quan tước cũng góp phần tạo nên những kẻ mượn danh thánh thần để trục lợi.

Thực ra những nét đẹp của lễ hội thì có nhiều hơn những cái xấu xí, cái biến tướng kia. Nhưng để “khuyến thiện trừng ác”, thiết nghĩ cần nên có những cuốn sách kiểu như cẩm nang lễ hội, hay cẩm nang về việc đi lễ, đi chùa…

Ví dụ, vào chùa thì không đặt tiền tươi, không đặt tiền âm, không hóa vàng hóa mã ở ban tam bảo thờ Phật…

Tổ chức lễ hội thì không có cờ bạc, không có các trò chơi sát phạt, không ăn chia cá cược, không để những hoạt động lợi nhuận bất chính để lừa tiền khách thập phương.

Những cuộc thi ẩm thực, đua thuyền, vật truyền thống, các trò chơi dân gian… và hàng ngàn biểu hiện sống động khác của văn hóa truyền thống cần được khuyến khích.

Cuối cùng, để lễ hội mang đúng ý nghĩa vốn có của nó thì người dân địa phương – với tư cách là chủ thể văn hóa – phải trở thành những người duy trì và thực hành nét đẹp văn hóa.

Theo TUỔI TRẺ ONLINE

Chính sách Biển Đông của tân chính quyền Mỹ đang ở bước đầu

Chính sách Biển Đông của tân chính quyền Mỹ đang ở bước đầu

Tổng thống Donald Trump phát biểu tại bộ Quốc Phòng nhân lễ nhậm chức của bộ trưởng James Mattis (P), ngày 27/01/2017. MANDEL NGAN / AFP

Trọng Nghĩa/RFI

Từ ngày 8/11/2016 tức là lúc ông Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ, những ai quan tâm đến Biển Đông đều chú ý đến nhất cử nhất động của tân chủ nhân Nhà Trắng và những nhân vật trọng yếu trong ê kíp sắp cầm quyền tại Washington để xem chính sách Biển Đông của chính quyền mới tại Hoa Kỳ sẽ ra sao.

Ba tháng đã trôi qua, nhưng thực tế cho thấy là nếu « chính sách Trung Quốc » đã tương đối có da có thịt, thì đối sách Biển Đông của chính quyền Trump vẫn chưa định hình rõ nét, về căn bản vẫn tạm đi theo hướng mà cựu tổng thống Obama đã vạch ra. Đây cũng là ý kiến của giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia về Biển Đông tại trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ) khi trả lời phỏng vấn của Ban Việt Ngữ RFI.

Ghi nhận đầu tiên là cho đến lúc này, bản thân tổng thống Donald Trump có dấu hiệu chưa quan tâm lắm đến vấn đề Biển Đông. Dĩ nhiên, dư luận đã từng chú ý đến lời chỉ trích nặng nề của ông đối với các hành vi của Trung Quốc « xây pháo đài » giữa Biển Đông, nhưng nhìn chung, đây không phải là điều mà tân lãnh đạo Mỹ quan tâm. Trong buổi họp báo chung với thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe ngày 10/02/2017 tại Washington chẳng hạn, khi được một nhà báo Nhật Bản của tờ Sankei Shinbum hỏi thẳng về phản ứng của ông đối với « lập trường cứng rắn của Trung Quốc » tại Biển Đông sẽ như thế nào, ông Trump đã trả lời vòng vo mà quên hẳn câu hỏi. Trong cả cuộc họp báo, chỉ có thủ tướng Abe là nói đến Biển Đông mà thôi.

Tổng thống Trump không quan tâm, còn hai nhân vật trụ cột là tân ngoại trưởng Rex Tillerson và tân bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis thì sao ? Cả hai đều đã có những tuyên bố khá khúc triết về Biển Đông, ông Tillerson nhân buổi điều trần tại Thượng Viện Mỹ ngày 11/01 và ông James Mattis trong buổi họp báo chung với đồng nhiệm Nhật Bản tại Tokyo ngày 04/02 vừa qua.

Vấn đề là nội dung hai phát biểu lại có vẻ mâu thuẫn với nhau trong cách đối phó với các hành vi quyết đoán của Trung Quốc tại Biển Đông, ông Tillerson thì cứng, trong lúc ông Mattis lại rất mềm mỏng.

Nội dung tuyên bố của ông Tillerson có thể tóm tắt như sau : Không thể để Trung Quốc kiểm soát Biển Đông, vì làm như vậy, toàn bộ nền kinh tế thế giới sẽ bị tác hại. Do vậy, Mỹ cần phải, một là buộc Trung Quốc dừng quân sự hóa Biển Đông, dừng các hoạt động xây dựng trên đảo nhân tạo; hai là chặn đường không cho Trung Quốc tiếp cận các đảo nhân tạo.

Thế nhưng, gần một tháng sau, trong cuộc họp báo chung với đồng nhiệm Nhật Bản Tomomi Inada, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ lại khẳng định tình hình chưa đến nỗi buộc Mỹ phải « tiến hành các hoạt động quân sự lớn », mà chỉ cần có những nỗ lực ngoại giao, đối thoại để giải quyết vấn đề.

Nội dung tuyên bố trên đây đã khiến một số quan sát viên cho rằng giữa hai bộ của Mỹ đang xẩy ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược về chính sách Biển Đông.

Tuy nhiên trong một bài phân tích ngày 06/02, nhà báo Ankit Panda của tờ The Diplomat đã cho rằng phát biểu của ông Mattis về nhu cầu thúc đẩy ngoại giao chỉ nhằm giải tỏa một số hiểu lầm đến từ lời lẽ quá đanh thép của ông Tillerson, chứ chính sách Biển Đông của Mỹ về căn bản vẫn cứng rắn đối với các hành vi chiếm hữu phi pháp và bức hiếp các láng giềng của Bắc Kinh tại Biển Đông.

The Diplomat đã nêu bật một số tuyên bố của ông Mattis tại Tokyo, chẳng hạn như khi ông cho rằng « Trung Quốc đã phá nát lòng tin của các quốc gia trong khu vực, và dường như đang tìm cách áp đặt quyền phủ quyết (của Trung Quốc) trên các vấn đề về ngoại giao, an ninh và kinh tế của các nước láng giềng. »

Đối với tân bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, các nước không có quyền giải quyết tranh chấp bằng cách sử dụng « phương tiện quân sự và chiếm đóng các khu vực là đang là đối tượng tranh chấp ».

Dựa trên các tuyên bố của ông James Mattis, được cho là « một sự trình bày mạch lạc chính thức cấp cao đầu tiên » của những ưu tiên về Biển Đông mà tân chính quyền Hoa Kỳ theo đuổi, The Diplomat đã xem đấy là « một tin tốt đẹp cho các quốc gia trong khu vực – và không mấy tốt cho Trung Quốc ». Tốt đẹp là vì chính sách của Hoa Kỳ đối với Biển Đông trước mắt dường như không thay đổi so với thời Obama.

Tuy nhiên, The Diplomat cũng rất thận trọng, cho rằng những gì tướng Mattis nêu lên chỉ là những ý kiến đưa ra trong một cuộc họp báo. Ngoài ra, chính sách ngoại giao của nước Mỹ cũng không phải là do bộ Quốc Phòng ấn định.

Để hiểu rõ thêm về chính sách châu Á của tân chính quyền Mỹ, đặc biệt là về Biển Đông và Việt Nam, RFI đã phỏng vấn giáo sư Ngô Vĩnh Long thuộc trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ). Đối với giáo sư Long, chính sách riêng của chính quyền Donald Trump thực ra chưa định hình, trước mắt chỉ mới có vế Trung Quốc là tương đối có phối hợp. Trả lời câu hỏi của RFI về khác biệt trong tuyên bố hòa dịu gần đây của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ so với phát biểu cứng rắn trước đó của đồng nhiệm ở bộ Ngoại Giao, giáo sư Long cho rằng đó chỉ nhằm mục đích trấn an các đồng minh của Mỹ tại châu Á.

Ngô Vĩnh Long : Tôi nghĩ trong chuyến đi Nhật và Hàn Quốc vừa qua bộ trưởng Quốc Phòng James Mattis có sứ mạng là trấn an các đồng minh của Mỹ trong khu vực bằng cách công bố rằng Mỹ muốn tận dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề nổi cộm trong khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông. Nhưng ông ta cũng tuyên bố tiếp rằng các hoạt động quân sự là để tiếp sức cho các nhà ngoại giao; và trong hiện tại ông chưa thấy cần thiết có những “động thái quân sự ấn tượng nào cả” (any need for dramatic military moves at all.)

Còn ông Rex Tillerson, khi điều trần trước Quốc Hội Mỹ nói cứng là Mỹ nên bủa vây các đảo mà Trung Quốc đã xây đắp để Trung Quốc khỏi đưa quân lính và vũ khí lên đó, một phần là vì ông ấy muốn được Quốc Hội thông qua việc ông ấy được đề cử làm ngoại trưởng. Nay, được chính thức làm ngoại trưởng rồi thì ông ấy có vẻ cũng mềm dẻo hơn.

Theo các báo lớn của Mỹ, như tờ Washington Post và tờ New York Times, thì ngoại trưởng Tillerson có đóng góp quan trọng trong lá thư của tổng thống Trump cho Tập Cận Bình mà ngày 08/02, chính Cố Vấn An Ninh Michael Flynn đã tận tay đưa cho đại sứ Trung Quốc ở Hoa Thịnh Đốn. Thư đó có nói rằng Trump muốn làm việc cùng với Tập Cận Bình để “phát triển một quan hệ xây dựng cho lợi ích của cả Mỹ và Trung Quốc.”

Sau đó, chiều ngày 09/02 (giờ Hoa Thịnh Đốn), Trump và Tập có cuộc trao đổi bằng điện thoại mà Nhà Trắng tuyên bố là vừa rất lâu và vừa “cực kỳ thân mật” (extremely cordial). Một số nội dung cuộc nói chuyện điện thoại này đã được các báo chí tường thuật với nhiều chi tiết cho nên tôi không lập lại ở đây làm gì.

Tôi chỉ muốn lưu ý ở đây là sau một thời gian lập cập thì hiện nay chính sách Mỹ đối với Trung Quốc đang có vẻ được phối hợp giữa bộ trưởng Quốc Phòng, bộ trưởng Ngoại Giao, và một số nhân vật trong Nhà Trắng.

RFI : Dựa theo những gì ta được biết về các nhân vật trong chính quyền Trump, có thể thấy là chính sách Biển Đông của Washington sẽ như thế nào ?

Ngô Vĩnh Long : Mặc dầu hiện nay đang có cố gắng phối hợp chính sách đối với Trung Quốc, nói riêng, và đối với Á châu, nói chung, tôi nghĩ thật ra chưa có đồng thuận. Ngay trong Nhà Trắng còn có tranh giành ảnh hưởng của các cố vấn đối với Trump và còn có những khác biệt quan trọng giữa những nhân vật chủ chốt như là Michael Flynn, Stephen K. Bannon và Jared Kushner, con rể của Trump và được Trump nghe lời nhất.

Chính sách Biển Đông chỉ là một khía cạnh của chính sách lớn của Mỹ đối với Á châu cho nên khi nào thấy có một sự đồng thuận giữa các cố vấn của Trump với ít ra hai bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng thì người ta mới rõ chính sách Biển Đông của Mỹ như thế nào.

Trong khi đó thì có một số tin tức cho rằng người đứng đầu chính sách về Trung Quốc của Trump là Kushner, con rể của ông. Do đó, tôi nghĩ sẽ có sự hợp tác chặt chẽ giữa bộ Quốc Phòng và bộ Ngoại Giao, để cộng tác với Kushner hay là để đối phó khi cần.

RFI : Trung Quốc sẽ lợi dụng thời cơ hiện nay như thế nào ?

Ngô Vĩnh Long : Trung Quốc đang dùng những đòn bẩy kinh tế, trong đó có các quan hệ làm ăn với chính con gái của Trump và gia đình con rể của Trump. Đây là cách các nhà làm chính sách Trung Quốc đã “nhảy cóc” qua rất nhiều rào cản để đến tận tai của Trump.

Trump là một “tay buôn” nên có thể hiểu những vấn đề lợi ích kinh tế rõ hơn là những vấn đề an ninh tầm cỡ quốc tế mà ông ta rất mơ hồ. Những cuộc gặp gỡ của Trump với các tỷ phú đô la Trung Quốc và những phát biểu về “an ninh” của Trump gần đây đã một phần nào cho thấy nhận định trên có thể là đúng.

RFI : Và quan hệ đối với Việt Nam có thể ra sao ? Sẽ khác với thời Obama như thế nào ?

Ngô Vĩnh Long : Tôi nghĩ quan hệ đối với Việt Nam sẽ không khác thời tổng thống Obama là mấy. Mỹ đã bỏ ra mấy thập kỷ để xây dựng quan hệ với Việt Nam vì nhiều lý do, trong đó có lý do an ninh cho khu vực. Mỹ sẽ tiếp tục cộng tác với Việt Nam trên vấn đề an ninh, và lẽ dĩ nhiên là trong đó Biển Đông là vấn đề mấu chốt.

Có khác chăng thì nỗ lực của thời Obama để củng cố và xây dựng các hệ thống an ninh đa phương đã bị Trump làm suy yếu, trong đó có việc Trump đã rút Mỹ ra khỏi Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

RFI : Đâu là những điểm Việt Nam cần chú ý để có thể vận động Chính quyền Mỹ ?

Ngô Vĩnh Long : Hiện tại thì Việt Nam không cần có chú ý đặc biệt để vận động chính quyền Mỹ. Việt Nam nên cố gắng vận động các nước trong khu vực qua việc thúc đẩy các quan hệ song phương và đa phương như ASEAN. Cần thiết nhất là vận động sự ủng hộ của dân chúng trong nước.