Không tinh giản biên chế: Những “vòi bạch tuộc” tiếp tục bám hút tiền thuế của dân (P4)

 

Trân trọng lao động, trân trọng con người là điều mà bất cứ bộ máy chính phủ nào cũng cần nhận thức rõ để đảm bảo tính bền vững cho quốc gia, thay vì không ngừng áp đặt, tận thu thuế, phí bù đắp chi tiêu công. (Ảnh minh họa/Réhahn Photography)

Tóm tắt bài viết

Trong phần 1, vấn đề cần tinh giản bộ máy hành chính được nhìn nhận từ góc độ dư thừa lãnh đạo, tình trạng tham nhũng ở cấp lãnh đạo.

Mặt trái của bộ máy nhân sự này lại được phương thức quản lý dự án “xin-cho” kiểu tập trung bao cấp “tạo điều kiện”, khiến hàng nghìn tỷ đồng ngân sách tiêu pha lãng phí, tham nhũng được hợp thức hóa theo các chương trình xin cấp vốn đầu tư (phần 2).

Phần 3 chỉ ra tình trạng bội chi ngân sách và tận thu thuế với những “vòi bạch tuộc” hành chính bám sâu, nhũng nhiễu doanh nghiệp và người dân.

Phần kết sẽ trả lời cho câu hỏi: Vì sao việc tinh giản biên chế liên tục thất bại trong suốt hơn 10 năm qua?

Phần 4: Vì sao “vòi bạch tuộc” không bị chặt đứt?

Việt Nam đã chịu thâm hụt ngân sách cao tích tụ hàng chục năm. Nhưng dự toán chi thường xuyên cho bộ máy công năm 2016 vẫn chiếm 2/3 tổng chi ngân sách. Điều đó cho thấy tư duy chi ngân sách nhà nước của bộ máy này vẫn vậy, dù vẫn hô hào tinh giản biên chế hơn 10 năm qua. 

Vậy thì vì sao “vòi bạch tuộc” không bị chặt đứt?

Câu trả lời quay trở lại về khả năng tham nhũng trong bộ máy, với những cơ chế nhiều khe hở được tồn tại nhiều năm và tình trạng “nới cửa” để cùng nhau tham nhũng, như đã đề cập đến trong phần 1 và 2.

Không phải chỉ sau câu phát biểu của đại biểu Quốc hội Trần Trọng Dực hồi năm ngoái: “Để đỗ được công chức ở Hà Nội phải mất không dưới 100 triệu đồng”, thì những móc xích trong bộ máy hành chính mới được biết đến.

Năm 2014, Bộ Công Thương ồn ào với vụ gian lận thi công chức khi những thí sinh trúng tuyển là con, cháu của các lãnh đạo ngành Công Thương. “Vậy Cục Quản lý thị trường tổ chức thi làm gì khi biết trước người đỗ?” là câu hỏi không chỉ của một thí sinh tự do bị trượt trong kỳ thi trên đặt ra. Đó là câu hỏi chung của nhiều người đối với hệ thống công chức tuy tốn kém tiền thuế dân, mà đằng sau lại là đục khoét, cơ hội với tấm màn minh bạch được kéo căng.

Đã “chạy” rồi thì vào được là phải “gỡ”. Công chức khởi đầu cũng chỉ là người dân bình thường đi làm với tư tưởng ấy, để rồi nó thành cái nạn đạo đức của toàn xã hội.

Vậy nguồn “gỡ” là từ đâu? Vẫn là từ ngân sách và sách nhiễu người dân, doanh nghiệp. Dây chuyền này vận hành theo đúng kiểu “cá lớn nuốt cá bé” mà thiệt hại cuối cùng là người lao động khi “chi phí bôi trơn” được chia vào thuế, phí, giá tiêu dùng (điện, nước, xăng dầu, hàng hóa). Một mặt chịu thuế phí, một mặt tiếp tục phải trả những “khoản tiền không tên” mỗi khi bước chân vào cơ quan công.

Lớn như tầm thanh tra chính phủ – năm 2014, Nguyên Tổng thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền bị “khui” ra khối “tài sản nổi” tính sơ là 6 bất động sản (3 nhà đất ở Bến Tre và 3 nhà đất ở Sài Gòn), trị giá hàng chục triệu USD.

Nhỏ như tầm cấp xã, tháng 12/2015, hàng chục hộ nghèo ở xã Nhơn Sơn, huyện Ninh Sơn bị xã “ép” mua những con bò già, ốm yếu, bị gãy sừng, mòn răng… Giá mỗi con bò là 20 triệu đồng. Nhà nước hỗ trợ 5 triệu, người dân vay thêm 15 triệu. Người dân ý kiến thì ông Phó Chủ tịch Đạo Văn Sói hù dọa “nếu không bắt về sẽ chuyển nguồn hỗ trợ và vốn vay cho người khác”, theo VOV.

Ngày 9/1/2016, Nguyễn Tường Duy (SN 1968) – nhân viên tại Cục Hải quan TP HCM bị bắt khẩn cấp vì hành vi “Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ”. Chỉ trong 5 ngày đi du lịch Trung Quốc, ông Duy – một nhân viên hải quan bình thường đã nhận hơn 60 phong bì với tổng số tiền gần 1 tỷ đồng được gửi đến nhà.

Tinh giản biên chế liên tục thất bại trong suốt hơn 10 năm qua còn bởi không ai trong bộ máy khổng lồ ấy muốn giảm biên chế cả.

Có một sự việc mà bà Phạm Chi Lan đã chỉ ra như sau: Năm 2015, cơ quan quản lý muốn đánh thuế với các hộ kinh doanh gia đình giống như với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trước đó, thủ tục hành chính trong ngành thuế vừa giảm từ 872 giờ xuống còn 171 giờ nộp thuế. Điều này “chắc chắn phải cắt giảm được biết bao công chức trong ngành thuế”, bà Lan nói.

Nhưng tôi ngờ rằng giảm được giờ nộp thuế cho doanh nghiệp lại tính chuyện đi thu thuế của các hộ gia đình – tức là họ vẫn muốn nuôi bộ máy thuế khổng lồ hiện nay.

Nhưng theo cách đó thì tất cả những cải cách hành chính thất bại. Một trong những nguyên nhân lâu nay chậm trễ và không đạt được kết quả bao nhiêu cũng là vì cả bộ máy khổng lồ vẫn muốn duy trì cả và không ai muốn giảm biên chế”, chuyên gia kinh tế nhận định.

Một chuyện khác mà ông Nguyễn Đình Quyền – Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp từng nêu trên Việt Nam Net: “Theo quy trình hiện nay, tinh giản biên chế không dễ dàng chút nào cả. Tôi đã làm vụ trưởng, tôi chỉ cần 2 vụ phó thôi nhưng ông thủ trưởng của tôi nói tôi phải cần 4 vụ phó. Tôi chưa cần lấy thêm người, ông thủ trưởng tôi đã bảo phải lấy thêm…”.

Theo đó, trong hơn 10 năm qua, từ Chính phủ, Bộ, Sở tới cấp tỉnh, huyện, xã, bộ máy cứ ngày càng phình to. Bổ nhiệm đúng “quy trình”, để rồi bộ máy đó cùng bàn tròn rút thêm tiền công, rồi lại thống nhất thông qua các khoản thuế, phí mới. Đó là lạm quyền để tham nhũng công khai.

Các chuyên gia kinh tế đã nói nhiều đến vấn đề cắt giảm chi tiêu công. Nhưng khi những sân vận động cả trăm tỷ bỏ không, tượng đài hàng trăm tỷ, nhà văn hóa tiền tỷ dù biết đóng cửa nhưng vẫn xây, thì đó là thể chế có vấn đề.

Do đó, tinh giản biên chế không chỉ là việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị hành chính công quyền, sa thải bớt viên chức thường thường để giảm chi lương. Đó là việc chặn đứng tham nhũng, đặt cơ chế giám sát để xóa bỏ lạm quyền, là thông qua tinh giản để nhân sự trở thành đội ngũ tinh hoa (elite) thực sự, thay vì chỉ đơn giản là giảm cơ học về số lượng trong khi những “vòi bạch tuộc” vẫn không ngừng vươn xuống từ trên.

Còn nếu không thực hiện được những điều đó, thì những tuyên bố tinh giản biên chế phát ra từ bộ máy đó chỉ là những lời chiếu lệ mà thôi.

Phan A / daikynguyen

Vua chúa Việt khi lên ngôi đã ‘tuyên thệ’ những điều gì?

Thời xưa các vua khi lên ngôi thường ban chiếu hoặc lệnh thể hiện các đường lối chính trị mà mình sẽ áp dụng.

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại núi Bân, Huế – nơi ông lên ngôi năm 1789.Lý Thánh Tông không muốn dân bị oan sai

Năm 1055, năm đầu tiên sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tông đã ban những chiếu chỉ thể hiện đường lối cai trị nhân đức của mình, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc xét án và các tội nhân. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: Mùa đông, tháng 10, rét lắm, vua bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm”.

Thương người tù tội nên nhà vua muốn các quan khi xét án nên khoan giảm hình phạt. “Sử ký toàn thư” chép: Mùa hạ, tháng 4 (năm 1066), vua ngự điện Thiên Khác xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa bảo ngục lại rằng: “Ta yêu con ta, cũng như lòng ta làm cha mẹ dân, nhân dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ năm nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm”.

Đáng nói hơn, nhà vua còn cấp thêm bổng lộc cho các quan lại coi việc hình ngục để họ không nghèo đói mà sinh ra ăn hối lộ làm oan sai cho dân. Điều này trong Sử ký toàn thư, sử thần Ngô Sĩ Liên có ghi nhận: “Thánh Tông lo rằng tù giam trong ngục, hoặc có kẻ không có tội, nhân đói rét mà đến chết, thì cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi cho sống; lo rằng quan lại giữ việc hình ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo nhận tiền đút lót, thì cấp thêm bổng và thức ăn, đề nhà được giàu đủ; lo rằng nhân dân thiếu ăn thi xuống chiếu khuyến nông; lo rằng năm sau đại hạn đói kém thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng đều là thành thực”.

Lê Thái Tổ chủ trương nhân đạo và thượng tôn pháp luật

Lê Thái Tổ là vị vua khai sáng cơ nghiệp nhà Lê. Ông đã mệt nhọc dãi nắng dầm mưa 10 năm mới đuổi được giặc Minh để giành lại độc lập cho dân tộc. Năm 1428, sau khi quân Minh rút hết về nước, Lê Lợi lên ngôi vua đã sai Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại Cáo” để bố cáo cho thiên hạ biết. Bản bố cáo này có thể coi là một bản tuyên ngôn độc lập, cũng có thể coi là một lời tuyên bố về đường lối chính trị của vua Lê Thái Tổ.

Ngay mở đầu bài cáo đã nói đến tư tưởng của nhà vua là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Sau đó, tư tưởng nhân nghĩa lại được nâng lên ở câu “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”.

Đường lối chí nhân của Lê Thái Tổ được thể hiện ra ở ngay trong việc ông đã tha cho toàn bộ quân tướng nhà Minh khi chúng đâu hàng. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Tháng 12, ngày 12 (năm 1427) Vương Thông nước Minh sai quân bộ qua sông Lô đi trước, quân thủy theo sau. Bấy giờ tướng sĩ và người nước ta rất oán người Minh giết hại cha con họ hàng, rủ nhau khuyên vua giết cả. Vua dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân. Vả lại người ta đã hàng rồi mà giết thì việc bất tường không gì lo bằng. Để thỏa lòng giận trong một buổi mà mang tiếng giết người đầu hàng mãi muôn năm, chi bằng tha mạng cho ức vạn người mà tuyệt mối chiến tranh sau này, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời há chẳng lớn sao!”.

Bên cạnh đó, Lê Thái Tổ cũng là vị vua ngay từ đầu đã chủ trương chú trọng luật pháp để trị nước. “Sử ký toàn thư” chép rằng ngay trong tháng 1/1428, khi còn chưa làm lễ đăng quang ngôi vua, Lê Thái Tổ đã hạ lệnh ho các quan tư không, tư đồ, tư mã, thiếu úy, hành khiển bàn định luật lệ trị quân và dân, cho người làm tướng biết mà trị quân, người làm quan ở các lộ biết mà trị dân, để răn dạy cho quân dân đều biết là có phép, phàm các công việc đều có người phụ trách.

Lệnh của Thái Tổ nói rõ: “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, người mà không có phép để trị thì loan. Cho nên bắt chước đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các quan, dưới đến nhân dân, cho biết thế nào là thiện ác, điêu thiện thì làm, điều ác thì lánh, chớ có phạm pháp”.

Quang Trung chú trọng đoàn kết dân tộc và cải cách giáo dục

Khác với Lý Thánh Tông lên ngôi trong buổi hòa bình và Lê Thái Tổ lên ngôi sau buổi dẹp loạn, Nguyễn Huệ đăng quang giữa lúc thù trong giặc ngoài đang căng thẳng. Ngày 22/11/1789, ông lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung khi gần 30 vạn quân Thanh đã kéo tới Thăng Long. Quyết định lên ngôi, Quang Trung muốn có danh chính ngôn thuận để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Thanh của nhân dân ta.

Trong bản chiếu lên ngôi, vua Quang Trung nói rõ chí hướng: “… mấy năm gần dây, Nam Bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than. Trẫm là người áo vải ở Tây Sơn, không có một thước đất, vốn không có chí làm vua, chỉ vì lòng người chán ngán đời loạn, mong mỏi được vua hiền để cứu đời yên dân, vì vậy trẫm tập hợp nghĩa binh, mặc áo tơi đi xe cỏ để mở mang núi rừng…”

Sau các phần nói về thế sự, vua Quang Trung nói thẳng vào các vấn đề mà nhà vua phải giải quyết và phương hướng giải quyết. Trước hết vua tuyên bố các khoản thuế trong nước ông thu một nửa chỉ trừ các nơi bị nạn binh hỏa thì các quan đến nơi xét thấy đúng mới miễn. Đúng ra các vua khi đăng quang thường miễn thuế và đại xá thiên hạ nhưng lúc này đang đối mặt với mấy chục vạn quân Thanh nếu không thu thuế của dân thì triều đình không có lương thực nuôi quân đánh giặc.

Thứ hai, lúc này còn nhiều quan lại cũng như dân chúng của nhà Lê cũ, phải làm sao để tranh thủ sự ủng hộ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất sự chống phá của họ. Để giải quyết việc này, vua Quang Trung tuyên bố: “Bầy tôi và nhân dân cựu triều hoặc bị vạ lây đã phải kết tội nặng, trừ tội đại nghịch bất đạo, còn thì đều cho đại xá… quan viên văn võ cựu triều, hoặc vì tòng vong trốn tránh, cho phép được về nguyên quán, người nào không muốn ra làm quan cũng cho tùy tiện”.

Những tuyên bố trong chiếu đăng quang này nói chung cũng chỉ là một giải pháp trước mắt. Nhưng ít ngày sau, khi gặp gỡ các nhân sĩ trí thức, vua Quang Trung đã bộc lộ hoài bão rất sâu xa về vấn đề xây dựng đất nước sau khi thắng giặc.

Sách La Sơn phu tử của tác giả Lê Trọng Hoàn cho biết khi Quang Trung hành quân ra đến Nghệ An có dừng lại tuyển mộ thêm lính và tổ chức duyệt binh lớn. Một ngày trước khi duyệt binh, vua đã gặp Nguyễn Thiếp để tham khảo ý kiến. Vua nói: “Quân địch đông quân ta ít. Phu tử tinh thông lý số, xin bảo cho quả nhân cách đánh thắng quân giặc”.

Nguyễn Thiếp nói đại khái rằng địch tuy đông nhưng đường xa mỏi mệt lại không rõ binh lực của ta cũng như địa hình địa vật trong khi ta biết rõ địch và dũng khí có thừa. Ta lại rút hết về Tam Điệp khiến giặc kiêu ngạo. Nhằm lúc chúng không đề phòng hoàng thượng dùng binh thần tốc, đánh cho chúng không kịp trở tay. Nếu thế hoàng thượng đi ra chuyến này, không quá 10 ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan.

Nhà vua nghe xong rất mừng nói: “Phu tử nói phải! chuyến này quả nhân sẽ đánh cho quân nhà Thanh không còn mảnh giáp. Sau thắng lợi, đất nước yên bình, quả nhân sẽ mời phu tử làm thầy dạy học. Có nghĩa là phu tử sẽ giúp triều đình chấn hưng học vấn trong nước. Vua quan không học thì không biết trị nước. Dân chúng không học thì không biết bổn phận làm dân, không hiểu kỷ cương nhà nước. Cho nên đạo học phải được coi trọng”.

Sau này khi đã thắng giặc, vua Quang Trung đã bắt tay ngay vào việc cải cách giáo dục và mời Nguyễn Thiếp ra giúp nhưng tiếc rằng vua mất sớm nên sự nghiệp này dở dang.

Ba vị vua nói trên chỉ là một vài điển hình về các đường lối trị quốc an dân của cha ông ta. Tuy rằng mỗi thời mỗi khác nhưng các câu chuyện lịch sử này cũng cho chúng ta nhiều điều đáng để suy ngẫm.

Theo KIẾN THỨC

ÔNG TRỌNG PHẢI THẾ NÀO MỚI ĐƯỢC NHƯ THẾ CHỨ

FB Đoan Trang

Ông Nguyễn Phú Trọng. AFP PHOTO/Hoang Dinh Nam

Ở những nước có chế độ dân chủ đa đảng, các chính trị gia thuộc các đảng phái khác nhau cạnh tranh với nhau bằng các chính sách công – cũng giống như việc đưa ra giải pháp, sản phẩm cho “thị trường chính trị”. Chính sách đó thể hiện thông qua đường lối, cương lĩnh, chương trình hành động… của đảng. Ví như đảng theo chủ nghĩa tự do nhấn mạnh các khái niệm “phồn vinh, thịnh vượng chung”, “chính quyền hiệu quả”; đảng theo khuynh hướng bảo thủ thì đề cao “quốc phòng mạnh”, “thị trường tự do, cắt giảm thuế”, “chính quyền nhỏ gọn”, “các giá trị gia đình là cốt lõi”…

Ở Việt Nam từ trước đến nay, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, kiên định với đường lối XHCN Mác-Lê. Đâm ra về căn bản, thị trường chính trị không có sự cạnh tranh về sản phẩm chính sách công, 100% người tiêu dùng bị cưỡng bức sử dụng một loại sản phẩm duy nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch.

Không có giải pháp nào cho thị trường, các “chính trị gia” xã nghĩa quay ra cạnh tranh với nhau bằng những “đường lối” kiểu như phe này thì có vẻ thân Mỹ và chịu cải cách, nhưng tham nhũng, phe kia bảo thủ, thân Tàu, nhưng được cái trong sạch. Vâng, như thế gọi là “đường lối” đấy ạ. Trong khi không tham nhũng, chống tham nhũng, hay nói cách khác là liêm chính, vốn chỉ là đạo đức căn bản của một người bình thường. Nó không thể là phẩm chất, là đường lối của một chính khách; trong một nền chính trị dân chủ, không chính trị gia nào đi cạnh tranh với nhau bằng việc ông/bà ta không tham nhũng và sẽ chống tham nhũng cả. (Đó là chưa nói đến chuyện chống tham nhũng ở một chế độ như thế là bất khả thi).

Còn chuyện “thân Mỹ”, “thân Tàu”, hay như ngày trước là “thân Liên Xô”, đều chỉ thể hiện não trạng vong thân và tư duy nô lệ, thứ không thể có trong chính sách đối ngoại của một nhà nước bình thường.

Nhìn cuộc tranh giành quyền lực giữa các “chính trị gia” xã nghĩa mà chỉ rùng mình nhận thấy họ không cạnh tranh với nhau bằng chính sách, đường lối quản trị đất nước, mà họ chỉ đang thi thố xem ai đểu giả hơn, lưu manh hơn, tàn bạo hơn và khốn nạn hơn…

Nói cách khác, tất cả những chính khách cạnh tranh lẫn nhau trong cùng một Đảng Cộng sản này, dưới cái mũ chung là “đường lối XHCN” này, đều chỉ đang theo đuổi tà trị chứ chưa bao giờ làm chính trị.

* * *

Cá nhân tôi nể (tuy không kính) ông Nguyễn Phú Trọng. Câu nói nổi tiếng của ông, “mình phải thế nào người ta mới thế chứ”, nghe tuy ngớ ngẩn nhưng về bản chất, nó đúng. Ông phải thế nào thì mới chiến thắng tất cả và tiếp tục là người cầm đầu một đội ngũ chính trị gia xã nghĩa đểu giả, lưu manh như thế chứ.

Tôi nể ông còn vì: Một trong NHIỀU phẩm chất của người làm chính trị là chữ NHẪN. Dù thế nào, ông Trọng cũng là người thể hiện được chữ Nhẫn ấy, ngay cả trong những thời kỳ tưởng như là sóng gió nhất của ông, khi vây cánh bị triệt hạ và đồng chí X. đắc thắng làm khuynh đảo cả chính trường Việt Nam.

Nói riêng về chữ Nhẫn này: Nếu coi đó là một trong những phẩm chất của người làm chính trị, thì chỉ tính riêng về khía cạnh đó, ông Nguyễn Phú Trọng đã chiến thắng rất nhiều nhà hoạt động nhân quyền hiện nay ở Việt Nam – những người mà cái tôi quá lớn luôn khiến họ sẵn sàng chiến đấu với nhau… trên mạng và ăn thua đủ với độc giả trên từng comment. Tất nhiên, việc đó không có gì sai, bởi vì họ là các nhà hoạt động nhân quyền chứ đâu phải chính khách; chỉ có điều nếu vậy thì họ sẽ rất khó để trở thành đối thủ của ông Trọng và đảng của ông.

Ông Trọng: Tổng Bí thư quyền lực nhất?

FB Đoàn Xuân Lộc

Hình ông Trọng tại Đại hội 12. Credit: Hoang Dinh Nam.

Dù ông ở lại chỉ ‘mang tính thừa kế’, ông Nguyễn Phú Trọng là người quyền lực nhất trong Bộ Chính trị (BCT) khóa 12. Có thể ông cũng là Tổng Bí thư (TBT) nhiều quyền lực nhất ở Việt Nam thời hậu Lê Duẩn.

Với việc 9 trong 16 người, thuộc trường hợp quá tuổi trong BTC khóa 11 – đặc biệt trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mà tới gần đây luôn được dư luận Việt Nam và giới quan sát quốc tế cho rằng có nhiều cơ hội nhất để trở thành TBT – đều (xin) rút lui, ông Trọng là người lớn tuổi nhất, thâm niên nhất trong số 19 ủy viên BCT hiện tại.

Ông sinh năm 1944 và là ủy viên BCT từ năm 1997 (khóa 8). Như vậy đến giờ ông Trọng đã ở trong BCT đến 19 năm.

Trong khi đó, trong 6 người còn lại thuộc khóa 11 được tái cử, chỉ có ông Đinh Thế Huynh (sinh năm 1953), ông Nguyễn Xuân Phúc (1954), bà Tòng Thị Phóng (1954) và ông Trần Đại Quang (1956) là ủy viên BCT từ năm 2011. Tổng thời gian có mặt trong BCT của bốn người là 20 năm – nhiều hơn ông Trọng chỉ một năm.

Hai người còn lại thuộc khóa 11 là bà Nguyễn Thị Kim Ngân (1954) và ông Nguyễn Thiện Nhân (1953) chỉ được bầu bổ sung năm 2013.

Từ năm 1986, chưa có một TBT nào vượt xa các ủy viên BCT khác về thâm niên trong BCT hay công tác, chức vụ trong ĐCS Việt Nam như vậy.

Tại Đại hội 11, khi ông Trọng được bầu làm TBT cách đây 5 năm, trong BCT có hai người vào cơ quan quyền lực này của ĐCS sớm hơn ông một năm là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Ông Sang và ông Dũng vào BCT từ Đại hội 8, năm 1996, trong khi ông Trọng chỉ được bầu bổ sung tại hội 4 của khóa 8 năm 1997.

Hơn nữa, xét về chức vụ, ông Dũng đã là Phó Thủ tướng thường trực từ năm 1997 và ông sang là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996. Trong khi vào thời gian đó ông Trọng chỉ là Phó bí thư Thành uỷ Hà Nội, phụ trách công tác tuyên giáo.

Cũng vì vậy, dù là TBT, ông Trọng không phải là người có ảnh hưởng nhất trong BCT và Ban Chấp hành (BCT) Trung ương khóa vừa qua. Có lúc ông bị ông Dũng qua mặt. Chuyện ông phải ‘nghẹn ngào’ thông báo trước toàn ĐCS và toàn dân rằng BCH Trung ương đã không kỷ luật ông Dũng tại hội nghị 6 năm 2012 như BCT đề nghị là một ví dụ.

Các TBT trước đó – từ ông Nguyễn Văn Linh đến ông Nông Đức Mạnh – không có ai hoàn toàn vượt trội các ủy viên BCT khác về thâm niên công tác, chức vụ trong ĐCS.

Chẳng hạn, tại Đại hội 6 năm 1986, khi ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm TBT, trong BCT cũng có người có thâm niên, ảnh hưởng tương tự, như Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, hay thậm chí lớn hơn ông Linh – như Phạm Hùng. Ông Hùng đã vào BCT từ năm 1960, trước ông Linh đến 4 năm.

Năm 1991, khi ông Đỗ Mười làm TBT, bên cạnh ông có ông Võ Văn Kiệt. Cả hai đều được bầu làm ủy viên dự khuyết BCT tại Đại hội 4, năm 1976.

Khi ông Lê Khả Phiêu được bầu làm TBT tại Hội nghị 4 năm 1997, trong BCT lúc đó có hai người vào cơ quan này trước ông – là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Đức Bình (năm 1991) – và một người cùng lúc với ông là Nguyễn Mạnh Cầm (năm 1993).

Khi ông Mạnh được bầu làm TBT tại Đại hội 9 năm 2001, bên cạnh ông có Phan Văn Khải. Cả hai đều vào BCT năm 1991. Ông Khải thậm chí được bầu làm Thủ tướng tại hội nghị 4, năm 1997, trong khi ông Mạnh chỉ được bầu giữ chức Chủ tịch Quốc hội lúc đó.

Năm năm sau đó, tại Đại hội 10, ông Mạnh được bầu tiếp tục giữ chức TBT, trong khi ba người còn lại trong ‘tứ trụ’ lúc ấy – là Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và Nguyễn Văn – đều nghỉ.

Đại hội 12 là đại hội thứ hai – kể từ năm 1986 – TBT được tại chức, trong khi ba người giữ vị trí Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội rời chức vụ.

Nhưng so với ông Mạnh năm 2006, ông Trọng bây giờ có nhiều ảnh hưởng, quyền lực hơn.

Bên cạnh ông Mạnh lúc đó có nhiều nhân vật khác – như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – có ảnh hưởng trong BCT không thua gì ông Mạnh.

Còn trong BCT hiện tại, không ai ‘cùng lớp’ và đủ kinh nghiệm, thâm niên và ảnh hưởng để có thể cạnh tranh với ông Trọng.

Các ủy viên BCT và BCH Trung ương khóa 12 chỉ là ‘em’, ‘cháu’ hay thậm chí ‘con’ của ông Trọng.

Vẫn biết rằng đồng thuận là nguyên tắc lãnh đạo chính trong ĐCS, ông Trọng sẽ có vai trò rất lớn trong việc quyết định đường lối, chính sách của ĐCS và cũng là của Việt Nam trong khóa này.

Đây là điều làm không ít người dân lo ngại vì ông Trọng được coi là người bảo thủ, giáo điều và thân Trung Quốc. Trong khi Việt Nam cần một lãnh đạo có đầu óc đổi mới để có thể phát triển, tránh tụt hậu và có uy tín, bản lĩnh, biết tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, các nước khu vực để đối phó, ngăn chặn tham vọng bành trướng của Trung Quốc.

Trước Đại hội 12, có tin cho rằng ông Trọng sẽ chỉ ở lại một hay hai năm. Nhưng dựa trên thông tin ông cho báo giới biết sau khi được tái cử, giờ không rõ ông giữ chức TBT 2, 3 hoặc năm năm. Nhưng dù ông ra đi giữa hay cuối nhiệm kỳ, ông sẽ đóng một vài trò quan trọng trong việc chọn người kế nhiệm ông.

Đây có thể cũng là một điều nữa làm những ai muốn Việt Nam đẩy mạnh cải cách băn khoăn. Những gì ông Trọng và ĐCS quyết định trong vấn đề chính sách và nhân sự trong những năm tới không chỉ có ảnh hưởng đến đất nước, người dân trong thời gian ông làm TBT mà có thể còn tác động rất lớn đến vận mệnh đất nước trong nhiều năm, thập kỷ sau đó.

Thủ tướng Dũng đã ‘thi thố’ hết tài năng?

@bbcThủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được Đại hội 12 của Đảng CSVN đồng ý ‘cho rút’ khỏi danh sách nhân sự bầu vào Ban chấp hành Trung ương khóa mới.

Thủ tướng Việt Nam ông Nguyễn Tấn Dũng ‘đã hoàn tất’ hai nhiệm kỳ và đã ‘thi thố hết tài năng’ với kết quả ‘thực sự không khả quan’ trước khi ông rời khỏi cơ cấu quyền lực mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau quyết định ‘đồng ý cho rút’ của Đại hội 12, theo một nguyên Đại biểu Quốc hội của Việt Nam.

Trao đổi với BBC ngay sau khi kỳ Đại hội họp từ ngày 21-28/01/2016 quyết định xong dàn lãnh đạo mới mà trong đó ông đương kim Thủ tướng không có tên trong Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị khóa 12, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, người từng thách thức Thủ tướng Dũng từ chức vì trách nhiệm với các vụ Vinashin vỡ nợ, phá sản trước đây tại Quốc hội VN, nói:

“Về phía Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì tôi nghĩ ông cũng đã hoàn tất hai nhiệm kỳ của mình, tổng cộng là 10 năm, có tài gì thì cũng đã thi thố rồi, và kết quả thì chúng ta cũng đã thấy thực sự là không được khả quan.

“Nền kinh tế của Việt Nam thì hiện nay càng ngày càng xuống dốc và về mặt ngân sách nhà nước thì có thể nói hiện nay là rỗng không, nếu không muốn nói con số nợ công là khủng khiếp.

“Thế thì tôi nghĩ là ông kết thúc công việc cũng được rồi và về cá nhân tôi, tôi cũng không lưu luyến, nhưng mà tôi nghĩ dù sao ông Nguyễn Tấn Dũng cũng sắp sửa thôi chức Thủ tướng, cho nên tôi cũng không muốn bình luận nhiều về ông nữa.

“Và tôi nghĩ rằng qua trường hợp của ông Nguyễn Tấn Dũng thì những người khác, mình lên cầm quyền và nhất là cầm quyền trong một giai đoạn rất là khó khăn của kinh tế và tài chính Việt Nam, thì phải rút được rất nhiều bài học từ những người tiền nhiệm,” nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Việt Nam nói với BBC.

Tập trung mọi quyền bính

Khi được hỏi đâu là nguyên nhân thực sự của việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không còn trong cơ cấu Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội 12, Tiến sỹ Nguyễn Quang A, nhà quan sát và vận động cho xã hội dân sự và dân chủ hóa ở Việt Nam, nói:

“Tôi nghĩ rằng người ta đã chuẩn bị mấy năm rồi, với quy định 244 thì ai cũng hiểu rằng ông Dũng sẽ khó mà trụ lại được, mà thực sự không chỉ có ông Dũng, mà còn rất nhiều người khác nữa, toàn bộ Bộ Chính trị (khóa 11) còn lại có 7 người và 9 người ra về.

Đại hội 12
Theo một số dự phóng, Thủ tướng tương lai của Chính phủ Việt Nam hậu Thủ tướng Tấn Dũng, người sẽ được Đảng CSVN giới thiệu ra bầu cử trong tháng Năm, là một đương kim Phó Thủ tướng.

“Tôi nghĩ chuyện ấy cũng là một chuyện bình thường.

“Và tôi cũng chia sẻ ý kiến của anh Thuyết là thực sự ông Dũng có thể là một người rất khéo nói, nhưng mà nếu chúng ta để ý đến cái việc làm của ông ấy, thì thấy rằng sự khéo nói đấy với cái sự dở làm, thì nó đi ngược nhau rất là nhiều.

“Tôi nói thí dụ về chính sách kinh tế, các Tập đoàn Kinh tế là tác phẩm của ông ấy và kết quả như thế nào thì ai cũng rõ.

“Hệ thống ngân hàng mà bây giờ nó be bét như bây giờ, tôi nghĩ đấy cũng một phần lớn là tác phẩm của ông ấy, thực sự là tác phẩm của hai ông Thống đốc và hai ông Thống đốc về sau là Thống đốc (Nguyễn Văn) Giàu và Thống đốc (Nguyễn Văn) Bình, thì tôi nghĩ chỉ là những người gọi là đi quét dọn, dọn dẹp hệ thống mà thôi.

“Nhưng mà những người mà phải đương đầu thì nhiều khi người ta lại bị dư luận đổ lỗi cho, thì nếu xét về tất cả những thành tích, thì tôi nghĩ là ông Dũng rút lui như thế là tốt cho ông ấy và cũng tốt cho cả đất nước nữa.

“Bởi vì quyền bính mà được tập trung quá lớn vào tay một người và người đấy mà có những chính sách về kinh tế, về xã hội mà nó trật một cái, thì lúc đó tai họa rất là lớn.”

Lý do nào thực sự

Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Chiến lược Quốc tế (IISS) và Viện Đông Nam Á (ISEAS) tại Singapore chia sẻ quan điểm về nguyên nhân chính của việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ‘ra đi’. Ông nói với BBC:

“Nó có rất nhiều nguyên nhân của nó, những nguyên nhân về mặt năng lực về mặt thời gian công tác, rồi về mặt hiệu quả công tác, về mặt năng lực lãnh đạo thì đã thấy mọi người nói rồi, nhưng về mặt cấu trúc và về mặt thực hành chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thì nó có một điểm mà chúng ta nên xem, để mà trở thành lãnh đạo, hay là để mà đứng ra ứng cử vào một chức vụ nào đó thì cái nguyên tắc căn bản nhất của nó là nguyên tắc phải có thực hành cạnh tranh chính trị, phải dựa trên một nguyên tắc là cạnh tranh chính trị.

“Và nguyên tắc cạnh tranh chính trị đặt ra tất cả những tiêu chuẩn rất rõ ràng, minh bạch và ai cũng công nhận để cho cái đó, cho việc được ứng cử và được bầu. Thế thì năm 1946 thì Hồ Chí Minh sửa cái chữ gọi là ‘cạnh tranh chính trị’ thành một cái từ chỉ ở Việt Nam có thôi gọi là ‘thi đua yêu nước’. Thế thì từ đó đến giờ cái này xảy ra núp dưới các thực hành về mặt nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng. Chúng ta nên nhớ lại rằng các Đảng Dân chủ, Xã hội, người ta cũng theo nguyên tắc.

“Thế nhưng các nguyên tắc của các đảng Dân chủ, Xã hội ở bên ngoài Việt Nam thì được thực hành trong bối cảnh đa nguyên, ở Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ không phải ở trong bối cảnh đó, cho nên nó mới nảy sinh ra Quyết định 244 vừa rồi, mà điều 244 vừa rồi bao gồm tất cả mọi thứ và cuối cùng nó dẫn đến cái việc là Thủ tướng Chính phủ không thể tái cử.”

Nhà báo Trần Nhật Phong
Nhà báo Trần Nhật Phong cho rằng trách nhiệm cuối cùng trong nhiều vấn đề phải là của Tổng Bí thư Đảng chứ không phải của Thủ tướng điều hành Chính phủ.

Khi được hỏi nếu giả định ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư của Đảng CSVN, thì cơ cấu nhân sự lãnh đạo cao cấp của Đảng có khác so với ban lãnh đạo đã được Đại hội 12 bầu ra, với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử, hay là không, TS. Hà Hoàng Hợp nói:

“Thực ra từ Hội nghị Trung ương 13 người ta đã có kế hoạch rồi, người ta đã có kế hoạch khác rồi, cho nên bây giờ, đương nhiên mà giả định là ông Nguyễn Tấn Dũng lên Tổng Bí thư thì chắc cái cơ cấu nó phải khác… Nó khác rằng là Thủ tướng sẽ khác, Chủ tịch Nước sẽ khác và kể cả Chủ tịch Quốc hội sẽ khác, và cơ cấu của Nhà nước, tức là của Quốc hội và của Chính phủ sẽ khác… Nhưng cơ cấu của các tỉnh sẽ không khác, vì cơ cấu của các tỉnh được làm từ dưới lên trên, thì người ta đã làm xong rồi,” nhà phân tích chính trị Việt Nam nói thêm.

Trách nhiệm chỉ một phần

Từ California, Hoa Kỳ, đạo diễn, nhà báo tự do Trần Nhật Phong bình luận về ‘khả năng’ và ‘trách nhiệm’ của ông Dũng, cũng như nêu quan điểm về rốt cục bất luận ‘ai lên, ai xuống’ thì Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền sẽ đi tới đâu. Ông Phong nói:

Tôi có hai ý và một trong hai ý, lúc nãy một trong các vị khách có nói là vấn đề ‘khả năng’ của ông Dũng, thì tôi nghĩ ông Dũng chỉ chịu trách nhiệm có một phần cho cái gì nó đã xảy ra cho Việt Nam trong thời gian qua, nhưng người cuối cùng chịu trách nhiệm chính vẫn là ông Nguyễn Phú Trọng chứ không phải (là) ông Dũng.

Lý do là bởi vì cơ chế của Việt Nam, khi các vị muốn nắm một chức vị nào đó ở trong cơ chế, thì quý vị phải là Đảng viên, vậy thì Tổng Bí thư là người cuối cùng chịu trách nhiệm cho những tiêu cực của Đảng viên đó chứ không phải ông Thủ tướng của Chính phủ.

“Ông Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, nhưng với điều kiện người đó phải là đảng viên, do đó tôi cho rằng trách nhiệm chính là phần của ông Nguyễn Phú Trọng chứ không phải là ông Nguyễn Tấn Dũng đâu.

“Ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ là Thủ tướng điều hành chính phủ thôi, còn ông Nguyễn Phú Trọng là Tổng bí thư Đảng, là người gạn lọc ai có thể trở thành Đảng viên và tại sao có những tiêu cực đó. Đó là điểm thứ nhất.

“Điều thứ hai, tôi cho rằng điều tiêu cực nhiều hơn là sự bầu bán lần này và ai cũng nghĩ rằng Việt Nam sẽ có thay đổi, tôi cho rằng thay đổi của Việt Nam chỉ mang tính chất chắp vá thôi, tức là những lỗ hổng nào thì vá, vá, vá và cứ tiếp tục vá, mà không có sự thay đổi toàn diện xã hội.

“Mà với sự bầu bán lần này, tôi cho rằng phía Việt Nam cũng sẽ lặp lại bài toán đó.”

Dù ai lên ai xuống

Và nhà báo, đạo diễn từ Mỹ nói thêm:

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tự xin rút tên khỏi danh sách đề cử bầu nhân sự vào Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN tại Đại hội 12 dù đã được nhiều đoàn đại biểu địa phương tiến cử.

“Còn nhớ thời gian trước đây, khi Việt Nam gia nhập vào WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới), quý vị thấy cũng có nhiều áp lực, nhiều thành phần xã hội, kể cả quốc tế áp lực Việt Nam thay đổi cơ chế đó để có thể hội nhập, nhưng mà cuối cùng khi họ vào được WTO rồi, thì mọi việc lặp lại như cũ.

Lần này TPP (Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương) thì cũng như vậy thôi, họ cứ tìm cách họ lấn, họ né và họ tránh được cái nào, hay cái đó, thí dụ Công đoàn Độc lập họ tránh không được, thì họ đẻ ra một thứ khác để có thể hợp pháp.

“Hoặc là những vấn đề khác họ lại lấy lý do văn hóa, cơ chế, con người để họ tiếp tục quyền tự do ngôn luận của người ta, hay là giới hạn những sự phát triển của xã hội, do đó tôi cho rằng sự thay đổi của Việt Nam không có nhiều dưới thời của ông Nguyễn Phú Trọng sắp tới là vì họ chỉ thay đổi theo kiểu chắp vá chứ không thay đổi toàn diện xã hội.

Do đó tôi cho rằng là có thể Đại hội lần này làm cho người ta hào hứng một chút vì tới giờ chót không ai biết được người nào lên, người nào xuống, tuy nhiên rồi người ta cũng thấy nó sẽ đi vào vết cũ và không có gì thay đổi cả,” đạo diễn, nhà báo từ Hoa Kỳ nói với BBC.

Tại Đại hội 12 của Đảng CSVN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xin rút tên khỏi danh sách được nhiều đoàn Đại biểu từ các địa phương tiến cử vào Ban chấp hành Trung ương Khóa mới. Ông sẽ tiếp tục đảm nhận nốt chức vụ hiện nay tại Chính phủ ít nhất cho tới sau khi Việt Nam tiến hành kỳ bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở toàn quốc dự kiến vào tháng Năm tới đây.

Mời quý vị theo dõi toàn bộ cuộc Tọa đàm của BBC nhìn lại Đại hội 12 của Đảng CSVN vừa bế mạc, trong đó có các nội dung trao đổi như trên, tại đây.

Lượm lặt tin 30-1-16

Kiều hối lũ lượt đổ về

TT – Lượng tiền kiều hối chuyển về qua các ngân hàng và các công ty kiều hối bắt đầu tăng mạnh kể từ đầu tuần này và dự báo sẽ rộ lên vào những ngày cuối cùng của năm Ất Mùi.

Kiều hối lũ lượt đổ về
Khách hàng giao dịch kiều hối tại Ngân hàng Đông Á TP.HCM ngày 26-1 – Ảnh: Tự Trung

Tại TP.HCM, lượng kiều hối năm 2015 dự báo sẽ cán đích 5,5 tỉ USD, trong khi số kiều hối của cả nước ước khoảng 12,25 tỉ USD, tăng nhẹ so với năm 2014.

Chuyển tiền đến 29 tết

Giám đốc một công ty kiều hối trực thuộc một ngân hàng cổ phần cho biết trong tháng 1-2016, lượng kiều hối chuyển về qua công ty này lên đến 50 triệu USD, tăng mạnh so với mức bình quân 42 triệu USD/tháng trong năm 2015.

“Doanh số những ngày giáp tết năm nay là một ẩn số do Tết Nguyên đán năm nay trùng vào dịp cuối tháng, thời điểm mà lao động xuất khẩu nhận lương, nên dự báo số tiền chuyển về tăng mạnh. Do đó, chúng tôi sẽ làm việc đến ngày cuối cùng để kịp thời chuyển tiền đến tay người nhận để họ có tiền tiêu tết” – vị này nói.

Ông Trần Văn Trung, giám đốc Công ty kiều hối Đông Á, cũng dự báo từ 23 tháng chạp, kiều hối chuyển về sẽ dồn dập. “Từ đầu tuần này, tiền chuyển về đã bắt đầu tăng, chúng tôi phải tăng cường lực lượng nhằm chi trả kịp thời” – ông Trung cho biết.

Theo ông Trung, trong năm nay lượng kiều hối qua công ty này đạt doanh số khoảng 1,4 tỉ USD.

Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP.HCM Nguyễn Hoàng Minh cũng cho biết thông thường doanh số kiều hối trong quý 4 năm cũ và tháng giêng năm mới chiếm đến 40% lượng kiều hối chuyển về trong năm.

Trong năm 2015, theo một báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố mới đây, VN đón lượng kiều hối khoảng 12,25 tỉ USD, đứng thứ 11 thế giới, tăng nhẹ so với con số 12 tỉ USD của năm 2014.

80% đến từ Mỹ, châu Âu

Một trong những lý do khiến nguồn kiều hối năm nay chỉ nhích nhẹ so với năm trước, theo các doanh nghiệp, là do một số thị trường xuất khẩu lao động gặp khó.

Tổng giám đốc Công ty chuyển tiền toàn cầu VietinBank Trần Thị Tuyết Mai cho biết chiếm phần lớn trong nguồn kiều hối chuyển về là từ thị trường Mỹ, Úc và Canada, trong đó Mỹ chiếm tỉ lệ lớn nhất với khoảng 7 tỉ USD trong tổng lượng kiều hối chuyển về VN trong năm.

Trong khi đó, nhiều thị trường xuất khẩu lao động trong năm qua đã bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, chẳng hạn ở Angola do bất ổn chính trị nên lao động ở đây không mua được ngoại tệ để chuyển về. Một số thị trường xuất khẩu lao động khác như Hàn Quốc cũng gặp khó khăn.

Ngoài ra, một số quốc gia siết chặt quy định về phòng chống rửa tiền theo hướng giới hạn nguồn tiền chuyển về. Riêng tại TP.HCM, nguồn kiều hối từ Mỹ và châu Âu vẫn chiếm trên 80%, trong khi nguồn từ lao động xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 6,7%.

Để thu hút hơn nữa nguồn kiều hối, nhiều công ty kiều hối và ngân hàng cho biết đang tích cực mở rộng thị trường nhằm tìm kiếm thêm nguồn kiều hối. Đại diện Agribank cho biết bên cạnh các thị trường truyền thống, đơn vị này còn mở rộng thêm thị trường như Đài Loan và Nga – nơi tập trung lượng Việt kiều định cư, kinh doanh hoặc xuất khẩu lao động khá lớn.

“Nguồn kiều hối chủ yếu từ khách lẻ nên phải có các dịch vụ cộng thêm, đánh vào nhu cầu của họ, chẳng hạn đổi tiền mới nếu khách hàng nhận VND vào thời điểm cận tết” – vị này nói.

Kiều hối đổ vào đâu?

Có nhiều lo lắng lượng kiều hối chuyển về VN sẽ bị ảnh hưởng khi lãi suất huy động USD rơi xuống mức 0%/năm từ cuối năm 2015. Tuy nhiên, nhiều công ty kiều hối thừa nhận có ảnh hưởng nhưng không quá lớn.

Trong khi đó, theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.HCM, hơn 70,8% kiều hối chuyển về trên địa bàn đã chảy vào sản xuất, kinh doanh; khoảng 21,6% đổ vào bất động sản và chỉ khoảng 7% là hỗ trợ thân nhân, gia đình trang trải sinh hoạt, mua sắm, chữa bệnh, xây dựng nhà cửa…

“Như vậy, lượng kiều hối chuyển về với mục đích sử dụng cho việc gửi tiết kiệm hoặc chờ biến động tỉ giá để kiếm lời là rất nhỏ. Chúng tôi cũng đang theo dõi nhưng không quá lo ngại lượng kiều hối chuyển về VN sẽ bị ảnh hưởng nhiều khi lãi suất huy động USD rơi xuống mức 0%/năm” – ông Minh khẳng định.

Các công ty kiều hối cũng cho biết khoản kiều hối gửi về phổ biến trong năm nay ở mức từ 200 – 2.000 USD/món. Trong đó, những người chưa có nhu cầu chi dùng ngay thường giữ USD lại để xem xét tình hình, riêng những người nhận tiền từ các lao động xuất khẩu đều chọn nhận VND vì có việc cần chi tiêu, trang trải trong gia đình.

“Nếu tỉ giá ổn định trong khi lãi suất VND cao, người dân sẽ chọn chuyển sang VND để gửi ngân hàng thay vì giữ ngoại tệ” – giám đốc một công ty kiều hối nhận định.

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cũng cho rằng với lãi suất USD như hiện nay, nhiều người sẽ chuyển sang VND thay vì giữ ngoại tệ nếu tỉ giá ổn định. Một kênh khác cũng hấp dẫn nguồn vốn kiều hối là bất động sản, do thời gian qua thị trường này đã ấm lên và đây là kênh thu hút vốn FDI thứ hai sau công nghiệp.

Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cũng có cùng quan điểm khi cho rằng việc nới lỏng các điều kiện để Việt kiều và người nước ngoài mua và sở hữu nhà tại VN khiến kênh bất động sản trở nên hấp dẫn.

Hơn nữa, theo ông Hiếu, chỉ khoảng 10% tiền kiều hối được gửi ngân hàng, còn phần lớn đi vào chi tiêu, đầu tư, kinh doanh.

“Chưa kể tiền kiều hối gửi tiết kiệm cũng chỉ là kênh trú ẩn ngắn hạn trong lúc chờ thời cơ nên việc giảm lãi suất USD về 0% cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến lượng kiều hối” – ông Hiếu cho biết.

—————-

6 cách chữa đau họng không cần dùng thuốc

TTO – Đau, ngứa cổ họng gây khó chịu, nhưng chưa đến mức phải đi bác sĩ. Và bạn hoàn toàn có thể làm dịu cơn đau bằng những cách tự nhiên không cần dùng thuốc.

Đau, ngứa cổ họng gây khó chịu, nhưng chưa đến mức phải đi bác sĩ. Và bạn hoàn toàn có thể làm dịu cơn đau bằng những cách tự nhiên không cần dùng thuốc.

6 cách chữa đau họng không cần dùng thuốc
Chứng đau họng khiến bạn khó chịu nhưng chưa đến mức phải đi bác sĩ – Ảnh: Getty

Theo một nghiên cứu trong năm 2014 của các nhà khoa học Anh, việc đi bác sĩ hoặc dùng kháng sinh khi bị đau họng là không cần thiết.

Lý do là chỉ có một tỉ lệ nhỏ trường hợp bị đau họng là do nhiễm khuẩn, còn lại là do dị ứng, không khí khô và các virút thông thường như cúm và cảm lạnh.

Do đó khi bị đau họng, bạn có thể tự làm giảm cơn đau bằng các biện pháp tự nhiên tại nhà, và chỉ nên đi bác sĩ khi các triệu chứng không thuyên giảm. Dưới đây là những cách làm giảm đau họng bạn có thể áp dụng:

Nước muối

6 cách chữa đau họng không cần dùng thuốc
Súc miệng bằng nước muối giúp giảm đau cổ họng và chống nhiễm trùng – Ảnh: wikihow.com

Marcia Degelman – tác giả cuốn Lý giải sức khỏe và là nhà trị liệu tại Trung tâm y tế ĐH California – cho biết muối có thể tiêu diệt vi khuẩn. Nghiên cứu cũng cho thấy súc miệng bằng nước muối giúp giảm đau cổ họng và chống nhiễm trùng.

Trong thực tế, một nghiên cứu đăng trên tạp chí Y tế dự phòng Mỹ cho biết 40% người bị nhiễm trùng đường hô hấp trên và súc miệng bằng nước muối 3 lần/ngày có sự cải thiện đáng kể tình trạng bệnh.

Nếu bị ngứa hoặc đau họng, bạn có thể pha 1 muỗng cà phê muối vào 1/2 chén nước ấm và súc miệng trong 30 giây.

Mật ong

Mật ong không chỉ chứa nhiều vitamin có lợi mà còn giúp tăng cường hệ miễn dịch và chống nhiễm trùng. Theo các nhà nghiên cứu, mật hoa tự nhiên thật sự hiệu quả hơn xirô ho vì mật ong bảo vệ cổ họng tốt hơn.

Để giảm đau họng, bạn hãy pha một tách trà nóng và cho vào 1 thìa cà phê mật ong, thêm nửa quả chanh vắt. Chanh là chất làm se, có tác dụng giúp màng nhầy của bạn co lại, do đó món trà này sẽ tăng gấp đôi hiệu quả bảo vệ cổ họng của bạn.

Phở gà

Một nghiên cứu của Nhật Bản phát hiện trong thịt gà có chứa một acid amin làm tan chất nhầy trong phổi, giúp người bệnh ho ra đàm nhanh hơn và khắc phục một nguyên nhân rất lớn của chứng đau cổ họng: chảy nước mũi xuống họng.

Một nghiên cứu mang tính bước ngoặt của Trung tâm y tế ĐH Nebraska cũng chứng minh rằng phở gà thật sự có thể giúp chống lại một loại virút bằng cách hoạt động như một chất chống viêm.

Theo tác giả nghiên cứu Stephen Rennard, sự kết hợp của các loại rau, thịt gà và nước dùng giúp cho món phở có tác dụng trên.

Tỏi

6 cách chữa đau họng không cần dùng thuốc
Tỏi chứa allicin giúp tiêu diệt virút và vi khuẩn – Ảnh: youqueen.com

Tỏi có chứa allicin, một kháng sinh rất mạnh, giúp tiêu diệt virút và vi khuẩn. Theo Degelman, bạn có thể ngậm một tép tỏi sống trong khoảng 5-10 phút khi thấy cổ họng có cảm giác ngứa để tránh bị nhiễm trùng.

Rễ cam thảo

Trong đông y, rễ cam thảo được dùng để điều trị viêm họng, viêm loét và nhiễm virút trong nhiều thế kỷ, và nó đạt hiệu quả tốt nhất khi được pha với nước và súc miệng.

Một nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân súc miệng bằng nước rễ cam thảo ít bị đau họng sau phẫu thuật hơn so với những người chỉ uống nước.

Bạn có thể mua rễ cam thảo ở dạng bột hoặc chất chiết xuất, pha với nước và súc miệng.

Kẽm

Ion kẽm là tác nhân kháng khuẩn, vì vậy giúp chống lại nhiễm trùng, Degelman giải thích. Một nghiên cứu của Phần Lan năm 2011 cho thấy viên ngậm kẽm giúp người cảm lạnh mau khỏi bệnh.

Ngoài ra theo Degelman, dùng nó cùng với vitamin C sẽ giúp hệ miễn dịch của bạn chống lại các loại bệnh tật.

————————-

Facebook thu nhập khủng, Mark Zuckerberg giàu thứ sáu thế giới

Với doanh thu lần đầu vượt 5 tỉ USD và lợi nhuận tăng gấp đôi trong quý 4-2015, mạng xã hội Facebook ngày càng thu hẹp khoảng cách với ông lớn Google.

Facebook thu nhập khủng, Mark Zuckerberg giàu thứ sáu thế giới
Nhà sáng lập Mark Zuckerberg của Facebook – Ảnh: Reuters

Guardian dẫn báo cáo quý cuối năm 2015 của Facebook cho thấy những con số ấn tượng. Tổng doanh thu của Facebook trong quý này đạt 5,84 tỉ USD, cao hơn 51% so với kỳ vọng nhờ hình thức quảng cáo mới và cải tiến ứng dụng trên di động vượt trội so với 3,85 tỉ USD của năm ngoái.

Số tiền mạng xã hội này thu được trong một quý còn cao hơn Yahoo kiếm trong một năm.

Doanh thu khủng của Facebook phần lớn nhờ dịp mua sắm lễ cuối năm với doanh thu quảng cáo tăng gần 57% lên 5,64 tỉ USD. Lợi nhuận ròng của Facebook tăng gấp đôi lên 1,56 tỉ USD dù họ tiếp tục đầu tư mạnh vào các lĩnh vực thực tế ảo, trí thông minh nhân tạo…

Nhà sáng lập Mark Zuckerberg cho biết mạng xã hội này vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh với 1,59 tỉ người dùng tính đến cuối năm ngoái, tăng 14% sau một năm, trong khi số người truy cập Facebook qua thiết bị di động tăng 21% lên 1,44 tỉ người.

Dù doanh thu của Facebook hiện tại vẫn chỉ bằng 1/3 so với ông lớn Google, khoảng cách đang ngày càng thu hẹp khi mạng xã hội này vượt trội hơn trong mảng quảng cáo trên thiết bị di động và chỉ mới bắt đầu khai thác lợi nhuận từ dịch vụ Instagram và thư viện video.

Facebook sẽ bước qua tuổi 12 vào tuần tới và đang phát triển với tốc độ gấp đôi so với Google khi bước qua tuổi 12 vào năm 2010.

“Chiến lược của chúng tôi là tiếp tục làm việc và chúng tôi vẫn còn nhiều cơ hội phía trước – ông Zuckerberg lạc quan – Vì vậy chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư để tạo ra nhiều kết quả tốt hơn về dài hạn”. Ông tỏ ra hào hứng với công nghệ thực tế ảo, điều ông mô tả sẽ là nền tảng máy tính chủ chốt tiếp theo.

Theo Forbes, cổ phiếu của Facebook tăng đến 12% sau khi báo cáo được công bố đưa ông Zuckerberg trở thành người giàu nhất thế giới. Tài sản ròng của nhà lãnh đạo Facebook tăng từ 4,85 tỉ USD lên 46,25 tỉ USD chỉ trong vài giờ. Ở tuổi 31, Zuckerberg là người trẻ nhất trong nhóm 10 tỉ phú giàu nhất thế giới.

 

Những chuyện lạ về ăn mày trong lịch sử Việt Nam

Ăn mày là một trong những nghề lâu đời nhất và lịch sử Việt Nam ghi nhận nhiều câu chuyện liên quan đến nghề này.

Theo đó, vào một ngày rất xa xưa, khi người dân Đồn Điền bốc mộ thành hoàng đã bốc nhầm phải mộ một người ăn mày xấu số. Cả làng chưa biết làm sao thì có mấy phụ lão bảo phải mời thầy phù thuỷ nổi tiếng trong vùng đến xem lại long mạch và phán: “Để linh hồn người ăn mày được bình yên, từ nay trở đi, cứ sáng mùng một Tết Nguyên đán hàng năm, từ hào lý, điền chủ cho đến dân đen trong làng phải đóng cửa đi ăn mày xứ người!”.
Kể từ đó cứ đến giáp Tết là dân làng lại rục rịch kéo nhau đi ăn mày, đến tháng 2 Âm lịch mới tổ chức ăn Tết.
Còn có lời kể rằng dân làng Đồn Điền sau mỗi chuyến đi ăn xin về phải mang các đồ xin được ra đền Đồn Điền làm lễ tế. Tương truyền, đền Đồn Điền ngoài thờ linh hồn “ông tổ nghề cái bang” còn thờ cả một chiếc gậy và chiếc bị, đồ nghề truyền thống của nghề ăn mày.
Tuy vậy, theo những người dân làng Đồn Điền, trên thực tế chuyện ăn Tết muộn và chuyện nhiều người làng đi ăn mày là hai chuyện có thật 100%, nhưng hai chuyện này không liên quan gì đến nhau. Còn chuyện về “ông tổ nghề cái bang” là hoàn toàn không có thật.
Tục ăn Tết muộn đã được lý giải khá rõ ràng trong sắc phong của làng. Theo đó, địa danh làng Đồn Điền xưa kia là một bãi đất hoang vu. Đến thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông cho lập sở đồn điền tại mảnh đất duyên hải này với mục đích đưa binh lính về vừa trấn giữ bờ biển vừa làm nông nghiệp lấy lương thực. Đóng tại đây là quân của chánh sứ Tô Chính Đạo. Binh lính nhà Lê sinh sống và lập nghiệp, tạo thành làng Đồn Điền.
Vào một dịp giáp Tết, Chánh sứ Tô Chính Đạo được cử dẫn quân đi đánh giặc Chiêm Thành. Chiến thắng trở về, ông đã tổ chức khao quân và cho nhân dân Đồn Điền ăn Tết lại vào tháng 2. Từ đó làng Đồn Điền có tục ăn Tết muộn nhằm nhớ ơn những người đã khẩn hoang và giữ nước.
Còn chuyện ăn mày của làng Đồn Điền mới chỉ có từ cách đây chừng 20 năm. Số là vào trước năm 1990, sinh kế của người dân làng phụ thuộc rất nhiều vào việc dệt cói xuất sang Đông Âu. Nhưng kể từ khi Liên Xô và khối Đông Âu tan rã, thị trường này bị xóa sổ hoàn toàn, khiến người dân phải tìm kế sinh nhai mới. Cùng lúc, thiên tai, mất mùa xảy ra gây nên cảnh đói kém khiến người làng rủ nhau lang thang làm “”cái bang”” kiếm sống…
Phong trào “Ký giả đi ăn mày” chấn động Sài Gòn trước 1975
Năm 1972, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cho áp dụng Sắc luật 007 với quy định số tiền phải ký quỹ rất lớn làm nhiều báo không có tiền ký đành đóng cửa. Theo điều luật này, tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Điều này được xem như hành động báo chí, khiến nhiều tờ báo bị đóng cửa, phạt tiền, một số nhà báo còn bị tù. Có khoảng 70% người làm báo bị thất nghiệp.
Trước tình hình đó, các nghiệp đoàn kí giả ở Sài Gòn đã tập hợp lại để tìm ra một biện pháp nhằm cứu nguy cho báo chí. Hình thức đấu tranh “ký giả xuống đường đi ăn mày” được thống nhất nhằm tập hợp, tranh thủ giới chủ báo và tất cả những người làm việc trong bộ máy làm báo.
Ngày 10 /10/1974 đã được chọn làm ngày xuống đường biểu tình. Để trở thành “ăn mày”, những người tham gia đã chuẩn bị đồ nghề là nón lá, bị, gậy. Chính quyền Sài Gòn nắm được kế hoạch nên đã bố trí một lực lượng binh lính, mật thám, xe Jeep… dày đặc để ngăn chặn.
Sau khi lệnh xuất phát được ban ra, đoàn người bắt đầu tìm cách phá hàng rào bao vây của cảnh sát, dẫn đến xô xát. Nhưng cuối cùng đoàn “ký giả ăn mày” đã phá vỡ hàng rào cảnh sát, kéo nhau đi trên lộ trình định sẵn với các biểu ngữ như: “10-10-1974, ngày báo chí đi ăn mày”, “Yêu cầu Tổng thống Thiệu từ chức”, “Tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “Đả đảo Luật 007”, “Luật 007 làm báo chí phải đi ăn mày”…
Sau khi đoàn biểu tình đạt được mục đích và giải tán, một cuộc đụng độ với cảnh sát đã xảy ra tại trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt làm dân biểu bác sĩ Đinh Xuân Dũng bị thương nặng. Đoàn biểu tình đã đặt ông Dũng lên băng ca, khiêng đến Tòa án Sài Gòn trên đường Công Lý để “nằm vạ đòi công lý”, nhưng giữa đường bị cảnh sát chặn lại.
Trước sự kiện này, các hãng thông tấn quốc tế lớn, gồm cả đài Tiếng nói Hoa Kỳ và BBC đều nhìn nhận đây là “cuộc biểu tình lớn nhất kể từ 3 năm qua”, khiến uy tín của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu càng bị suy giảm nặng nề.
Theo KIẾN THỨC

VN qua những ống kính máy ảnh đầu tiên

Bìa cuốn sách Những nhiếp ảnh gia Pháp đầu tiên ở Việt Nam

Việt Nam là chủ đề quyến rũ với nhiều nhiếp ảnh gia Pháp ngay từ những ngày đầu tiên đặt chân đến đây. Nhiều người trong số họ đã chọn ở lại và thắm thiết với Việt Nam đến những ngày cuối cùng.

Viện Hàn lâm khoa học hải ngoại Pháp vừa ra mắt cuốn sách “Những nhiếp ảnh gia Pháp tiên phong tại Việt Nam” của tác giả Loan de Fontbrune chủ biên.

Bà là sử gia nghệ thuật, đồng thời là thành viên của viện, đã dành 400 trang với 150 ảnh giới thiệu về công việc và sáng tác cuối thế kỷ 19 của những nghệ sĩ đầu tiên Pháp chụp về Việt Nam.

Những bức ảnh nói trên đi kèm bài viết của các học giả như Philippe Francini, Stephane Richemond, Trương Phillipe, Ngô Kim Khôi, Đinh Trọng Hiếu, François Thierry, Christine Hemmet, đánh giá, giới thiệu về từng vùng đất, phác hoạ chân dung những người Pháp chữ ‘tâm’ đi với chữ ‘tài’ đã để lại những kho tàng quý báu cho Việt Nam.

Họ là Firmin Andre Salles, Pierre Dieulefils, Gustave Trumelet Faber, Charles-Edouard Hocquard, Emile Gsell, Lemoine, Camille Paris, Auguste Pavie, Charles Marie Eugene Haffner…

Mỗi người đều có những hành trình khác nhau, nhưng có cùng giao điểm là lao động nghiêm túc, gắn bó sâu nặng với mảnh đất hình chữ S.

 
Hai công chúa nhà Nguyễn – tác giả Pierre Dieulefils

Những bức ảnh của họ chuyên chở những giá trị dân tộc học cũng như Việt học đáng quý.

Firmin André Salles xuất thân từ một sĩ quan hải quân, tham gia trận đánh thành Hà Nội lần thứ hai năm 1883.

Sau đó ông trở thành Tổng thanh tra thuộc địa và các lãnh thổ hải ngoại Pháp, tuy nhiên những bức ảnh của ông quan to rất gần gũi với đời thường.

Ống kính André Salles rất sống động, ghi lại cuộc sống thị thành Tonkin (Bắc Kỳ), hay khóa thi cuối cùng thế kỷ 19 tại Trường thi Nam Định năm 1897.

Kỳ thi năm Đinh Dậu vẫn dùng tiếng Hán này, ngoài chuyện Phan Bội Châu bị can án mang mầu sắc chính trị không được dự, còn một sĩ tử được biết đến là Trần Tế Xương. Nhà thơ với bút danh Tú Xương, người để lại những dòng thơ trào lộng:

“Cái học nhà Nho đã hỏng rồi

“Mười người đi học chín người thôi

“Cô hàng bán sách lim dim ngủ

“Thầy khóa tư lương thấp thỏm ngồi

“Sĩ khí rụt rè gà phải cáo

“Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi…”

Nhiếp ảnh gia Pierre Dieulefils, người có chỗ đứng vững chắc sách sử về Hà Nội với cầu Thê Húc hay những bức ảnh phong trào khởi nghĩa Yên Thế của anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám, lần này giới thiệu cho chúng ta về sinh hoạt trong cung đình Huế với ảnh về vua Thành Thái.

Vua Thành Thái và triều thần – tác giả Pierre Dieulefils

Dieulefils từng có hiệu ảnh ngay cạnh Hồ Gươm.

Hay những bức ảnh của Andre Eugene Disderi về phái đoàn Khâm sai đại thần Phan Thanh Giản năm 1863 trước khi lên đường sang Pháp điều đình sau khi mất ba tỉnh miền Tây.

Một nhiếp ảnh gia Charles Edouard Hocquard,đồng thời là nhà văn được biết đến với những tác phẩm như “Ba mươi tháng ở Tonkin”, “Hành trình vòng quanh thế giới”, cũng có mặt trong tập sách.

Những bức ảnh chân thực, tôn trọng sự thật về lịch sử cũng như tìm hiểu về ngành nghề Việt Nam cuối thế kỷ 19 của ông là những ghi nhận xúc động.

Hoàng Sa, Trường Sa

Người biên soạn sách Loan de Fontbrune với nhiều ảnh trong bộ sưu tập cá nhân cũng giới thiệu Gustave Trumelet Faber, một tên tuổi gần như chưa được biết đến.

Trumelet Faber đã để lại cho chúng ta những tư liệu có giá trị cao như bức ảnh về Hải Vọng đài tại Đà Nẵng năm 1888-1889, Ngũ Hành Sơn, hoặc những địa điểm đã hoàn toàn biến mất ở vùng Quảng Nam – Đà Nẵng.

 
Ngự y – tác giả Pierre Dieulefils

Đây là thời điểm vua Đồng Khánh ký đạo dụ nhượng Đà Nẵng cho Pháp. Cửa biển mang cái tên Pháp đầu tiên trên bản đồ Việt Nam là Tourane.

Tại đây Toàn quyền Đông Dương tuyên bố ngày 8/3/1925, Tourane (Đà Nẵng) cùng Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Pháp bằng văn bản còn lưu giữ trong Văn khố thuộc địa.

Nhiều bức ảnh có một không hai, chưa bao giờ ra mắt do Trumelet Faber chụp như Vườn Thượng Uyển Đại Nội Huế, Thuỷ Nguyệt đình, tư thất hay chùa chiền vua chúa Nguyễn trong Tử cấm thành, tháp Phước Duyên tại Huế năm 1888- 1891.

Trumelet Faber cũng chụp ảnh gia đình phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết, người không lâu sau đó đã mang vua Hàm Nghi rời Huế ra Tân Sở và phát hịch Cần Vương.

Bộ ảnh về 53 dân tộc thiểu số Việt Nam của Henry Célestin Giard, Pierre Dieulefils, Lemoine, Camille Paris, Auguste Pavie, Gustave Trumelet Faber, Charles Marie Eugene Haffner đóng góp một cái nhìn tổng thể về những sắc dân với nền văn hóa đa sắc tộc của Việt Nam.

Chân dung phụ nữ Dao Tiền, Dao Đỏ, người Dao Lan với cách tết tóc dân tộc độc đáo, người Dao quần chẽn, thiếu nữ H’mong Trắng, người Lô lô, người Mường, người Thái trắng, Tầy, Nùng, người dân tộc Tây nguyên với tập tục an táng,hay đôi chân đặc biệt của người Giao Chỉ…là những bức ảnh nghiên cứu dân tộc học độc đáo và khiến chúng ta phải suy ngẫm lại về từ “thực dân”.

Việt Nam, sau gần 150 năm vẫn thiếu vắng một công trình khoa học nghiêm túc, toàn diện trong lĩnh vực dân tộc học. Tiêu chí của Viện Hàn lâm khoa hải ngoại Pháp: “Biết, hiểu, tôn trọng và yêu mến” tặng lại cho chúng ta một Việt Nam đã mất.

Một Việt Nam trong mắt những người nghệ sỹ thắm thiết không rời.

Bài viết thể hiện văn phong và cách nhìn của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris.

Nhập siêu từ Trung Quốc tiếp tục tăng vọt: Những quan chức nào ‘làm thuê’ cho Bắc Kinh?

Blog VOA

Phạm Chí Dũng

Ai?

Khủng hoảng bắt đầu từ đáy lòng chế độ, cùng quá nhiều khêu gợi của ngoại bang.

Năm 2015 kết thúc với không chỉ tình hình kinh tế bi đát và số doanh nghiệp phá sản tăng vọt ở Việt Nam, mà con số nhập siêu từ Trung Quốc càng kinh hoàng hơn: 32,3 tỉ USD, tăng tới 12,5% so với năm 2014 và được coi là cao nhất từ trước đến nay.

Năm 2013 và 2014, số nhập siêu từ Trung Quốc “chỉ” là 23,7 tỷ USD và 28,9 tỷ USD.

Báo chí trong nước kêu rên: “Mua của Trung Quốc từ củ hành đến ôtô!”.

Ba năm đều đặn kích phát số nhập siêu từ Trung Quốc, bất chấp vô số phản ứng của dư luận xã hội, đã là quá đủ. Một lần nữa, những quan chức trưởng bộ ngành liên quan đến nhập khẩu của Việt Nam cần phải bị truy cứu trách nhiệm “thân Trung”.

Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Đinh La Thăng, Bộ trưởng Xây dựng Trịnh Đình Dũng là những nhân vật phụ trách bộ ngành liên hệ quá môi răng với hàng nhập từ Trung Quốc.

Kể cả “Thống đốc tỷ giá” Nguyễn Văn Bình…

Dã man!

Vài ba năm trước, nạn nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc đã lên đến 24 – 25 tỷ USD hàng năm và bị coi là “dã man”.

Ngay sau khi xảy ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào giữa năm 2014, giới chuyên gia kinh tế Việt Nam bắt đầu phải bàn luận đến khía cạnh “kinh tế Việt Nam sẽ sống được bao lâu nếu không nhập khẩu từ Trung Quốc”. Trả lời câu hỏi này là lời tường thuật rất thành thật của nhiều doanh nghiệp ngành dệt may: nếu không được nhập nguyên vật liệu từ Trung Quốc, nhà máy của họ chỉ tồn tại được vài ba tháng!

Quá đúng. Những nhóm hàng nhập siêu tăng mạnh nhất trong năm 2015 vẫn là sắt thép, kim loại, ôtô, phụ tùng và vật liệu dệt may, da giày… Nhưng không chỉ các nguyên liệu đầu vào cho chế biến, ngay cả những sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh sản xuất là nông sản cũng nhập khẩu Trung Quốc ngày một nhiều.

Một chủ hàng Việt trần thuật trước báo chí: “Hàng Trung Quốc số lượng muốn bao nhiêu cũng có, kích cỡ to và đều, mua về là sử dụng được liền trong khi hàng trong nước thì giá cao, lượng hàng lại không ổn định. Dù là hàng Trung Quốc nhưng khi xay nhuyễn, bán cho các nhà hàng, quán ăn, khách đâu có biết tỏi, gừng xuất xứ từ đâu”.

Thói quen phụ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc đã trở nên quá khó bỏ. Nó không chỉ cột chặt giới doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà còn xiềng xích giới quan chức “ăn dầy” của Việt Nam – những người có thẩm quyền ký hạn ngạch nhập hàng từ Trung Quốc. Tình thế càng trở nên nên khốn quẫn khi tại một số cuộc hội thảo về đầu tư, người ta cho biết giới doanh nghiệp Trung Quốc có thói quen chi dưới gầm bàn “thoáng nhất”!

Không cần nhắc lại, ai cũng biết giới quan chức Việt thuộc loại “ăn đủ” nhất trên thế giới.

Trong lịch sử buôn bán hai chiều với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam lại bị phụ thuộc vào Trung Quốc nhiều nhất. Từ nhiều năm qua, Trung Quốc đã trở thành thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng khoảng 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.

Nếu tính cả con số 20 tỷ USD nhập lậu mà “không ai biết” được tuồn vào theo con đường nào và bị biến hóa ra sao, tổng giá trị nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc năm 2015 phải lên đến gần 52 tỷ USD. Con số này gấp gần 300 lần so với mức nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc vào năm 2002!

Một nghiên cứu của Trung tâm WTO còn cho thấy các nhà thầu Trung Quốc là tổng thầu EPC của 77/106 dự án lớn trong các lĩnh vực hóa chất, khai thác chế biến bauxite, xi măng, nhiệt điện… của Việt Nam. Đây là những dự án lớn, ảnh hưởng đến nền kinh tế nhưng do nhà thầu Trung Quốc thực hiện nên một phần đáng kể nguồn cung năng lượng, các hoạt động của nền kinh tế phụ thuộc vào năng lực, chất lượng và hiệu quả từ các hoạt động của nhà thầu nước này. Phần lớn các dự án lại sử dụng máy móc, vật tư, nguyên liệu nhập từ Trung Quốc càng khiến tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ thị trường này thêm trầm trọng. Nhiều nhà máy sau khi đi vào vận hành lại gặp trục trặc, thời gian sửa chữa, bảo dưỡng kéo dài…

Giới chuyên gia còn thêm đánh giá: với tỉ trọng 60% nguyên phụ liệu đầu vào nhập từ Trung Quốc, nếu từ bỏ thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ xoay trở không kịp. Cơ cấu này đang gây khó khăn rất lớn cho việc Việt Nam tham gia vào TPP, ứng với một điều kiện không thể thay đổi của TPP là Việt Nam phải chuyển đổi vùng nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc về các nước trong khối TPP.

Vậy là TPP chỉ có thể làm được vài việc cho khả năng thoát Trung về kinh tế. Với quy định nghiêm ngặt của TPP về cơ chế phải nhập nguyên vật liệu từ các nước nội khối TPP, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải bắt buộc chuyển đổi dần cơ cấu nhập khẩu từ kênh Trung Quốc sang các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… giãn dần tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc.

Phá hoại?                                                            

Nhưng đi đôi với hiện tượng nhập khẩu từ Trung Quốc tăng vọt, phải chăng trong thời gian qua đã có những quan chức tìm cách ngăn cản và phá đám Hiệp định TPP cho Việt Nam? Liệu trong thời gian tới, những quan chức này còn có thể tiếp tục tạo ra những tình huống nan giải hoặc đổ vỡ nào để ngăn cản tiến trình Việt Nam triển khai thực thi các quy định TPP?

Đặc biệt nếu những quan chức này nằm trong những bộ ngành kinh tế liên quan mật thiết đến TPP như Bộ Công thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…, nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn chuyển đổi kênh nhập khẩu sẽ bị hành hạ không ít bởi chủ kiến chính trị của Bắc Kinh.

Không chỉ “hỏi tội” những bộ trưởng phụ trách trực tiếp bộ ngành liên quan đến nhập khẩu từ Trung Quốc, dư luận xã hội còn đang hướng mối nghi ngờ vào động cơ “ổn định tỷ giá” của Ngân hàng nhà nước. Trong hai năm 2014-2015, cơ quan này đã chỉ phá giá đồng Việt Nam khoảng 5%, quá thấp so với độ mất giá chung của đồng tiền các quốc gia khác trong khu vực, và do vậy đã khiến sức cạnh tranh quốc tế về hàng xuất khẩu của doanh nghiệp Việt sụt giảm đáng kể. Nhưng ngược lại, cơ chế duy trì tỷ giá thấp luôn được coi là một cách nhằm làm lợi lớn cho các nhà nhập khẩu, trong đó chủ yếu là các món hàng nhập khẩu quá nhiều “màu” từ Trung Quốc.

Nếu mối nghi ngờ trên của dư luận là có cơ sở, hẳn nhiên những chiến dịch nhập khẩu ồ ạt hàng Trung Quốc, cùng chủ trương cố tình không phá giá hoặc chậm phá giá đồng Việt Nam, có thể bị xem là nhắm đến động cơ phá hoại kinh tế nước nhà.

Kinh tế lại quấn siết chính trị. Tương lai Việt Nam làm sao có thể “thoát Trung” về kinh tế nếu vẫn khư khư ôm chặt mối tình ngang trái giữa hai thân xác chính trị thỗn thện? Dàn nhân sự mới của đảng và chính phủ sau đại hội 12 liệu có muốn giãn bớt mối quan hệ ràng buộc này?

DI SẢN NGUYỄN TẤN DŨNG

Việt Báo

Nguyễn Quang Duy

Ván cờ đã kết thúc Nguyễn Phú Trọng tiếp tục vai trò, Nguyễn Tấn Dũng ra đi không hẹn ngày trở lại. Sau 20 năm trong Bộ Chính Trị và 10 năm làm Thủ Tướng ông Dũng để lại di sản như sau:

Thứ nhất, nợ quốc tế cao ngất trời. Nợ đến độ không còn ai muốn cho vay. Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới phải đặt câu hỏi “Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu để tài trợ cho chương trình phát triển đầy tham vọng trong 5 năm tới”?

Thứ hai, vay phải trả. Người Việt từ bé đến già mỗi người đã nợ quốc tế hằng ngàn Mỹ Kim và mỗi người mỗi năm phải trả cả vốn lẫn lời hằng trăm Mỹ Kim.

Thứ ba, nợ thay vì đầu tư để phát triển con người như giáo dục, y tế hay phát triển nông thôn thì được đầu tư vào các công trình to lớn không mang lại lợi ích thiết thực như nhà máy lọc dầu Dung Quất, các đập thủy điện, các cao tốc, các đại doanh nghiệp nhà nước… Hệ quả khủng hoảng toàn diện: kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, văn hóa…

Thứ tư, môi trường và tài nguyên khai thác bừa bãi. Tài nguyên kiệt quê môi trường bị hủy hoại.

Thứ năm, một nền kinh tế gia công mua nguyên vật liệu từ ngoại quốc về chế biến xong xuất cảng. Một đất nước dựa trên xuất cảng lao động.

Thứ sáu, một thời kỳ với dân oan bị chiếm đất cao chưa từng có.

Thứ bảy, một guồng máy cai trị đầy tham nhũng. Từ trung ương đến đến địa phương tiêu sài hoang phí, nhiều đơn vị đã công khai vỡ nợ.

Thứ tám, một guồng máy an ninh, được giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc, ước tính ít nhất lên tới 6,7 triệu hay cứ sáu người thì một người làm cho an ninh. Số người chết trong tù càng ngày càng tăng.

Thứ chín, con số tù nhân chính trị cao chưa từng có với phương cách xuất cảng tù nhân trao đổi quyền lợi với Tây Phương.

Thứ mười, nói mà không làm. Biển Đông đã bị Trung cộng chiếm đóng, ngư dân mất quyền ra biển kiếm sống, hải phận, không phận thường xuyên bị xâm nhập.

Đừng lầm tưởng Nguyễn Tấn Dũng là một nhà cải cách. Ông là một nhà cai trị đã triệt để thực hiện các quyết định do Bộ Chính Trị đảng Cộng sản đưa ra. Mọi công khai tranh luận và phân hóa trong đảng thể hiện sự sai lầm do các quyết định và dẫn đến các di sản nói trên.

Việt Nam sẽ gia nhập TPP, gia nhập sân chơi quốc tế, sân chơi của các đại công ty. Đừng lầm tưởng TPP là cứu cánh của tự do dân chủ. Các quốc gia vì quyền lợi Việt Nam một nước đông lao động và lao động rẻ tiền.

Nếu thể chế không thay đổi Việt Nam sẽ mãi mãi là một khu gia công hàng hóa quốc tế. Nhập nguyên liệu người chế biến kiếm sống qua ngày.

Điều đó không có nghĩa là chúng ta quên vai trò Quốc Tế Vận, nhưng cần hiêu rõ tự do dân chủ phải do chính người Việt Nam giành lại.

Đừng mơ cách mạng Việt Nam sẽ xảy ra như Đông Âu hay Miến Điện.

Đừng mơ Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam sẽ thay đổi thái độ với Trung cộng như Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Lào đã và đang làm.

Mỗi đất nước có 1 sắc thái riêng một hoàn cảnh riêng. Muốn Việt Nam thoát cộng thoát Tàu cần hiểu rõ và dựa vào khả năng có được của chính dân mình. Việc tới sẽ tới Việt Nam rồi cũng có tự do dân chủ.