Day: 21/03/2016
Triệu phú Mỹ: Tiền bạc mua được hạnh phúc
Tôi đã có 1 triệu USD năm 40 tuổi, và nhận ra rằng tiền hoàn toàn có thể mua được hạnh phúc, chỉ là người ta hay nghĩ sai về việc đó mà thôi.
Trên Investment Zen, Mr. 1500 – chủ website 1.500days.com về quá trình đạt mục tiêu 1 triệu USD trong vòng 1.500 ngày đã chia sẻ quan điểm của mình về sự giàu có.
Vài tuần trước, tôi đã chứng kiến một chuyện bực mình ở cơ quan. Một đồng nghiệp của tôi – Jon phải làm việc với cấp trên cùng công ty. Mà người này nổi tiếng khó tính và lập dị. Y như rằng, khi Jon gọi cho ông ta để hỏi, anh ấy bị cúp máy ngay lập tức. Khi nghe chuyện này, suy nghĩ đầu tiên của tôi là: “Cái công việc chết tiệt, tôi muốn bỏ”.
Tôi không muốn làm việc với những người như ông cấp trên kia. Jon rất thông minh, chăm chỉ và tinh ý. Chẳng ai đáng bị đối xử thiếu tôn trọng như thế cả.
Sau đó, tôi cũng không nghỉ việc. Nhưng điều tuyệt vời nhất là, dù có nghỉ, tôi cũng không sao hết. Vì tôi đã có 1 triệu USD tiền tiết kiệm. Và vì cả gia đình chỉ tiêu 40.000 USD mỗi năm. Tôi cảm thấy thế là quá đủ.
Hiện tại, tôi làm việc vì muốn, chứ không phải vì bắt buộc. Và điều này thật tuyệt.
![]() |
Mr. 1500 đạp xe với bạn bè. Ảnh: Rockstar Finance |
Tôi đã thành triệu phú từ cuối năm 2014, một ngày trước sinh nhật lần thứ 41. Tôi vẫn còn nhớ như in ngày đó.
Hôm ấy, tôi đang trên đường đến Chicago, và đọc thấy tin tức thị trường hôm nay tăng điểm. Thế là khi xuống tàu, tôi kiểm tra ngay tài khoản và phát hiện mình đã gia nhập câu lạc bộ triệu USD.
Tiền bạc giúp bạn có cuộc sống gia đình hạnh phúc hơn
Vài người cho rằng tiền bạc không giải quyết được vấn đề và chẳng thế khiến bạn hạnh phúc. Quan điểm của tôi thì ngược lại: sự giàu có là điều tuyệt vời, và nó sẽ giúp bạn tự do.
Gần nhà tôi có một cặp vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. Lý do hầu hết là về chi tiêu hàng ngày. Ông chồng làm kinh doanh nhỏ và có thu nhập khá ổn, nhưng tiền của họ chảy ra nhanh hơn chảy vào, nên rốt cục cuộc sống vẫn chỉ dừng lại ở mức trung bình. Hai người họ cãi nhau về tiền bạc nhiều hơn bất cứ chủ đề nào khác.
Vợ chồng tôi may mắn không phải lo nghĩ về việc tiền đi đâu về đâu và làm thế nào để chi trả cho các loại hóa đơn hàng tháng. Chúng tôi rất cởi mở và thẳng thắn về vấn đề tài chính. Như mọi cặp đôi khác, chúng tôi cũng có những lúc bất đồng quan điểm, nhưng tuyệt đối không phải là vì tiền.
Tiền bạc sẽ khiến bạn trở nên tốt đẹp hơn
![]() |
Mr. 1500 chơi đùa với con gái. Ảnh: Rockstar Finance |
Bạn biết đấy, ai cũng khao khát những gì mình không thể có. Trên TV đầy rẫy quảng cáo về những món đồ hào nhoáng, khiến ta cứ muốn mua bằng được. Bạn sẽ thấy đau lòng khi không có đủ tiền để sắm chúng, và tôi cũng vậy.
Ngày trước, tôi muốn cả đống thứ, đặc biệt là một chiếc xe thể thao màu đỏ. Thế nhưng thật buồn cười là khi đã có đủ khả năng mua bất cứ chiếc xe nào, ham muốn của tôi dành cho chúng lại biến đâu mất. Tôi hạnh phúc hơn và biết tự điều chỉnh bản thân hơn. Sự bình an mà tiền bạc mang lại thật kỳ diệu, nó khiến tôi tập trung vào những thứ thực sự quan trọng, như các mối quan hệ, giáo dục con cái, đọc sách, du lịch và tập thể dục. Siêu xe giờ không còn quá nhiều ý nghĩa nữa.
Tiền bạc cho bạn tự do
Hầu hết chúng ta dành ít nhất 40 tiếng mỗi tuần để làm việc. Sẽ thật tuyệt vời nếu bạn đang được làm công việc mình yêu thích. Nhưng dù vậy, nếu đột nhiên có 10 triệu USD trong tay, liệu bạn có tiếp tục làm công việc đó nữa không, hay sẽ dừng lại để theo đuổi đam mê của mình?
Tôi đã lên kế hoạch về một ngày không còn phải làm việc cho người khác và hoàn toàn được sống theo cách mình chọn. Vợ chồng tôi sẽ đi du lịch, kinh doanh nhỏ và rèn luyện sức khỏe. Tương lai giống như một cuốn sách mở và cuộc sống như vậy chính là những gì tôi mong muốn.
Hầu hết người ta nghĩ sai về triệu phú. Không phải ai cũng có cuộc sống xa hoa đâu.
Tôi mua một ngôi nhà chỉ 175.000 USD và lái chiếc xe đã 13 năm tuổi. Tôi tự cắt cỏ và đổ xăng. Tôi không phải là bác sĩ hay luật sư với mức lương cao ngất ngưởng, chỉ là một lập trình viên tốt nghiệp từ một trường đại học bình thường. Tất cả những gì tôi có chỉ là do tôi biết tiết kiệm và đầu tư thay vì vung tiền mua sắm.
Với những người nói “Tiền không mua được hạnh phúc”, thực ra ý họ là: Siêu xe hay hàng hiệu thì đều hấp dẫn cả. Nhưng niềm hứng thú ấy sẽ nhanh chóng qua đi và bạn sẽ lại phải chi tiền để mua niềm vui mới. Cái vòng xoáy ấy cứ lặp đi lặp lại.
Đó rõ ràng không phải công thức cho một cuộc sống hạnh phúc. Hãy dùng tiền như một công cụ để theo đuổi đam mê. Bạn có thể tập trung tạo dựng ước mơ mà không phải lo lắng hay vướng bận gì. Tiền cho bạn sự tự do, và đó là điều vô giá.
Hà Tường (theo BI/Investment Zen)
Đồng tiền các nước được đặt tên thế nào
Dollar xuất phát từ tên một xu bạc cổ, còn nhân dân tệ, yen và won đều có nghĩa là tròn.
TÌNH TRẠNG THIẾU NƯỚC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nguyễn Minh Quang, P.E.
SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ
Tác giả là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của Tiểu bang California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972; Trưởng ty Kế hoạch của Ủy ban Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và Giao thông đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học Nebraska, Hoa Kỳ năm 1985; Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles.
PHẦN TÓM TẮT
Tuy chưa là cao điểm của mùa khô 2016, tình trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã lên đến mức báo động. Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đều cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” là nguyên nhân “chi phối chủ đạo.”
Dữ kiện lưu lượng của Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) cho thấy các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa hay trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong không phải là nguyên nhân. Cũng không phải do hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô. “Thủ phạm” chính là việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong của Lào, Thái Lan, và Cambodia; lên đến 2.991 m3/sec tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié. Đó là chưa kể lượng nước do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié.
Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong của Lào, Thái Lan, và Cambodia không phải là nguyên nhân duy nhất. Tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL, thực sự, bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận ở ĐBSCL, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực Mekong, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.
Để cứu hạn mặn ở ĐBSCL, chánh phủ Việt Nam đã yêu cầu Trung Hoa xả nước sông Mekong từ đập Cảnh Hồng, nhưng trên thực tế, biện pháp nầy “quá ít và quá trễ. ” Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là (1) sử dụng khôn ngoan số nước hiện có để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt hại và (2) tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” để giảm thiểu sự xâm nhập của nước mặn và duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho.
Các biện pháp ngắn hạn có thể bao gồm việc (1) thực hiện hệ thống đo đạc lưu lượng và độ mặn dùng cho việc quản lý nguồn nước, (2) giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp trong vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn, và (3) nghiên cứu khả thi việc sử dụng các hồ thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung cho mục đích thủy nông. Các biện pháp dài hạn có thể bao gồm (1) thay đổi chánh sách phát triển ĐBSCL, (2) “cải tạo” hệ thống thủy lợi hiện nay cho phù hợp với chánh sách phát triển mới, (3) “phục hồi” các nguyên tắc của Ủy ban Quốc tế Mekong (Mekong Committee (MC)) 1957 và điều lệ của Thông cáo chung 1975, và (4) thương thảo với các quốc gia thượng nguồn để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong việc phát triển sông Mekong.
PHẦN DẪN NHẬP
Kể từ giữa tháng 2 năm 2016, tuy chưa phải là cao điểm của mùa khô, báo chí trong nước [1-5] cũng như các đài phát thanh quốc tế [6-8] đã lên tiếng báo động về tình trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở ĐBSCL vì thiếu nguồn nước ngọt. Tình trạng nầy gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn ha lúa cũng như gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân ĐBSCL.
Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam gần như “nhất trí” về nguyên nhân của tình trạng thiếu nước nầy. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (VKHTL) cho rằng “hai yếu tố thượng lưu quan trọng chi phối chủ đạo đến nguồn nước, xâm nhập mặn ở ĐBSCL là lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratié (đầu châu thổ Mekong) trong mùa khô… do có sự chi phối của các hồ chứa thượng lưu” [9]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (BNNPTNT), qua Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng, “… thì khẳng định, hạn hán, ngập mặn có nguyên nhân trực tiếp từ hiện tượng suy thoái các con sông. Và thủ phạm của sự suy thoái đó, chủ yếu là do quá trình phát triển hồ chứa ở thượng nguồn” [4]. Tiến sĩ (TS) Lê Đức Trung, Chánh văn phòng Ủy ban sông Mê Công Việt Nam (UBSMC), thì cho rằng “… vấn đề điều tiết trong các công trình trong lưu vực sông Mê Kông cũng là tác nhân. Hiện trên dòng chính sông Mê Kông có các công trình của Trung Quốc, còn các công trình trên sông nhánh do bị hạn, thiếu nước cũng không xả nước xuống dòng chảy sông Mê Kông. Thái Lan cũng có một số công trình chuyển nước trong khu vực, các quốc gia gia tăng sử dụng nước, làm hạn ở hạ lưu sông Mê Kông trầm trọng hơn” [10].
“Các hồ chứa thượng lưu” có chi phối chủ đạo đến nguồn nước và xâm nhập mặn ở ĐBSCL? Nguyên nhân trực tiếp của hạn hán và ngập mặn ở ĐBSCL là sự suy thoái các con sông qua quá trình phát triển hồ chứa ở thượng nguồn? Việc điều tiết các công trình trên dòng chính sông Mekong ở Trung Hoa và các công trình trên sông nhánh là tác nhân của hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL? Các quốc gia như Thái Lan gia tăng sử dụng nước làm hạn hán ở hạ lưu vực sông Mekong trầm trọng hơn? Bài viết nầy có mục đích trả lời các câu hỏi đó và trình bày những nguyên nhân thực sự của tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL.
ẢNH HƯỞNG CỦA HỒ CHỨA Ở THƯỢNG NGUỒN
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên dòng chính ở Trung Hoa
Ảnh hưởng thủy học của các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong ở Trung Hoa đối với mực nước và lưu lượng sông Mekong ở hạ lưu được lượng định bằng cách so sánh dữ kiện đo đạc tại trạm Chiang Saen ở Thái Lan (Hình 1). Trạm nầy là trạm đầu tiên, nằm ngay cửa ngỏ của hạ lưu vực sông Mekong và không có một công trình nào ở thượng lưu ngoài các đập thủy điện của Trung Hoa. Theo dữ kiện đo đạc được công bố trên website của MRC [11], lưu lượng trung bình trong 2 tháng đầu năm 1999 tại Chiang Saen là 817 m3/sec. Vào thời điểm nầy, chỉ có đập Manwan (1992). Khi các đập Dachaosan (2003), Jinghong (2008) và Xiaowan (2010) được hoàn tất [12], lưu lượng trung bình trong cùng thời kỳ năm 2010 là 1.081 m3/sec, cao hơn lưu lượng trung bình trong cùng thời kỳ năm 1999, mặc dù 2010 là một trong những năm khô hạn tồi tệ của lưu vực sông Mekong [13]. Lưu lượng trung bình trong 2 tháng đầu năm 2016 là 1.211 m3/sec, cao hơn năm 2010 với việc hoàn tất đập Gongguoqiao (2011) và Nuozhadu (2012) [12].
Hình 1 – Trạm thủy học ở thượng hạ lưu vực [11]
Dữ kiện lưu lượng tại trạm Chiang Saen, Thái Lan cho thấy các đập thủy điện trên dòng chính Mekong ở Trung Hoa đã gia tăng lưu lượng của sông Mekong ở hạ lưu, ít nhất là trong hai tháng đầu năm của mùa khô. Điều nầy phù hợp với nguyên tắc thủy học của một đập thủy điện, đó là, trữ nước trong mùa mưa để chạy máy điện trong mùa khô với một lưu lượng lớn hơn lưu lượng tự nhiên của sông tại nhà máy. Số nước nầy được trả lại dòng sông ở hạ lưu đập, vì thế, sông không bị mất nước. Như vậy, các đập thủy điện trên dòng chính Mekong ở Trung Hoa không phải là nguyên nhân của hạn hán và xâm nhập nước mặn ở ĐBSCL.
Hình 2 – Trạm thủy học ở hạ hạ lưu vực [11]
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên sông nhánh (phụ lưu)
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên sông nhánh (phụ lưu) của sông Mekong đối với tình trạng thủy học của ĐBSCL có thể được lượng định bằng cách so sánh dữ kiện đo đạc tại trạm Kratié ở Cambodia (Hình 2). Trạm nầy là cửa ngỏ của châu thổ sông Mekong.
Theo dữ kiện đo đạc được công bố trên website của MRC [11], lưu lượng trung bình trong 2 tháng đầu năm 1999 tại Kratié là 2.919 m3/sec. Vào thời điểm nầy, chỉ có đập trên các sông nhánh ở Thái Lan và các đập Nam Ngum 1 (1971), Theun-Hinboun (1998), và Houay Ho (1999) ở Lào. Lưu lượng trung bình trong 2 tháng đầu năm 2016 tại Kratié là 2.942 m3/sec sau khi một số đập quan trọng được hoàn tất như Nam Theun 2 (2010) và Nam Ngum 2 (2011) ở Lào; Lam Ta Khong (2002) ở Thái Lan; và Yali Falls (2001) và Plei Krong (2008) ở Việt Nam [12].
Dữ kiện lưu lượng tại trạm Kratié, Cambodia cho thấy các đập thủy điện trên phụ lưu Mekong ở Lào, Thái Lan và Việt Nam đã gia tăng lưu lượng của sông Mekong ở hạ lưu, ít nhất là trong hai tháng đầu năm của mùa khô. Mức gia tăng lưu lượng tại Kratié không cao bằng mức gia tăng tại Chiang Saen vì nước sông Mekong được dùng cho các dự án thủy nông dọc theo sông Mekong.
Kết quả của một cuộc nghiên cứu trong năm 2013 [14] cho biết các đập thủy điện hiện nay trên phụ lưu sông Mekong có thể làm cho lưu lượng trung bình trong mùa khô của sông Mekong tại Kratié tăng 406 m3/sec. Như vậy, các đập trên phụ lưu ở hạ lưu vực Mekong cũng không phải là nguyên nhân của hạn hán và xâm nhập nước mặn ở ĐBSCL.
ẢNH HƯỞNG DO VIỆC GIA TĂNG SỬ DỤNG NƯỚC SÔNG MEKONG
Hình 3 – Trạm bơm Huay Laung [GoogleEarth]
Việc gia tăng sử dụng nước trên dòng chính Mekong được báo chí Việt Nam đề cập đến, vào giữa tháng 1 năm 2016, sau khi chánh phủ Thái Lan chấp thuận việc nghiên cứu khả thi dự án bơm nước sông Mekong vào các hồ chứa trên sông Huay Laung, một phụ lưu của sông Mekong ở Nong Khai, để chống hạn và phục vụ nông nghiệp. Theo TS Lê Đức Trung, “… Thái Lan đang có 2 đạng dự án là chuyển nước trong chính lưu vực sông Mê Kông (không gây ảnh hưởng nhiều) và chuyển nước ra ngoài lưu vực sông Mê Kông (gây tác động mạnh đến vùng hạ lưu)… Vấn đề sông Mê Kông rất quan trọng nên chắc chắn chúng tôi sẽ luôn bám sát, trao đổi thường xuyên với phía Thái Lan. Nếu họ chuyển nước ra khỏi lưu vực sông Mê Kông hay chuyển nước vào mùa khô, chắc chắn VN sẽ có ý kiến.” [15] Nhưng đến cuối tháng 1, Nha Thủy nông Hoàng gia (Royal Irrigation Department (RID)) Thái Lan cho biết “… đã hoàn tất việc nghiên cứu khả thi dự án rẽ nước sông Mekong – để dẫn tưới từ 80.000 đến 208.000 ha trong lưu vực Huay Laung – vào cuối năm ngoái… và bắt đầu giai đoạn 1 với việc thiết lập 3 máy bơm có công suất 12 m3/sec (Hình 3) để bơm nước sông Mekong vào phía trên cửa cống Huay Laung ở Phon Phisai, Nong Khai… và có khả năng tưới cho 2.400 ha.” [16]
Hình 4 – Các dự án thủy nông trong hạ lưu vực Mekong [17]
Theo dữ kiện đo đạc tại các trạm thủy học, dọc theo dòng chính của sông Mekong, được công bố trên website của MRC [11], ngoài dự án Huay Laung, trong 2 tháng đầu năm 2016, nước của sông Mekong dường như được bơm từ dòng chính qua nhiều dự án thủy nông khác (Hình 4) trong vùng thượng hạ lưu vực ở Thái Lan và Lào (Bảng 1) và trong vùng trung hạ lưu vực ở Lào và Cambodia (Bảng 2).
Sử dụng nước sông Mekong ở Lào
Dựa vào dữ kiện lưu lượng của MRC, ít nhất, Lào đã sử dụng toàn phần số sai biệt lưu lượng giữa Luang Prabrang và Chiang Khan là 167 m3/sec (Bảng 1), vì hai trạm nầy hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Lào (Hình 1). Đối với sự sai biệt lưu lượng giữa Vientiane và Nong Khai là 86 m3/sec và giữa Nong Khai và Paksane là 515 m3/sec (Bảng 1), có lẽ Lào chỉ sử dụng một phần vì các trạm nầy nằm trên biên giới của Lào và Thái Lan (Hình 1).
Đa số nước sông Mekong được dùng để trồng lúa trong mùa khô, một phần rất nhỏ (từ 2 m3/sec lên 5.5 m3/sec trong năm nay [18]) để cung cấp nước gia dụng cho Vientiane (Hình 5).
Hình 5 – Trạm bơm nước Vientiane [Internet]
Tương tự, Lào có thể chỉ sử dụng một phần nhỏ sự sai biệt lưu lượng giữa Savannakhet và Khong Chiam lên đến 1.653 m3/sec (Bảng 2), để dẫn tưới đồng bằng Savannakhet. Phần còn lại, có lẽ do Thái Lan sử dụng vì hai trạm nầy nằm trên biên giới Lào và Thái Lan (Hình 2).
Việc trồng lúa trong mùa khô ở Lào, phần lớn là dọc theo các con sông, bùng phát trong thập niên 1990 với việc chánh phủ Lào lắp đặt 8.000 máy bơm điện và diesel dọc theo sông Mekong và các phụ lưu chảy qua 3 đồng bằng quan trọng trong tỉnh Vientiane, Savannakhet và Khuammuan để tưới cho 110.000 ha vào năm 2000. Do việc điều hành kém cỏi, nông dân từ chối trồng lúa mùa khô, khiến diện tích giảm xuống còn 69.000 ha vào năm 2006. Diện tích trồng lúa mùa khô hiện nay khoảng 99.000 ha và dự trù sẽ tăng lên 333.000 ha trong vòng 20 năm tới [19].
Tuy dữ kiện không có sẵn, nhưng dựa trên kết quả nghiên cứu ở đồng bằng Vientiane (cần 1 lưu lượng 48 m3/sec để tưới cho 20.000 ha trong mùa khô) [20], số nước sông Mekong do Lào sử dụng trong mùa khô hiện nay có thể lên đến khoảng 240 m3/sec và tăng lên đến 800 m3/sec trong vòng 20 năm tới.
Sử dụng nước sông Mekong ở Thái Lan
Như đã trình bày ở trên, Lào chỉ sử dụng khoảng 240 m3/sec trong tổng số sai biệt lưu lượng giữa các trạm thủy học nằm trên biên giới Lào-Thái Lan là 2.254 m3/sec; vì vậy, lưu lượng còn lại – khoảng 2.000 m3/sec – có thể được xem như do Thái Lan sử dụng.
Hình 6 – Dự án Khong-Loei-Chi-Mun [21]
Thái Lan hiện có khoảng 5.700 dự án thủy nông, với 974 dự án cần đến bơm, để dẫn tưới khoảng 1.400.000 ha trong mùa mưa và 171.000 ha trong mùa khô. Thái Lan đã có kế hoạch thực hiện thêm 447 dự án mới để tưới cho 134.000 ha trong mùa mưa và 79.000 ha trong mùa khô [19]. Dựa trên dữ kiện của giai đoạn 1 [16], nhu cầu nước để trồng lúa trong mùa khô của Thái Lan sẽ tăng từ 855 m3/sec như hiện nay lên 1.250 m3/sec trong tương lai.
Vào năm 2003, chánh phủ Thái Lan loan báo kế hoạch thực hiện một “mạng lưới nước (water grid)” quốc gia, gấp ba khả năng của hệ thống thủy nông hiện nay. Tuy mang tầm vóc quốc gia, mạng lưới chú trọng vào vùng Đông Bắc với dự án chuyển nước từ dòng chánh sông Mekong gây nhiều tranh cãi: dự án Khong-Loei-Chi-Mun (Hình 6). Dự án sẽ bơm nước sông Mekong vào sông Loei để dẫn tưới 2.860.000 ha trong lưu vực sông Chi và Mun và 640.000 ha trong lưu vực sông Mun. Dự án Khong-Loei-Chi-Mun, tăng diện tích dẫn tưới lên 1.800.000 ha trong mùa mưa và 900.000 ha trong mùa khô [19], sẽ cần một lưu lượng 1.200 m3/sec [21].
Hình 7 – Các dự án chuyển nước sông Mekong của Thái Lan [22]
Ngoài dự án Khong-Loei-Chi-Mun, Thái Lan còn có những dự án khác sử dụng nước sông Mekong cho mục đích thủy nông như Mekong-Songkhram (70.400 ha), Ban Bung Khieo-Yasothon (16.000 ha) và Mekong-Sirindhorn (64.000 ha) (Hình 7). Nếu các dự án nầy được thực hiện, cũng theo dữ kiện của gia đoạn 1 [16], Thái Lan cần đến 752 m3/sec nước sông Mekong trong mùa khô.
Với một lưu lượng khoảng 2.000 m3/sec của sông Mekong bị thất thoát, rất có thể Thái Lan đã âm thầm thực hiện và đưa vào hoạt động một phần của dự án Khong-Loei-Chi-Mun và các dự án chuyển nước sông Mekong khác giữa hai trạm thủy học Savannakhet và Khong Chiam.
Sử dụng nước sông Mekong ở Cambodia
Dựa vào dữ kiện lưu lượng của MRC, Cambodia đã sử dụng toàn phần số sai biệt lưu lượng giữa Stung Treng và Kratié là 737 m3/sec (Bảng 2), vì hai trạm nầy hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Cambodia (Hình 2). Hiện nay, Cambodia có khoảng 261.000 ha được dẫn tưới trong mùa khô và 16.700 ha lúa vụ ba. Con số nầy có thể tăng lên 378.000 và 21.100 ha trong vòng 20 năm tới [19]. Vì diện tích dẫn tưới trong mùa khô hiện nay chỉ có 9.325 ha [23] (với nhu cầu được ước tính khoảng 50 m3/sec) trong 2 tỉnh Stung Treng và Kratié, rất có thể Cambodia đã hoàn tất và đưa vào sử dụng các dự án thủy nông sử dụng nước sông Mekong giữa 2 trạm Stung Treng và Kartié.
Hình 8 – Kinh đào của dự án Vaico ở Sithor Kandal [GoogleEarth]
Vào năm 2003, qua khẩu hiệu “chánh phủ thủy nông,” Thủ tướng Hunsen đã nỗ lực gây quỹ từ các cơ quan viện trợ ngoại quốc để phục hồi và xây mới hệ thống thủy nông với tham vọng biến “… Cambodia thành một trong những quốc gia xuất cảng gạo hàng đầu của thế giới” [24]. Tính đến tháng 6 năm 2014, đã có 1 hồ chứa, 4 trạm bơm và 117 km kinh đào được hoàn tất trong các tỉnh Takeo, Kampot và Kampong Thom [25].
Hình 9 – Đập tràn của dự án Stung Schinit [Internet]
Những dự án quan trọng khác đã được thực hiện như dự án trên sông Stung Sreng (dẫn tưới cho 25.000 ha trong mùa mưa và 3.750 ha trong mùa khô trong các tỉnh Oddar Meancheay, Siem Reap, và Banteay Meancheay [26]), dự án Stung Schinit (dẫn tưới cho 2.960 ha trong tỉnh Kampong Thom [27]), và dự án Vaico (chuyển nước sông Mekong từ Koh Sotin – qua 1 hệ thống kinh đào dài 78 km, rộng 44-55 m, và sâu 18-25 m (Hình 8) – để dẫn tưới 300.000 ha trong tỉnh Kampong Cham, Prey Veng và Svay Rieng. Giai đoạn đầu của dự án sẽ dẫn tưới 108.300 ha trong mùa mưa và 27.100 ha trong mùa khô [28]). Nếu diện tích dẫn tưới trong mùa khô của dự án Vaico là 100.000 ha, lưu lượng cần thiết được ước tính khoảng 500 m3/sec.
NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG THIẾU NƯỚC Ở ĐBSCL
Như đã trình bày ở trên, dữ kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC công bố cho thấy (1) các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa và trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong không phải là nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL và (2) việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong để dẫn tưới trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia đã làm giảm lưu lượng trung bình trong hai tháng đầu năm 2016, ít nhất, là 2.991 m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié, cửa ngỏ của châu thổ sông Mekong. Đó là chưa kể một lượng nước quan trọng do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico và Stung Schinit.
Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia; tuy nhiên, không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô, mà bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.
Chánh sách phát triển thiển cận
Hình 10 – Hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL [19]
Sau tháng 4 năm 1975, đoàn Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (ĐQHCL), gồm một số “chuyên viên thủy lợi thượng thặng” của miền Bắc, đã được điều động vào Nam để khảo sát, nghiên cứu và thiết lập kế hoạch phát triển ĐBSCL. Nhiệm vụ của ĐQHCL là “thực hiện thắng lợi chính trị to lớn” của Đảng giao phó là “… biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại của ĐBSCL thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20 triệu tấn/năm trong kế hoạch ngũ niên 1975-1980” [29]. Lúc bấy giờ, chánh sách nầy có vẻ hợp lý để “khắc phục tình trạng ăn độn khoai, sắn, bo bo… triền miên” ở miền Bắc; nhưng Đảng quên rằng, thay vì trồng lúa, đất đai ở ĐBSCL còn có thể dùng để sản xuất nhiều nông phẩm khác có giá trị hơn để “ăn độn” như gà, vịt, cá, tôm… Thế là “… ta đấp đê, xây đập hay cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nào nước lụt chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng,” [29] (Hình 10) với giả thiết là lúc nào cũng có sẵn nước ngọt trong sông!? Do đó, diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đã tăng lên đến 1.963.000 ha (khoảng 49% diện tích của ĐBSCL) với 740.000 ha dẫn tưới trong mùa khô và 1.479.000 ha canh tác 3 vụ một năm [19].
Nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực Mekong
Việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia bắt nguồn từ nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” của Việt Nam trong việc thành lập MRC vào năm 1995 để thay thế cho MC 1957. Vì muốn được “độc lập, tự do” để “làm thủy lợi” ở ÐBSCL (sử dụng tất cả lưu lượng kiệt của sông Mekong để trồng lúa trong mùa khô!), Việt Nam đã loại bỏ các nguyên tắc sử dụng nước trong dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong của MC 1957, điều mà Thái Lan mong muốn để tiến hành các dự án thủy nông và thủy điện trong lưu vực sông Mekong như dự án thủy điện Pak Mun và thủy nông Kong-Chi-Mun. Nhận thấy hậu quả tai hại của nó, Việt Nam “muốn” thương thảo (bằng cách phản đối) nhưng phải “nhượng bộ” Thái Lan để “giúp” Cambodia vì Thái Lan xem việc loại bỏ các nguyên tắc của MC 1957 là điều kiện tiên quyết (preconditions) để cứu xét yêu cầu tái gia nhập MC của Cambodia vào tháng 6 năm 1991 [30].
Cuối cùng, vào ngày 5 tháng 4 năm 1995, Cambodia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam ký kết Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong (Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River Basin) tại Chiang Rai, Thái lan để thành lập MRC. Thỏa ước 1995 không có một điều khoản ràng buộc pháp lý nào về việc sử dụng nước sông Mekong. Nói cách khác, Thỏa ước 1995 dành quyền quyết định cho“mỗi quốc gia thành viên được tự do thực hiện kế hoạch cho tương lai của mình (each member nation is free to carry out whatever plan or plans it has for its future)” [30].
Quản lý nguồn nước thiếu khoa học
Dựa vào dữ kiện lưu lượng của MRC [11], lưu lượng trung bình trong hai tháng đầu năm 2016 của sông Tiền tại Tân Châu là 3.265 m3/sec và của sông Hậu tại Châu Đốc là 1.646 m3/sec. Như vậy, lưu lượng trung bình của sông Mekong chảy vào ĐBSCL trong hai tháng đầu năm 2016 là 4.911 m3/sec; tuy thấp hơn năm 2003 (7.042 m3/sec) nhưng cao hơn năm 2004 (4.490 m3/sec) [31]. Nếu diện tích trồng lúa Đông-Xuân 2015-2016 là 1.563.300 ha [9] với mức sử dụng nước tưới chỉ bằng ½ của dự án Huay Laung – Giai đoạn 1 (cần 6 m3/sec cho 2.400 ha), phải cần một lưu lượng gần 3.910 m3/sec, tức gần 80% số nước sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Và đây chính là lý do của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.
Để đối phó với tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, VKHTL đã đưa ra những biện pháp thiếu khoa học và không mang lại kết quả cho người dân, chẳng hạn như thiết lập trạm bơm hoặc đập tạm, nạo vét kênh mương, và nâng cấp các kênh chuyển nước ngọt và các trạm bơm hỗ trợ cho các hệ thống ngọt hóa ở ven biển! Tệ hại hơn, VKHTL đề nghị “… các địa phương cần phải tích trữ nguồn nước ngọt tối đa bất kỳ thời điểm nào xuất hiện nguồn nước ngọt trên sông, kênh; Thực thi quyết liệt hành động chống hạn, hạn–mặn…” [9] và “… để tận dụng nguồn ngọt xảy ra rất ngắn (chỉ trong vòng 1 tuần), đề nghị các địa phương tập trung tối đa phương tiện để lấy ngọt, trong đó đặc biệt chú ý là mở các cống (ở các hệ thống ngọt hóa Gò Công, Nam Mang Thít,…), bơm,… khi nước ngọt xuất hiện (thường khi mực nước vừa và thấp)” [32]. Chính việc “lấy ngọt chống hạn” nầy càng làm giảm lưu lượng của sông, khiến cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền hơn! Việc nước mặn trên sông Hậu đã vào đến Cần Thơ [33], một sự kiện chưa từng có trong lịch sử của ĐBSCL, cho thấy mức tai hại của biện pháp “lấy ngọt chống hạn” của VKHTL. Và cuối cùng, VKHTL đề nghị tiếp tục “… đầu tư xây dựng các công trình chủ yếu chủ động kiểm soát, cấp nước ngọt cho các vùng ven biển” [34].
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC THỰC TIỄN VÀ KHẢ THI
Biện pháp cấp thời
Đồng ý với lập luận cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” chi phối chủ đạo đến nguồn nước và xâm nhập mặn ở ĐBSCL, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề nghị Trung Hoa gia tăng lưu lượng xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng ở Vân Nam – làm nhiều đợt từ tháng 3 đến tháng 6, tháng 8, mỗi đợt kéo dài khoảng 7 ngày với lưu lượng tối thiểu là 2.300 m3/sec [35] – để khắc phục tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Trung Hoa cam kết sẽ xả nước từ đập Cảnh Hồng, từ ngày 15 tháng 3 đến 10 tháng 4 năm 2016, với lưu lượng là 2.190 m3/sec [36].
Hình 11 – Lúa chết ở Sóc Trăng [TTXVN]
Việc xả nước sông Mekong của Trung Hoa có lẽ chỉ nhắm vào mục đích tuyên truyền và chính trị. Bộ trưởng Thủy lợi Trần Lôi của Trung Hoa cho biết: “Trung Quốc và Việt Nam vừa là đồng chí, vừa là anh em, lại là láng giềng hữu hảo liền sông liền núi. Do đó chúng tôi đã trao đổi với Bộ Ngoại giao, bắt đầu từ hôm qua chúng tôi quyết định tăng lưu lượng xả nước trên đập Cảnh Hồng lên 2000 mét khối trên giây [gấp đôi] mỗi ngày xuống hạ du. Thời gian xả nước bắt đầu từ ngày 15/3 kéo dài liên tục đến 10/4, sau đó tùy vào tình hình sẽ điều chỉnh thích hợp.” Còn đài Phượng Hoàng ở Hongkong thì bình luận rằng: “Mặc dù giữa Trung Quốc với Việt Nam có những tranh chấp trên Biển Đông, hay một số nước phương Tây đặc biệt thích tuyên truyền lôi kéo một bộ phận người dân Việt Nam, khiến cho một số thành phần trong tầng lớp tinh anh của xã hội Việt Nam có cảm giác đề phòng Trung Quốc… Người Trung Quốc có câu, bán anh em xa mua láng giềng gần. Lúc Việt Nam và Thái Lan cần nước thì Trung Quốc liền cấp nước. Đó là điều Ấn Độ không thể làm, Nhật Bản và Hoa Kỳ càng không thể nào làm được. Do đó tôi nghĩ, sự kiện này sẽ là gợi ý cho một bộ phận người dân Việt Nam” [37]. Trên thực tế, việc xả nước của Trung Hoa là quá ít và quá trễ vì “… hầu hết các vùng canh tác lúa, hoa màu hiện nay ở ven biển đã bị thiệt hại gần hết rồi, đưa một lượng nước ít ỏi như vậy vào chẳng cứu được bao nhiêu và không còn ý nghĩa nữa” [38].
Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là sử dụng khôn ngoan số nước hiện có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và dễ dẫn tưới. Tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm nhập của nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho.
Biện pháp ngắn hạn (2-3 năm)
Để việc khai thác ĐBSCL có hiệu quả, nước sông Mekong chảy vào Việt Nam cần được quản lý một cách chặt chẻ với dữ kiện lưu lượng và độ mặn đầy đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được). Dữ kiện đó phải được thu thập bởi một hệ thống trạm thủy học đặt ở các vị trí quan trọng trên sông Tiền và Hậu và ở các cửa sông hay kinh đào lấy nước từ sông Tiền và Hậu. Vào ngày 17 tháng 3 vừa qua, UBSMC cho biết “… sẽ đặt hai trạm quan trắc để theo dõi lượng nước Trung Quốc xả vào sông Mekong.” Vị trí của hai trạm nầy không được loan báo [39], nhưng có lẽ là trạm Tân Châu và Châu Đốc, nơi sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Việc đặt hai trạm nầy là quá ít và quá trễ để quản lý nguồn nước sông Mekong ở ĐBSCL trong mùa khô năm nay, nhưng hệ thống trạm thủy học vừa nói có thể được thực hiện trong vòng 1 hoặc 2 năm. Hệ thống nầy có thể giúp ấn định số lượng nước sử dụng ở ĐBSCL để duy trì mức xâm nhập nước mặn có thể chấp nhận được trong tương lai.
Hình 12 – Xâm nhập mặn ở ĐBSCL [VKHTL]
Giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp bằng cách trồng một vụ lúa trong mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn (Hình 12). Biện pháp nầy có thể giảm 2/3 nhu cầu nước tưới trong mùa khô trong vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn. Số nước tiết kiệm được đủ để ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào sông Tiền và Hậu và duy trì nguồn nước gia dụng cho người dân.
Nghiên cứu khả thi việc sử dụng hồ chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung như Yali Falls, Plei Krong, và Sesan 4 cho mục đích thủy nông. Dựa theo diện tích của các hồ chứa nầy [12], một lượng nước lên đến 210 triệu m3 có thể tích trữ nếu tăng mực nước điều hành của hồ lên 1 m. Số nước nầy, dùng để dự phòng cho tình trạng khẩn cấp như hiện nay, đủ để cung cấp cho ĐBSCL một lưu lượng trung bình khoảng 500 m3/sec trong 5 ngày; dĩ nhiên, với sự đồng ý và hợp tác của Cambodia.
Biện pháp dài hạn (trên 5 năm)
Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ngọt ở ĐBSCL bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực sông Mekong; vì vậy, chánh sách phát triển từ năm 1975 và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” cần phải được thay đổi, nếu muốn giải quyết dứt khoát tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.
Chánh sách phát triển mới cần được cụ thể hóa trong kế hoạch tổng thể phát triển ĐBSCL. “Nói một cách cụ thể, chánh sách biến tất cả đất đai có thể trồng trọt được thành ruộng lúa từ năm 1975 cần phải thay thế bằng chánh sách phát triển đa dạng và uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ÐBSCL. ÐBSCL cần phải được phân vùng để chọn lựa những vùng sản xuất tối ưu cho việc trồng lúa, trồng hoa màu, trồng cây ăn trái và cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi thủy sản nước ngọt lẫn nước mặn, duy trì hệ sinh thái nội đồng và ven biển, và thiết lập những vùng đệm nhằm mục đích bảo vệ môi trường và vùng sinh thái. Những vùng sản xuất phải được chọn lựa như thế nào để tối ưu phúc lợi (benefit optimization) trong khi giảm đến mức thấp nhất những ảnh hưởng đối với các vấn đề đang gặp phải hiện nay; đó là, tình trạng lũ lụt, sạt lở bồi lắng, xâm nhập của nước mặn, ô nhiễm môi trường, và suy thoái hệ sinh thái.” [29]
Ngoài những “… bất cập của nhiều công trình thủy lợi bấy lâu nay được xây dựng ở Đồng bằng sông Cửu Long” [40], “… hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL cũng phải được quy hoạch lại cho phù hợp với kế hoạch phát triển mới. Nói cách khác, ÐBSCL cần phải có một hệ thống thủy lợi hoàn toàn mới, được quy hoạch dựa theo quan niệm và nguyên tắc hoàn toàn khác với quan niệm và nguyên tắc được áp dụng cho hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL. Những công trình và dự án nào của hệ thống thủy lợi hiện nay không phù hợp với kế hoạch phát triển mới, không có hiệu năng, hoặc gây ảnh hưởng tai hại phải được tháo gỡ hoặc hủy bỏ… Nguyên tắc thích hợp nhất cho ÐBSCL là giảm thiểu sự can thiệp của con người càng nhiều càng tốt với mục tiêu ‘điều thủy’ chứ không phải là ‘trị thủy.’ Số lượng công trình thủy lợi ở ÐBSCL cần được giảm thiểu đến mức thấp nhất, nhất là những công trình ‘đào đấp,’ nhưng cần phải có những hồ chứa nước ở những vùng trũng sâu hay ở ngoài đồng bằng để điều tiết lưu lượng trong sông Tiền và Hậu trong mùa nắng lẫn mùa mưa.” [29]
Tình trạng “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực sông Mekong cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt với việc “phục hồi” nguyên tắc của MC 1957 và Tuyên cáo chung 1975 về việc sử dụng nước ở hạ lưu sông Mekong. Hai nguyên tắc đầu tiên của MC 1957 là “(1) lưu lượng kiệt của sông Mekong hiện tại không thể bị giảm bằng bất cứ cách nào và bất cứ ở đâu; và (2) nước dùng cho thủy nông chỉ được dự trữ trong lúc mực nước sông dâng cao” [30]. Hai điều khoản quan trọng nhất của Tuyên cáo chung 1975 gồm có Ðiều X: “Nước trong dòng chánh là tài nguyên chung, không một quốc gia duyên hà nào được đơn phương sử dụng nếu không được các quốc gia trong lưu vực chấp thuận trước qua Ủy ban” và Ðiều XI: “Các quốc gia duyên hà có thẩm quyền ngang nhau trong việc sử dụng nước trong dòng chánh” [30].
Thỏa ước 1995 cũng cần có những ràng buộc pháp lý và biện pháp chế tài nếu các quốc gia vi phạm những điều khoản đã ký kết. Nếu cần, Việt Nam có thể thương lượng song phương với các quốc gia ở thượng lưu để bảo vệ quyền lợi quốc gia trong việc phát triển sông Mekong.
PHẦN KẾT LUẬN
Từ giữa tháng 2/2016, tuy chưa phải là cao điểm của mùa khô, báo chí trong nước cũng như các đài phát thanh quốc tế đã lên tiếng báo động về tình trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở ĐBSCL, gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn ha lúa cũng như gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân. Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam như BNNPTNT, VKHTL, và UBSMC đều cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” là nguyên nhân “chi phối chủ đạo.”
Dữ kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC công bố cho thấy nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, không phải do các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa hay trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong, mà chính là do việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong để dẫn tưới trong mùa khô ở Lào, Thái Lan, và Cambodia. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 2016, lưu lượng trung bình do các nước nầy sử dụng lên đến 2.991 m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié. Đó là chưa kể một lượng nước quan trọng do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico và Stung Schinit.
Nhưng việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô. Nó bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.
Để cứu hạn mặn ở ĐBSCL, chánh phủ Việt Nam đã yêu cầu Trung Hoa xả nước sông Mekong từ đập Cảnh Hồng. Nhưng trên thực tế, biện pháp nầy “quá ít và quá trễ” vì hầu hết vùng canh tác lúa và hoa màu ở vùng ven biển đã bị thiệt hại gần hết.
Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là (1) sử dụng khôn ngoan số nước hiện có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và (2) tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm nhập của nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho. Các biện pháp ngắn hạn có thể bao gồm việc (1) thực hiện hệ thống đo đạc lưu lượng và độ mặn đầy đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được) dùng cho việc quản lý nguồn nước ở ĐBSCL, (2) giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp bằng cách trồng một vụ lúa trong mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn, và (3) nghiên cứu khả thi việc sử dụng hồ chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung cho mục đích thủy nông. Các biện pháp dài hạn có thể bao gồm (1) thay đổi chánh sách biến tất cả đất đai ở ĐBSCL thành ruộng lúa bằng một chánh sách đa dạng, uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ĐBSCL, (2) “cải tạo” hệ thống thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL cho phù hợp với chánh sách phát triển mới, (3) “phục hồi” các nguyên tắc của MC 1957 và điều lệ của Thông cáo chung 1975 bị hủy bỏ khi ký kết Thỏa ước MRC 1995, và (4) thương thảo – song phương hoặc đa phương – với các quốc gia thượng nguồn để đạt đến thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý và có biện pháp chế tài để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong việc phát triển sông Mekong.
‘Quốc hội cần thiết lập nền tảng quốc gia’

Sau Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, kì bầu cử Quốc hội sắp tới đang thu hút sự chú ý của dư luận, thể hiện ngay trong nhận định của một thành viên trong Hội đồng Bầu cử Quốc gia là kì bầu cử này “phức tạp hơn, đã hình thành phong trào tự ứng cử”.
Đây là tín hiệu rất rõ của ý dân. Nhân dân đã không còn tin vào sự lãnh đạo “sáng suốt, tài tình” như tuyên truyền của các lãnh đạo cộng sản nữa, và cũng không chấp nhận giao phó vận mệnh quốc gia vào tay một thiểu số thống trị nữa.
Nhân dân đã ý thức về quyền làm chủ đất nước của mình, tự mình phải nắm lấy vận mệnh của chính mình, của đồng bào mình, và của đất nước mình.
Quyền làm chủ đất nước đó phải đến với từng công dân cụ thể trong thực tế chứ không phải chỉ là cái “nhân dân” chung chung, mơ hồ, tương tự như các “quan” tuyên bố rằng họ làm quan là do “đảng, nhà nước và nhân dân giao phó”.
Hành động, phát ngôn của giới cầm quyền trong kì bầu cử lần này tiếp tục phơi bày rõ ràng hơn các vấn đề chính trị bức bách khiến Việt Nam trở thành một quốc gia “không chịu phát triển”, lẻ loi và cô độc với thế giới bên ngoài vốn đang phát triển như vũ bão.
Siêu ứng cử viên?
Sáng 15/3, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu một đoàn đi giám sát công tác bầu cử ở Hà Nội. Ông Phúc cũng chỉ là một ứng cử viên vào quốc hội bình đẳng như các ứng cử viên khác nhưng ông lại có quyền đi giám sát công tác bầu cử, chỉ đạo ủy ban bầu cử. Rõ ràng ông Phúc là một “siêu ứng cử viên”.
Tương tự, Mặt trận Tổ quốc tổ chức các vòng hiệp thương, nhưng chủ tịch Mặt trận – ông Nguyễn Thiện Nhân cũng là ứng cử viên vào Quốc hội. Hiệp thương chọn ứng cử viên nào, kiểm phiếu ra sao ông hoàn toàn có quyền thao túng. Một “siêu ứng cử viên” như ông mà không trúng cử vào Quốc hội thì ai có thể trúng?
Minh họa rõ hơn nữa cho điểm này, đến giờ phút này chỉ có các ứng cử viên độc lập than phiền bị Ủy ban Bầu cử gây nhiều khó dễ trong việc hoàn thành các thủ tục ra ứng cử, chứ chưa thấy ai là ứng cử viên do các cơ quan của đảng cộng sản đề cử than phiền điều gì.

Các ứng cử viên của đảng cộng sản được cả hệ thống chính trị hỗ trợ, từ truyền thông tới chuyện kiểm phiếu, công bố kết quả. Còn các ứng cử viên độc lập phải tự thân vận động, không thể lên báo đài trình bày cương lĩnh tranh cử, không thể diễn thuyết nơi công cộng, không thể giám sát quá trình kiểm phiếu…
Những điểm bất công này chưa kể đến việc lãnh đạo cộng sản đưa ra những cáo buộc như “tổ chức phản động” đứng sau các ứng cử viên độc lập mà không đưa ra được bằng chứng, hoặc chỉ thị không để các phần tử “thế này, thế khác” vào Quốc hội, v.v…
Qua đó cũng thấy rõ sự thiếu công bằng giữa các ứng cử viên trong đảng và ngoài đảng cộng sản.
Thiếu vắng nền tảng
Điều 7 Hiến pháp do đảng cộng sản tự ban hành có ghi rõ: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
Điều 69 Hiến pháp khẳng định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Tuy nhiên, thiếu tướng Trần Ngọc Thổ tại Hội nghị hiệp thương lần 2 ở Sài Gòn chiều ngày 17/3 đã nói thẳng: “Nhìn vào danh sách ứng cử đại biểu quốc hội thì thấy ngoài Đảng quá nhiều, tự ứng cử quá nhiều. Đây là tổ chức thứ tư (ý ông Thổ nói Mặt trận Tổ quốc) của Đảng sau Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội chứ có phải ai muốn vào thì vào, ai muốn ra thì ra”.
Như thế, thiếu tướng Thổ đã khẳng định Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc là các tổ chức, cơ quan của đảng cộng sản. Các ứng cử viên trong kì bầu cử quốc hội thực chất là đang thi tuyển vào một cơ quan của đảng cộng sản, với giám khảo là giới lãnh đạo đảng cộng sản chứ không phải nhân dân.
Rõ ràng đây không phải là một cuộc bầu cử “bình đẳng” như điều 7 Hiến pháp quy định. Quốc hội là cơ quan của đảng cộng sản chứ không phải là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân” như điều 69 quy định. Quyền làm chủ của nhân dân đang bị vi phạm nghiêm trọng.
Việc nhà cầm quyền thản nhiên đứng trên Hiến pháp và luật pháp do chính họ ban hành cho thấy đất nước này không hề có nền tảng quốc gia. Cai trị quốc gia chỉ là ý chí của thiểu số thống trị chứ không hề dựa trên nền tảng pháp luật chuẩn mực phục vụ cho toàn dân.
Lạm dụng nhân dân?
Từ chuyện không có nền tảng quốc gia đó, nhà cầm quyền dễ dàng lạm dụng nhân dân bằng thứ pháp luật tùy tiện, bất công.
Hiện nay, nhà cầm quyền có thể tăng thuế, phí vô tội vạ. Từ hạt gạo, quả trứng tới chiếc ô tô, xăng dầu, cầu đường,… đều chịu hàng chục loại thuế, phí. Tình trạng thu hồi đất rồi đền bù với giá rẻ mạt đã đẩy không biết bao nhiêu gia đình vào cảnh màn trời chiếu đất, phải lặn lội kêu oan từ Nam tới Bắc.
Chính Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng phải than: “Thủ tục hành chính của mình cay độc lắm, độc ác lắm, quá nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân. Nhiều thủ tục để làm gì, để có tiền thì mới xong chứ sao nữa”.

Thậm chí, khoản 1 điều 46 trong điều lệ của đảng cộng sản còn thẳng thừng: “Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, từ ngân sách nhà nước và các khoản thu khác”.
Việc này đồng nghĩa người dân phải đi làm vất vả để đóng thuế nuôi một đảng độc quyền nhà nước, đứng trên pháp luật, ngồi lên đầu lên cổ nhân dân. Liệu đây có phải là “người bóc lột người”, “phân chia giai cấp” như thời thực dân phong kiến mà chính các đảng viên cộng sản ngày xưa đã đấu tranh để xóa bỏ?
Các đại biểu quốc hội không hề lên tiếng về chuyện lạm dụng quyền lực, lạm dụng nhân dân này của giới lãnh đạo cộng sản. Vậy họ đang đại diện cho ai?
Rõ ràng cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 còn dang dở vì quyền làm chủ của người dân chưa được hiện thực và bình đẳng trên nền tảng pháp luật chuẩn mực.
Cần phải tiếp tục cuộc cách mạng đó để hiện thực hóa quyền làm chủ bình đẳng của người dân qua một nhà nước cộng hòa chính danh, chấm dứt tình trạng giới cầm quyền đang thao túng quyền làm chủ và lạm dụng nhân dân.
Cần chuẩn pháp luật
Trong báo cáo Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới, các chuyên gia trong và ngoài nước đã khuyến cáo: để thực hiện khát vọng của quốc gia, thể chế chính trị cần phải trở nên hiện đại, minh bạch và hoàn toàn dựa trên nền tảng nhà nước pháp quyền, tức pháp luật chuẩn mực (rule-of-law).
Các lãnh đạo đảng cộng sản và quốc hội bù nhìn không thể làm ra pháp luật chuẩn mực với kiểu tư duy độc quyền như bấy lâu nay. Pháp luật do họ làm ra chỉ phục vụ cho một thiểu số cai trị bất kể nhân dân đang sống như thế nào, có nguyện vọng gì.
Do đó, nếu các ứng cử viên ra ứng cử vào quốc hội lần này mà không đặt mục tiêu hàng đầu trong cương lĩnh tranh cử là làm cho đất nước có pháp luật chuẩn mực, nhằm phục vụ cho toàn dân và thúc đẩy cho xã hội phát triển toàn diện thì không có gì xứng đáng để nói, nghĩa là vẫn tiếp tục muốn được vào Quốc hội để làm đại biểu quốc hội bù nhìn, là công cụ cho đảng cộng sản lạm dụng nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân là hệ trọng, đất nước phải có pháp luật chuẩn mực là nhất thiết. Nếu không thì làm sao có công lý?
Triết gia Saint Augustine thời trung cổ đã từng nói, “nếu không có công lý, nhà nước sẽ là gì nếu không phải là một băng cướp có tổ chức?”
Đã qua thế kỷ 21 lâu rồi, lẽ nào các lãnh đạo cộng sản lại muốn điều hành đất nước như thời trung cổ?
Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, cựu tù nhân chính trị, nhà hoạt động dân chủ hóa và nhân quyền đang sống ở Việt Nam.
Mưu đồ củaTrung Quốc: Từ chiếm lĩnh Biển Đông đến thay đổi trật tự Đông Á và thế giới
Giới chuyên gia cho rằng, việc kiểm soát Biển Đông chỉ là bước đi đầu tiên của Trung Quốc trong quá trình thực hiện mưu đồ lớn hơn.
Những ngày gần đây, Trung Quốc liên tục quân sự hóa (triển khai tên lửa, điều máy bay, lắp đặt radar…), dân sự hóa (xây trường học, bệnh viện, điều máy bay trở khách du lịch…) tại khu vực Biển Đông. Điều này khiến cộng đồng quốc tế lo ngại bởi sự khiêu khích vượt quá giới hạn của Trung Quốc.
Thách thức thế giới
Giải thích cho những hành vi của mình, Phó phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh trong buổi họp báo ngày 24/2 lớn tiếng khẳng định: “Việc lắp đặt radar hay các loại vũ khí tại khu vực Biển Đông đã được các nước thực hiện cả chục năm nay. Do đó, Trung Quốc cũng chỉ thực hiện những việc đó trên lãnh thổ của mình”.
Bên cạnh đó, Trung Quốc còn ngấm ngầm xây dựng lực lượng hải quân tinh nhuệ, tăng ngân sách Quốc phòng, thiết kế, chế tạo vũ khí. Người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân cho biết, Trung Quốc đang tích cực thiết kế và chế tạo chiếc tàu sân bay thứ 2 sau tàu Liêu Ninh nhưng với qui mô nhỏ hơn (50.000 tấn, tàu Liêu Ninh 67000 tấn) nhằm phát triển thương hiệu tàu sân bay Trung Quốc.
Nhưng theo nhiều nguồn tin khác, Trung Quốc còn đang chế tạo nhiều tàu sân bay khác ở Đại Liên, đảo Trường Hưng, Thượng Hải. Những tàu sân bay này sẽ được quân đội Trung Quốc bố trí sẵn sàng ở đảo Hải Nam để thuận tiện cho việc ứng phó với diễn biến ở Biển Đông, ứng phó với quân đội Mỹ và các nước đồng minh trong đó có Nhật Bản.
Và trên bàn ngoại giao, phủ nhận hành vi đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm lợi ích của các nước của mình. Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị ngày 23/2, trong cuộc hội đàm tại Washington với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, đã khẳng định rằng, phi quân sự hóa tại Biển Đông là nỗ lực chung của các bên và “sẽ tích cực cùng với các nước ASEAN bảo vệ hòa bình ổn định ở khu vực Biển Đông”.
Rõ ràng Trung Quốc một mặt luôn xoa dịu dư luận và các đối tác bằng những lời lẽ thuyết phục, tuy nhiên, Trung Quốc vẫn hành động xâm phạm lợi ích các nước khác, thách thức thế giới.
Nhật Bản lo ngại , Mỹ phê phán đi ngược lại thỏa thuận Mỹ-Trung
Nhưng dư luận quốc tế, đặc biệt những nước có liên quan tại khu vực Biển Đông, Mỹ, Nhật đã phản bác lý lẽ của Trung Quốc, coi đây là sự ngụy biện, kịch liệt phản đối những hành vi quá đà của Trung Quốc.
Chánh văn phòng Nội các Nhật Bản Yoshihide Suga nhiều lần phát ngôn: “Nhật Bản bày tỏ sự quan ngại sâu sắc nhất đối với hành vi quân sự hóa tại Biển Đông của Trung Quốc”.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani khẳng định hành động của Trung Quốc là làm biến đổi hiện trạng và gia tăng căng thẳng tại khu vực Biển Đông, khiến cả cộng đồng quốc tế lo ngại. Trung Quốc cần có những giải thích mang tính minh bạch hơn về hành vi này.
Trong khi đó, Ngoại trưởng Nhật Bản Fumio Kishida cũng khẳng định rằng, Nhật Bản không cần “suy nghĩ” khi cử quân đội tham gia vào “Chiến dịch tự do trên không” tại khu vực Biển Đông do Mỹ chủ trì.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong cuộc gặp với Ngoại trưởng Trung QuốcVương Nghị cũng đã phản đối mạnh mẽ hành vi này và cho rằng, nó đã đi ngược lại phát ngôn của Chủ tịch Tập Cận Bình không quân sự hóa tại khu vực Biển Đông.
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lập luận gọi những hành động mà Trung Quốc đã tiến hành gần đây không có gì mới mà chỉ là tiếp tục những hành động đã thực hiện trong vòng 10 năm nay để bảo vệ lãnh thổ của đất nước, không phải là hành vi quân sự hóa.
Và ông Kerry cũng viện dẫn việc Trung Quốc đã triển khai hệ thống tên lửa đất đối không tại Biển Đông và coi đây là một chứng cớ không thể chối cãi được, mặc dù Tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đã thống nhất với nhau sẽ không có hành vi quân sự hóa nào tại khu vực Biển Đông trong cuộc gặp cấp cao giữa hai bên được tiến hành năm 2015. Trung Quốc phản đối phát ngôn của ông Kerry và khẳng định Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.
Và mặc cho Mỹ có phái tàu tuần tra, Nhật Bản có hỗ trợ mạnh như thế nào với những nước liên quan, Trung Quốc vẫn thao túng khu vực Biển Đông.
Thay đổi trật tự Đông Á và vai trò của Mỹ trên thế giới
Ông Yoji Koda – Nguyên Tư lệnh Lực lượng phòng vệ Hải quân Nhật Bản cho rằng, thời gian qua, Trung Quốc đã thực hiện một loạt các hành động mang tính khiêu khích và leo thang căng thẳng trên Biển Đông. Những động thái này cho thấy Trung Quốc quyết tâm độc chiếm Biển Đông bằng mọi giá và đây là mục tiêu chiến lược cao nhất của Trung Quốc.
Biển Đông đang trở thành khu vực nguy hiểm nhất trên thế giới và nếu có xung đột xảy ra trên vùng biển này thì Nhật Bản sẽ là nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do có tới 83% lượng dầu nhập khẩu của Nhật Bản đi qua đây.
Ông Yoji Koda cho biết thêm, vấn đề thực sự nghiêm trọng trên thực địa hiện nay là quá trình Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo để từ đó có thể xây dựng các cảng biển nước sâu, xây dựng các căn cứ quân sự chiến lược nhằm kiểm soát toàn bộ Biển Đông.
Việc kiểm soát Biển Đông chỉ là bước đi đầu tiên của Trung Quốc trong quá trình thực hiện mưu đồ lớn hơn.
Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Quốc phòng Nhật Bản thì việc Trung Quốc tăng cường mở rộng ra phía Biển, đầu tiên là “chiếm Biển Đông” có khả năng sẽ làm thay đổi trật tự của Đông Á. Cùng với thời gian Trung Quốc sẽ tăng cường năng lực tác chiến dần dần từ những khu vực xa lãnh thổ Trung Quốc, biến thành của mình. Sau khi nắm trọn Biển Đông sẽ hoạt động mạnh tại Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Trong khi đó, có nhiều chuyên gia, nhà báo Nhật Bản đã lên tiếng phản đối hành động gần đây của Trung Quốc tại Biển Đông, lo ngại âm mưu khó lường của nước này. Nhà báo Sakurai Yoshiko cho rằng, vấn đề đang xảy ra ở Biển Đông chắc chắn cũng sẽ xảy ra ở khu vực Biển Hoa Đông.
Mục đích “bá quyền” của Trung Quốc bao gồm việc đơn phương xây đảo nhân tạo tại khu vực này là nhằm muốn thay Mỹ đứng số một chỉ đạo cấu trúc của trật tự xã hội. Nếu xảy ra thì điều này sẽ mang lại sự thay đổi cực xấu cho thế giới, không mang lại lợi ích gì cho hòa bình và phát triển của Nhật Bản.
Việc Trung Quốc đang gia tăng quân sự hóa tại Biển Đông khiến cho Trung Quốc và Mỹ như “hai con hổ tranh mồi”.
Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Scott Swift cũng đã lên tiếng lo ngại rằng, hành vi của Trung Quốc gần đây cho thấy nước này sẽ có thể thiết lập khu nhận diện phòng không tại Biển Đông, điều mà Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã yêu cầu Trung Quốc không được thực hiện trong buổi gặp với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị vào cuối tháng 2 vừa qua.
Đô đốc Swift cho rằng, nếu việc này xảy ra sẽ bùng phát mâu thuẫn và phá vỡ sự ổn định của khu vực. Nhưng lo ngại chỉ là lo ngại khi Trung Quốc vẫn ngang nhiên mở rộng hoạt động tại khu vực này, phớt lờ sự phản đối của Mỹ, Nhật Bản…
Tháng 11/2013 khi Trung Quốc thiết lập Khu nhận diện phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa Đông, Mỹ cũng chỉ phản đối, tuyệt nhiên không có hành động cụ thể nào, quân đội Mỹ cũng phớt lờ. Và Nhật Bản trong bối cảnh này đã gần như “đơn thương độc mã”, không nhận được “hồi âm” hiệu quả nào từ đồng minh thân cận số một. Do vậy, những hành động đối kháng của Nhật Bản phần nào cũng kém mạnh mẽ.
Bối cảnh hiện tại cho thấy nguy cơ “chấp nhận” hành vi của Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế là rất cao. Điều này sẽ là điều kiện thuận lợi để Trung Quốc rộng đường trong tương lai. Vậy thế giới cần phải làm gì?
Theo VOV