CÂU NÓI ĐÁNG NHỚ CỦA TỔNG THỐNG MỸ RONALD REAGAN


“Chúng ta, những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm gì, họ không không có quyền làm ngược lại. Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho nhân dân biết quyền lợi của họ là gì. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái niệm “Chúng Ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là gì. “Chúng ta, những người dân” đang tự do.”

Vườn rau mơn mởn trồng bằng nước của chàng trai 22 tuổi

Chỉ trong diện tích 8 m2 trên sân thượng, anh Trung (Đồng Nai) trồng được 300 cây rau xanh tốt.

Trước đây, gia đình anh Nguyễn Văn Trung (thị xã Long Khánh, Đồng Nai) làm nông còn hiện tại chuyển sang buôn bán các mặt hàng về nông nghiệp. Lúc đầu, anh Trung cũng trồng cây vào đất nhưng do không có thời gian chăm sóc nhiều nên quyết định chọn hình thức thủy canh.

Trong diện tích 8 m2 (2x4m), anh thuê người lắp đặt hệ thống trồng cây thủy canh với 300 lỗ, mỗi lỗ trồng được 1-2 cây.

Chi phí lắp đặt là 11 triệu nhưng anh Trung thấy xứng đáng bởi vườn gọn gàng, sạch sẽ. Ngoài ra, cả nhà sẽ đỡ tốn công chăm sóc, tiết kiệm được thời gian mà vẫn có rau sạch, đảm bảo an toàn để cải thiện cho các bữa ăn.

Khi bắt đầu trồng, khó khăn nhất là công đoạn ươm hạt. Chủ vườn cho xơ dừa, tro trấu vào khay xốp nhỏ, gieo hạt vào. Sau hai tuần tưới nước đều, anh Trung nhổ cây con lên.

Anh cho cây con vào miếng mút khoét lỗ rồi đặt chúng trong giàn thủy canh. Sau đó, anh đổ nước dinh dưỡng vào bồn, cắm điện để hệ thống hoạt động giúp đảm bảo cây luôn đủ nước.

Hiện tại, anh Trung chủ yếu trồng các loại rau ăn lá, rau thơm… Vụ đầu, anh thu hoạch một lượt nên ăn không hết. Rút kinh nghiệm tới vụ thứ hai, anh tỉa ăn dần nên có rau tươi cho nhiều ngày.

Ban Mai
Ảnh: Trung Nguyễn/VietnamExpress

Từ khóa “giá bia” ở Việt Nam lên top Google

Việt Nam là một trong trong số ít những quốc gia có lượng tìm kiếm giá bia nhiều nhất trên thế giới cùng Thái Lan.

Nhằm đánh giá nhu cầu tìm kiếm trên Google ở quốc gia bất kỳ trên thế giới, Fixr vừa đưa ra kết quả thú vị khi sử dụng từ khóa tìm kiếm “Giá bao nhiêu tiền tại [tên quốc gia]” trên Google.

Thái Lan và Việt Nam lọt top tìm giá bia trên Google. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[1]
Thái Lan và Việt Nam lọt top tìm giá bia trên Google. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Tại châu Á, người dùng Google thường quan tâm đến giá bia ở Việt Nam. Trong khi đó, giá đồ điện tử được quan tâm ở Trung Quốc. Tại Ấn Độ, giá bò được quan tâm, trong khi ở Myanmar, chi phí du lịch là điều được tìm đọc nhiều nhất trên Internet.

Bản đồ Châu Á. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[2]
Bản đồ Châu Á. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Tại Bắc Mỹ, mối quan tâm ít đa dạng hơn. Người dùng Google tìm giá làm hộ chiếu tại Canada, trong khi ở Mỹ, chi phí để sở hữu một bằng sáng chế là mối quan tâm hàng đầu.

Bản đồ tại Bắc Mỹ. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[3]
Bản đồ tại Bắc Mỹ. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Nam Mỹ là nơi tập hợp của những nhu cầu hưởng thụ. Người dùng Google rất hay tìm hiểu giá để đi đêm với gái làng chơi ở Brasil. Họ quan tâm đến nước ngọt có gaz ở Chile và bia rượu ở láng giềng Argentina. Nhiều người cũng tìm hiểu về chi phí sống tại Peru và Bolivia, hai quốc gia khá yên bình, nhiều thắng cảnh.

Bản đồ tại Nam Mỹ. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[4]
Bản đồ tại Nam Mỹ. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Trong khi đó, ở châu Phi, mối quan tâm phần lớn là giá cả của nhu yếu phẩm và nông sản. Tại hoang mạc Sahara, người ta chỉ quan tâm đến giá của nô lệ. Ở Mali, Tchad Chad, Angola,.. người dùng thường tìm giá thực phẩm. Các nước ở Đông Phi nhộn nhịp giá cả bò, dê lạc đà.

Bản đồ tại Châu Phi. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[5]
Bản đồ tại Châu Phi. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Tại Châu Âu từ khóa về “năng lượng” được người dân quan tâm nhiều nhất.

Tại Châu Âu. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[6]
Tại Châu Âu. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Và ở Nam cực, giá đất là mối quan tâm hàng đầu đối với cư dân mạng trên toàn cầu.

Bản đồ tại Nam Cực. (Ảnh: tech.thaivisa.com)[7]
Bản đồ tại Nam Cực. (Ảnh: tech.thaivisa.com)

Ánh Sao tổng hợp/daikynguyen

Toàn cảnh hải chiến Trường Sa 14/3/1988

Hải chiến Trường Sa 1988  hay còn gọi là trận chiến Gạc Ma nổ ra vào ngày 14/3/1988. Trong cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc này, Việt Nam đã mất 3 tàu vận tải của Hải quân Việt Nam, 64 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, quyết tử để bảo vệ lá cờ Tổ quốc trên vùng biển đảo quê hương.

Theo DÂN TRÍ

Trường Sa 1988: Vì sao Liên Xô im lặng khi TQ cướp đảo của VN?

Soha

Phan Hồng Hà

Mikhail Gorbachev và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh, Trung Quốc năm 1989. Ảnh: Getty.

Dù đã kí với nhau Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện năm 1978, nhưng 10 năm sau, khi quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, tại sao Liên Xô không có động tĩnh?

Không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều nước khác, đặc biệt là ở Nga, cho đến gần đây người ta vẫn đặt câu hỏi tại sao Liên Xô lại có thái độ im lặng trước việc Trung Quốc tấn công xâm chiếm các đảo của Việt Nam tháng 3/1988, dù Việt-Xô đã ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện năm 1978.

Người ta còn nhắc đến điều 6 của Bản Hiệp ước, nêu rõ “trong trường hợp một trong hai bên bị tấn công hoặc bị đe doạ tấn công, thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh của hai nước”.

Tháng 2/1979, khi Việt Nam bị Trung Quốc tấn công biên giới, trên tinh thần Hiệp ước, Liên Xô đã khẩn trương cử đoàn cố vấn quân sự cấp cao sang Việt Nam và có những động thái hết sức khẩn trương, kịp thời, hiệu quả để giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam.

Vậy nhưng 9 năm sau, khi Việt Nam bị Trung Quốc tấn công cướp đảo, Liên Xô lại hầu như không có động tĩnh gì. Đâu là lý do đích thực?

Sự lý giải của các chuyên gia quân sự, các nhà khoa học lịch sử uy tín của Nga sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về điều này.

Ý kiến của các chuyên gia được đưa ra tại cuộc Bàn tròn trực tuyến do báo Gazeta.ru tổ chức ngày 14/3/2014, đúng dịp kỷ niệm 26 năm Trung Quốc tấn công xâm chiếm các đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.

Thay đổi đường lối ngoại giao

Trong bản tham luận tại Hội thảo “Vai trò của Liên Xô trong các cuộc xung đột tại Việt Nam cuối thập niên 70, 80 thế kỷ XX” tổ chức ngày 11/3/2014 ( đã đăng trên tạp chí “Những trang lịch sử”), GS.TS.Vladimir Kolotov, nhà Việt Nam học từ Trường Đại học tổng hợp quốc gia Saint Petersburg đã dẫn ý kiến của GS.V.I.Dashichev, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Liên Xô.

Trong một bài phân tích đề ngày 1/1/1987 gửi Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao A.Gromyko, trước đó là Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô, V.I.Dashichev – khi đó là Chủ tịch Ủy ban cố vấn khoa học của Bộ ngoại giao Liên Xô – đã nhận định việc ủng hộ Việt Nam sẽ khiến Liên Xô “không chỉ khó khăn trong quan hệ với phương Tây, mà còn chồng chất trở ngại trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc“.

Những phân tích gửi Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao A.Gromyko này đã được thực hiện chỉ 1 năm trước khi xảy ra vụ Gạc Ma.

H1Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko. Ảnh: WikiMedia

TS.V.Kolotov nhận định: Rõ ràng là, các vấn đề của Việt Nam không hề nằm trong các ưu tiên đường lối đối ngoại của lãnh đạo Liên Xô, cũng như Bộ Ngoại giao Liên Xô trong những năm đó (dưới thời kỳ lãnh đạo của M.Gorbachev).

Các chuyên gia nói gì?

TS.Vladimir Mazyrin, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN của Viện Viễn Đông (Viện hàn lâm khoa học Nga) đánh giá về sự kiện 14/3/1988:

Năm 1988, tôi làm việc tại Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội. Và chúng tôi nhận thấy sự kiện này quá bất ngờ và khó hiểu.

Tôi nhớ năm 1988, hai Đảng cộng sản của Việt Nam và Trung Quốc đã bắt đầu quá trình đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ.

Khác với năm 1979, khi đó hai nước có những mối quan tâm khá tương đồng. Vậy mà Trung Quốc, với ưu thế quân sự vượt trội, lại cho phép mình có hành động chống Việt Nam như thế.

Cần phải thấy rõ là Liên Xô trong thời điểm đó, dưới sự lãnh đạo của Gorbachev, không muốn có những hành động chống lại Trung Quốc, cũng như Mỹ”.

TS.Mazyrin cho biết thêm:

Gần đây, CIA công bố một báo cáo về sự kiện này. Báo cáo có nhắc đến chi tiết đại sứ Việt Nam tại Liên Xô khi đó đã đến gặp Igor Rogachev, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô và đề nghị Việt Nam và Liên Xô sẽ cùng phối hợp lên án Trung Quốc đã chiếm trái phép các đảo.

Rogachev đã nói ngay, sẽ không có tuyên bố chung nào như vậy”.

H1Ông Igor Rogachev (phải), cùng Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov. Ảnh: ???

H1Còn TS.Dmitry Mosyakov, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Đông phương học (Viện hàn lâm khoa học Nga) thì phân tích rõ hơn:

Nếu như năm 1979 (chiến tranh biên giới-PV), Liên Xô có vai trò lớn thì năm 1988, lại ngược lại.

Trước đây, chúng ta vẫn nói là đường lối đối ngoại của Liên Xô khá đơn giản, phân biệt khá rõ giữa “kẻ lạ”, “người tốt”, “kẻ xấu”.

Nhưng khi (Liên Xô) bắt đầu thay đổi đường lối, bắt đầu “đổi mới tư duy chính trị”, bắt đầu xem xét các yêu cầu của Trung Quốc để bình thường hóa quan hệ (như vấn đề Campuchia, Afghanistan), bắt đầu chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác, thì chính sách đối ngoại bắt đầu suy yếu.

Rõ ràng là tàu Trung Quốc gây hấn, các bạn Việt Nam yêu cầu chúng ta giúp đỡ (tôi nhớ là đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện), và các tàu Trung Quốc đã đánh chìm tàu Việt Nam. Tình hình ở ngoài đó là rất nghiêm trọng.

Các bạn Việt Nam đã mong chờ vào sự ủng hộ của lãnh đạo Liên Xô. Nhưng, lãnh đạo Liên Xô khi đó, rõ ràng là đã có những tính toán khác, họ có những suy nghĩ hoàn toàn khác để không ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

Họ đã đánh mất đi tất cả những gì mà đã từng tạo dựng được ở Việt Nam. Kết cục là, đường lối đối ngoại mới của lãnh đạo Liên Xô đã đóng một vai trò hết sức tiêu cực”.

Chuyên gia Grigory Lokshin, PTS lịch sử đến từ Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN nói rõ thêm về quan điểm của lãnh đạo Liên Xô thời đó:

Năm 1988, như giáo sư Mosyakov nói, Liên Xô hầu như không làm gì. Đó là thời điểm Moskva và Bắc Kinh bắt đầu đàm phán.

Và (trong giới lãnh đạo Liên Xô) không ai có thể hình dung rằng, chỉ vì vài hòn đảo nào đó ở quần đảo Trường Sa lại có thể làm trở ngại đến cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

Chúng ta có 7.000 km đường biên với Trung Quốc. Liên Xô cũng có những lợi ích riêng của mình, mỗi đất nước phải ưu tiên đến quyền lợi riêng, an ninh của mình”.

Cũng chuyên gia này, trong một tham luận có tên “Quần đảo Trường Sa hôm qua và hôm nay” công bố năm 2014 trên tạp chí “Những trang lịch sử”, cũng chỉ rõ Trung Quốc lựa chọn kỹ thời điểm tấn công các đảo của Việt Nam.

Đó là vào mùa xuân 1988, khi mà dư luận thế giới đang tập trung vào tình hình Campuchia, trước khi các nước ASEAN lắng dịu lại quan hệ với Việt Nam trong vấn đề Campuchia.

Cựu phóng viên báo “Tin tức” thường trú ở Việt Nam năm 1988, Boris Vinogradov cũng lý giải sự im lặng của Liên Xô trước sự kiện Gạc Ma: “Khi đó, tôi cũng có viết một bài về cuộc đụng độ vũ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam tháng 3/1988 ở Trường Sa.

Bài báo được đăng. Nhưng trên báo chí Xô viết thời đó, chủ đề này thiếu hụt các bài phân tích sâu và gây được chú ý.

Giải thích điều này cũng dễ: khi đó Moskva và Bắc Kinh đang thiết lập mối quan hệ gần gũi hơn. Moskva làm như không nhận thấy những gì đang xảy ra ở Trường Sa và coi đó là công việc nội bộ của Việt Nam và Trung Quốc”.

Cựu Giám đốc CIA: Bất hòa Mỹ-Trung về Biển Đông là ‘thảm họa’

@Dannews

Tờ The Guardian mới đây trích dẫn Tướng Michael Hayden, cựu giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA, cựu giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia NSA, nói rằng Biển Đông đang trở thành một khu vực ngày càng nhiều tranh chấp, và nếu không được giải quyết thoả đáng, việc này có thể mang lại những hậu quả tàn khốc trong những năm tới.

1

Ông Hayden cũng cho rằng khủng bố không phải là một “mối nguy sinh tử” với nước Mỹ. Ông lo ngại liệu có phải Mỹ quá bận tâm với cuộc chiến chống khủng bố mà không nhìn thấy một vấn đề lớn hơn và nghiêm trọng hơn hay không. Cụ thể, Trung Quốc dường như sẽ còn trỗi dậy trong nhiều năm nữa và Mỹ có vẻ đang ứng phó sai với sự gia tăng sức mạnh đó.

The Guardian trích lời Tướng Hayden nói rằng “Nếu ta đi thêm 10 năm nữa, đó chính là Trung Quốc. Tôi không nói Trung Quốc là một kẻ thù của Mỹ. Tôi đơn giản chỉ nói là nếu chúng ta không ứng phó tốt với sự nổi lên của Trung Quốc, đó sẽ là một thảm họa cho thế giới”.

Ông William Jones, một thành viên của tuần san chuyên về tình báo Executive Intelligence Review ở Leesburg, bang Virginia, cũng đồng ý về vấn đề này. Ông cho rằng tình hình Biển Đông, nơi có những tranh chấp gay gắt về chủ quyền biển và đảo giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Đài Loan và một số nước khác, đang dẫn đến “giai đoạn tiền chiến tranh”.

Ông Jones nói với Press TV trong một cuộc phỏng vấn: “Đây là một tình trạng hết sức nghiêm  trọng và chúng ta đã thấy điều đó hồi đầu thế kỷ 20, dẫn đến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, và chúng ta thấy rằng tình hình hiện nay ngày càng có tính đối đầu hơn.”

Dù đang là tâm điểm của nhiều chỉ trích chính trị vì các động thái hung hăng hay xâm lấn ở Biển Đông, song Trung Quốc không xuống thang trên bất cứ lĩnh vực gì. Ngược lại, Trung Quốc phê phán các nước về các nỗ lực quân sự có thể có của họ ở khu vực tranh chấp, kể cả đưa ra cảnh báo đối với Philippines khi nước này mới đây thuê máy bay của Nhật Bản để tuần tiễu ở Biển Đông.

Trong một bài xã luận được tờ Khmer Times của Campuchia đăng tải ngày 13/3, Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ của Việt Nam, nhận định “Nếu chúng ta để Trung Quốc tiếp tục thực hiện hành động hung hăng ở Biển Đông đe dọa các nước khác và coi thường luật pháp quốc tế để bảo vệ hòa bình thế giới, nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ ném vào sọt rác các nguyên tắc cơ bản và các giá trị nhân loại phổ quát, cũng như Hiến chương Liên Hiệp Quốc”.

Tiến sỹ Trục nói đã đến lúc các bên liên quan như Việt Nam, Mỹ, Philippines và Nhật Bản lên tiếng tại các diễn đàn Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa các hậu quả hủy diệt của căng thẳng gia tăng ở Biển Đông và bảo vệ luật pháp cũng như công lý.

Ông Trục nói ông tin chính quyền của Tổng thống Obama sẽ cân nhắc đưa vấn đề Biển Đông ra Hội đồng Bảo an LHQ và các diễn đàn khác. “Công lý và công luận cũng quan trọng và hiệu quả không khác gì các vũ khí mà Trung Quốc đã đặt ở Biển Đông, nhưng giải quyết những vấn đề còn tồn tại cần sự đoàn kết, nhất trí và có hành động chung,” ông nhấn mạnh.

Riêng về những gì Việt Nam cần làm, cựu Trưởng ban Biên Giới Việt Nam cho rằng “Việt Nam cần tăng cường hợp tác và thúc giục các nước thành viên ASEAN thực thi các biện pháp xây dựng lòng tin. Việt Nam cần nêu các sáng kiến duy trì nguyên trạng, ngăn ngừa xung đột và duy trì hòa bình, ổn định, cũng như tự do hàng không và hàng hải ở Biển Đông”.

Tình hình căng thẳng khác thường trong một thời gian ngắn vừa qua ở Biển Đông đã gây chú ý tới cả Liên hiệp châu Âu. Trong một tuyên bố hôm 11/3, EU kêu gọi chấm dứt quân sự hóa ở Biển Đông, sau khi Trung Quốc triển khai hỏa tiễn ở đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền song trên thực tế bị Trung Quốc kiểm soát.

EU nói họ không đứng về bên nào trong các tranh chấp biển nhưng muốn các bên giải quyết tuyên bố chủ quyền một cách hòa bình.

“Triển khai các lực lượng hay thiết bị quân sự tạm thời hay lâu dài trên các thực thể trên biển có tranh chấp mà ảnh hưởng đến an ninh khu vực và có thể đe dọa tự do hàng hải và hàng không là một mối quan ngại lớn”, EU tuyên bố, đồng thời nhấn mạnh “EU kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, làm rõ cơ sở của tuyên bố chủ quyền của họ, và theo đuổi các tuyên bố đó phù hợp với luật quốc tế, kể cả Công ước LHQ về luật biển và các thủ tục trọng tài của LHQ”.

Theo The Guardian, PressTV, Morning News USA, Khmer Times, Rappler