BÀI THÁNH CA BUỒN
Hằng năm cứ mỗi dịp gần Noel, vào độ cuối đông tiết trời se lạnh, dường như đã trở thành thông lệ, chúng ta lại nghe thấy giai điệu quen thuộc của “Bài thánh ca buồn” vang lên khắp nơi. Gần nửa thế kỷ trôi qua, vào dịp lễ Giáng sinh, bản tình ca ấy vẫn cứ thản nhiên len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những chòm xóm nhỏ, thậm chí còn quen thuộc hơn cả Thánh ca Giáo đường.
Thực ra, Elvis Phương không phải là ca sĩ đầu tiên thể hiện “Bài thánh ca buồn”, và có lẽ cũng chẳng phải là người cuối cùng, nhưng anh đã là người mặc định cho ca khúc một vị trí hoàn hảo, thổi vào đó dạt dào những cảm xúc từ khung trời kỷ niệm pha trộn giữa mùa Noel xưa và nay, một chút gì tiếc nuối, xa vắng, kết hợp sử lý giọng hát ở không gian cao, rộng, khoan thai, phát âmca từ rõ ràng, lắng đọng, để rồi đẩy ca khúc lên trở thành một tuyệt tác mà qua biết bao nhiêu thế hệ người nghe, nó vẫn luôn là bài ca Giáng sinh được yêu mến nhất.
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời thơ ấu ông sống ở Đà Lạt. Chính thành phố sương mù này đã tác động nhiều đến bước đường nghệ thuật của ông.
Năm 12 tuổi (1956), cậu bé Tuấn Khanh từng đoạt giải nhất đơn ca thiếu nhi do đài phát thanh Đà Lạt tổ chức. Năm 23 tuổi, Nguyễn Vũ có bản nhạc đầu tay “Huyền thoại chiều mưa”…
Ông kể rằng năm 14 tuổi, ông bị mê đắm bởi một cô gái người công giáo tại thành phố Đà Lạt sương mù. Tình cảm ấy khiến ông cứ lẽo đẽo theo cô trên đường đến nhà thờ. Trong một lần tan lễ, trời mưa rất to, cả hai đành phải trú mưa chung dưới một hiên nhà. Lúc ấy cũng đúng ngày lễ Giáng Sinh. Cô gái và người nhạc sĩ đều im lặng. Khi nghe ca khúc Silent Night (Đêm thánh vô cùng) phát ra từ nhà bên cạnh, cô gái lẩm nhẩm hát theo, hình ảnh ấy cứ ám ảnh người nhạc sĩ cho đến nhiều năm sau đó, “trái tim của một gã trai mới lớn thổn thức đến tội nghiệp nhưng lại không có can đảm để làm quen”, vào năm 1972, Nguyễn Vũ đã viết lại cảm xúc của mình”. Và “Bài Thánh Ca Buồn” đã ra đời.
“Bài thánh ca buồn” quả thực là một ca khúc đã vượt qua sự thử thách của thời gian để trở thành hiện tượng văn hóa, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật, nhân văn, thẩm mỹ, lịch sử, khiến cho tác phẩm phẩm vì thế được cả những người Thiên Chúa giáo, lẫn những người ngoại đạo đều yêu thích. Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn, nhưng không bi lụy.
Day: 21/12/2015
TƯ LIỆU LỊCH SỬ: Nguyễn Công Khế dùng thủ đoạn ti tiện đuổi Huỳnh Tấn Mẫm ra khỏi nghề báo, cướp ghế Tổng biên tập báo Thanh Niên
Nếu nhà báo Minh Diện không viết bài “Nguyễn Công Khế đã dùng tiểu xảo chiếm ghế TBT báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm như thế nào?” thì ít ai biết được chuyện Nguyễn Công Khế dùng “tiểu xảo” nhằm chiếm ghế TBT báo Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm. Để làm rõ bản chất sự việc, nhóm phóng viên CLB Nhà báo trẻ đã tìm lại từng trang của tàng thư công văn, giấy tờ liên quan từ 30 năm trước. Xin công khai đến quý độc giả, nhất là đội ngũ cán bộ, phóng viên, công nhân viên Báo Thanh Niên để thấy được thói ti tiện, bất chấp thủ đoạn vốn nằm trong bản chất con người Nguyễn Công Khế từ ngày xưa và không hề thay đổi cho đến tận bây giờ.
![]() |
Huỳnh Tấn Mẫm trong phong trào sinh viên trước giải phóng |
![]() |
Huỳnh Tấn Mẫm đã dùng những lời lẽ tốt đẹp nhất để bảo vệ Nguyễn Công Khế trước các lời dèm pha, đồn thổi về việc Khế đầu hàng địch |
![]() |
Ngày 2/1/1986, Ban Tuyên huấn, Ban Chấp hành TW ra quyết định cho phép xuất bản Tuần tin Thanh Niên |
![]() |
Ngày 8/6/1987, TW Đoàn ra quyết định đề bạt Nguyễn Công Khế làm Phó Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên theo đề nghị của Huỳnh Tấn Mẫm |
![]() |
Quyết định vội vã của TW Đoàn đã chính thức kết thúc cuộc đời làm báo của Huỳnh Tấn Mẫm và giao cho Khế “phụ trách toàn diện” Tuần tin Thanh Niên |
- Phong cách lãnh đạo mang tính chất gia trưởng thiếu dân chủ, thể hiện mối quan hệ giữa đồng chí với đồng chí Mẫm, giữa đồng chí với anh chị em dưới quyền, nói năng thiếu cân nhắc chín chắn, nóng nảy thiếu bình tĩnh.
- Ý thức tổ chức kỷ luật yếu: cũng là một nguyên nhân của việc gây mất đoàn kết nội bộ. Đồng chí và đồng chí Mẫm tìm mọi cách chống phá nhau, là đối địch của nhau, ý thức tự phê bình yếu, phê bình người khác thiếu thuyết phục.
- Suốt một thời gian dài là người phụ trách tờ báo nhưng không quan tâm đến công tác quần chúng, không tổ chức công đoàn. Hội nhà báo tuy có nhưng hoạt động yếu, quản lý cơ quan mang tính cách gia đình chủ nghĩa.
![]() |
Thông báo về việc xử lý kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 1) |
![]() |
Thông báo về việc xử lý kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 2) |
![]() |
Nghị quyết về việc thi hành kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 1) |
![]() |
Nghị quyết về việc thi hành kỷ luật đảng viên đối với Nguyễn Công Khế (trang 2) |
![]() |
Quyết định đề bạt Lương Ngọc Bộ kiêm nhiệm Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên do Bí thư thứ nhất Hà Quang Dự ký ngày 25/9/1989 |
![]() |
Tháng 9/1990, Lương Ngọc Bộ đã “trả lại” Quyền Tổng biên tập Tuần tin Thanh Niên cho Khế |
![]() |
Đúng một năm sau, Nguyễn Công Khế chính thức trở thành Tổng biên tập Báo Thanh Niên. Những cái tên “Tuần tin Thanh Niên” và “Huỳnh Tấn Mẫm” trong nghề báo chỉ còn là quá khứ… |
Đón xem kỳ tiếp: Nguyễn Công Khế xử lý việc phải ra tòa vì trốn nợ như thế nào?
CLB Nhà báo trẻ
Việt Khang: Sức mạnh một bài hát, một bản án
Trà Mi
Sức mạnh của một bài hát lay động hàng triệu con tim người Việt khắp nơi đã khiến một nhạc sĩ phải đi tù, nhưng sức mạnh của bản án đó đã không lay chuyển được tinh thần và ý chí của một trái tim khao khát dân chủ-tự do.
Đó là câu chuyện của Việt Khang, nhạc sĩ trẻ vừa mãn hạn 4 năm tù vì hai bài hát chống Trung Quốc và chất vấn chính sách cai trị của nhà cầm quyền Việt Nam: ‘Việt Nam tôi đâu’ và ‘Xin hỏi anh là ai’.
Nhạc sĩ bất đồng chính kiến Việt Khang tên thật là Võ Minh Trí, sinh năm 1978 tại Tiền Giang. Anh bị bắt vào năm 2011 sau khi tự trình bày và phổ biến lên Youtube hai nhạc phẩm gây chú ý đặc biệt cho công luận trong và ngoài nước.
Việt Khang trở thành một ‘hiện tượng’ khi trường hợp của anh khơi dậy một chiến dịch thỉnh nguyện thư quy mô chưa từng có của người Việt trong và ngoài nước gửi thẳng vào Tòa Bạch Ốc kêu gọi chính phủ Mỹ tăng áp lực buộc Hà Nội tôn trọng nhân quyền, phóng thích tù nhân lương tâm vào năm 2012.
Tạp chí Thanh niên VOA hôm nay mời các bạn cùng gặp gỡ với tác giả của những ca từ ‘Xin hỏi anh là ai? Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?’
Trà Mi: Hai câu hỏi bắt đầu bài hát của anh ‘Xin hỏi anh là ai, sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?’ anh đã có lời giải đáp cho mình chưa?
Việt Khang: Hình như đã có câu giải đáp. Người khác sẽ trả lời cho tôi câu hỏi này vì với tôi, thật sự khó trả lời, khó mà nói trong lúc này.
Trà Mi: Sau hai câu hỏi ‘Anh là ai?’ và ‘Việt Nam tôi đâu?’ anh bị lãnh 4 năm tù. Anh nghĩ sao về câu trả lời đó?
Việt Khang: Nói chung rất nhiều đắng cay, giống như câu hát sau đó ‘Đã quá nhiều đắng cay’. Câu hỏi ‘Anh là ai, sao bắt tôi tôi làm điều gì sai?’ tôi không cần trả lời nhiều, để những người đã đối xử với tôi, tôi muốn tự họ hãy trả lời cho bản thân họ. Tôi muốn dành câu hỏi đó cho những người đã bắt tôi họ suy ngẫm lại.
Trà Mi: Đi tù vì 2 bài hát, anh có hối hận vì điều này?
Việt Khang: Những gì xảy ra đối với tôi là kết quả, không phải hậu quả. Tôi không ân hận gì.
Trà Mi: Hai bài hát của anh làm lay động con tim hàng triệu người Việt khắp nơi, anh muốn nói gì về hai đứa con tinh thần của mình?
Việt Khang: Chưa đầy 1 tháng hai bài hát đó ra đời. Hai đứa con tinh thần này chính là hoài bão, nỗi niềm, tình yêu của tôi. Tôi muốn đất nước mình tốt đẹp, bình an và người dân được hạnh phúc, ấm no. Trước những khó khăn và hiểm họa ngoại xâm, hai đứa con tinh thần của tôi đã giúp tôi nói lên sự thật vì thật sự tôi không thể ngồi yên hay lặng im. Hai bài hát đó tôi cũng không nghĩ là sẽ chạm được tới trái tim của nhiều người đến như vậy. Tôi thật sự rất bất ngờ khi đồng bào trong và ngoài nước quan tâm đến hai bài hát này và, quan trọng hơn là, quan tâm đến tình hình đất nước. Tôi cũng cảm ơn hai đứa con tinh thần của tôi.
Trà Mi: Mong muốn đất nước được bình an đã khiến anh phải trả giá bằng sự bình an của bản thân…
Việt Khang: Không có gì làm tôi phải đắn đo suy nghĩ vì tôi không thể so sánh sự bình an của tôi với sự bình an của quê hương đất nước. Tôi không dám so sánh.
Trà Mi: Nhưng mọi việc có được như anh mong muốn hay hoàn toàn ngược lại?
Việt Khang: Tôi nghĩ đã được như ý tôi mong muốn. Rất nhiều người quan tâm đến hai bài hát và tình hình đất nước là tôi vừa ý lắm chứ.
Trà Mi: Có nhiều bản nhạc yêu nước ở Việt Nam, vì sao hai bài hát yêu nước của anh bị nhà nước xem là chống đối, nhạc sĩ Việt Khang suy nghĩ thế nào?
Việt Khang: Tại vì mình nói không đúng quan điểm của người ta thì họ cho là chống đối. Nhưng ở một thời điểm nào khác, họ sẽ cảm thông được. Suy cho cùng, tôi vì quốc gia, dân tộc và vì sự yên bình của đất nước chứ không vì một mục đích nào khác.
Trà Mi: Trong tác phẩm của mình, anh nói ‘chống quân xâm lược, chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam’ nhưng rốt cuộc anh lại bị coi là chống nhà nước, anh hiểu thế nào?
Việt Khang: Tại vì người ta không tách riêng ra. Chẳng hạn như tôi có nghe Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nói đại ý là một thước đất, một tấc biển của quê hương kẻ nào dám lấy làm mồi cho giặc thì đáng tội. Câu nói đó cũng giống câu nói của tôi thôi. Tôi chỉ muốn cảnh tỉnh, nhắn nhủ mọi người về cái họa ngoại xâm. Tôi chống kẻ thù xâm lược và chống lại những sai trái, những người có suy nghĩ lạc lối.
Trà Mi: Luật sư của anh, ông Trần Vũ Hải, cho báo giới biết anh thừa nhận bài hát của mình có nội dung ‘chống nhà nước Việt Nam’ , thừa nhận có tham gia Tuổi trẻ yêu nước, có tập hợp tài liệu nhằm chống nhà nước Việt Nam, và anh đã xin khoan hồng tại tòa. Thực hư việc này thế nào?
Việt Khang: Hoàn cảnh của tôi xuất thân từ một tỉnh lẻ. Khi tôi đấu tranh, nói lên sự thật, tôi cũng phải nghĩ đến những người thân yêu xung quanh tôi. Tôi không phải là một anh hùng, tôi chỉ là một công dân yêu nước. Còn cách làm, đó là quyền tự do chọn cách thức đấu tranh.
Trà Mi: Nhận tội-xin khoan hồng là điều kiện tiên quyết để được giảm án. Trong suốt thời gian thọ án, có bao giờ đề nghị này được đặt ra với anh?
Việt Khang: Đầu tiên tôi chọn cách là nhìn nhận các việc làm của tôi và tôi xin khoan hồng. Sau đó, tôi thay đổi. Tôi đã nói với họ rằng tôi đã chọn con đường này thì tôi phải đi, không gì lay chuyển được tôi. Cho nên, tôi ở tù đủ 4 năm mới về.
Trà Mi: Anh nghiệm ra điều gì từ bản án này?
Việt Khang: Tôi nghiệm ra rằng mọi chuyện không thể khác được, buộc phải xảy ra như vậy, buộc tôi phải làm theo cách của tôi, và buộc ngày hôm nay tôi phải nhận đủ 4 năm tù mới về trong thời điểm này để cho những chuyện gì xung quanh tôi xảy ra và có chiều hướng tích cực hơn, tốt hơn.
Trà Mi: Hài lòng với tất cả những gì mình đã đi qua, anh cảm nhận thế nào về sức mạnh của một bài hát và sức mạnh của một bản án?
Việt Khang: Trong cuộc sống này phải có sự đánh đổi, phải có sự hy sinh. Là một người công dân yêu nước, tôi dùng nghề nghiệp của tôi để nói lên lòng yêu nước của tôi để nhiều người nghe, cảm nhận, cảm thông được với tôi về tình hình quê hương đất nước đang gặp khó khăn, hiểm nguy. Điều này được nhiều người quan tâm, đối với tôi là đủ rồi.
Trà Mi: Còn sức mạnh của bản án anh vừa lãnh, nó có đủ lay chuyển tinh thần-ý chí của cá nhân anh?
Việt Khang: Cá nhân tôi mà có lay chuyển chắc có lẽ tôi đã không dám ngồi đây để nói chuyện với chị đâu vì có những cái không…vì tôi còn đang trong thời hạn 3 năm quản chế.
Trà Mi: Trong điều kiện chính trị không dung chấp bất đồng tại Việt Nam, bài hát của anh bị xem là thách thức nhà cầm quyền, là đụng chạm. Anh có lường trước mọi chuyện trước khi chấp bút viết lên những ca từ đó?
Việt Khang: Có chứ, tôi biết chứ, nhưng không làm khác được. Tôi phải làm thôi. Tôi cũng phỏng đoán một là có thể mình gặp khó khăn, cam go; hai là biết đâu mình không bị sao cả và mọi chuyện sẽ tốt đẹp như mình muốn rằng đất nước của mình sẽ được tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, trong cuộc sống này không có trải nghiệm nào mà không có ý nghĩa của nó.
Trà Mi: Vì lường trước nên anh đã tự hòa âm, trình bày ca khúc, và phổ biến lên Youtube chứ không nhờ một ca sĩ nào thể hiện?
Việt Khang: Tôi không dám đụng chạm tới ai cả vì tôi biết việc làm này không đơn giản. Cho nên, tôi đã chọn cách làm một mình mình.
Trà Mi: Hai bài hát xuất phát từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc như mọi người vẫn nghĩ, nhưng mở đầu với câu ‘Thời gian quá nửa đời người. Và ta đã tỏ tường rồi’ nghĩa là những suy ngẫm ấy tích tụ từ bao nhiêu năm chứ không phải chỉ từ vài cuộc biểu tình?
Việt Khang: Đúng, bài ‘Việt Nam tôi đâu’ là tôi tích góp lại tất cả vì tôi cảm nhận được những gì xảy ra. Là người sinh sau đẻ muộn, tôi nghe và tìm hiểu những gì đã xảy ra trước khi tôi ra đời cũng như hiểu được những gì của thời bây giờ. Tôi tích góp, xâu chuỗi lại, và kể thành một câu chuyện dài rằng qua nửa đời người, quê hương tôi đã trải quá nhiều cay đắng, nghiệt ngã mà giờ đây lại đứng trước họa ngoại xâm như vậy có đáng hay không?
Trà Mi: Là ‘người sinh sau đẻ muộn’ thuộc thế hệ trẻ, từ bao giờ anh bắt đầu ‘Xót dạ nhìn đời’?
Việt Khang: Cuộc sống của tôi rày đây mai đó đi ca hát. Tôi nhìn thấy những đứa bé bán vé số hoặc nhiều hoàn cảnh tương tự, mình xót xa chứ. Mình thương mà mình không làm gì được cho người ta, xót xa lắm.
Trà Mi: Vẫn lời bài hát của anh, ‘Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam ngã nghiêng’, những tiếng nói ‘không thể ngồi yên’ như thế lần lượt bị tù, vậy tuổi trẻ Việt Nam có thể làm gì để Việt Nam không bị ‘ngã nghiêng’?
Việt Khang: Thì trước mắt phải có hy sinh, phải giống như tôi như thế này, nhưng tôi không muốn có ai phải trải qua những khó khăn như tôi. Tôi muốn những tấm chân tình yêu thương đất nước, yêu thương con người Việt Nam sẽ được yêu thương một cách công khai, chân thành, thật nhất mà không bị gì cả. Tôi hy vọng đất nước của mình ngày càng thay đổi tốt đẹp hơn, sánh vai với các nước tự do-dân chủ.
Trà Mi: Kêu gọi đáp lời sông núi bị đáp trả bằng án tù thì ai còn dám hưởng ứng lời kêu gọi đó? Nếu có ai đặt ra câu hỏi này, anh phản hồi thế nào?
Việt Khang: Không có cuộc đấu tranh nào mà không có hy sinh, mất mát. Nó buộc phải như vậy.
Trà Mi: Nhưng nếu ‘Xót dạ nhìn đời’ để cuối cùng xót dạ nhìn bản thân bị tù tội, giới trẻ Việt Nam thao thức không biết nên hay chăng?
Việt Khang: Mình nói sự thật. Cái cần nói mình phải nói thôi. Tôi hy vọng tương lai sắp tới, đất nước mình sẽ được bình yên, không phải bị đau thương mất mát gì nữa, không phải trải qua một cuộc chiến nào nữa. Tôi mong đất nước tốt đẹp hơn để khắp nơi kéo về cùng xây dựng một quê hương tự do, thanh bình , dân chủ, ấm no, hạnh phúc với tất cả mọi người. Nhân đây, tôi xin cảm ơn tất cả quý vị luôn nghĩ về tôi. Xin tri ân tất cả. Tôi cầu mong Chúa sẽ ban ơn lành, an vui hạnh phúc cho tất cả, đặc biệt trong mùa Giáng sinh sắp tới.
Trà Mi: Cảm ơn anh rất nhiều vì thời gian dành cho cuộc trao đổi này.
NGUYỄN GIA KIỂNG: CHÍNH HỌ PHẢI KHIÊM TỐN! CHÚNG TA ĐÚNG VÀ MẠNH, HỌ SAI VÀ YẾU
Nguyễn Gia Kiểng
Tặng Nguyễn Văn Đài
Thế giới vừa kỷ niệm 67 năm ngày công bố bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập.Đây là dịp để chúng ta nhìn lại cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, nhất là vào lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đang lúng túng chuẩn bị đại hội đảng. Tại sao chúng ta đã không đạt được kết quả mong muốn?
Lý do chính là vì chúng ta chưa hiểu rõ ý nghĩa của những giá trị dân chủ và nhân quyền nói riêng và sức mạnh của tư tưởng chính trị nói chung. Cái đúng, cái phải có sức mạnh vô địch, với điều kiện là được hiểu thật thấu đáo.
Nhìn lại một biến cố lịch sử và một cuộc cách mạng tư tưởng lớn
Hoàn cảnh ra đời của Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập -mà cho đến nay nhiều người vẫn gọi là “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền”- đặc biệt đáng chú ý. Đó là một khúc quanh lịch sử chứa đựng nhiều bài học quí báu. Tháng 4-1945, vào lúc Thế Chiến II sắp chấm dứt, đại diện của năm mươi quốc gia họp tại San Francisco để soạn thảo hiến chương cho một định chế quốc tế mới, sau này được gọi là Liên Hiệp Quốc, để thay thế cho Hội Quốc Liên đã bất lực trong việc ngăn ngừa Thế Chiến II. Mục đích đặt ra lúc đó cho Liên Hiệp Quốc chỉ là để tránh một cuộc thế chiến mới, để cuộc chiến tranh lạnh đã ló dạng giữa hai khối tư bản và cộng sản không biến thành chiến tranh nóng. Vấn đề nhân quyền không đặt ra.
Chính trong khi thảo luận, nhờ những đóng góp của một số trí thức qui tụ trong 42 tổ chức phi chính phủ (NGO) được mời đến với tư cách tham vấn mà người ta đã khám phá ra rằng nguyên nhân chính của chiến tranh là thế giới đã chỉ biết đến các quốc gia mà không biết đến con người. Chính sự coi thường con người đã khiến các chính quyền hy sinh tính mạng của các công dân của mình để gây chiến giết người dân những nước khác. Muốn tránh chiến tranh thì phải thay đổi hẳn tư tưởng chính trị, đặt con người lên trên nhà nước.
Đó là một cuộc cách mạng tư tưởng rất lớn. Cho tới lúc đó các quốc gia có toàn quyền sinh sát trên các công dân của mình. Một chính quyền chỉ bị phản đối nếu giết hoặc đầy đọa người ngoại quốc, vì như thế là xâm phạm tài sản của một nước khác. Con người chỉ là một chi tiết thuộc quyền sở hữu của một nhà nước. Lúc đó, hơn một thế kỷ sau khi làn sóng dân chủ thứ nhất đã bác bỏ chủ nghĩa thần quyền và đánh đổ các chế độ quân chủ thần quyền mạnh nhất, chủ nghĩa thời thượng là chủ nghĩa quốc gia cùng với, từ sau Thế Chiến I, đối thủ nhưng đồng thời cũng là anh em họ của nó là chủ nghĩa cộng sản. Triết gia có ảnh hưởng nhất về chính trị và lịch sử là Hegel. Lý thuyết biện chứng của ông cho rằng các nhà nước là thiêng liêng và sự xung đột giữa các quốc gia là đương nhiên theo sự chỉ đạo của một Ý Chí Tuyệt Đối không khác gì một Thượng Đế. Các quốc gia đương nhiên phải thôn tính lẫn nhau vì quốc gia nào cũng phải mở mang bờ cõi và bành trướng thế lực. Theo Hegel những cuộc chiến này dần dần sẽ khiến thế giới thống nhất trong những điều kiện hợp lý nhất. Đệ tử chối thày của Hegel là Karl Marx ôm toàn bộ lý thuyết biện chứng của ông, chỉ thay các quốc gia bằng các giai cấp. Đối với Marx sự xung đột giữa các giai cấp cũng là lẽ dĩ nhiên vì con người chỉ là thành phần của một giai cấp và phải đấu tranh cho giai cấp của mình. Cả hai chủ nghĩa tập thể này đều không nhìn nhận chỗ đứng của cá nhân. Chiến tranh giữa các nước đã liên tục xảy ra trong những tiếng hô “tổ quốc trên hết!” và dẫn tới Thế Chiến I. Tuy vậy các chính trị gia vẫn chưa hiểu và Thế Chiến II đã bùng nổ chỉ 21 năm sau khi Thế Chiến I chấm dứt. Thế Chiến II chưa thực sự chấm dứt thì nguy cơ một thế chiến mới đã xuất hiện, lần này giữa hai khối tư bản và cộng sản. Khả năng nổ ra thế chiến rất lớn vì phong trào cộng sản chủ trương xóa bỏ giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bằng bạo lực. Chính sự sáng suốt của các nhà tư tưởng chứ không phải của các chính quyền đã giúp thế giới không bị hủy diệt vì chiến tranh nguyên tử. Họ đã nhìn thấy là hòa bình bền vững chỉ có thể có nếu con người được coi là giá trị cao nhất và được dành những quyền không thể xâm phạm. Con người mà họ đề cao không phải là một ông A hay một bà B cụ thể nào mà là một con người phổ cập xuất phát từ niềm tin rằng mọi con người không phân biệt màu da, chủng tộc và văn hóa đều có những khả năng bẩm sinh tương đương, đều có những ước vọng như nhau và đều chia sẻ một số giá trị chung. Con người phổ cập đó tuy trừu tượng vì không là một ai cả nhưng lại hiện diện một cách cụ thể trong tất cả mọi người và là cốt lõi của triết lý chính trị được gọi là chủ nghĩa cá nhân (*). Con người đó phải được tôn trọng, và vì nó hiện diện trong mọi người nên mọi người phải được tôn trọng.
Ý thức về quyền con người và -chủ nghĩa cá nhân- đã xuất hiện từ thế kỷ 17 nhưng chỉ được thể hiện trong sinh hoạt chính trị tại Mỹ và một cách rất hạn chế tại một số nước Châu Âu từ cuối thế kỷ 18. Chủ nghĩa áp đảo vẫn là chủ nghĩa quốc gia, và đó đã là nguyên nhân của hai cuộc thế chiến.
Lý do khiến khái niệm quyền con người không dành được thế áp đảo là vì những người tranh đấu cho nó đã thiếu lòng tin, đã không dám khẳng định rằng con người chứ không phải tổ quốc mới là giá trị cao nhất. Chỉ sau khi hàng trăm triệu người đã chết sau những cuộc chiến tranh thảm khốc, nhất là hai cuộc thế chiến, họ mới thực sự hiểu và tin rằng nhân quyền phải được coi là nền tảng bắt buộc của chính trị và mới phấn đấu cho nó một cách thuyết phục và hiệu quả, với tất cả quyết tâm.
Và họ đã thắng. Dù không có vũ khí nào ngoài một lý tưởng đúng các tổ chức nhân quyền đã thuyết phục được đại biểu các quốc gia đưa quyền con người vào ngay lời nói đầu và nhiều điều khoản khác của hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ba năm sau Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập được đại hội đồng Liên Hiệp Quốc biểu quyết thông qua tại Paris ngày 10-12-1948. Cố gắng đã rất khó khăn nhưng thắng lợi đã rất vẻ vang. Nhiều chính quyền, nhất là Liên Xô và các nước cộng sản, đã phản bác quyết liệt, coi Tuyên Ngôn này là một can thiệp không chấp nhận được vào chủ quyền quốc gia. 168 yêu cầu tu chỉnh đã được đưa ra trong 81 buổi họp. Nhưng cuối cùng Tuyên Ngôn đã được thông qua gần như với văn bản lúc ban đầu với 48 phiếu thuận và không một phiếu chống nào. Liên Xô và các nước chống đối đã chỉ vắng mặt chứ không dám chống lại. Điều cần được đặc lưu ý là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập này về nội dung là một tuyên ngôn dân chủ và chống chủ nghĩa cộng sản một cách dứt khoát bởi vì nó khẳng định những quyền tự do được dùng làm tiêu chuẩn để định nghĩa một chế độ dân chủ. Réné Cassin đại diện của Pháp trong ủy ban soạn thảo được coi là người chấp bút tuyên ngôn. Sau này ông được giải Nobel về hòa bình và giải nhân quyền LHQ năm 1968.
Hai công ước đính kèm, Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị (Công ước DSCT) và Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa (Công ước KTXHVH) đã đòi hỏi thời gian và những cố gắng lớn hơn nhiều vì gặp sự chống đối của rất nhiều chính quyền vì những lý do khác nhau, kể cả hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. Thêm vào đó thủ tục cũng phức tạp hơn: sau khi đại hội đồng LHQ đã biểu quyết, sự cam kết của mỗi nước lại còn phải qua hai giai đoạn, chính phủ ký và sau đó quốc hội biểu quyết thông qua.
Hoa Kỳ tuyên bố không chống nhưng cũng sẽ không ký ngay từ năm 1953 và đến năm 1977 mới ký nhưng cũng chỉ thông qua năm 1992, còn Liên Xô thì chống đối mạnh mẽ rồi mới ký nhưng lại loại trừ những điều cơ bản nhất nên cũng như không ký cho đến khi tan vỡ. Trung Quốc chỉ ký năm 1998 nhưng vẫn chưa thông qua.
Tuy vậy hai công ước vẫn được đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua mà không bị một phiếu chống nào năm 1966 và có giá trị luật pháp quốc tế kể từ 1976 sau khi đã hội đủ số nước ký nhận và thông qua. Nhân quyền đã thắng.
Chỉ cần hành động?
Tại sao những người tranh đấu cho nhân quyền đã thành công trong hai mươi năm điều mà các thế hệ đàn anh của họ đã không làm được trong gần ba thế kỷ?
Dĩ nhiên là thời gian đã làm công việc của nó và hàng trăm triệu người chết oan đã làm thế giới thức tỉnh nhưng lý do chính là những người đấu tranh cho nhân quyền -cũng là đấu tranh cho dân chủ như ta sẽ thấy- đã hiểu rõ hơn họ đang đấu tranh cho cái gì; nhờ vậy họ đã có quyết tâm và phương pháp và đã đấu tranh một cách thuyết phục và hiệu quả. Có một khác biệt rất lớn giữa những người đấu tranh với sự hiểu biết thấu đáo và những người chỉ đấu tranh với nhiệt tình, vì rất khó để thuyết phục và động viên những người khác hưởng ứng một lý tưởng mà chính mình cũng không hiểu rõ.
Tư tưởng và kiến thức chính trị cần thiết bao nhiêu thì sự thiếu vắng của chúng cũng tai hại bấy nhiêu. Điều này đáng lẽ người Việt Nam, nhất là trí thức, phải rất thấm thía.
Nếu có tư tưởng chính trị thì vào năm 1945 đảng được những người yêu nước ủng hộ nhất đã không thể là Đảng Cộng Sản, một đảng mà mục tiêu sau cùng là xóa bỏ các quốc gia, nhưng thực tế là nhiều cán bộ cộng sản lão thành vẫn hãnh diện nói rằng mình đã theo Đảng vì lòng yêu nước.
Nếu có kiến thức chính trị thì chúng ta đã phải hiểu rằng sau Thế Chiến II, với hiến chương LHQ và Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, kỷ nguyên thực dân đã chấm dứt, độc lập chỉ còn là vấn đề thời gian và thủ tục và cuộc đấu tranh giành độc lập không cần một cuộc chiến đẫm máu; độc lập chỉ là một chiêu bài cho một cuộc nội chiến mà mục tiêu là để áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin.
Nếu có kiến thức chính trị thì trí thức Việt Nam đã phải hiểu rằng Hoa Kỳ hoàn toàn không phải là một nước thực dân và khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” như là một chiêu bài bịp bợm để “đánh cho Trung Quốc, cho Liên Xô” như lời Lê Duẩn.
Và người ta cũng đã không tưng bừng reo hò “Chủ Nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm!” ngày 30-4-1975 để rồi 15 năm sau nhìn nó sụp đổ. Vả lại chủ nghĩa Marx đã bị từ bỏ trên chính quê hương của nó từ một thế kỷ trước, năm 1875, tại đại hội Gotha. Nếu có một chút kiến thức chính trị chắc chắn ông Hồ Chí Minh đã không sung sướng đến nỗi gần như mê sảng khi được đọc luận cương cộng sản như chính lời ông thuật lại rồi đem nó vào Việt Nam.
Nếu có tư tưởng và kiến thức chính trị thì chúng ta đã tránh được cuộc nội chiến 30 năm làm đất nước tan tành và sáu triệu người chết oan, và ngày nay nước ta đã có thể có một mức phát triển tương đương với Hàn Quốc và Đài Loan.
Nếu có một kết luận mà chúng ta phải rút ra một cách dứt khoát thì đó là phải bỏ sai lầm cho rằng chỉ cần hành động mà không cần lý thuyết, chỉ cần làm chứ không cần nói. Chúng ta cần học hỏi tư tưởng và kiến thức chính trị. Chúng ta cũng cần thảo luận để trao đổi các ý kiến và hiểu nhau.
Trước mắt, nhân dịp kỷ niệm 67 năm Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập chúng ta cần nắm vững hai điều cơ bản nhất.
Một là, không thể phân biệt nhân quyền và dân chủ. Một chế độ được coi là dân chủ khi tôn trọng ít nhất ba quyền tự do cơ bản: tự do ngôn luận và báo chí; tự do kết hợp, nghĩa là tự do thành lập hoặc tham gia các tổ chức; tự do bầu cử và ứng cử. Cả ba quyền này đều được khẳng định -cùng với nhiều quyền khác- trong cả Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập (các điều 19, 20, 21) lẫn Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị (các điều 18, 19, 22, 25). Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập như vậy cũng là tuyên ngôn dân chủ. Dân chủ và nhân quyền chỉ là một, chỉ là cùng một khái niệm được thể hiện trên hai qui mô khác nhau. Dân chủ là nhân quyền trên qui mô quốc gia, nhân quyền là dân chủ trên qui mô cá nhân. Cũng đừng phân biệt đấu tranh cho nhân quyền và đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh cho nhân quyền trên thực tế đã là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất trong lịch sử thế giới.
Hai là, nhân quyền ngày nay đã trở thành luật. Ba văn kiện gồm Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa đã được nhìn nhận là có giá trị của một bộ Luật Nhân Quyền Quốc Tế (The International Bill of Human Rights). Các chính quyền vi phạm nhân quyền là những chính quyền phạm pháp.
Đừng lẫn lộn chịu đựng với công nhận
Vậy người Việt Nam chúng ta phải có thái độ nào với Đảng Cộng Sản?
Đây là một câu hỏi nền tảng nhưng cũng đặc biệt có giá trị thời sự vào lúc này, khi chúng ta vừa kỷ niệm Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và Đảng Cộng Sản đang chuẩn bị đại hội 12.
Đảng Cộng Sản đã vi phạm nghiêm trọng và trắng trợn những quyền con người đã được qui định rõ ràng trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm. Không thể kể hết những vi phạm của họ, trong nhiều trường hợp cũng đồng thời là những tội ác lớn đối với loài người. Họ cũng đang vi phạm nhân quyền và đang chuẩn bị nhiều vi phạm khác. Vừa qua bộ trưởng công an Trần Đại Quang tiết lộ chính quyền cộng sản đã bắt hơn 2000 người trong ba năm qua và đang nhắm 350 người khác trong các tổ chức xã hội dân sự. Những người này có tội gì? Đây là một hành vi bắt người và giam giữ trái phép trên qui mô lớn vi phạm nghiêm trọng các điều 9 và 10 của Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và các điều 9 và 14 của Công Ước DSCT. Chế độ này là một chế độ bất hợp pháp. Không những thế nó còn đánh chết nhiều người trong đồn công an và cho công an giả dạng côn đồ hành hung những người đối lập, vừa vi phạm nghiêm trọng Luật Nhân Quyền Quốc Tế vừa phơi bày bản chất đạo tặc.
Hiến pháp của chế độ dành độc quyền chính trị cho Đảng Cộng Sản và coi các lực lương vũ trang, quân đội cũng như công an, là dụng cụ thống trị của đảng. Trên thực tế các cấp quân đội và công an từ hạ sỹ quan trở lên đều phải là đảng viên cộng sản. Đây không phải chỉ là một vi phạm đối với các điều cấm phân biệt đối xử trong bộ Luật Nhân Quyền Quốc Tế mà còn xác nhận một sư kiện khác: Đảng Cộng Sản cư xử như một lực lượng chiếm đóng. Dân tộc ta đã từng không may bị ngoại thuộc nhưng ngay cả những lực lượng chiếm đóng nước ngoài cũng không thô bạo đến như thế. Ngay trong thời Pháp thuộc cũng có những người Việt Nam làm đến cấp bậc sĩ quan. Chúng ta không thể nhìn nhận hiến pháp này. Hiến pháp là luật căn bản và luật chỉ là luật nếu vừa đúng vừa chính đáng. Hiến pháp này không đúng bởi vì nó ngang ngược, quá ngang ngược. Nó cũng không chính đáng bởi vì không do những đại diện do người dân chọn lựa bằng bầu cử tự do.
Đảng Cộng Sản ngụy biện rằng đã qui định như thế nhân danh nhân dân Việt Nam mà họ là đại điện chân chính. Họ không đại diên cho nhân dân Việt Nam nhưng ngay cả một chính quyền thực sự chính đáng cũng không thể cướp đoạt những quyền con người cơ bản vì đó là những quyền không thể chuyển nhượng.
Như vậy thái độ đúng là nhìn Đảng Cộng Sản như một tổ chức tội phạm và lực lượng chiếm đóng chứ không phải như một đảng cầm quyền bình thường có một số sai lầm cần được phê phán để sửa sai. Chúng ta bác bỏ bao lực và hận thù nên chấp nhận tạm thời chịu đựng chế độ này để tiếp tục đấu tranh tiến tới một chế độ khác chứ chúng ta không nhìn nhận nó. Đừng lẫn lộn chịu đựng với nhìn nhận, ôn hòa với khiếp nhược, bao dung với quỵ luỵ.
Chúng ta ôn hòa và bao dung, chúng ta muốn hòa giải và hòa hợp dân tộc. Chúng không mong điều gì xấu cho những người lãnh đạo cộng sản, kể cả những người lãnh đạo cao nhất, nhưng thái độ thiện chí đó không cho phép chúng ta phủ nhận sự thực. Chúng ta vẫn phải nói thẳng với họ là họ sai, họ không có quyền làm những điều họ đã làm, còn đang làm và đang có ý định làm. Chúng ta có quyền và chúng ta đòi chứ không xin. Họ cư xử như một lực lượng chiếm đóng và chúng ta phải nói ra vì đó là sự thực. Chúng ta muốn đối thoại hòa nhã với họ để tìm một lộ trình dân chủ hóa đất nước trong tình tự dân tộc nhưng chúng ta vẫn phải nói thực. Không có gì cho phép chúng ta nói sai sự thực cả. Socrates từng nói sự thực cao hơn cả Thượng Đế và ngay cả Thượng Đế nếu không đúng cũng không đáng tôn trọng.
Chính họ phải khiêm tốn
Thái độ nhận nhượng quá đáng thể hiện trong những yêu cầu và kiến nghị gửi Đảng Cộng Sản trước mỗi đại hội đảng -cũng may ngày càng ít- có lẽ đến từ hai nguyên nhân cần được nhận diện.
Nguyên nhân thứ nhất là một sự hiểu biết thiếu hụt về khái niệm quyền.
Quyền thuộc về luật và vì thế nó phải thẳng thắn, nó không thể chấp nhận thỏa hiệp trên những điểm cơ bản, nếu không nó không còn là quyền.
Quyền luôn luôn đối nghịch với thực tại bởi vì người ta viện dẫn quyền để phản đối một thực tại vô lý. Vì thế nhân danh thực tại để hy sinh quyền là một thái độ đầu hàng hèn nhát; quyền đòi hỏi nhìn thực tại với con mắt của con người chứ không chấp nhận để nhìn con người từ thực tại; sự phản kháng là cốt lõi của quyền.
Quyền cũng không thể chấp nhận sự vô lý; nó là thành quả của trí tuệ và nó không thể tách ra khỏi sự hợp lý vì trí tuệ là nền tảng chính đáng của nó.
Những gì đúng với khái niệm quyền lại càng đúng với quyền con người bởi vì đó là những quyền bắt buộc nhất. Người ta đòi quyền chứ không xin. Trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền, cũng là tranh đấu cho dân chủ, lập trường đúng nhất là không nhân nhượng.
Nguyên nhân thứ hai là một đánh giá sai lầm về tương quan lực lượng khiến người ta bi quan nghĩ rằng chính quyền này dù sai nhưng quá mạnh nên dù muốn hay không cũng chỉ có quan hệ xin-cho. Sai lầm lớn.
Khi Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập được biểu quyết, mặc dù sự kiện này tự nó đã là một thắng lợi lớn, nhiều người vẫn nghĩ nó chỉ là một tuyên ngôn nguyên tắc không thay đổi được thực tế. Ngay cả khi hai công ước được biểu quyết và bộ Luật Nhân Quyền Quốc Tế thành hình vẫn còn nhiều người nghĩ đó chỉ là một luật mà nếu không tuân hành cũng không sao bởi vì thiếu những biện pháp chế tài vi phạm. Và trên thực tế đã có vô số vi phạm, kể cả những vi phạm rất kinh khủng. Tuy nhiên những người bi quan đã không nắm bắt được một thay đổi quan trọng. Đó là từ nay đã có luật và những kẻ vi phạm được nhận diện và bị buộc tội chứ không thể hiên ngang như trước. Và luật đúng có sức mạnh của nó, đủ để đánh bại những kẻ chống lại nó. Liên Xô và các chế độ cộng sản Đông Âu đã sụp đổ, như các chế độ độc tài tại Châu Mỹ La Tinh, rồi gần đây tại Trung Đông. Chỉ trong một tháng qua đã có ba tin mừng: Myanma đã chuyển hóa về dân chủ, các lực lượng dân chủ đã thắng tại Venezuela, chế độ thần quyền khắc nghiệt nhất thế giới -Ả Rập Saudi- đã phải chấp nhận cho phụ nữ tham gia bầu cử và ứng cử. Làn sóng dân chủ thứ tư đang gia tăng cường độ và vận tốc. Gọng kìm đang xiết lại trên các chế độ độc tài còn lại. Chúng đang sống những ngày quằn quại cuối cùng. Riêng chế độ cộng sản Việt Nam còn đặc biệt khốn đốn vì phân hóa nội bộ nghiêm trọng và vì sự phẫn nộ ngày càng công khai của nhân dân. Đã thế còn đang đứng trước nguy cơ vỡ nợ, hậu quả của bất tài và tham nhũng.
Chúng ta, những người dân chủ, không chỉ đúng mà còn đang ở trong thế mạnh. Họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản, không chỉ sai mà còn đang ở trong thế nguy. Chúng ta vẫn ôn hòa và khiêm tốn vì đó là thái độ đúng. Nhưng chính họ còn phải khiêm tốn hơn.
Xin kết thúc bài này bằng một đề nghị nhỏ. Cho tới nay chúng ta vẫn có thói quen gọi bản tuyên ngôn nhân quyền 10/12/1948, tiếng Mỹ là The Universal Declaration of Human Rights, là bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền”, nhưng dịch như vậy là sai vì từ universal có nghĩa là phổ cập, nghĩa là đúng và phải được tôn trọng trên khắp thế giới, chứ không phải là quốc tế, nghĩa là thuộc về quan hệ giữa các quốc gia. Trong một số trường hợp hai từ phổ cập và quốc tế có nghĩa gần giống nhau nhưng trong trường hợp này sự lẫn lộn là một sai lầm lớn vì tinh thần của bản tuyên ngôn nhân quyền này chính là để khẳng định rằng nhân quyền không phải là một vấn đề quốc tế, nghĩa giữa các quốc gia với nhau, và mỗi chính quyền có thể hiểu một cách. Trái lại nhân quyền là những quyền phổ cập mà mọi nước, mọi người đều phải hiểu và tôn trọng như nhau. Vậy từ nay chúng ta nên gọi tài liệu lịch sử quan trọng này một cách chính xác là Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập.