Lượm lặt tin 23-01-16

Bí quyết dưỡng sinh không bệnh nhờ vào điều dưỡng ngũ tạng

Bí quyết điều dưỡng ngũ tạng trong Đạo giáo, lời ít mà nội hàm nhiều, đạo thuật hợp nhất.

Điều dưỡng an toàn cho lá gan

Lá gan thuộc mộc, có lúc nóng, có lúc vừa, có những lúc trong lạnh mà ngoài nóng. Tuy có thể gọi là vừa nhưng sự nóng giận có thể đến rất nhanh. Cổ nhân xem lá gan ví như một vị “tướng quân”, dùng hình ảnh của vị tướng dễ nổi nóng, tính cách không điềm tĩnh để hình dung đặc tính sinh lý của lá gan. Cảm xúc thay đổi, đặc biệt là u buồn lo nghĩ rất có thể làm cho việc vận hành điều tiết của lá gan bị ứ trệ.

Nếu như người đó dễ dàng bị cơn nóng giận khống chế thì dễ làm cho lá gan bị nóng. Nổi nóng và u buồn là hai trạng thái rất dễ ảnh hưởng đến hoạt động của chức năng gan và làm cho người đó phát bệnh. Vì thế trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày nên bảo trì tâm thái bình hòa, làm được không tranh giành với đời, thì khí trong lá gan sẽ không bị ứ trệ, lá gan sẽ vận hành một cách bình ổn chức năng tự nhiên của nó mà không bị tổn thương.

Điều dưỡng tim – tự cân bằng tâm phiền trong cuộc sống

Tim thuộc hỏa, là cơ quan trọng yếu nhất trong ngũ tạng, vì nó chỉ huy toàn bộ các cơ quan nội tạng khác làm việc. Đây là cơ quan cân bằng trong bộ máy điều tiết cơ thể. Người thông minh trí huệ thường dựa vào tâm để quyết định sự việc. Các loại cảm xúc thay đổi đều làm loạn tâm, bởi trong cuốn “Hoàng đế nội kinh” có viết: “Bi ai ưu sầu là do tâm động, tâm động thì lục phủ ngũ tạng đều động.” Cho nên, trong cuộc sống có gặp bất kể vấn đề gì, chúng ta cũng hãy nên xử lý một cách bình ổn, bảo trì tâm thái bình thản. Như thế tâm sẽ tĩnh tại và cân bằng các cơ quan khác, con người tự nhiên trở nên tường hòa.

Điều dưỡng cơ quan lá lách – hấp thụ dinh dưỡng thế nào đều do lá lách điều tiết

Lá lách thuộc thổ, mỗi ngày đều cần chú ý điều dưỡng. Bởi nó là chủ thể của cơ quan tiêu hóa giúp hấp thụ thức ăn tốt hay không, là cơ quan chịu trách nhiệm cung ứng dinh dưỡng cho cơ thể. Để điều dưỡng tốt thì con người cần ăn uống điều độ, không nên ăn quá no, không nên kén chọn đồ ăn, cũng không nên ăn uống một cách vộ độ. Nếu không sẽ gây tổn thương cho cơ quan điều tiết dinh dưỡng, ngăn trở hấp thụ thức ăn, bệnh tật bộc phát. Có câu “Một bữa ăn làm tổn hại cơ thể phải đổi lấy 10 bữa húp cháo” cũng giảng đạo lý này.

Điều dưỡng phổi

Trong ngũ hành, phổi thuộc kim, là cơ quan chủ quản điều tiết hô hấp, “Phối hướng tới trăm mạch”, nhưng “nói nhiều cũng hao tổn khí”. Khi nói thành tiếng, khí quản là cơ quan phát ra âm thanh nhưng lại lấy khí từ phổi, vì thế nên nói nhiều cũng hao tổn khí. Trong kinh nghiệm dưỡng sinh của đại danh y Tôn Tư Mạc cũng nói về việc không nên nói nhiều. Bởi nói nhiều sẽ thiếu khí, vì thế nên ít nói sẽ tốt. Ít nói thì hạn chế cơn tức giận, mọi sự cứ thế tan biến. Vì vậy điều chỉnh khí tắc, ít nói, không nói lộng ngữ thị phi, không nói lời bất hảo là bí kíp để điều dưỡng khí cho lá phổi.

Điều dưỡng thận

Thận mang bản tính tiên thiên, cơ quan chủ quản của kho tàng sinh trưởng và phát triển. Nếu như tham lam sắc dục quá độ, khí của thận sẽ dễ dàng bị hao tổn, khiến lưng đau, đầu gối bủn rủn, râu tóc bạc sớm, răng nhanh rụng và biểu hiện của tuổi già nhanh chóng xuất hiện trên mặt. Từ xưa, Trung y đã luôn khuyên phải điều tiết sắc dục để bảo vệ thận, không dâm dục quá độ, cũng không cấm dục, tinh khí của thận sẽ bảo toàn, thận tự nhiên khỏe mạnh.

Thời gian tốt nhất để điều dưỡng 5 cơ quan nội tạng:

1. 9 đến 11 giờ tối là thời điểm điều tiết các dịch vị trong cơ thể, là thời gian thải các độc tố, vì thế thời gian này nên cần yêu tĩnh hoặc nghe nhạc.

2. Từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, mật thực hiện việc bài độc, cần trong trạng thái ngủ say để tiến hành.

3. Từ 1 đến 3 giờ sáng, lá gan tiếp tục bài độc.

4. Từ 3-5 giờ sáng, lá phổi bài độc. Vì thế những người bị ho khan thì thời điểm này cũng bị ho giữ dội. Trong quá trình bài độc đến phổi, không thể dừng ho được vì tránh ức chế khí thải cần bài trừ.

5. 5 đến 7 giờ sáng, đại tràng bài độc, tương ứng thời điểm nên đi vệ sinh.

6. Từ 7-9 giờ, là thời gian ruột non hấp thụ lượng lớn dinh dưỡng, vì thế cần ăn đủ chất dinh dưỡng trước 6h30. Người dưỡng sinh tốt thì không nên bỏ ăn và lại càng không nên tạo thói quen ăn trong giờ dưỡng sinh của cơ thể.

7. Thời điểm từ nửa đêm đến rạng sáng cần nên ngủ say, không nên thức đêm.

——————————-

Quan tham ngày mặc áo rách, tối ngủ long sàng

Cuộc chiến “đả hổ, đập ruồi” đã hé lộ không ít điều thú vị về quan tham Trung Quốc, từ chuyện ăn chơi, bao gái cho tới chiêu trò cất giấu tiền bạc cực kỳ tinh vi.

Mới đây, tờ “Trung Quốc kỷ kiểm giám sát”, cơ quan ngôn luận của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã nêu rõ một số quan chức để hạ cánh an toàn, đã trở thành kẻ ngụy trang siêu giỏi. Trong nhà cất giữ cả trăm triệu Nhân dân tệ tiền mặt, nhưng sáng sáng đạp xe đi làm.

quan tham, tham nhũng, Trung Quốc, tích trữ, hối lộ, hoang phí, tiết kiệm, thanh liêm
Nghê Phát Khoa (giữa) mê ngọc tới điên cuồng

Nhiều quan tham miệng vừa hô hào “thanh liêm giữ mình”, sau đó đã chuồn vào hội sở chè chén nhậu nhẹt. Không ít kẻ ban ngày ưỡn ngực hô “kiên quyết thực hiện”, tối đến bên bàn rượu bàn nhau làm theo ý mình…

Khai man các kiểu, thật giả khó lường

Do yêu cầu về tư tưởng, chính trị, văn hóa ngày càng cao, quy định kỷ luật ngày càng nghiêm, sự giám sát ngày càng chặt, “làm giả” đã trở thành thứ bùa phép để các quan tham trốn tránh sự giám sát. Thủ đoạn và nội dung làm giả thì đủ kiểu, nhưng mục đích đều nhằm bảo toàn bản thân, kiếm nhiều lợi lộc.

quan tham, tham nhũng, Trung Quốc, tích trữ, hối lộ, hoang phí, tiết kiệm, thanh liêm
Vương Mẫn

Tháng 2/2015, Khu ủy Quảng Tây ra thông báo về một cán bộ cấp phòng làm giả hồ sơ nghiêm trọng. Khi từ tỉnh ngoài chuyển đến, ông ta mới ở cấp phó một ban, nhưng đã thay đổi, làm giả hồ sơ lý lịch cả về năm sinh lẫn quá trình công tác để biến thành cấp trưởng phòng.

Việc tuyển lựa đề bạt cán bộ, lãnh đạo lui về tuyến 2 có quy định cụ thể về độ tuổi. Nhiều cán bộ để được đề bạt, kéo dài thời gian giữ chức, đã tìm cách khai bớt tuổi, “trẻ hóa” hồ sơ. Thế nên mới có chuyện buồn cười là có những cán bộ công tác từ khi còn học trung học cơ sở.

Tháng 3/2015, Ban Tổ chức trung ương ra thông tri yêu cầu tăng cường thẩm tra lý lịch tự khai của cán bộ lãnh đạo, nâng tỷ lệ thẩm tra lên 10%, “nếu đề bạt phải thẩm tra”. Thế nhưng một số cán bộ lãnh đạo vẫn không chịu ngưng tay, tiếp tục lừa dối tổ chức, trốn tránh thẩm tra.

quan tham, tham nhũng, Trung Quốc, tích trữ, hối lộ, hoang phí, tiết kiệm, thanh liêm
Vạn Khánh Lương

Mạc Quyên, Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Sở Dân chính Tân Cương làm giấy tờ giả cho bản thân và con trai, tùy tiện xuất cảnh, che dấu vụ việc của bản thân. Quyên đã bị xử lý vì vi phạm nghiêm trọng kỷ luật chính trị và kỷ luật tổ chức.

Chu Bản Thuận, Bí thư Tỉnh ủy Hà Bắc nổi tiếng về phát biểu mạnh mẽ chống tham nhũng trên các diễn đàn, nhưng phía sau thái độ chống quyết liệt ấy là một quan tham ra sức vơ vét của công, nhận hối lộ.

Vương Mẫn (Ủy viên thường vụ tỉnh ủy Sơn Đông, Bí thư thành ủy Tế Nam), Vạn Khánh Lương (Ủy viên Trung ương dự khuyết, Bí thư thành ủy Quảng Châu)… đều là những “đấu sĩ chống tham nhũng” mọi nơi chốn, nhưng khi họ ngã ngựa, mọi người mới ngã ngửa. Đó đều là những “kẻ hai mặt” giỏi diễn kịch, khéo dùng thái độ để che dấu vấn đề cá nhân, lừa gạt tổ chức.

Tham ô tiền tỉ vẫn nổi tiếng “quan thanh liêm”

Lưu Thiết Nam nguyên là Phó chủ nhiệm Ủy ban Cải cách và phát triển quốc gia. Xuất thân trong gia đình công nhân, Nam có ý chí vươn lên mạnh mẽ và miệt mài làm việc “hàng ngày trừ khi ngủ đều ngồi làm việc”, liên tục được bình chọn, khen thưởng các danh hiệu vinh dự.

quan tham, tham nhũng, Trung Quốc, tích trữ, hối lộ, hoang phí, tiết kiệm, thanh liêm
Lưu Thiết Nam

Tuy nhiên, theo cáo trạng của tòa án, Lưu Thiết Nam đã tham nhũng tiền và vật quy ra 35,58 triệu Nhân dân tệ (124,6 tỷ VND), trong đó con trai Nam là Lưu Đức Thành “nhận hộ” 34 triệu Nhân dân tệ.

Nguyên phó tỉnh trưởng An Huy – Nghê Phát Khoa cũng từ một con công nhân dần dần vươn lên. Khoa luôn được đánh giá là cán bộ “có năng lực, có khả năng thu hút người khác”, nhưng Khoa cũng có thú vui “tao nhã” khác người là chơi ngọc. Theo tờ báo, Nghê Phát Khoa mê ngọc đến mức điên cuồng, không rời tay khỏi ngọc bất kể là đang xem tivi hay đọc sách

Trên cổ Khoa lúc nào cũng đeo miếng ngọc to tướng. Cứ đến cuối tuần là Khoa giở hết đồ ngọc ra ngắm nghía. Trong vòng vài năm, từ người thích ngọc, Khoa trở thành nhà sưu tập ngọc rồi mở triển lãm trưng bày ngọc. Tuy nhiên, nguồn gốc những tác phẩm bằng ngọc quý ấy chẳng “tao nhã chút nào”.

Phần lớn số ngọc được các thương gia, ông chủ “tặng” để đổi lấy được Khoa tạo điều kiện làm ăn. Trước tòa, Khoa khai nhận 49 lần nhận quà biếu là thư họa, đá ngọc và tiền tặng, tổng trị giá trên 13 triệu Nhân dân tệ (45,5 tỷ VND).

quan tham, tham nhũng, Trung Quốc, tích trữ, hối lộ, hoang phí, tiết kiệm, thanh liêm
Ngụy Bằng Viễn

Ngụy Bằng Viễn chỉ là Vụ phó Vụ Than, Cục Năng lượng quốc gia, nhưng về mức tham thì đứng hàng đầu. Tháng 5/2014, khi Viễn bị bắt để điều tra, tổ chuyên án phát hiện thấy trong nhà cất dấu 230 triệu Nhân dân tệ tiền mặt (805 tỷ VND).

Viện Kiểm sát tối cao cho biết đây là quan chức tham nhũng có khoản tiền tang vật lớn nhất kể từ năm 1949 đến nay. Một ngân hàng ở Bắc Kinh phải điều đến 16 máy đếm tiền để kiểm, 4 chiếc bị cháy vì chạy liên tục quá lâu.

Tuy nhiên, điều khôi hài là, để che đậy, Viễn luôn tỏ ra là người tiết kiệm, giản dị. Giàu đến mức ấy, nhưng Viễn luôn ăn mặc xoàng xĩnh, hàng ngày đạp xe từ nhà đến cơ quan làm việc.

——————————

 

 

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh ‘dốc ruột’ trước Đại hội

Phát biểu thảo luận tại Đại hội Đảng sáng nay, Bộ trưởng KH&ĐT Bùi Quang Vinh, ủy viên TƯ khóa 11, nói: Việc đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế là yêu cầu hết sức cấp bách.

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh mở đầu tham luận bằng những con số được coi là hiện thân sống động cho thành quả không thể phủ nhận của 30 năm Đổi mới: Từ 1986 đến nay, thu nhập bình quân đầu người tăng 4 lần, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 95% xuống còn dưới 5%. Nhưng thực tế, hiện nay VN vẫn là một nước nghèo.

Bộ trưởng KH&ĐT, bùi quang vinh, đổi mới, đại hội đảng 12
Bộ trưởng KH&ĐT Bùi Quang Vinh. Ảnh: Phạm Hải

So sánh là khập khiễng nhưng Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho rằng, nếu không bằng lòng thỏa mãn thì nhìn vào tương quan nước bên cạnh có cùng điều kiện thấy VN đang đứng trước yêu cầu đổi mới cấp bách hơn bao giờ hết.

Đầu thế kỷ 19, vào năm 1820, VN đã có vị thế rất đáng nể trong khu vực về dân số cũng như quy mô kinh tế, lớn hơn cả Philippines và Myanmar gộp lại, gấp hơn 1,5 Thái Lan, thu nhập bình quân đầu người khi đó xấp xỉ mức trung bình của thế giới.

Hiện nay, theo số liệu 2014, thu nhập bình quân đầu người của nước ta chỉ bằng 1/5 mức trung bình của thế giới, nghĩa là 2052 USD/gần 12 nghìn USD bình quân thế giới, chỉ bằng hơn 1/3 thu nhập bình quân của Thái Lan.

Trong khi cùng thời gian Đổi mới của VN, Hàn Quốc đã từ nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trở thành quốc gia có kinh tế phát triển.

Cơ hội vàng dân số sắp hết

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh lưu ý VN đang trong cơ hội ngắn ngủi còn lại của dân số vàng và theo tính toán đến năm 2020 là hết, dù cơ quan chức năng tính thêm thêm 5 năm là 2025.

Bên cạnh đó, động lực từ công cuộc đổi mới trước đây mang lại đang dần ít phát huy tác dụng. Dư địa cho tăng trưởng dựa trên tăng vốn đầu tư, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên khoáng sản cũng không còn nhiều lợi thế.

Trong khi, VN đang hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta chấp nhận hội nhập tức là chấp nhận cạnh tranh. Do đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế là một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn.

“Vì ba lý do nêu trên, VN phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nếu không muốn tụt lại phía sau, nếu không muốn nền kinh tế trì trệ kéo dài rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp”, ông nói.

‘Hầu như chưa làm’

Bộ trưởng Bùi Quang Vĩnh nhớ tại hội trường diễn ra Đại hội 12 cách đây 5 năm, Đại hội 11 thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020.

Trong đó, tại  trang 99 nêu rõ, phải kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới, đổi mới chính trị phải đồng bộ đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và xã hội….

“Thực tế 5 năm qua, chúng ta đã tích cực đổi mới thể chế kinh tế và đạt một số kết quả nhất định. Nhưng đổi mới về chính trị thì hầu như chưa làm. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới trong 5 năm qua chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn”, ông nói.

Ông cho rằng, 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất của công cuộc đổi mới, đó là đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, làm thay đổi căn bản cuộc sống của người dân và đưa đất nước phát  triển

Tuy vậy, 70 năm qua, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị gần như không thay đổi.

“Một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh nay không còn phù hợp nền kinh tế thị trường, thậm chí còn là rào cản, trở ngại cho sự phát triển”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Vì vậy, trong giai đoạn tới, việc đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế là yêu cầu hết sức cấp bách.

Bộ trưởng KH&ĐT, bùi quang vinh, đổi mới, đại hội đảng 12
Đại biểu dự Đại hội. Ảnh: Phạm Hải

Bộ trưởng cho rằng, Đảng là người lãnh đạo cao nhất đất nước, cần chủ động nghiêm khắc đánh giá lại chính mình, thực hiện nghiêm chỉnh những nghị quyết mà Đại hội toàn quốc quyết định, kiên quyết đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị để hoạt động hiệu quả hơn, thực chất hơn.

“Đây là nhân tố tiên quyết, quan trọng nhất cho quá trình đổi mới tiếp theo. Làm tốt điều này, Đảng sẽ lấy lại niềm tin trong nhân dân bằng tấm  gương tự đổi mới và sự lãnh đạo hiệu quả của mình đối với đất nước, dân tộc”, ông nói.

3 trụ cột quan trọng

Về đổi mới thể chế kinh tế, Bộ trưởng nhấn mạnh 3 trụ cột: Thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững môi trường, thực hiện công bằng và hội nhập xã hội, hay còn gọi là bình đẳng cho mọi người, nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước.

Cụ thể, ông cho rằng, VN phải có mức tăng trưởng cao và ổn định liên tục trong 20 năm tới với mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm 7%. Có nghĩa là tương đương mức tăng trưởng GDP hàng năm 8%.

Để đến năm 2035 đạt mức thu nhập bình quân đầu người từ 15 nghìn đến 18 nghìn USD. Để đạt mục tiêu này, con đường duy nhất là tăng năng suất.

Phải tập trung cao độ, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, mà chủ yếu chính là doanh nghiệp tư nhân, cả chất lượng và số lượng, coi sức khỏe của doanh nghiệp trong nước chính là sức khỏe nền kinh tế.

Trước mắt phải nâng cao cho được năng lực cạnh tranh, hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước thông qua việc hoàn thiện củng cố nền tảng của kinh tế thị trường, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản, và xác định các chính sách công bằng, cạnh tranh lành mạnh trong tiết kiệm vốn, đất đai, tài nguyên, thông tin.

Ông chỉ ra, năng suất trì trệ hiện nay và môi trường yếu kém trong phát triển khu vực tư nhân do Nhà nước thiếu hiệu quả, do điều kiện lịch sử VN, những thiết chế công bị thương mại hóa, cát cứ, manh mún, thiếu sự giám sát của người dân.

Ngoài ra, khuôn khổ pháp lý của VN đã tạo không gian nhất định cho công dân tham gia vào quá trình quản trị Nhà nước. Nhà nước của dân, do dân, vì dân, dân biết dân làm dân bàn dân làm kiểm tra là những điều khẳng định rõ trong Hiến pháp nhưng thực tế vẫn còn tồn tại khoảng cách này với thực tiễn tham gia của công dân trong quản trị Nhà nước.

Quy trình bầu cử, cơ chế cho sự tham gia của các tổ chức xã hội chưa thực sự bảo đảm tính đại diện đích thực của người dân…

Xuân Linh/ Vietnamnet

MINH CHỦ MỌI NGƯỜI ĐANG CHỜ ĐỢI – NGUYỄN TẤN DŨNG

FB AnLe

Nguyễn Tấn Dũng (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau. Từ năm 1997, ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa X, XI, XII, XIII thuộc đơn vị bầu cử khu vực 3 Thành phố Hải Phòng (huyện Tiên Lãng), Uỷ viên Bộ Chính trị các khóa VIII, IX, X, XI, Trưởng ban Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án EPCO – Minh Phụng từ năm 2002. Ông cũng từng giữ chức Trưởng ban Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tuy nhiên tình trạng tham nhũng hầu như không có hướng giải quyết nên sau hội nghị trung ương 6 (khóa XI), ban này chuyển sang cho Bộ chính trị quản lý, đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
Ông được Quốc hội bầu lên vị trí Thủ tướng Chính phủ từ ngày 27 tháng 6 năm 2006 sau khi Thủ tướng tiền nhiệm Phan Văn Khải quyết định về hưu năm 2006 và tái đắc cử nhiệm kì thứ 2 vào ngày 25 tháng 7 năm 2011.Ông Thủ tướng trẻ nhất khi nhậm chức (57 tuổi).
Năm 1961, ông tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam, làm công tác văn thư, liên lạc, cứu thương, y tá, y sĩ. Sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Trung sĩ, Chuẩn úy, Thiếu úy, Trung úy – Đội trưởng Đội phẫu thuật, Đại đội trưởng và Chính trị viên trưởng Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá. Nguyễn Tấn Dũng gia nhập Đảng Lao động Việt Nam ngày 10 tháng 6 năm 1967, chính thức ngày 10 tháng 3 năm 1968.
Ngày ngày 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Tấn Dũng là trung uý, chính trị viên Đại đội Quân y thuộc Tỉnh đội Rạch Giá
Sau năm 1975, ông lần lượt giữ các chức vụ Thượng úy, Chính trị viên trưởng Tiểu đoàn Bộ binh 207; Đại úy, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn Bộ binh 152; Thiếu tá, Trưởng ban cán bộ Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang.
Từ tháng 10 năm 1981 trở đi, ông phục viên và tham gia công tác chính trị, lần lượt giữ các chức vụ: Tỉnh ủy viên Kiên Giang, Phó Ban Tổ chức cán bộ Tỉnh ủy; Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang, Bí thư Huyện ủy Hà Tiên; Phó Bí thư Thường trực rồi Bí thư Tỉnh ủy; Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Bí thư Đảng ủy quân sự tỉnh Kiên Giang; Ủy viên Đảng ủy Quân khu 9; Đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Từ tháng 1 năm 1995, ông tham gia công tác trong trung ương với các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Nội vụ; Thiếu tướng (1/1995 – 8/1996), Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương. Được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng tại các kỳ Đại hội Đảng CSVN thứ VI (năm 1986) và thứ VII (năm 1991).
Năm 1991 đến năm 1994: học Cử nhân Luật hệ tại chức
Ngày 1 tháng 7 năm 1996, ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và được Bộ Chính trị phân công làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và là Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phụ trách vấn đề tài chính của Đảng CSVN (từ tháng 6/1996 đến tháng 8/1997).
Từ tháng 9 năm 1997, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá X và sau đó được Quốc hội thông qua giữ chức Phó Thủ tướng; sau đó Thủ tướng Phan Văn Khải cử giữ chức vụ Phó Thủ tướng Thường trực và Chủ tịch Hội đồng Tài chính – Tiền tệ của Chính phủ
Tháng 5 năm 1998, Quốc hội thông qua cử ông kiêm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chức vụ này ông giữ đến ngày 11 tháng 12 năm 1999
Tháng 8 năm 2002, ông tiếp tục được đề cử giữ chức vụ Phó Thủ tướng và được Quốc hội khoá XI thông qua.
Ngày 27 tháng 6 năm 2006, Nguyễn Tấn Dũng được Quốc hội bầu làm tân Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông trở thành vị Thủ tướng trẻ nhất trong 20 năm trước đó
Ngày 25 tháng 7 năm 2007, Quốc hội khóa XII tiếp tục bầu ông Nguyễn Tấn Dũng giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ
Ngày 26 tháng 7 năm 2011 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII ông tái đắc cử nhiệm kỳ 2 giữ chức Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam.
Trong nhiệm kỳ đầu, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam lâm vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng, chứa đựng rất nhiều rủi ro suy thoái. Cùng chịu tác động bởi suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kinh tế các nước trong khu vực không lâm vào tình trạng bất ổn như Việt Nam. Thủ tướng bị đặt câu hỏi về khả năng quản lý kinh tế. Trong những năm liên tiếp trước khi Thủ tướng Dũng nhậm chức ở nhiệm kỳ đầu tiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh dần: 7,08% năm 2002, 7,34% năm 2003, 7,79% năm 2004, và 8,44% năm 2005. Ngược lại, sau khi thủ tướng nhậm chức, tăng trưởng GDP đang trên đà giảm mạnh từ năm 2007 trở lại đây: năm 2007 đạt 8,23%, năm 2008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt 5,32%, năm 2010 tăng một chút lên 6,78% nhưng năm 2011 dự kiến quay lại mức trên 5%. Lạm phát tăng cao (nhất châu Á vào tháng 7-8 năm 2011) hậu quả của các chính sách vĩ mô sai lầm trong khi đời sống của nhân dân khó khăn hơn: Mức thu nhập trong giai đoạn 2008-2010 tăng bình quân 9,3%/năm (giai đoạn lạm phát cao lên tới hơn 40%) sau khi trừ đi yếu tố tăng giá đã thấp hơn mức thu nhập thực tế 10,7%/năm của thời kỳ năm 2002-2004.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII đã thừa nhận các sai lầm trong quản lý kinh tế đã dẫn tới các vấn đề nghiêm trọng của nền Kinh tế Việt Nam .
Mội vài sự kiện liên quan xảy ra tại Việt Nam trong các nhiệm kỳ của ông. Bao gồm:
Tái cơ cấu Vinashin: khủng hoảng nợ tại Vinashin bùng phát vào tháng 5/2010 khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải đưa ra quyết định vội vàng tái cơ cấu Vinashin, cơ cấu lại các khoản nợ. Từ đó, có nhiều vấn đề bị phanh phui về quản lý nhà nước đối với tập đoàn kinh tế này. Theo báo cáo, Vinashin nợ hơn 100 nghìn tỷ VND (tương đương 5-6 tỷ USD) với khả năng không thể thanh toán nổi.
Phá giá tiền tệ: trong vòng 14 tháng tính tới 13/2/2011, Việt Nam đã phải phá giá đồng tiền bốn lần. Lần gần nhất, VND bị phá giá 9,3%.
Những câu phát biểu nổi tiếng của ông Thủ Tướng :
** “Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay.” (Lễ nhậm chức Thủ Tướng)
** “Là người đứng đầu, tôi xin nhận trách nhiệm về Vinashin!”
** “Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai.” Trả lời về trách nhiệm với vụ Vinashin.
“Còn 3 ngày nữa là tôi tròn 51 năm theo Đảng. Suốt thời gian qua tôi không đề nghị nhận chức này chức khác và cũng không thoái thác trọng trách gì được giao. Tôi đã báo cáo với Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương và Bộ Chính trị, Ban chấp hành đã hiểu rõ ưu khuyết điểm, tâm tư và cả thương tật của tôi. Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm Thủ tướng và Quốc hội đã bỏ phiếu tín nhiệm. Gần suốt cuộc đời tôi theo Đảng, tôi không chạy, xin hay thoái thác bất cứ nhiệm vụ gì Đảng giao”.
** “Chưa có dấu hiệu gì lớn làm đảo lộn kinh tế vĩ mô hay buộc chúng ta phải điều chỉnh mục tiêu……
Năm 1975 ông Dũng mới 26 tuổi, ông quá trẻ, tại sao ông không học hành để có một trình độ hiểu biết nhất định ? Những hạn chế về học vấn đã khiến một Thủ Tướng như ông không đủ những hiểu biết nhất định khi điều hành công việc và cách dùng người trong bộ máy lãnh đạo.Những sai lầm trong lãnh đạo ông đều lấy lòng trung thành với đảng và dùng lý lịch để ngụy biện.
Qua 10 năm làm Thủ Tướng ông để lại những dấu ấn gì ?Ông có xứng đáng làm minh chủ trong những năm tới không ?
Ông sẽ không bao giờ từ chức, và ông sẽ bám lấy quyền lực không biết xấu hổ,mặc cho đất nước tụt hậu.
Tôi nghĩ cả ông Trọng và ông Dũng nên ra đi.Đất nước thiếu gì nhân tài.Một trong những người có tâm và có tầm ai cũng biết.Đó là TRẦN HUỲNH DUY THỨC mà các ông đang gông cùm trong nhà tù.

Tất nhiên còn nhiều chuyện dài dài chúng ta sẽ phải tìm hiểu.

ÔNG NGUYỄN TẤN DŨNG SẼ LÀ NHÀ CẢI CÁCH?

FB Song Chi

Từ trước khi đại hội XII đảng cộng sản VN diễn ra khá lâu, và đặc biệt từ khi những thông tin cho thấy ông Nguyễn Phú Trọng sẽ ở lại thêm nửa nhiệm kỳ còn ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ ra đi, rõ ràng trên các trang mạng xã hội, báo chí độc lập bên ngoài và kể cả một vài bài trên báo chí quốc tế, luồng dư luận chê bai, chỉ trích, kể cả phẫn nộ với ông Trọng, ngược lại, khen ngợi, ủng hộ, tin tưởng ông Dũng càng tăng. Thậm chí có rất nhiều thông tin nội bộ mà phải là người trong bộ máy cao cấp của đảng và nhà nước cộng sản tìm cách tuồn ra ngoài, những bài báo do những người trong đảng công khai bênh vực ông Dũng và đưa những hình ảnh, tin tức bất lợi cho ông Trọng. Dần dần tạo ra hình ảnh ông Trọng thì đại diện cho phe bảo thủ, thân Tàu, ông Trọng mà còn nắm quyền lực thì đất nước này chắc chắn rơi vào tay Tàu, còn ông Dũng thì có đầu óc cấp tiến, thân Mỹ và phương Tây, sẵn sàng tiến hành những cải cách nếu được ngồi vào vị trí Tổng Bí thư…
Tự nhiên có một suy nghĩ thế này: Không hiểu dựa vào đâu mà nhiều người đặt lòng tin như bắp vào ông Nguyễn Tấn Dũng vậy? Không thể cứ cảm tính, đánh giá một người phải dựa trên thực tế, những phát ngôn, hành động, việc làm cụ thể, kết quả ra sao…Ông Nguyễn Phú Trọng giáo điều, bảo thủ, bảo vệ đảng tới cùng, điều đó rõ rồi ai cũng thấy, nhưng còn ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng có một thời gian dài nhiều năm qua để chứng minh năng lực, tâm và tầm, tư duy…trên vị trí Thủ tướng; là người đứng đầu chính phủ, chịu trách nhiệm chính về việc thực hiện, điều hành từ nền kinh tế cho tới đối ngoại, ông Dũng đã tạo được những thành tựu gì cho nền kinh tế VN, đã làm gì để giảm thiểu, tiến tới dần dần thoát ra khỏi sự lệ thuộc của nền kinh tế VN vào kinh tế Trung Cộng và đã gây ra những hậu quả gì?
Về mặt đối nội, ông Dũng đã có những chính sách gì hay ít nhất những việc làm nào ủng hộ tự do ngôn luận, tự do báo chí, cải thiện nhân quyền, lắng nghe ý kiến đóng góp của các nhân sĩ trí thức, không đàn áp người bất đồng chính kiến hay là ngược lại? Về mặt đối ngoại, ngoại trừ một vài câu phát biểu có vẻ chống Tàu ra và được mọi người nức nở ngợi khen, ông Dũng đã có những chính sách gì hay ít nhất những phát ngôn, việc làm nào ngăn ngừa sự xâm nhập của văn hóa Tàu vào VN, ngăn chặn sự hiện diện của người Trung Quốc trên đất Việt thông qua làn sóng công ty Trung Cộng trúng thầu trên đất Việt từ Nam ra Bắc kéo theo hàng vạn, hàng chục vạn công nhân, nhân công Trung Quốc sang làm việc, sinh sống lâu dài trên đất Việt? Quan trọng nhất, trên cương vị của chính mình, ông Dũng đã làm những gì khi Trung Cộng ngày càng hung hăng xâm phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của VN, đối với ngư dân Việt thì đối xử như bọn cướp biển man rợ…?
Đó là chưa nói ông Nguyễn Tấn Dũng cực kỳ tham nhũng, bằng chứng là trở nên giàu sụ sau thời gian nắm quyền, và tham lam, đưa con cái vào những vị trí cao nhất…Một người tham ăn như vậy liệu có đứng vững được trước những “củ cà rốt” béo bở của Trung Cộng vốn rất giỏi trò “buôn vua bán chúa” không? Hay ngược lại, khi đã tham nhũng lại lo cho con kiểu đó thì rất dễ bị Trung Cộng nắm gáy, mua chuộc, khống chế, từ đó khống chế VN?
Và ngẫm cho cùng, những luồng dư luận đang lan truyền này là có lợi cho ai?
Không chừng chúng ta lại đang bị phe cánh, thế lực nào đó lèo lái, hướng dẫn dư luận mà vẫn không biết, vẫn cứ tưởng mình đang nhìn đúng người.
Cá nhân tôi thì chẳng tin ông nào trong số những khuôn mặt “tứ trụ” cũ hay cả Bộ Chính trị hiện nay sẽ làm được gì, một phần vì họ đã tự bộc lộ mình không nhiều thì ít trong thời gian qua, một phần vì khi còn cái đảng này, cái cơ chế này, cái mô hình thể chế chính trị độc tài toàn trị này thì VN chả làm sao “cất cánh” được. Nói thật.

Hệ quả không định trước

Nguyễn Quang Dy

Quyền lực thường tha hóa và quyền lực tuyệt đối sẽ tha hóa tuyệt đối”. (Lord Acton)
“Hệ quả không định trước” (unintended consequences) là một quy luật diễn ra trong nhiều lĩnh vưc, nhưng ít người để ý, lại càng ít người biết cách vận dụng để lý giải thực tế trái chiều hoặc tác động làm thay đổi hiện trạng. Có thể do vướng chấp nên người ta dễ bị “điểm mù” (blind spot) che khuất tầm nhìn, nên tuy mắt sáng nhưng không nhìn thấy, hoặc thấy nhưng không chịu thừa nhận. Vì thế mới có câu, “người mù nhất là người không chịu nhìn” (Hoặc người điếc nhất là người không chịu nghe).
Hãy thử tìm hiểu quy luật này để vận dụng nhằm lý giải một số thực tế hoặc tác động làm thay đổi dòng chảy của sự kiện, trong bối cảnh tranh giành quyền lực đang diễn ra hiện nay.
Càng gần Đại hội, không khí càng nóng lên, tuy giữa Mùa Đông. Có nhà bình luận nói chưa thấy Đại hội Đảng nào lại căng thẳng, kịch tính và quyết liệt như lần này. Trong khi các phe nhóm phân hóa sâu sắc, choảng nhau quyết liệt một mất một còn, để tranh giành quyền lực (và lợi ích), thì giới trí thức đòi dân chủ và nhân quyền cũng như giới truyền thông cũng phân hóa không kém. Một số ngộ nhận, ủng hộ “ông này”, chống “ông kia” một cách quyết liệt, thâm chí thóa mạ nhau. Việt Nam chưa đa đảng nhưng đã “đa nguyên” một cách bất bình thường (như kinh tế thị trường định hướng XHCN). Vì truyền thông trực tuyến có vai trò ngày càng lớn, nên bị các phe nhóm thao túng (như công cụ của họ) trong cuộc chiến truyền thông, tung tin thật giả lẫn lôn, làm dư luận càng dễ ngộ nhận. Tuy chưa biết ai thắng ai thua, nhưng thấy rõ người Việt càng bị chia rẽ thì đất nước càng suy yếu, trước hiểm họa bành trướng của Trung Quốc.
Xét theo khía cạnh này thì đó là một hệ quả đáng buồn và nguy hiểm (vì dễ mất nước). Nhưng xét theo khía cạnh khác, thì những gì tồi tệ đang diễn ra có thể dẫn đến một “hệ quả không định trước”, làm xuất hiện cơ hội thay đổi đột phá, biến điều không thể thành có thể. Nói cách khác (theo “quẻ biến”), thì “càng xấu xa lại càng tốt”, theo tư duy đột phá “ngoài cái hộp” (out-of- the- box thinking).
Một vài dẫn chứng
Năm 1983, tại một hội nghị quốc tế về bệnh lý “erectile dysfunction” (liệt dương) ở Las Vegas, nhà nghiên cứu Giles Brindley đã bất ngờ tụt quần để trưng bày “của quý” đang cương cứng, trước khi thuyết trình về vấn đề này. Bằng một hành động gây ấn tượng mạnh, Brindley đã có công thức tỉnh cộng đồng y khoa về một vấn nạn của xã hội loài người mà lúc đó chưa có lời giải. Các hãng dược phẩm lớn đã nhận ra cơ hội thị trường tiềm năng và đổ xô vào nghiên cứu. Nhưng mãi đến năm 1995 hãng dược Pfizer mới nghiên cứu và bào chế thành công thuốc Viagra, làm cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người trên thế giới bị bệnh lý ED (thiểu năng tình dục), và do đó họ thu được hàng tỷ đô-la lợi nhuận.
Nhưng ít người biết rằng Viagra là “hệ quả không định trước” của một dự án nghiên cứu của Pfizer (từ năm 1991) về hóa chất Sildenafil dùng để điều trị bệnh nhồi máu cơ tim (chứ không phải “cơ chim” đâu). Trong khi làm thí nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu đã tình cờ phát hiện ra một dược tính kỳ diệu khác của Sildenafil có thể làm cương dương. Và thế là trong mấy năm sau đó, Pfizer đã quyết định đầu tư lớn cho các trung tâm nghiên cứu về Sildenafil tại Anh, Mỹ và các nước khác, để tìm ra bằng được phương thuốc điều trị bệnh lý ED, và đến năm 1995 họ đã thành công, đáp ứng nhu cầu thị trường theo “Chỉ số Quốc tế về Chức năng Cương dương” (International Index of Erectile Function).
Hãy lấy một ví dụ khác cho đỡ “nhạy cảm”. Ai cũng biết trong thế kỷ 18 và 19, những người Pháp thực dân đã đến Việt Nam (và Đông Dương) để chiếm và khai thác thuộc địa, gây nhiều đau khổ, oán hận cho người dân bản địa, dẫn đến cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh khốc liệt (đến tận 1954). Đấy là một trang sử đau buồn về chế độ thực dân cũ (cho cả hai dân tộc). Nhưng bên cạnh những người Pháp thực dân tham lam, còn có những người Pháp tử tế đã làm nhiều việc tốt lành để khai minh cho người dân bản địa, đóng góp phát triển một đất nước còn lạc hậu. Đó là cha Alexandre de Rhodes (1591-1660) và những người khác, đã có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ cho người Việt, một bước ngoặt về văn hóa. Đó là Louis Pasteur (1822-1895) và Alexandre Yersin (1863-1943) và những người khác, là những nhà khoa học và bác sỹ mà tên tuổi và việc làm của họ đã gắn bó với người dân bản địa như là ân nhân đã tìm cách cứu họ khỏi những nạn dịch. Đó là danh họa Victor Tardieu (1870-1937) và đồng nghiệp, đã sáng lập ra trường Mỹ thuật Đông dương (Ecole des Beaux Arts de l’Indochine, 1925), cái nôi của một thế hệ danh họa Việt Nam, đã để lại những kiệt tác bất tử cho đời sau. Đó là các kiến trúc sư C. Batteur và E. Hébrard và những người khác, đã thiết kế hầu hết các biệt thự và công sở tại Hà Nội (và Sài Gòn). Đó là vài dụ về “hệ quả không đinh trước” trong lịch sử quan hệ Pháp-Việt, đã để lại những di sản văn hóa, y học, hội họa, kiến trúc… như “sức mạnh mềm” kết nối hai dân dân tộc, bất chấp trang sử thực dân đau buồn.
Một ví dụ khác là Chiến tranh Việt Nam đẫm máu (kết thúc 1975) cũng để lại một trang sử đau buồn mà 40 năm sau vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, như bóng ma của quá khứ. Mãi 20 năm sau (1995) hai nước mới bình thường hóa quan hệ, và cựu bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara mới thừa nhận sai lầm về Việt Nam. 40 năm sau, hai nước trở thành đối tác toàn diện (và đang trở thành đối tác chiến lược) để ngăn chăn sự trỗi dậy đầy hiếu chiến của Trung Quốc, đặc biệt là tại Biển Đông. Trước đây Mỹ đánh (Bắc) Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Sau đó họ lại bắt tay với Trung Cộng (bằng Shanghai Communique và “Constructive Engagement”) để chống Liên Xô và Việt Nam. Nay Mỹ lại “xoay trục”, hơp tác với Việt Nam để ngăn chặn Trung Cộng. Lịch sử đang lặp lại, với những “hệ quả không định trước”.
Bên cạnh những di họa của chiến tranh (như bom mìn, chất độc da cam), còn có những “hệ quả không định trước” như “sức mạnh mềm” gắn kết hai dân tộc. Đó là mối quan hệ “vừa yêu vừa ghét” (love hate) giữa hai cựu thù, nay trở thành đối tác chiến lược. Đó là thế hệ những cựu chiến binh của Vietnam War như thượng nghị sỹ John Kerry và John McCain, đại sứ Pete Peterson, và rất nhiều người khác (cả cựu binh và nhà báo, nhà văn và nhà buôn…) đã không quên được Việt Nam vì ám ảnh của quá khứ và lương tâm, làm chiếc cầu nối giữa hai dân tộc. Họ đã dũng cảm trong hòa bình (cũng như trong chiến tranh) để góp phần hòa giải hai dân tộc và hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng một thế giới tử tế hơn.
Một “hệ quả không định trước” khác của Vietnam War là sự hình thành cộng đồng người Viêt tại Mỹ, với gần 2 triệu người đã định cư vào các thời điểm khác nhau. Bên cạnh đặc điểm phức tạp do bị phân hóa sâu sắc (như bộ phim “Terror in Little Sai gon” đã phần nào phản ánh), cộng đồng người Viêt ở Mỹ đã đóng góp đáng kể vào xã hội đa sắc tộc của Mỹ (như “melting pot”) cũng như làm cầu nối để gắn kết hai quốc gia cựu thù, nay đang trở thành đồng minh chiến lược. Tại các nước khác (Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức, v.v. ) cộng đồng người Việt tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có vai trò tương tự. Có thể nói, công đồng người Việt tại Mỹ (và các nước khác) là một “hệ quả kép” của Vietnam War, là một tài sản tiềm năng làm cầu nối cho quan hệ hợp tác Mỹ-Việt. Bên cạnh đó, tính đến năm 2015 đã có khoảng 16.500 sinh viên Việt Nam sang Mỹ du học (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á). Dự án Đại học Fullbright (đã được ký kết) là một ví dụ khác về tiềm năng hợp tác xây dựng “sức mạnh mềm”, để gắn kết hai dân tộc.
Liên hệ thực tiễn
Năm 1990-1991, Chủ nghĩa Cộng sản đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với bức tường Berlin, chủ yếu vì những nguyên nhân nội tại của hệ thống. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò lịch sử của Gorbachev như một tác nhân đã thúc đẩy quá trình sụp đổ đó, như một “hệ quả không định trước”. Ngày nay, tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đang cố gắng làm ngược lại với Gorbachev, nhằm duy trì CNCS, bằng “Giấc mộng trung Hoa” (China Dream) và “Đả hổ Diệt ruồi” để thanh trừng các phe phái đối lập bằng lá cờ chống tham nhũng. Có lẽ Tập Cận Bình “đâm lao phải theo lao”. Nhưng càng cố làm ngược lại, thì Tập Cận Bình càng đẩy nhanh quá trình sụp đổ không thể tránh khỏi, mà kết cục của nó không khác những gì Gorbachev đã làm. Đó là một nghịch lý, như một “hệ quả không định trước”.
Nói cách khác, “màn chót của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp mạnh tay của Tập Cận Bình chỉ đưa đất nước đến đến gần hơn sự đổ vỡ” (David Shambaugh, “the Coming China Crackup”, Wall Street Journal, March 6, 2015:). Kết luận của David Shambaugh trùng hợp với nhận xét của Paul Krugman (và nhiều học giả khác) là Trung Quốc đã “đến điểm giới hạn” (Paul Krugman, “Hitting China’s Wall”, New York Times, July 18, 2013). Tại sao tỷ Phú Lý Gia Thành phải “bỏ chạy” khỏi Trung Quốc? Tại sao 64% người giàu Trung Quốc (có tài sản trên 1.6 triệu USD) đã hoặc đang di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth Economy at Council on Foreign Relations). Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay CNXH mang màu sắc Trung Quốc, hay “Giấc mộng Trung Hoa” cũng không ngăn được người Trung Quốc đang “bỏ phiếu bằng chân” hàng loạt (en masse). Đó là “gót chân Asin” của gã khổng lồ Trung Quốc.
Để đối phó với những mâu thuẫn nội tại, nhằm duy trì nguyên trạng (bên trong), Tập Cận Bình gây căng thẳng để thay đổi nguyên trạng (bên ngoài). Với Nhật thì Trung Quốc tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku), với Việt Nam và ASEAN thì tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sa, để kiểm soát Biển Đông. Trung Quốc muốn khuấy động tinh thần dân tộc cực đoan của người Trung Quốc, bành trướng ra ngoài để đánh lạc hướng sức ép bên trong. So với các hướng bành trướng khác, hướng Biển Đông là dễ thôn tính nhất. Trung quốc đã âm mưu chiếm đoạt Biển Đông từ lâu, nhưng nay mới có cơ hội. Tháng 5/2014, Trung Quốc cho rằng cơ hội đã đến nên quyết định đưa dàn khoan HD981 vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt, tạo ra một bước ngoặt làm thay đổi cuộc chơi (game changer).
Sự kiện dàn khoan HD981, cũng như việc Trung Quốc ráo riết san lấp đảo và xây dựng hạ tầng quân sự (sân bay và cảng) trên các đảo nhân tạo, đã làm cho phái thân Trung Quốc ở Việt Nam bị mất uy tín và suy yếu trong cuộc khủng hoảng lãnh đạo, đã xô đẩy Việt Nam xích lại gần Mỹ. Mỹ buộc phải xoay trục, ngày càng cứng rắn hơn trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) và tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam như một đối tác chiến lược (bỏ dần lệnh cấm bán vũ khí sát thương). Đó cũng là một “hệ quả không định trước”. Trung Quốc càng hung hăng, càng chơi xấu với Việt Nam, thì họ càng xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam tuy xích lại gần Mỹ nhưng không dám quá gần, tuy tách xa Trung Quốc nhưng không dám quá xa. Việt nam tuy đang xoay trục thân Phương Tây hơn, nhưng không dám quá thân. Tóm lại, chừng nào cái bóng của Trung Quốc còn quá lớn, bàn tay của Trung Quốc còn quá dài, trong khi Mỹ vẫn tiếp tục “tiếng kèn ngập ngừng”, thì lãnh đạo Hà Nội vẫn lo sợ cả hai (bên ngoài), và lo sợ lẫn nhau (bên trong). Lo sợ là một căn bệnh tâm thần khó chữa.
Đáng lẽ Việt Nam phải mạnh lên để “Thoát Trung”, thì gần mười năm qua Viêt Nam đã “phát triển giật lùi”, xóa sổ gần hết những thành quả cải cách kinh tế trước đó. Tham nhũng tràn lan và quản trị vĩ mô yếu kém đã dẫn đến thua lỗ lớn và nợ công chồng chất. Những “quả đấm thép” (như Vinashin và Vinalines) đã tan chảy thành bùn, đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy suy thoái và cái “bẫy thu nhập trung bình”. Kinh tế và chính trị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Quá trình thay đổi thể chế và chuyển đổi cơ cấu diễn ra quá chậm, đến bây giờ vẫn còn giữ “định hướng XHCN”, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo, mặc dù các tập đoàn nhà nước đã trở thành thảm họa. Chẳng ai muốn thế, nhưng đó là hệ quả của một tầm nhìn sai. Nó vừa là lỗi của Chính phủ (đứng đầu là Thủ tướng), vừa là lỗi của hệ thống (do Đảng độc quyền lãnh đạo). Những gì đang diễn ra sẽ tiếp tục làm vô hiệu hóa mọi cố gắng cải cách (do tham nhũng và quản trị yếu kém), làm người dân càng bất mãn (do bị chiếm đất, bóp nghẹt dân chủ và nhân quyền), đẩy chế độ đến gần hơn sự đổ vỡ (crackup) chẳng khác gì Trung Quốc. Vậy “thoát Trung” thế nào?
Trong bối cảnh đó, chỉ có hai kịch bản. Kịch bản xấu nhất (worst case scenario) là trì hoãn cải cách thể chế, tiếp tục lệ thuộc vào Trung Quốc (cả kinh tế và chính trị), mất dần chủ quyền và lãnh hải, dẫn đến “Bắc thuộc Kiểu mới”. Kịch bản tốt nhất (best case scenario) là đẩy nhanh cải cách thể chế và dân chủ hóa, thoát khỏi định hướng XHCN (theo kinh tế thị trường), từng bước “Thoát trung” bằng cách xoay trục để hợp tác chiến lược với Mỹ và đồng minh (qua TPP). Giữa hai kịch bản trên là một vùng xám (grey area), nơi có thể xảy ra bất cứ điều gì, với “hệ quả không định trước” (hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn). Trong vùng xám đó, nếu các phe nhóm (hay cá nhân) tranh giành quyền lực một cách cực đoan, bất chấp luật chơi (lawless), chỉ vì lợi ích cá nhân, không vì lợi ích quốc gia, thì họ chỉ phục vụ ý đồ của Trung Quốc.
Tranh giành quyền lực ở VN (cũng như ở Trung Quốc) là một trò chơi cực đoan và bạo liệt, vì họ không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ lẫn nhau. Nhà thơ Nguyễn Duy nói, “phe nào thắng thì nhân dân đều thua”. Nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị dồn vào tình huống xấu nhất, không phải chỉ mất cơ hội làm Tổng Bí Thư mà còn có thể mất tất cả, chẳng lẽ Nguyễn Tấn Dũng lại khoanh tay chịu chết, mà không có đòn cuối tại Đại Hội này (như tại Đại hội XI và Hội nghị TƯ 6), có thể đem lại một kết cục bất ngờ (không theo kịch bản), vượt ra khỏi tính toán của các bên, như một “hệ quả không định trước”. Đến giờ phút này, khi mọi thông tin về Đại hội XII vẫn bị bưng bít trong màn sương mù bí mật, thì mọi khả năng đều có thể (như lời đồn đoán).
Những yếu tố làm thay đổi cuộc chơi
Thứ nhất, ai kiểm soát được luật chơi (thủ tục) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi. Trong trường hợp này, Tổng Bí thư và Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã nắm quyền chủ động cuộc chơi và giành được thế thượng phong, làm cho đối phương bất ngờ (nếu chủ quan, mất cảnh giác). Luật chơi (thủ tục bầu cử) có ý nghĩa quyết định trong việc sắp xếp nhân sự (Bộ Chính trị, các vị trí chủ chốt (như “tứ trụ”), Ban Chấp hành Trung ương, Đại biểu dự Đại hội) có lợi cho phe cánh của mình (để giành phiếu). Nhưng thay đổi luật chơi quá mức lộ liễu (Quyết định 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014) có thể vi phạm điều lệ Đảng (luật chơi cơ bản), gây phản ứng ngược lại. Quy định Tổng Bí Thư phải là người “Miền Bắc và có lý luận”, sẽ gây phản cảm và phản ứng, dẫn đến “hệ quả không định trước”. Thư của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh có thể tác động đến thái độ của nhiều người tham gia cuộc chơi, trong trận chiến cuối cùng.
Thứ hai, ai nắm được quân đội và an ninh (nhất là Quân khu Thủ đô) người đó có lợi thế quyết định cuộc chơi (như “quyền lực cứng” có tác dụng răn đe trong trường hợp có bạo động). Việc Chủ tịch Quốc hội đột ngột sang thăm Trung Quốc trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội, và khi Trung Quốc có những động thái mới như ra luật chống khủng bố (có thể điều quân can thiệp vào nước khác), tăng cường các chuyến bay vi phạm không phận VN, điều tàu và giàn khoan HD981 vào hải phận VN, là những biện pháp răn đe để tác động vào kết quả Đại hội. Nhưng các động thái này có thể tác động ngược lại đến thái độ của những người VN tham gia cuộc chơi (vẫn còn ý thức dân tộc), như một “hệ quả không định trước”.
Thứ ba, ai có nhiều tiền hơn và nắm được thế giới ngầm (underworld) người đó có lợi thế trong cuộc chiến quyết liệt, để giành giật phiếu và thế thượng phong. Điều này đã từng xảy ra (không có gì lạ), vì tham lam và lo sợ luôn là huyệt yếu của con người trong các xã hội lạc hậu và độc tài.
Thứ tư, ai nắm được công cụ truyền thông, người đó có lợi thế lớn trong cuộc chiến giành phiếu hiện nay, có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thái độ những người tham gia (như “quyền lực mềm”). Nhưng vì báo chí “lề phải” dường như mất tác dụng trong trò chơi này, nên báo chí “lề trái” (social media và blogosphere) đã trở thành những kênh thông tin hiệu quả mà các phe phái thao túng trong cuộc chiến truyền thông quyết liệt hiện nay. Nhiều thông tin rò gỉ không thể kiểm chứng được vì các phe phái tung ra nhằm triệt hạ lẫn nhau, làm cho môi trường thông tin bị ô nhiễm. Những nhà báo (hay bloggers) thiếu bản lĩnh và sáng suốt có thể bị phân hóa, trở thành công cụ của các phe nhóm (như bồi bút). Sự phát triển của thế giới mạng và truyền thông kỹ thuật số cũng là một “hệ quả không định trước”.
Thứ năm, trong khi giới truyền thông bị phân hóa, thì giới trí thức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cũng bị phân hóa theo. Có lẽ người Việt Nam có truyền thống dễ bị phân hóa (?) Một số nhảy vào tham gia cuộc chơi, ủng hộ “ông này” chống “ông kia” vì nhiều lý do khác nhau (không nhất thiết vì ông này tôt, hay ông kia xấu). Một số khác thì đứng ngoài cuộc (như vô can), quan sát như xem đá bóng, chờ kết quả trận đấu. Người ta nói chính trị là bẩn thỉu (ở đâu cũng vậy), nhưng đứng ngoài hay tham gia thế nào là một chuyện không dễ, đòi hỏi một tầm nhìn. Người ta nói im lặng hay phản kháng đều là chính trị. “Ngay cả khi bạn không làm chính trị, thì chính trị sẽ đến với bạn” (Aung San Suu Kyi).
Thay cho lời kết
Robert Merton đã liệt kê năm nguyên nhân chủ yếu thường dẫn đến “hệ quả không định trước”: (1) Do ngu dốt nên không dự báo được trước, không phân tích và phán đoán được tình thế; (2) Do sai sót khi phân tích vấn đề, dựa vào thói quen cũ nên không phù hợp với tình thế mới; (3) Chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt mà không nhìn thấy lợi ích lâu dài; (4) Những giá trị cơ bản có thể tác động làm thay đổi tình thế vào lúc cuối; (5) Do quá lo ngại về hậu quả, mà người ta hay vội vã tìm giải pháp trước khi vấn đề xảy ra, nên không có vấn đề lại trở thành vấn đề. (Tại sao điều 5200 quân bảo vệ Đại hội).
Con người dễ bị nhầm lẫn, và bệnh nhầm lẫn (hay lú lẫn) là một tai họa. Khi nhầm lẫn thì những người tài giỏi và ngu dốt cũng nguy hiểm như nhau. Hệ quả của ngộ nhận không phải chỉ do ngu dốt mà còn do chấp và ngã, do quá lo sợ, làm tầm mắt bị che khuất bởi điểm mù (blind spot). Những người cực đoan và bảo thủ thường hay nhầm lẫn, vì chấp và ngã của họ quá lớn và quá lâu. Vì luôn cho mình là đúng, nên họ thường không chịu lắng nghe, nên không nhìn thấy và không chịu thừa nhận những cái khác bên ngoài cái hộp tư duy kín mít của họ. Cực đoan và bảo thủ gây ách tắc cho đổi mới (bottleneck).
Có lẽ lúc này Việt Nam đang trong tình thế hiểm nghèo nhất (từ sau chiến tranh lạnh), đứng trước một “hiểm họa kép” (double danger) rất khó hóa giải. Đó là hệ quả của suy thoái kinh tế và thể chế (bên trong) đồng thời với đe dọa chủ quyền (bên ngoài). Nhưng dường như lãnh đạo Việt Nam vẫn đang lúng túng và nhầm lẫn trong việc tìm lối thoát. Muốn thoát hiểm, để trở thành một nền kinh tế “rồng bay” tại Đông Á, vấn đề không phải chỉ phụ thuộc vào lựa chọn lãnh đạo nào (ông X hay ông Y), chọn lối đi nào (TPP hay “Giấc mộng Trung Hoa), mà còn tùy thuộc vào hệ quả của cuộc chiến giành quyền lực đang diễn ra tại Hà Nội. Thay đổi lãnh đạo mà không thay đổi tầm nhìn thì vẫn là bi kịch.
NQD. 21/1/2016