Bao nhiêu lính VN thiệt mạng ở Campuchia?

 Tròn 25 năm Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, hiện vẫn chưa có con số thống kê thống nhất về số lượng binh lính Việt Nam thiệt mạng và thương vong ở đất nước Chùa Tháp.

Trao đổi với BBC trong cuộc tọa đàm hôm 25/9/2014, Đại tá Phạm Hữu Thắng, chuyên gia về Campuchia thuộc Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam đưa ra con số binh sỹ Việt Nam thiệt mạng là gần bốn chục ngàn người.

Tuy nhiên, theo số liệu mà một cựu chuyên viên tổ nghiên cứu về Campuchia của Bộ Ngoại giao Việt Nam đưa ra con số tử vong có thể lên tới năm chục ngàn, hoặc thậm chí cao hơn nữa.

“Trong tay tôi có con số thống kê của ngành Quân y, Tổng cục Hậu cần, số thương vong trong mười năm, cả bị thương và hy sinh là hơn 156.000.

“Trong đó, hy sinh gần 39.000. Đây là số liệu của ngành Quân y, của Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam”, Đại tá Thắng nói với BBC.

Từ Paris, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huy đưa ra một số liệu khác.

Ông nói: “Những con số đưa ra hiện nay cũng chưa chính xác lắm… Nhưng người ta nói khoảng 55.000 binh sỹ, tức là bộ đội cộng với thanh niên xung phong Việt Nam đã hy sinh trên chiến trường Campuchia thời gian đó.”

Theo ông Huy, năm 1979, khi Việt Nam bắt đầu phát động phong trào đưa các lực lượng sang Campuchia, nhiều thanh niên Việt Nam được vận động sang quốc gia láng giềng để dọn dẹp chiến trường.

Tiến sỹ Huy nói: “Thanh niên Việt Nam được vận động trong những đội thanh niên xung phong để qua đó dọn chiến trường và đồng thời để chuẩn bị cơ sở khi bộ đội tiến quân, thì họ đi sau lưng để dọn chiến trường.

“Tôi thấy số người chết năm 1979 không biết là bao nhiêu, nhưng trong suốt mười năm, tôi nghĩ con số khoảng 55 ngàn người.”

‘Tài liệu mật’

cc1Hơn 39.000 binh lính VN đã thiệt mạng trong khoảng mười năm can thiệp ở Campuchia.

Là người từng tham gia theo dõi cuộc chiến Việt Nam ở Campuchia từ Bộ Ngoại giao, như tự giới thiệu, ông Đặng Xương Hùng, cựu Phó Vụ trưởng Bộ Ngoại giao và Lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ, cho biết thêm thông tin về con số thương vong này.

“Tôi cũng là người theo dõi Campuchia và theo dõi cuộc chiến Việt Nam ở Campuchia, qua tài liệu của Bộ Ngoại giao, chắc cũng của và thông qua Bộ Quốc phòng (Việt Nam), đây là những tài liệu mật mà tôi cũng chỉ tham khảo, đọc qua một vài lần gì đó,

“Thì con số đó là 100.000, mười vạn, quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh tại Campuchia đã hy sinh trong 13 năm có mặt ở Campuchia”, ông Hùng nói:

Bình luận về ý nghĩa và những con số thương vong này, Tiến sỹ Tạ Văn Tài, cựu giảng viên luật học Đại học Havard từ Hoa Kỳ nói:

“Ngoại trưởng (Việt Nam) Nguyễn Cơ Thạch đã nói một câu rất chí lý là vì vấn đề thương vong đó, cho nên từ nay không bao giờ Việt Nam gửi quân đội ra hải ngoại đấu tranh nữa.

“Đó là kết luận rất lý chí và điểm đó cũng rất đúng với chiến trường của các nước khác khi mà ở lại quá mức cần thiết. Ví dụ như là Hoa Kỳ ở lại Trung Đông bây giờ.”

Theo chuyên gia về luật học này, bài học rút ra là phải biết cách ‘thoát ra khỏi’ một cuộc chiến tranh ra sao.

Ông Tài nói: “Nguyên tắc căn bản là đã vô chiến tranh, thì phải có một lối ra, phải có một ‘exit’, một tư duy ‘exit’ thì mới được.”

‘Biết ơn’

cc2Campuchia ngày nay có nhiều đảng phải chính trị cạnh tranh nhau về đường lối và quyền lực.

Nhìn lại sự kiện diễn ra 25 năm về trước, cũng như đánh giá ý nghĩa cuộc can thiệp quân sự của quân đội Việt Nam, vốn dẫn đến sự sụp đổ của chế độ diệt chủng Khmer Đỏ từ năm 1979 ở Campuchia, nhân dịp này, Tiến sỹ Vannarith Chheang, nhà nghiên cứu người Campuchia từ Đại học Leeds, Anh quốc nói:

“Về vấn đề nhân đạo, tôi nghĩ người Campuchia, phần lớn người Campuchia biết ơn đối với sự hy sinh của quân đội nhân dân Việt Nam là giải phóng người Campuchia.”

Tuy nhiên, vẫn theo chuyên gia đang nghiên cứu tại Trung tâm Hòa bình và Hợp tác này, tình hình chính trị ở Campuchia và nhận thức của các đảng phái ở Campuchia hiện nay cũng có sự không thống nhất về hành động can thiệp quân sự của quân đội Việt Nam trước đây.

“Ở Campuchia cũng có nhiều vấn đề vì nhiều đảng phái, phe phái chính trị khác nhau, như vậy cũng có một nhóm người phản đối việc Việt Nam giải phóng Campuchia và gọi đó là việc xâm lược của Việt Nam đối với đất nước Campuchia”, Tiến sỹ Vanarith Chheang nói thêm.

Là một phóng viên theo các chuyển biến gần đây trong quan hệ Campuchia – Việt Nam, phóng viên Hồng Nga của BBC tiếng Việt chia sẻ thêm với tọa đàm.

“Đối với một bộ phận những người đã tìm hiểu lịch sử, hay những người đã sống trong thời kỳ Khmer Đỏ chẳng hạn, tôi nghĩ rằng chắc chắn họ vẫn có một sự hàm ơn đối với quân đội Việt Nam, bởi vì đã đặt dấu chấm hết cho một thể chế vô cùng tàn bạo như vậy. Thế nhưng đối với giới trẻ có một sự quan ngại, bởi vì họ không biết được về lịch sử của nước họ.

“Nó cũng giống như giới trẻ ở bất cứ đất nước nào, không riêng gì ở Việt Nam chẳng hạn, thì họ không nắm được những gì đã xảy ra. Và tinh thân bài Việt Nam thật sự gây lo ngại trong lúc này. Khi tôi nói chuyện với một số thanh niên, thì cảm thấy rằng thứ nhất họ không biết gì về lịch sử, và thứ hai là họ có một cái nhìn khá phiến diện đối với sự tham gia của Việt Nam trong vòng mười năm, trong một thập niên như vậy ở đất nước Campuchia.”

Tự mâu thuẫn?

cc3Liên Hợp Quốc từng cho phép chính quyền Khmer Đỏ sau khi bị sụp đổ được giữ ghế ở LHQ.

Liên Hợp quốc ngày nay không chỉ lên án chế độ diệt chủng của Khmer Đỏ, mà còn đem ra xét xử nhiều thành viên của chính quyền này về các tội ác chống nhân loại.

Khi được hỏi, liệu LHQ có tự mâu thuẫn gì hay không khi cũng chính chế độ này mấy chục năm về trước lại được LHQ công nhận cho giữ một chiếc ghế đại diện ở quốc tế, Tiến sỹ Vannarith Chheang nêu quan điểm:

“Khi đó thời gian đang là chiến tranh lạnh, như vậy vấn đề LHQ chấp nhận chiếc ghế của Khmer Đỏ cũng phản ánh chính sách của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ cùng các nước phương Tây khác và cả Trung Quốc nữa, cũng ủng hộ Khmer Đỏ, để làm thế nào không cho ảnh hưởng của Việt Nam lan truyền hiệu ứng Domino (domino effects) ở trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ở Đông Dương. Như vậy đó là vấn đề chính trị và trong thời gian chiến tranh lạnh.”

Từ Paris, Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy bình luận thêm:

“Từ sau năm 1975, chính quyền cộng sản miền Bắc đã tiến chiếm miền Nam, đã gây ra một phong trào thuyền nhân rất vĩ đại. Chính vì vậy, cái nhìn của thế giới đối với chế độ, chính quyền Việt Nam lúc đó rất là xấu, mặc dù Việt Nam đã đưa quân qua, sang Campuchia để giải phóng dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng.

“Nhưng mà hình ảnh Việt Nam, một quốc gia xua đuổi người ra biển một cách khủng khiếp như vậy, thành ra người ta có một cái nhìn xấu. Như vậy, mặc dù Việt Nam đã đuổi chế độ diệt chủng Pol Pot ra khỏi biên giới, nhưng thế giới vẫn không có một cái nhìn thiện cảm với Việt Nam, mà nghĩ Việt Nam là một quốc gia xâm lăng…

“Thành ra tôi thấy vấn đề này hết sức tế nhị, vấn đề hoàn toàn là chính trị, chứ không liên quan gì đến nhân đạo hết. Thành ra tôi nghĩ rằng nếu trở lại vấn đề này, phải nhìn lại vấn đề khách quan thời đó là nước Việt Nam dưới con mắt của thế giới rất là xấu, người ta nhìn Việt Nam như một quốc gia không tôn trọng nhân quyền cũng như là sự bình yên của miền Nam thời đó.”

‘Con bài mặc cả’

cc4Trung Quốc không ủng hộ nhiều cho phiên tòa xét xử Khmer Đỏ, theo nhà nghiên cứu người Campuchia.

Trung Quốc được cho là quốc gia đã từng ủng hộ, hậu thuẫn chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ mạnh mẽ nhất từ khi lực lượng này nắm quyền ở Campuchia năm 1975 cho tới năm 1979, và Bắc Kinh cũng tiếp tục ủng hộ Khmer Đỏ sau khi chính quyền này sụp đổ, tan rã.

Được hỏi liệu ngoài những nguyên nhân chính trị ra, liệu Trung Quốc có gặp vấn đề gì về mặt ‘đạo lý’ ở đây hay không khi được cho là đã ‘tiếp tay’ cho Khmer Đỏ ‘diệt chủng’ và gây nhiều tội ác chống nhân loại ở Campuchia, Tiến sỹ Vannarith Chheang nói:

“Cũng có vấn đề đạo lý đối với Trung Quốc về vấn đề chế độ Khmer Đỏ và đặc biệt là Tòa án xét xử chế độ Khmer Đỏ hiện nay đang diễn ra ở Campuchia, thì phía Trung Quốc cũng không ủng hộ nhiều để đem lại vấn đề lịch sử, đặc biệt là sự liên kết của Trung Quốc trong việc ủng hộ Khmer Đỏ.”

Trở lại với việc quân đội Việt Nam rút khỏi Campuchia, khi được hỏi liệu quyết định này có liên quan thế nào đến sự kiện mang tên Hội nghị Thành đô, chỉ một năm sau đó, năm 1990 giữa lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc, ông Đặng Xương Hùng nêu quan điểm:

“Lúc đó, để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, chúng ta (Việt Nam) một mặt đã tuyên bố đơn phương rút quân, không kèm thêm điều kiện gì nữa, chúng ta đơn phương rút quân khỏi Campuchia, và rút quân hoàn toàn vào tháng 9/1989.

“Cùng lúc đó chúng ta đã sửa lại lời nói đầu của Hiến pháp, sửa lại Điều lệ Đảng, bỏ cái “Trung Quốc là kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp”. Tất cả những sự kiện như thế, để chuẩn bị cho vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc…

“Việt Nam muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mà Việt Nam chỉ có con bài lúc đó thế mạnh đó là vấn đề Campuchia, do đó việc đi đến thỏa thuận Thành Đô, là việc đi đến bình thường hóa quan hệ hai nước gắn chặt với việc giải quyết vấn đề Campuchia,” cựu quan chức Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC.

@bbc

Ông Jim Webb sẽ tranh cử Tổng thống Mỹ?

140924161328_jim_webb_and_his_wife_640x360_afp

Hai ông bà Jim Webb và Hong Le Webb

Cựu thượng nghị sỹ từ bang Virginia và cựu binh Mỹ từ cuộc chiến Việt Nam, ông Jim Webb, cho biết ông ‘xem xét nghiêm túc khả năng’ ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ.

Phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia (National Press Club) ở Washington hôm thứ Ba 23/9, ông nói ông “đã có nhiều cuộc thảo luận với những người ông kính trọng và tin tưởng” về chuyện có ra tranh cử từ cánh của Đảng Dân chủ hay không, theo CNN.

“Tôi đang xem xét nghiêm túc khả năng ra tranh cử tổng thống, nhưng chúng ta cần xem có đủ sự ủng hộ từ những người muốn ủng hộ chương trình mà chúng tôi theo đuổi.”

Khi được hỏi liệu ông sẽ ra tranh cử với tư cách độc lập hay từ phiếu của đảng Dân chủ, ông Jim Webb nói:

“Tôi là một người đảng Dân chủ và tôi có những lý do mạnh mẽ để là một người đảng Dân chủ.”

“Chúng tôi tin vào công bằng xã hội và muốn cho người dân có tiếng nói…những người chưa có tiếng nói. Tôi tin rằng đây là điều Đảng Dân chủ có thể đem lại cho họ.”

Ông Jim Webb rời Thượng viện sau nhiệm kỳ đầu tiên, kết thúc tháng 1/2013 và hồi đầu năm nay đã công bố cuốn sách mang tựa đề “I Heard My Country Calling”, tạm dịch là “Tôi nghe tiếng gọi của đất nước”, theo các báo Anh và Mỹ.

Quan tâm tới Việt Nam

140924160713_jim_webb_281x351_getty_nocreditÔng Jim Webb ngỏ ý muốn xem xét khả năng tranh cử tổng thống

Sinh năm 1946, ông từng phục vụ trong quân lực Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam và hiện có vợ là bà Hồng Lê, người gốc Việt.

Từng giữ chức Bộ trưởng Hải quân và Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, nay ông Webb lên tiếng về cuộc không kích mới nhất của Hoa Kỳ và các đồng minh đánh vào các địa điểm của Nhà nước Hồi giáo (IS) ở Syria và Iraq.

Theo trang báo tiếng Việt, tờ Việt Báo, ra ở Hoa Kỳ, “ông Webb, một đảng viên Dân Chủ, sẽ là một người thách thức hâp dẫn đối với một người có khả năng đại diện cho đảng Dân chủ ra tranh cử tổng thống năm 2016 là bà Hillary Clinton”.

Tuy thuộc đảng Dân chủ, ông Webb lên tiếng “đánh giá gay gắt về chính sách đối ngoại của chính phủ Obama”, theo tờ báo tiếng Việt từ Mỹ.

Hồi năm 2010, trả lời phỏng vấn BBC Tiếng Việt ông nói về các mối quan tâm tới Việt Nam, từ chủ quyền biển đảo của nước này, quan hệ Việt – Trung tới nhân quyền và vấn đề hậu chiến.

“Quan tâm chính của tôi ngay từ đầu là việc đối xử công bằng với tất cả mọi người, bất kể người đó đã từng đứng về phía bên nào, hay gia đình họ thuộc phía bên nào trong thời gian chiến tranh. Điều số một là đối xử với mọi người một cách công bằng.”

“Điều này đang diễn ra nhiều hơn, cách đây 20 năm thì đã không được như vậy. Trên phương diện các lĩnh vực khác thì tôi cho rằng chính phủ Việt Nam đã có những tiến bộ về tự do tôn giáo, mặc dù chưa phải là hoàn hảo, nhưng đã khá hơn rất nhiều so với trước đây,” ông nói.

@bbc

Lên tiếng thay cho một người không còn cơ hội lên tiếng: Bà Ngô Đình Nhu

Bà Trần Lệ Xuân

Nguyễn văn Lục

Bà Ngô Đình Nhu qua đời ngày 24-4-2011, tại Rome. Thế là kể như cả một thế hệ những người lãnh đạo miền Nam thời tuổi trẻ của tôi đã không còn nữa. Tính đến nay cái chết của bà thấm thoắt đã được hơn ba năm!!

Hôm nay, một lần nữa, xin lên tiếng như một tưởng niệm và nói thay cho một người đã làm thinh. Tôi là người ngay từ lúc 9, 10 tuổi đã đem lòng ái mộ ông Ngô Đình Nhu, phu quân của bà lúc ông còn hoạt động ở Bắc vào những năm 1950-1952. Tôi đã giáp mặt ông một số lần trong bộ đồ bốn túi với nụ cười nhếch mép. Anh cả tôi lúc bấy giờ cũng theo học những lớp về Xã Hội do ông tổ chức và giảng dạy. Làm sao tôi không quý mến ông được.

Sau này, thời thế thay đổi tôi và ông đều chọn ở miền Nam làm quê hương. Giã từ đất Bắc. Giã từ cộng sản. Ông là biểu tượng cho miền Nam chống lại ý thức hệ cộng sản. Tôi theo gót chân ông và tiếp tục con đường ông đã đi..

Vào miền Nam, tôi ngây thơ tưởng thế là tạm yên. Đất nước miền Nam đang đứng lên, đang xây dựng với niềm tin và hy vọng. Tôi lo học hành, lo chơi. Không ngờ, cộng sản lại lén lút đeo đuổi phá hoại xóm làng miền Nam chúng tôi một lần nữa.

Họ lại muốn giải phóng chúng tôi.

Lần này thì ông đóng vai một lãnh tụ giấu mặt. Chưa bao giờ thấy ông dùng công xa, có xe còi hụ chạy ngoài đường phố. Dân chùng nhiều người chưa biết mặt ông. Phải chăng đó là cái dở của ông. Nhưng lại một lần nữa, tôi lại có một số dịp gặp ông tham dự các buổi lể của Viện Đại học Đà Lạt trong vai trò cố vấn, còn tôi- với tư cách sinh viên viện đại học-. Đã đôi lần, tôi tính bạo dạn lên gặp ông để hỏi chuyện. Nhưng lần nào cũng vậy, buổi lễ gần xong là ông đã biến đi đằng nào rất nhanh. Chắc tính ông kín đáo, không thích gặp gỡ, nói chuyện la cà xã giao. Ông đến và đi kín đáo.

Nhưng tôi còn nhớ như in là ông thường đi một mình, không có bà Nhu bên cạnh. Việc công, việc tư, ông phân biệt rõ ràng. Chắc hẳn bà Nhu lúc ấy đang ngồi ở ngôi biệt thự ở Đà Lạt chơi với các con của bà. Mà nay thì tôi mới hiểu tại sao ông làm như vậy..Ông không thích đàn bà dính dáng vào chuyện chính trị của ông. Và nỗi khỗ của ông và bà cũng từ chỗ này, gây ra những tranh cãi, buồn phiền. Ông đi biền biệt, không biết đi đâu, gặp những ai, làm gì!! Phần bà thì muốn dính dáng vào nhiều truyện, cả truyện tư đến truyện đời công, truyện chính trị, chính em!! Bà sốc nổi, ông bình tĩnh. Bà thông minh, ông thâm trầm. Bà thích xuất hiện trước đám đông, ông tránh mặt. Thực sự nếu bà hiểu được bà đang nắm được một ưu vật hiếm có trong tay thì hai người hạnh phúc biết bao.

Đến khi tôi bắt đầu cầm bút thì ông đã không còn nữa. Bao nhiêu biến cố đau thương xã hội, chính trị bầy ra mỗi ngày, miền Nam như con tàu trôi nổi, không định hướng. Chỉ càng về sau này, từ người trí thức đến người lãnh đạo đến người dân thường mới thấm thía được sự mất mát ấy!!

Muộn quá rồi. Thua vào tay cộng sản.

Những người đàn anh của tôi như giáo sư Tôn Thất Thiện nói: Cả trăm năm nữa, chúng ta cũng không có được người như ông Diệm. Rồi những người như anh Huỳnh Văn Lang, anh Lê Châu Lộc từng sát cánh với anh em nhà ông cũng nói một tuồng như vậy.

Tôi phải tin như thế thôi. Không có anh ông và không có ông, miền Nam như mất hướng. Người Mỹ đến VN để giúp chúng tôi chống lại cộng sản, nhưng trước tiên họ tìm cách giết những người bạn của họ..

Phần tôi, chót trân trọng ông, tôi không thể nghĩ khác được. Tôi càng thấy khâm phục ông hơn về sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, về chính trị, nhất là khi đọc Chính Đề của ông. Lòng quý mến ấy của tôi càng tăng khi ông và cụ Diệm bị bọn tướng lãnh thảm sát. Tôi tôn quý ông lúc sống và tiếc thương ông lúc chết! Ai nói khác thì mặc kệ họ.

Cái thất bại của gia đình họ Ngô là cụ Diệm không phải là người làm chính trị. Cụ có thể đã đi tu ngay từ cái ngày cụ tạm thời trú ngụ ở một dòng tu bên Bỉ. Còn ông Nhu, có lúc tâm sự trong vụ Phật giáo, ông cho rằng đáng nhẽ ông phải là một giáo sư sử học, ngồi nghiên cứu thay vì làm chính trị.!! Phải chăng cả hai ông đã chọn lầm nghề!!

Bản thân ông là người ít bạn mà nhiều kẻ thù. Kẻ thù ngay trong số những người từng tin cẩn và hợp tác như trường hợp những Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần, Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính. Và nhất là người Mỹ. Cái chết của anh em ông là do người Mỹ dàn dựng gây ra chứ không ai khác!! Và ngay khi sang Mỹ ‘giải độc”, bà Ngô Đình Nhu, dù không có đảm lược chính trị, nhưng lại có cái bản năng nhạy bén chính trị đã tuyên bố thẳng thừng:

‘Whoever has the Americans as allies does not need any ennemies’.

Và câu nói sau đây chẳng khác gì một lời tiên đoán số phận miền Nam sau khi chế độ Đệ nhất cộng hòa không còn nữa:

‘I can predict to you all that the story in Viet Nam is only at its beginning’.

Phần tôi lại có thêm cái may mắn là hoặc được đọc, được rèn đúc thêm hoặc là được gặp một số nhân chứng của thời Đệ Nhất Cộng Hòa như quý ông Tôn Thất Thiện, Cao Xuân Vỹ, trung tá Nguyễn văn Minh, thượng nghị sĩ Lê Châu Lộc, ông trung tướng Tôn Thất Đính, đại tá Nguyễn Hữu Duệ, ông Huỳnh Văn Lang, Minh Võ và nhiều người khác. Hoặc là được hiểu biết nhiều hơn về chế độ với Nhị Lang, Lansdale, cụ Quách Tòng Đức, cụ Đoàn Thêm, luật sư Lâm Lễ Trinhvv..

Không lẽ tất cả những người đã một thời góp bàn tay xây dựng nên một miền Nam một thời đều nghĩ sai, viết sai cả sao?

Về phía người Mỹ thì phải nói ngược lại. Phải nhìn nhận có những người như Haberstam và Browne, họ đã đi tìm vinh quang nghề nghiệp trên những xác chết của hai vị lãnh đạo Đệ nhất cộng hòa và xác chết của những người lính VNCH.

Cả hai đều nhận được giải thưởng Pulitzer vào năm 1964, sau khi hai anh em ông Diệm đã chết.

Tôi không nói oan cho những kẻ cầm bút giết người trên. Hãy để một người đồng nghiệp thuộc loại sáng giá nhất sau này-Stanley Karnow- nhận xét về đám ký giả này:

‘Cái thảm kịch của Việt Nam lúc bấy giờ lại trở thành giấc mơ của một số ký giả, nhưng lại là một cơn ác mộng đối với các viên chức chính phủ Mỹ vì họ lo sợ rằng những biến cố ở Việt Nam sẽ khiến dư luận Mỹ chống lại những nỗ lực chiến tranh ở Việt Nam. Kiểm duyệt thì không được mà không kiểm duyệt thì thật khó kiểm soát những phóng viên trẻ năng động như David Haberstam của tờ The New york Times. Neil Sheehan của United Press International và Malcom Browne của Associated Press.. Những phóng viên trẻ này đưa ra tràn ngập những tin tức thật cũng có mà giả cũng không thiếu được cung cấp bởi những kẻ thù của chế độ’.

Một ký giả uy tín và lão thành ở thời kỳ ấy là Joseph Alsop đã thẳng thừng kết án các đồng nghiệp trẻ của ông là đang tiến hành một chiến dịch tuyên truyền tồi tệ chống lại ông Diệm và ông so sánh đám ký giả này giống thời kỳ họ từng chống lại tướng Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc trước khi sụp đổ rơi vào tay Trung Cộng.

Về cuốn Finding the Dragon Lady của bà Monique Brinson Demery

Cuốn sách trên được xuất bản năm 2013, nghĩa là sau hai năm khi bà Ngô Đình Nhu qua đời. Đây là công trình làm việc tốn khá nhiều công sức và năm tháng. Tác giả, giống như nhiều người Mỹ khi làm công tác nghiên cứu đã chuẩn bị học tiếng Việt đến nơi đến chốn. Demery học với Ngô Như Bình ở đại học Harvard. Demery cũng đã được sự chỉ dẫn của Edward Miller- một giáo sư, một nhà sử học Mỹ có những cái nhìn sử học khách quan và chính xác hơn các nhà sử học thế hệ đàn anh của tôi. Tôi rất trân trọng những ý kiến mới mẻ của Ed.Miller.

Và ít lắm là trong vòng năm trời tác giả Demery đã liên lạc, trao đổi và theo đuổi bà Nhu!! Bà Nhu vốn tránh mọi tiếp xúc, phỏng cấn- trừ một hai trường hợp cho Stanley Karnow cho chương trình đài truyền hình. Phải nhìn nhận cái kiên trì và phương pháp làm nghiên cứu của người Mỹ qua tác giả trẻ- bà Demery-.

Vì thế, khi cuốn sách vừa mới ra thì tôi đã cất công tìm đọc ngay và cũng cảm thấy thất vọng sau khi đọc xong. Cái thất vọng của tôi có thể người đọc khác có thể không thấy. Nếu đi tìm hiểu một tác giả chỉ cốt thu nhặt sự kiện, các chứng từ, các nhân chứng, vật chứng, cùng lắm ta có được một nhân dạng. Điều chính yếu là phải vào được bên trong tác giả, chia sẻ với con người trong một hoàn cảnh. Về điều nay, chưa thật sự có một giao cảm, một tin tưởng nào giữa bà Nhu và Demery. Theo như tôi hiểu thì bà Nhu vẫn e ngại người ký giả trẻ tuổi này.

· Cái thất vọng thứ nhất khi đọc Demery là tác giả chịu nhiều ảnh hưởng của Haberstam và Malcom Browne trong cách trình bày các sự kiện lịch sử miền Nam một cách thiên lệch. Khi còn sinh viên, bà đã có dịp đọc những lời nhận xét hận oán cùng cực của Malcon Browne như sau:

‘Theo kinh nghiệm riêng của tôi thì bà Nhu là một kẻ thù nguy hiểm nhất cho bất cứ người đàn ông nào’. . Tại sao Malcon Browne lại có một nhận xét cay nghiệt như thế thì không biết được. Nhưng phần cá nhân Browne thì lại được phía tranh đấu Phật giáo tín cẩn vào loại số một. Ông là người được thông báo ngày giờ, địa điểm tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức và bức hình của M. Browne được gửi đi khắp thế giới vào từng mỗi gia đình Mỹ trong buổi sáng hôm sau!!

Và chính từ sự gợi hứng từ M. Browne mà Demery đi tìm lại bà Nhu. Một bà Nhu không phải một góa phụ sống lẻ loi đơn độc một mình ở Paris. Mà một bà Nhu thuở vang bóng một thời với một nhãn hiệu đi kèm: Dragon Lady- một phụ nữ tinh quái, gian ác, ngổ ngáo, xấc xược. Tệ hơn nữa, không phải đệ nhất phu nhân mà một con khốn chết tiệt!!

Nếu chỉ đi tìm một bà Nhu như thế thì chỉ cần dở mấy sách vỡ cũ ra là có đủ! Cần gì mất năm năm tra hỏi. Và nếu muốn tham khảo thêm tiếng Việt thì nên tìm đọc cuốn Đệ Nhất Phu nhân của tên đạo văn là Hoàng Trọng Miên..

Tôi tự hỏi văn hóa Mỹ, người Mỹ viết tham khảo có dùng những từ thóa mạ như thế với những mệnh phụ phu nhân như Bà Kennedy không?

· Cái thất vọng thứ hai là phần lớn các sự kiện đều đã được nhiều tác giả, nhiều người nói tới và không đem lại điều chi mới lạ. Người nào bảo mới là vì chưa đọc cho đủ tài liệu. Như trường hợp bà Nhu tổ chức với Giám mục Lê Hữu Từ đem một số dân di cư đi biểu tình ủng hộ ông Diệm lúc ban đầu, người ta đã nói tới rồi. Việc bà Nhu can thiệp vào vụ đảo chánh 1960, người ta cũng nhắc tới rồi..Tướng Khánh là người trong cuộc cũng đả kể lại đầy đủ với luật sư Lâm Lễ Trinh.

· Những chi tiết về đời sống của bà Nhu lúc còn trẻ, lúc lập gia đình, lúc ở Đàlạt, lúc ở trong Dinh Độc Lập đều vụn vặt, chắp nối và nhiều chi tiết không cần phải nói ra..Những chi tiết về gia đình ông bà Chương-bố mẹ ruột bà Nhu- một thứ cai thầu chính trị- một thứ gió chiều nào ngả theo chiều đó- trong nhà lúc đón tiếp những nhân vật lãnh đạo Nhật, lúc đón chính khách Pháp, lúc tiếp đón Bảo Đại- ra vào tấp nập, tai tiếng lắm, đủ thứ chuyện…cũng là chuyện không cần phải đợi đến tài liệu mật thám Pháp khui ra. Bảo Đại trong hồi ký của ông cũng gián tiếp nhắc đến những liên hệ của ông với bà Nam Trân!! Nhưng đó phải chăng cũng là những điều quan yếu đối với bà Nhu!!

· Cái điều duy nhất mà người đọc có thể thu lượm được khi đọc cuốn sách là một vài tâm sự của bà Nhu đối với ông Nhu..Bà tỏ ra buồn phiền, bực bội, chán nản, cô đơn vì có cảm tưởng ông Nhu không quan tâm gì đến bà. Chỉ lo chuyện chính trị..Và cũng từ chỗ đó bà muốn nhảy ra hoạt động chính trị, xã hội- một điều cả ông Nhu, ông Diệm và nhất là ông Cẩn rất khó chịu.. Tìm cho ra địa chỉ chỗ ở của bà Nhu tại một building trên đường Charles Floquet, số 24. Cuối cùng tác giã đã gửi thư, đã có thể liên lạc điện thoại với bà Nhu. Bước đầu đã đạt được.-

· Cuốn sách của bà Monique Brison Demery chủ yếu ghi lại những phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu qua điện thoại. Phải công nhận sự kiên nhẫn trì chí của tác giả trong khoảng thời gian năm năm trời- và tìm đủ mọi cách để khai thác cá nhân và cuộc đời bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả nếu cần, mang cả con nhỏ sang Paris để được sự chú ý của bà Nhu. Nhưng kết quả cho đến phút chót là một thất bại, vì bà Nhu đã nghi ngại và hai lần thất hẹn không cho gặp như đã hứa!!

· Cái được còn lại là một tập sách nhỏ nhan đề Những viên sỏi trắng. Đây không phải là thứ hồi ký cũng không phải nhật ký. Nó là một thứ suy niệm ( Méditations) đượm tính chất huyền bí ( Mystique) dựa vào thánh kinh. Nó không dễ dàng gì để hiểu nếu không nắm được cái chìa khóa mở nó. Nhưng nó lại là bản tóm lược toàn diện hành trình đời sống tâm linh của bà Nhu kể từ năm 1963-2011. Gần 50 năm trời!! Gần 50 năm trời sống ẩn dật, khép kín, sống đúng phẩm cách con người, sống đúng mẫu mực của một phụ nữ góa bụa hầu như không tỳ vết. 50 năm đó tự nó xóa tẩy mọi vết nhơ, vết bôi nhọ trên phẩm giá một người phụ nữ. Mà ngay những kẻ thâm độc nhất và có thừa khả năng dựng truyện cũng đành im tiếng!

· Rất tiếc, phần đời ấy lại chỉ được tác giả viết thoáng qua trong vài trang, chương 16: In Exile. Và cũng chả có thể nào trách được tác giả, vì khả năng của bà không đủ để có thể theo dõi những chặng đường tâm linh với nhiều lối nói trình bày mang tính ẩn dụ. Và cũng vì mục đích chính của tác giả là khai thác, đi tìm con người ác phụ trong bà Nhu!! Muốn thỏa trí tò mò, có lẽ bà Demery nên xoay hướng tìm hiểu những nhân vật nước Mỹ như dòng họ anh em nhà Kennedy, bà cựu tổng thống Kennedy cũng như bà Joan Kennedy..Như mới đây, tôi đi qua một tiệm sách thấy một tạp chí có nhan đề rất gợi tò mò: Anh em nhà Kennedy, ai giết Marilyn Monroe?

· Những điều mà bà Déméry mong đợi thu thập được như cuộc đời riêng của bà Nhu, những truyện thâm cung bí sử, những chuyện liên quan đến tình ái nếu có, những dính dáng của bà với sinh hoạt chính trị miền Nam, hay những hiểu biết của bà qua ông Ngô Đình Nhu về các nhân vật liên quan đến chế độ, những thành bại của chế độvv. Kết quả thu thập thật ít ỏi. Trong nhật ký riêng của bà Nhu viết năm 1959, bà bầy tỏ một cách tuyệt vọng về cuộc sống hôn nhân của bà. Về sự thờ ơ của ông Nhu, về thú đi săn, về sự cách biệt tuổi tác khiến ông không thể làm gì hơn những gì ông đã làm!! Nói chung, bà khát vọng những chiều chuộng, những lời nói vuốt ve tuổi trẻ của bà, những giây phút lãng mạn… Và rồi những ước vọng thầm kín của một người đàn bà ở tuổi 32.. Bà nói một cách mơ hồ, thóang qua hình ảnh một người tên H. Hắn là một thứ Don Juan và chỉ có thế, không cho biết bất cứ chi tiết cụ thể nào về mối liên lạc đó. Nó như một cơn gió thoảng qua rồi thôi. Biên giới của cái được, cái cho phép và cái cấm kỵ trong tình huống lúc bấy giờ cho đến ngày hôm nay có thể cũng không có điều chi cho phép một sự ngờ vực.. Gần 50 sống cuộc đời cô thế vẫn như tảng đá ngầm, không gì lay chuyển được. Sự lựa chọn trong cuộc đời đôi khi không dễ dàng gì!! Không, người ta không thể nào biết hơn được những điều mà người ta đã biết như thế.

· Tôi còn dám nói như một kết luận là chính bà Nhu cũng không hiểu ông Nhu cho đủ. Theo cụ Cao Xuân Vỹ – người thân cận với ông Nhu kể cho tôi nghe- Ông Nhu là người say mê chính trị nên mọi chuyện khác ông coi thường. Ông ăn mặc giản dị đến xuềnh xoàng. Ngay khi đã vào ở trong dinh, ông vẫn áo sơ mi bỏ ra ngoài, đi dép lệt xệt. Trong khi những chức sắc khác vào dinh thì quần áo chỉnh tề, lon chậu, mũ áo đầy đủ. Ông vượt lên trên cái thường tình của mọi người. Trong phòng làm việc, bày biện sơ sài, sách vở, tài liệu vất tung tóe trên sàn nhà, trên giường ngủ lộn xộn. Đó là thế giới của riêng ông. Ông không muốn bà dòm ngó vào, cũng không cần ai thu xếp dọn dẹp. Ông chỉ có thú say mê đọc sách và đi săn hổ. Khi không hiểu, khi không tôn trọng thế giới của người đàn ông- một người trí thức thượng thặng- một chính trị gia già dặn, sắc sảo- thì khó đủ nghĩa làm vợ một người đàn ông như thế!! Khi muốn kéo thấp người đàn ông xuống đến những chi tiết nhỏ, câu chuyện thường ngày là một cách gián tiếp xâm phạm đến những cuộc sống tinh thần của người ấy. Cho nên, thật khó cho cả hai người vì đôi khi không cùng nhìn về một hướng. Ý nghĩa câu nói của St. Exupéry về tình yêu lứa độ trong trường hợp này thật là cần thiết.

· Trong một dịp, nếu tôi nhớ không lầm do cụ Đoàn Thêm kể lại, ông phải đại diện chính phủ sang Pháp, lúc bấy giờ người ta mới cuống lên, phải đặt may gấp cho ông một bộ vét cho trang trọng xứng đáng đại diện chính phủ một nước. Lại còn vấn đề chức vụ? Ông chẳng có chức vụ gì cả, cũng chẳng nằm trong quy chế lương bổng. Rồi mọi người đồng ý đặt cho ông chức cố vấn…Từ đó, chữ cố vấn được chính thức dùng. Ông không có lương bổng, tiền là do quỹ đen của ông Diệm cho ông. Một chi tiết nhỏ là khi bà Nhu và con gái đi dự hội nghị và sang Mỹ, trong túi họ chỉ có 5000 Mỹ kim và khi bên nhà đảo chính ông Diệm, bà Nhu không có tiền trả cho khách sạn!! Họ được một số bạn bè Mỹ ứng cho mà vẫn thiếu hụt.

· Trong 9 năm cầm quyền thời ông Diệm, có người dân đô thành nào thấy ông Ngô Đình Nhu ngồi trên xe Limousine, có còi hụ, có xe cảnh sát dẫn đường không? Phần tôi chưa bao giờ nhìn thấy cả. Nhưng chỉ ít lâu sau 1963, Phó Thủ tướng Văn Hóa Đỗ Mậu, tướng Tôn Thất Đính đi đâu là kéo theo cả một đoàn tùy tùng, rầm rộ, còi hụ, dẹp đường, dẹp xá. Điều đó cho thấy phong cách của hai loại người!!

· Để chứng minh cho thấy- dù trong cảnh vực nào-, người phụ nữ vẫn chỉ là người phụ nữ trong gia đình. Trong một lần duy nhất, bà Nhu bắt gặp ông Nhu cùng 8 người đàn ông khác, đang ngồi quây quần và ở giữa có một người bị tra hỏi và bị đánh có máu me trên mặt. Tất cả những người có mặt hôm đó, ngay cả kẻ bị đánh làm như thể không có chuyện gì xảy ra khi bà Nhu vào. Khi ông Nhu về phong ngủ của hai vợ chồng, bà đã tò mò muốn biết chuyện gì xảy ra, người bị đánh là ai. Ông Nhu vốn bản tính kín đáo không trả lời. Bản thân bà Nhu bị chính ông Ngô Đình Nhu ngăn cản, cách ly bà ra khỏi những sinh hoạt chính trị. Sinh hoạt của bà mỗi ngay là giặt giũ quần áo, nấu ăn và tắm rửa cho con cái. Sau này, một vài hoạt động nổi của bà- như Hội Phụ nữ Liên Đới- chỉ là thứ chính trị trình diễn hơn là thực tiễn. Một người đàn bà như thế có thể nào biết được tất cả những sinh hoạt chính trị miền Nam?

Hơn nữa, hoạt động chính trị của ông Nhu không có tính cách bàn giấy để giải quyết các công văn giấy tờ mà phần lớn là những hoạt động về những chính sách, những quyết định, những họp mặt bí mật, những âm mưu tính toán..

· Bà Nhu hoàn toàn đứng ngoài lề các hoạt động chính trị của ông Nhu. Bà càng hăng hái xuất hiện, càng bất lợi cho chế độ và càng bất lợi cho bà như lời nhận xét của cụ Đoàn Thêm như sau đây:

· Dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền.

· Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ, người vợ Việt Nam.

· Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất của nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khỏe và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu, người ta còn nhẫn nhịn, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ.

· Nên dù trái hay phải, người đàn bà Việt Nam muốn vội sống theo theo đàn bà tiền phong(Avant garde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu, những Từ Hy.

· Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt..

Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó!!!

Phần tác giả Demery, viết về bà Nhu mà như thiếu tư liệu để viết!! Viết cái gì? Viết con người bà hay viết về chế độ..Cuối cùng viết về con người bà thì ít mà viết chung về chế độ mà nhiều phần bà như thể đứng ngoài cuộc. Để bù lấp những khoảng trống ấy về các bí mật chính trị, tác giả bắt buộc phải trích dẫn những phần tài liệu từ nhiều nguồn mà phần lớn người đọc có thể đã biết rồi. Và sự sắp xếp cuốn sách không khỏi có những vá víu dựa vào những nhận xét của người khác. Câu hỏi chính còn lại đặt ra là tác giả có tỏ ra mức độ khách quan với một tấm lòng không khi đi tìm một bà Ngô Đình Nhu? Cứ như tôi hiểu, bà Demery đi tìm một bà Ngô Đình Nhu- như một Dragon Lady? Hiểu như thế, tôi cho là việc tìm kiếm coi như uổng công.

· Ngay nhan đề cuốn sách đã không ổn khi gọi bà Nhu là: Dragon Lady. Nhan đề này cũng từng được gán cho bà Tưởng Giới Thạch 20 năm về trước. Có một sự trùng hợp ý nghĩa gì chăng? Hình bìa lại chọn bức hình bà Nhu đang nhắm mắt tập bắn trong một buổi chủ tọa Thanh nữ cộng hòa với nền mầu đỏ chói chang.Trông quả thực không phản ánh đúng con người bà Ngô Đình Nhu. Mầu bìa như bị hoen ố chung quanh một cách cố ý và vụng về. Khá khen cho người nào đó đã vẽ mẫu bìa này.

· Và trong những lời trích dẫn ở trang trong tờ bìa. Người ta cố tình gán cho bà Nhu cái trách nhiệm không nhỏ là làm sụp đổ nền đệ nhất cộng hòa. Có nghĩa là bỏ quên đi tất cả vai trò và trách nhiệm của người Mỹ trong việc lật đổ này.

· Và trước khi vào chương một, tác giả không quên trích dẫn một câu thơ của William Watson do thượng nghĩ sĩ Stephen Young, tiểu bang Ohio trong đó có câu chót: The woman with the serpent’s tongue.( Người dàn bà với cái lưỡi của con rắn).
· Trong các trích dẫn các tác giả đầy rẫy những lời nhận xét bất xứng, gọi bà Nhu là con nọ, con kia.Những nhà báo như Halberstam, Browne, Stanley Karnov thì ít nhiều coi bà Nhu như một thứ kẻ thù. Tôi tự hỏi, không biết họ có dám viết như thế về những nhân vật như bà Kennedy hay không?

· Phần cuối đời của bà Nhu, chương 16 vỏn vẹn được vài trang, từ trang 213-225. Điều đó cho thấy một sự bất cân xứng khi tìm hiểu cuộc đời bà Nhu!!!Đối với kẻ viết bài này, bà Nhu đã chết và đem theo bà tất cả những gì bí nhiệm của cuộc đời đầy sóng gió và khổ lụy của bà..Tôi không biết còn ai khổ hơn bà Nhu cả lúc sống và lúc chết? Nghĩ tới bà, tôi nghĩ tới hoàn cảnh bà Nam Phương Hoàng Hậu. Đó là số phận dành cho những người dàn bà mà đáng nhẽ họ có thể có một cuộc sống mà bất cứ người phụ nữ nào cũng ao ước đạt được!!

Và việc đi tìm bà Nhu trong cuốn sách cuối cùng ta bắp gặp một Bà Nhu- một người đàn bà bình thường như hằng trăm người khác. Họa chăng bà có một số nổi niềm riêng. Bà cảm thấy buồn bực, bị quẫn trí vì người chồng lo chuyện thế sự, quanh năm vắng nhà bất tử..Và một cảnh đời như thế có chi xa lạ với những hoàn cảnh những người phụ nữ có chồng làm chính trị?

Nhưng cũng có thể vì thế mà bà bị rơi vào tình trạng trầm uất.

Ra ngoại quốc như một kẻ lưu vong- .Biết bao nhiêu nỗi cay đắng, cô đơn và tủi nhục! Một hoàn cảnh chẳng khác xa mấy với hoàn cảnh hoàng hậu Nam Phương lúc bỏ Đà Lạt sang Pháp vào năm 1950!!

Những người đi tìm hiểu bà lại thường thiếu một tấm lòng, một sự chia sẻ. Nói như bà Clinton trong cuốn sách mới xuất bản: Hard choices. Có nhiều chọn lựa thật khó và dù chọn lựa nào thì cũng phải có một cái đấu và một con tim. Họ đến với bà như một kẻ đi truy tầm quá khứ mà thiếu một sự trân trọng!!

Cuốn sách của tác giả Demery vì thế thiếu hẳn một sự chia xẻ về thân phận một người phụ nữ trong những hoàn cảnh cực đoan nhất, đầy đọa nhất như mất chồng, mất con, mất sự nghiệp, mất tương lai, mất mọi nguồn hy vọng, mất tin tưởng vào tình đời, tình con người..

Và trong những trường hợp như thế, từ chỗ tối tăm của vực sâu của tuyệt vọng dọi sáng lên một nguồn hy vọng một niềm tin tôn giáo. Và vì thế ta mới hiểu được tải sao bà viết về Những viên sỏi trắng. Những viên sỏi trắng đã vực bà dậy để bà đi hết con đường nhân thế.

Có lẽ, theo tôi, điều quan trọng nhất không hẳn là đào xới quá khứ đi tìm những mảnh vụn đời sống mà biết tôn trọng cuộc sống riêng, cô độc, khép kín của bà.

Cho nên, tôi có cảm tưởng tác giả Demery đã không hiểu gì về con người thực của bà Nhu, nhất là phần cuộc đời còn lại từ năm 1963 cho đến khi bà mất vào 24 tháng tư, 2011ở Rome.. Cũng giống như hoàng hậu Nam Phương, bà đem theo sang bên kia thế giới một nỗi niềm riêng mà không thể chia sẻ cùng ai được!!

Những năm tháng sau 1963, chính là phần đời sống giúp bà nhận diện ra chính mình, nhận ra hướng đi của cuộc đời còn lại của bà.

Không hiểu được phần đời này của bà, không nắm bắt được con người thực của bà.

Bà tìm một lối gỉai thoát trong cuộc sống thông qua những suy niệm tôn giáo.. Và bà đã viết ra những kinh nghiệm suy tư này dưới cái tên Những viên sỏi trắng.

Và đã hẳn, vì người ta đã không bắt gặp được một bà Nhu ăn nói bạo miệng, với những lời tuyên bố bốc lửa!! Họ thất vọng. Họ cũng sẽ thất vọng khi họ tìm đọc cuốn La République du Viet Nam et les Ngô Đình suivi des mémoires posthumes de madame Ngô Đình Nhu do con trai Ngô Đình Quỳnh và con gái bà in sau khi bà qua đời.

Tôi cũng đã nhiều lần nói truyện với ông Trương Phú Thứ về cuốn sách do bà Nhu trao cho ông TPT để chuyển ngữ ra tiếng Việt và để xuất bản. Cũng theo ông TPT thì cuốn sách không có giá trị gì về lịch sử, về nội bộ chính trị VN trong giai đoạn ấy. Và nếu ai chờ đợi những điều như thế trong tập sách này thì hoàn toàn vô vọng..

Bằng chứng sách đã được in ra bằng tiếng Pháp, nhưng ít ai nhắc tới và giới thiệu hoặc phẩm bình. Bản thân tôi cũng điện thoại và gửi điện thư cho ông Ngô Đình Quỳnh, nhưng không được ông trả lời. Chắc ông nghi ngại nhiều thứ!!

Câu hỏi chính còn lại đặt ra là tác giả có tỏ ra mức độ khách quan với một tấm lòng không khi đi tìm một bà Ngô Đình Nhu? Cứ như tôi hiểu, bà Demery đi tìm một bà Ngô Đình Nhu- như một Dragon Lady? Hiểu như thế, tôi cho là việc tìm kiếm coi như uổng công.

Về cuốn nhật ký 1959-1963 của bà Nhu

Trong một bài viết đăng trên dvonline.net, nhan đề Đi tìm bà Nhu, gặp ông Đại úy. Tác giả Trần Giao Thủy tiết lộ bà Nhu có viết một cuốn nhật ký từ năm 1959-1963. Cuốn sách này hiện nay do đại úy James Văn Thạch có được. Trần Giao Thủy do liên lạc được với viên đại úy người Mỹ lai Việt Nam. Đại úy James là con của trung tá John W. Peterkin đã nghỉ hưu, một cựu sĩ quan Mỹ đã từng phục vụ trong chiến tranh Cao Ly và Việt Nam. Ông lấy một phụ nữ VN có tên là bà Thạch Thị Ngọc, một nữ lực sĩ trong môn nhảy cao.

Đại úy James sinh năm 1976, lớn lên ở Bellerose, Queens, Newyork và tốt nhgiệp cử nhân khoa sử tại St. John

Cũng theo tác giả Trần Giao Thủy, đại úy James đã liên lạc được với bà Demery và hai người đã gặp nhau tại một quán cà phê Starbuck và đã cho bà Demery đọc qua cuốn sách. Cuốn sách khổ 12cm-18cm đã úa cũ, gáy phải dán keo..Những trang trong viết bằng mực xanh, mực nâu, có khi mực đỏ. Nét chữ nghiêng và tuồng chữ giống hệt tuồng chữ trong những lá thư của bà Ngô Đình Nhu. Lại nữa, ký giả David Horwitz, đài NBC trong một chương trình phát hình ngày 28 tháng ba- 1964, người ta thấy được tấm bảng ghi rõ ” Sự thật về ngày 11 tháng/ 11-1960, tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu nhủ danh Trần Lệ Xuân’.

Như thế, bằng vào những lời trình bày của Trần Giao Thủy, ngưới ta có thể đi tới kết luận, đây là một tài liệu thật, một nhật ký riêng của bà Ngô Đình Nhu viết trong khoảng 1959-1963. Có thể chúng ta khỏi mất thời giờ bàn cãi thêm nữa.

Vấn đề nên bàn cãi là nguồn gốc lai lịch cuốn nhật ký, do đâu mà đại úy John có được. Hiện viên đại úy này vẫn không cho biết rõ nguồn gốc của nó.

Được hỏi vì sao có được cuốn nhật ký này. Viên đại úy nói một cách không rõ ràng là do có bà con làm việc trong chính thể VNCH nên có được.

Trong câu trả lời Demery thì vắn tắt hơn: Tôi lớn lên, rồi tôi có cuốn sách đó. Một câu trả lời mà như không trả lời gì cả!! Và người ta có quyền suy luận rằng chắc là do viên trung tá Mỹ có một cơ duyên nào đó có được cuốn nhật ký đã giữ trong nhiều năm và nay trao lại cho con trai..

Câu hỏi là giữ như thế để làm gì? Trong khi tác giả cuốn nhật ký đó là bà Ngô Đình Nhu sống lưu vong từ năm 1963.. Chỉ cần nhắc điện thoại- nhật ký của người ta thì trả cho người ta-đơn giản chỉ có thế và đem trao trả đến tận tay cuốn nhật ký.. Cử chỉ ấy đẹp biết mấy!!

Tôi cũng nhắc một trường hợp khác để chúng ta cùng suy nghĩ. Căn nhà trong Tân Sơn Nhất của ông bà Nguyễn Cao Kỳ do một viên đại tá chiếm ngụ.. Ông này thu thập một số hình ảnh riêng của bà Kỳ và thư từ của bà cất riêng một chỗ. Sau đó, ông đại tá phải sang đánh giặc bên Campuchia. Biết nguy hiểm, có thể chết, ông gói sấp hình ảnh tài liệu của bà Kỳ và dặn vợ con, khi nào có thể liên lạc được với gia đình ông Kỳ thì trao lại cho họ.

Khoảng 10 năm sau nối lại được liên lạc, Bà Kỳ hẹn về và đến nhận sấp hình ảnh tài liệu và thắp hương trước bài vị ông sĩ quan chung quanh có con cháu của ông ta..

Chính tôi được xem những tấm hình này..

Đấy là những tình tự con người vượt trên quá khứ, chiến tranh hận thù..

Cũng theo Trần Giao Thủy, chính bà Nhu cũng biết có cuộc triển lãm này và bà đã phản đối việc dùng tài liệu riêng tư của bà mà không có phép.

Người ta cũng không biết vào thời gian nào thì đại úy James có được cuốn nhật ký này tính từ 1965 trở đi. Chỉ biết rằng, theo lời ông tiết lộ, đã có một cơ sở báo chí muốn thương lượng để phát hành cuốn nhật ký này.

Nhưng chính gia đình bà Nhu, qua người con rể, ông Olindo Borsooi, chồng của bà Ngô Đình Lệ Quyên cũng ngỏ ý xin lại cuốn nhật ký đó và để lưu trữ như một khối di sản của dòng họ Ngô Đình.

Cả hai đề nghị trên đều bị ông Đại Úy từ chối vì không thích hợp với quan điểm và dự tính của người đang giữ cuốn nhật ký. Qua trao đổi với Trần Giao Thủy, ông này cho rằng viên đại úy là người rất say mê sử học, nhất là sử VN.. Cái say mê lấy của người làm của mình cho thấy tư cách người say mê này thế nào?

Qua tất cả những chặng đường gian nan, chòng chéo, vụ lợi, bất minh…vể cuốn nhật ký bị lưu lạc trong nhiều năm. Sự khám phá ra cuốn nhật ký vô tình biến nhà báo Trần Giao Thủy thành thứ người hùng, một thứ nhà báo chuyên ngiệp đã có công khám phá ra tài liệu bí mật, cất giữ từ hơn nửa thế kỷ nay.

Đấy là một kỳ công mấy ai đạt được!!

Tôi không biết rõ luật lệ ở Hoa Kỳ về quyền sở hữu tài sản trí tuệ xét sử như thế nào?

Nhưng cứ như theo cách sử sự bình thường theo công tâm mà nói, một cuốn nhật ký của một người phụ nữ đang còn sống nay không trao trả lại là một điều đáng trách!! Tư cách gì, ông đại úy cho rằng cuốn nhật ký của một người đàn bà có chồng làm chính trị, bị ám hại lại trở thành tài liệu mang tính lịch sử của Việt Nam, nó thuộc về toàn dân VN.

Những chữ lịch sử Việt Nam, thuộc toàn dân VN đều là những lời tuyên bố cao ngạo và trống rỗng. Và ông nói thêm: Nó là một tài liệu quan trọng cần phổ biến khắp nơi, cho tất cả những ai quan tâm đến giai đoạn đó trong lịch sử VN cận đại. Cuốn nhật ký không thể chỉ là hàng mẫu trưng bầy trong viện bảo tàng và nó cũng không thể bị cắt, chỉnh sửa để xuất bản.

Cần phổ biến khắp nơi mà ông lại giữ chịt không biết bao nhiêu năm rồi và đến bao giờ thì toàn dân VN sẽ được diễm phúc đọc một tài liệu được ông coi là vô giá?

Và mục đích chính của ông là giữ cuốn Nhật Ký ‘vô giá’, not for sale này, sau đó ông sẽ cho xuất bản và tiền bán sách, ông sẽ dùng để tu chỉnh nghĩa trang Bình An.

Xét về mặt pháp lý, về mặt ứng xử, về mặt đạo lý con người- mặc dầu ông cho rằng tập tài liệu thuộc toàn dân- Nhưng thực ra, từ đầu tới của, ông chỉ khăng khăng muốn giữ cho riêng mình và ông tự cho mình có quyền quyết định muốn in ấn và xử dụng số tiền lời tùy theo ý ông..

Bất kể đến quyền lợi tinh thần của gia đình bà Ngô Đình Nhu.. Con cái bà phải chăng có quyền bảo vệ thanh danh cho mẹ mình?

Nội dung cuốn sách là nhật ký cho nên có thể có nhiều nỗi niềm riêng tư của bà Nhu. Tôi cứ giả dụ rằng trong đó viết rất nhiều chuyện riêng tư đến đọc mà ngượng, hoặc đọc mà ứ nước mắt, hoặc đọc mà thỏa mãn thú tính đi nữa.. Nó vẫn chỉ riêng cho bà và chỉ riêng cho bà Nhu, mình bà biết, mình bà hay-. Nó là thành phần bản thân bà- nó là cõi riêng, nó là chính bà với những điều tối mật như chuyện chăn gối, chuyện hụt hẫng, chuyện trông chờ một cái gì xảy đến như cơn mưa mùa hạ, một sự lấp đầy chan hòa. Mà ngay cả người chồng của bà cũng không nên dòm ngó vào-. Có thể đó là những bất hòa, cãi cọ, giận hờn, nặng lời đến chửi bới nhau, chén vỡ bay tung tóe, cửa đóng đến sầm, vội vã bỏ đi săn biền biệt không về. Có những đêm mất ngũ, nước mắt chan hòa trên gối, nằm trăn trở một mình… Có thể là những ghen tuông, gọi tình địch là con đĩ, một thứ dơ dáy, một thứ súc vật-. Và cũng có thể là những suy nghĩ trái chiều như một thứ trả thù bằng cách khơi dậy, mơ đến những ham muốn nhất thời ngoài vòng. Và nay mai, nó sẽ đượ in ấn, phát hành hằng trăm ngàn ấn bản và được công khai hóa..cho bất cứ ai muốn đọc?

Phải chăng cái đó ta gọi là các sự kiện lịch sử, đến tình hình chính trị miền Nam?

Đây là một thái độ ngụy trí thức, giả đạo đức, giả nhân nghĩa mà thực sự chứa đựng một tâm địa nhỏ nhen.

Nghĩ đến thái độ và cách hành xử của ông đại úy James Văn Thạch làm tôi liên tưởng đến một vài trường hợp xin ghi ra sau đây.
Trường hợp cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

Thượng sỹ Thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu cùng một người Mỹ tên Fred đang lo đốt những tài liệu bị loại bỏ thì Nguyễn Trung Hiếu yêu cầu đừng đốt một cuốn nhật ký.

Thế là cuốn nhật ký được Fred giữ lại. Mấy hôm sau, Hiếu tìm được phần hai của cuốn Nhật Ký. Cả hai cùng đọc và chia xẻ với người đã chết.

Và làm gì còn biên giới thù hận với người đã hy sinh, nằm xuống bên này, bên kia.

Năm 1972, Fred trở về Mỹ mang theo cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Fred trong nhiều năm trời tìm đủ mọi cách để có thể trao lại cuốn nhật ký cho gia đình Đặng Thùy Trâm.

Và cuối cùng thì Frederic Whitehurst cũng đạt được ý nguyện, trả cuốn nhật ký về tận tay gia đình mẹ của Đặng Thùy Trâm!!

Con người cao quý với tấm lòng rộng rãi bao la của Fred với một nghĩa cử cao đẹp tuyệt vời, anh đã giữ cuốn nhật ký 35 năm vốn được coi là kẻ thù địch và anh đã vượt khỏi cái ranh giới ấy để đến ngày 29-4-2005, anh chính thức viết thư cho em gái của Đăng Thùy Trâm là Đặng Kim Trâm xin gửi trả lại gia đình cuốn nhật ký ấy.

Câu chuyện của Rich

Câu chuyện thứ hai do nhà văn Uyên Thao viết lại về trường hợp một người lính Mỹ tên Rich đã bắn chết một cán binh cộng sản ngay trong tầm súng của anh ta. Và sau trận chiến, Rich đã rút được trong ví của người cán binh cộng sản một tấm hình nhỏ síu, ông ta chụp với một bé gái chừng 6 tuổi. Tấm hình ấy cứ ám ảnh Rich mãi về sau. Trong dịp ông đến viếng bức tường ghi tên 58 ngàn binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam, ông đã để lại tấm hình với lời ghi:

‘ Thưa ông,
Suốt 22 năm nay, tôi giữ hình ông ở trong ví. Hôm ấy tôi mới 18 tuổi, khi chúng ta trông thấy nhau trên con đường mòn gần Chu Lai, Việt Nam. Xin tha thứ cho tôi đã giết ông. Đã nhiều lần trong những năm qua. Tôi nhìn hình ông và người con gái tôi đoán là con ông. Mỗi lần tim tôi bừng cháy với nỗi đau tội lỗi.
Xin ông tha thứ cho tôi.

 

Bức thư và tấm hình lại được một người Mỹ cựu chiến binh cũng có tấm lòng tên Duery Felton- một người quản lý phòng sưu tập tại đài kỷ niệm cất giữ. Thế là cả hai quyết đi gặp nhau và cùng gửi thư cho tòa đại sứ Hà Nội tại Hoa Thạnh Đốn.. Câu chuyện kết thúc một cảnh đẹp đến rơi nước mắt khi Rich tìm gặp lạii đứa con gái trong tấm hình.. Ông quyết định bay qua Việt Nam và đích thân đặt tấm hình vảo tay cô bé. |Nay đã trưởng thành và có gia đình.

Lúc này đã là mùa xuân năm 2000 và là năm thứ 33 kể từ khi Rich nhìn thấy tấm hình.

Cao đẹp biết là bao qua ba câu chuyện tôi vừa kể. Tự nó là lời biện minh để cho những ai còn tin tưởng rằng việc giữ tập hồi ký của bà Ngô Đình Nhu là điều chính đáng.

Có một sụ thật đơn giản được nhắc đi nhắc lại đến nhàm chán. Nhưng vẫn xin nhắc lại ở đây: Cái gì của Caesar, xin hãy trả lại cho Caesar.

© Đàn Chim Việt

Lốc Liếc – Thoát Tàu là thoát… sư tử đá?

Lốc Liếc

Khoảng hơn một tháng trước, khi thấy các “nhơn xỹ” ầm ĩ hội thảo bàn chuyện “thoát Tàu”, tôi còn đang phân vân lắm, vì chưa hiểu rõ, thoát Tàu là thoát cái gì.

Các “nhơn xỹ” thì nói như đinh đóng cột, rằng thoát Tàu, tức là thoát về “ý thức hệ”, nhưng “ý thức hệ” cuả Tàu, nó là cái gì? Bản chất có giống “ý thức hệ” của Ta không? Và nếu có giống nhau thật, thì tại sao các “nhơn xỹ” không kiến nghị để Tàu nó phải thoát Ta, mà lại cứ khăng khăng đòi Ta phải “thoát Tàu”? Lưu ý là nếu xét đến yếu tố “bản quyền”, thì “ý thức hệ” của Ta sinh ra trước Tàu vài năm, vậy Tàu nó phải “thoát Ta” thì mới là phải đạo. Trong khi quan hệ Ta – Tàu từ trước đến nay, thì điều quan trọng nhất vẫn có đó:

Xưa, Tàu cho không, biếu không Ta đủ thứ (có lúc Tàu định “biếu” cả người, nhưng Ta không nhận) mà còn đách cấm được Ta chơi với Nga Xô, rồi “uýnh” cho Mỹ cút, “uýnh” Ngụy nhào, “uýnh” Khờ me đỏ, sau lại “uýnh” luôn cả Tàu.

Xưa đã chả cản được ta “uýnh”, và nay thì, làm cách nào để Tàu có thể cấm được Ta thực hiện “mong muốn làm bạn với tất cả các nước”, như Ta đã tuyên bố công khai với bàn dân thiên hạ, ngay trước mũi Tàu đấy thôi. (Sáng nay (15/9/2014), nghe tin radio, quả vải, quả nhãn Ta rồi đây sẽ sang “làm bạn” với dân Mỹ).

Do chả thấy vị “nhơn xỹ” nào đòi Tàu thoát Ta về “ý thức hệ”, tôi buộc phải đi đến kết luận rằng, thực chất các “nhơn xỹ” của chúng ta chỉ nhăm nhăm đòi “Ta thoát Ta”. Nhưng ngoài mồm các ông ấy cứ hô toáng lên là “thoát Tàu”.

Cho đến hôm nay đọc báo mới biết, hóa ra các nhà làm Văn Hóa nước nhà mới thực sự là người muốn thoát Tàu, thật đơn giản, bằng cách “bài trừ” những con sư tử đá.

Gì chứ “thoát Tàu” kiểu này thì tôi đồng ý ngay, nhưng vì lý do gì, để nói sau.

Quả vậy, một chiến dịch bài trừ “linh vật ngoại lai” ra khỏi các đền chùa, di tích, công sở, do Bộ Văn hóa đề xuất vừa được phát động và hưởng ứng rầm rộ.

Trong công văn của Bộ Văn Hóa, “linh vật ngoại lai” được chỉ đích danh là “sư tử đá” và “một số vật phẩm khác”.

Cụ thể, thì đó là những con sư tử đá, tạc theo lối Tàu, ví dụ như hai chú này, đang canh cổng đình Yên Phụ:


“Linh vật ngoại lai”: Sư tử đá tại đình Yên Phụ – Hà Nội PGS Trần Lâm Biền, ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia ví von “Đem hai tên lính ngoại quốc canh cửa nhà mình, liệu có được yên ổn?”.

Trước hết, phải nói là tôi không thấy ví von của PGS Trần Lâm Biền có tính thuyết phục chút nào, vì chỉ có những anh “có điều kiện” mới có thể thuê người nước ngoài canh cửa. Sau đó, nếu bàn đến chuyện liệu có được “yên ổn” với “lính ngoại quốc” thì mỗi ngày, có hàng trăm chuyến bay Việt do cơ trưởng là người nước ngoài lái và 100% hành khách vẫn giao trọn sinh mạng cho các “tên lính ngoại quốc” đấy thôi, sao không thấy ai thắc mắc.

Hơn nữa, những con sư tử đá ấy cũng không thể gọi là “lính ngoại quốc” vì chúng được làm từ đá Đà Nẵng, Thanh Hóa hay Ninh Bình cả, lại do chính tay thợ Ta tạo tác. Tức là chỉ có mỗi cái hình dáng bên ngoài, lớp vỏ, là “theo kiểu Tàu”, thì có khác gì Ta mặc quần “phăng”, áo “phông” giặt bằng “xà bông”, nghĩa là toàn thứ “ngoại lai” cả, mà thiên hạ có ai gọi Ta là Tây đâu.

Xét thực chất, thì ở Tàu, con sư tử cũng không phải là một sinh vật bản địa, chính người Tàu cũng du nhập nó, mới thành ra con sư tử đá kiểu Tàu.

Thôi thì khi đã quyết dẹp bỏ các “linh vật ngoại lai” thì phải dùng các linh vật thuần Ta để thay thế. Linh vật Ta là thế nào, đại khái các nhà nghiên cứu cũng lúng túng, hiện nay tạm thống nhất lấy con Nghê để thay thế.

Ở Ta, ngoài con Nghê thì còn có mấy con khác được gọi là “linh vật”, từ voi đá, ngựa đá, chó đá, đến những con chưa biết đặt tên gì, nhưng phổ biến nhất vẫn là con Nghê. Con Nghê có mặt từ lan can cho đến cổng làng, cổng chùa, dinh thự, lăng tẩm, đền miếu với đủ loại hình thức (tượng tròn, phù điêu) và chất liệu (vữa vôi, đá, đồng, gỗ).

Con Nghê, thì cũng không phải là linh vật 100% thuần Việt, vì ở Tàu con sư tử đá có lúc còn được gọi là con Toan Nghê. Nhưng con Nghê ở ta trông vừa nhang nhác con sư tử lại vừa giống con cún con nên khi dịch ra tiếng Anh, các nhà chuyên môn ít khi dịch là lion mà hay dịch là fo dog, khổ thay, chữ Nghê trong tiếng Hán cũng gồm bộ Cẩu (chó) với chữ Nhi (trẻ con) mà thành.

Ta cũng chả có huyền thoại hay truyền thuyết gì về con Nghê, chỉ biết những con Nghê đã có mặt ở các di tích từ hàng nhiều trăm năm trước khi con “sư tử đá kiểu Tàu” đổ bộ vào di tích, đền chùa và công sở như ngày nay.


Nghê đá, đền vua Đinh, Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình, thế kỷ 17
Nghê đá, lăng Ngọ tộc, Hiệp Hòa, Bắc Giang, thế kỷ 17
Nghê đá, đền Gióng, Gia Lâm, Hà nội, thế kỷ 17
Nghê đá, cửa Hiển Nhân, Đại nội, Huế, thế kỷ 19 Và đây là hai “linh vật thuần Việt” khác, rất đẹp, nhưng giới chuyên môn cũng chưa biết đặt tên là gì.

Bây giờ, ngắm Nghê, rồi so con Nghê với con sư tử Tàu, thì thấy rõ: Con Nghê đầu to, chi trước mảnh dẻ hơn chi sau, thân trơn, có khi có vảy, dáng vẻ vẻ hiền lành. Mắt nhỏ vừa phải, miệng có khi ngậm khi há nhưng không phô ra hàm răng nhọn như để đe dọa. Trạng thái biểu cảm khá đa dạng, từ vui tươi (nơi cổng đình, cổng làng), nghiêm trang, cung kính (đền miếu) đến buồn rầu (nếu ở lăng tẩm).

So với con Nghê thì con “sư tử đá kiểu Tàu” có ít tính cách điệu hơn, nghĩa là thiên về tả thực dáng vẻ hung dữ, trấn áp với cơ bắp, móng vuốt, răng nanh và vẻ mặt.

Ví dụ như thế này:

Xét về độ oai phong, nghê không thể sánh được sư tử, ngược lại về sự thân thiện, thì Nghê gần gũi con người và cảnh quan hơn.

Về cách bố trí trên mặt bằng thì ở Ta, con Nghê và các linh vật khác thường được xếp theo vị trí “chầu”, như nghênh đón, tức là được đặt cân xứng hai bên lối đi, hướng nhìn vuông góc với trục giao thông (sân, đường). Còn ở Tàu, thì đôi sư tử đá được bố trí theo tư thế “trấn”, có cái nhìn uy hiếp và trực diện vào khách dọc theo trục đường.

Như đã nói ở trên, con Nghê cũng không hẳn là thuần Việt, vậy tại sao tôi lại đồng ý với việc thay thế “sư tử đá kiểu Tàu”?

Đơn giản, xem ảnh thì biết, chỉ vì tôi thấy con “Nghê” đa dạng, hiền lành và nhất là đẹp hơn con “sư tử Tàu” hung hăng và đơn điệu. Chỉ thế thôi, chứ không hề mơ mộng hão huyền thoát nọ thoát kia.

Nhưng, ở các di tích cổ, đền, chùa, đình, miếu, dùng Nghê, Sấu, Voi, Ngựa đá… thì được, chứ ở các nơi công sở, thay con sư tử đá bằng con Nghê, con Sấu, thì buồn cười lắm. Hay là ta cứ đặt quách con chó đá ở công sở, có khi lại hay các Ngài ạ, vì sẽ đỡ “trộm”.

Thực tình, khi viết entry này, tôi vẫn hy vọng là các nhà làm công tác Văn Hóa nước ta không thiếu tự tin tới mức phải tiên phong “thoát Tàu”, bằng cách mở chiến dịch “bài trừ linh vật ngoại lai”, mà tội đồ chính là những con “sư tử đá ”, vốn được làm từ đá Việt và do chính thợ Việt tạo tác, chỉ tiếc, với hình dáng “kiểu Tàu”.

Có chút khôi hài là, để thoát khỏi những con “sư tử đá kiểu Tàu” vô tri vô giác, thì các nhà Văn Hóa lại dùng 4 chữ thuần Tàu là “Linh Vật Ngoại Lai”, (nếu cộng thêm 2 chữ “bài trừ” nữa thì là 6, cộng thêm 2 chữ “chiến dịch” nữa thì thành 8 chữ thuần Tàu…), thành ra các Ngài chưa “thoát” được chỗ nọ thì đã lại “nhập” chỗ kia. Vì thế, tôi đâm lo xa rằng, trong khi loay hoay thoát nọ thoát kia theo cái cách đó, thì các nhà Văn hóa xứ ta lại không thoát được cái phép “thắng lợi tinh thần” của các chú AQ chính hiệu./.

Phạm Chí Dũng – Trước Hội Nghị 10: Phân tích ‘báo cáo phân tích nội bộ’

Phạm Chí Dũng
Chẳng mấy dị biệt với các kỳ hội nghị trung ương trước đây, trước hội nghị trung ương đảng thứ 10 cuối năm 2014, bầu không khí “chính trị nội bộ” ở Việt Nam có vẻ đang dần được sưởi ấm bởi một chiến dịch “phản tuyên truyền” manh nha khởi phát.

Nhưng khác hẳn với năm 2012 khi các bài viết đả kích nội bộ tập trung trên hệ thống trang điện tử cá nhân của dư luận viên, giờ đây mặt bằng dân trí “phản tuyên truyền” đã được “nâng lên một tầm cao mới”: thông qua kênh thông tin “lề dân” và hải ngoại để “khách quan.”

Năm câu hỏi về ông Lê Hồng Anh

Hồi Tháng Tư, loạt bảy bài “Ai đang làm khánh kiệt đất nước?” của một tác giả có tên Dương Vũ cũng được gửi đến Dân Luận, gây náo động dư luận. Rất nhiều chi tiết về “phe lợi ích” và cả về giới chính khách cao cấp ở Việt Nam được lột tả trong loạt bài viết rất đáng nghi ngờ về xuất xứ này. Tất nhiên những trang thông tin như Dân Luận không thể hoặc rất khó có điều kiện kiểm chứng những tin tức chỉ tồn tại trong nội bộ đảng và chính quyền, mà chỉ có thể đăng tải như một tin tức mang tính tham khảo.

Hoặc vài bài viết mang màu sắc “bình luận chính giới” khác xuất hiện trên trang Ðàn Chim Việt, Tin Tức Hàng Ngày…

Mới đây, bài “Những gì diễn ra sau chuyến đi Bắc Kinh của phái viên Lê Hồng Anh,” ký tên “Một cán bộ Viện Nghiên cứu Quốc tế (xin được phép giấu tên)” đăng tải trên trang Dân Luận lại là một dẫn chứng thú vị và đáng xem xét (https://www.danluan.org/tin-tuc/20140915/nhung-gi-dien-ra-sau-chuyen-di-bac-kinh-cua-phai-vien-le-hong-anh#comment-128551).

Tuy nhiên khác nhiều với những bài phân tích cùng chủ đề nội bộ, bài viết trên đặt ra năm câu hỏi trực tiếp:

1- Tại sao ông Lê Hồng Anh được cử sang Trung Quốc gặp ông Tập Cận Bình lại mang danh nghĩa phái viên của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (trong khi ông Lê Hồng Anh được coi là phó đảng) và cũng không mang danh nghĩa gì về mặt nhà nước. Như vậy danh nghĩa này được hiểu thế nào?

2- Trung Quốc vi phạm chủ quyền của ta, bị thế giới lên án, phê phán; ta phản đối quyết liệt, kiên quyết hành động của họ vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế nhưng sao không mời Trung Quốc sang ta mà lại cử phái viên sang Trung Quốc để hòa giải với họ?

3- Chuyến đi của Lê Hồng Anh đã tác động đến tình hình nội bộ thế nào?

4- Sau chuyến đi của ông Lê Hồng Anh quan hệ hai nước thế nào, những biến động sẽ ra sao?

5- Chuyến đi của phái viên Lê Hồng Anh sang Trung Quốc dư luận quốc tế quan tâm như thế nào?

Dưới mỗi câu hỏi là phần “đánh giá” và “bình luận” của tác giả.

Báo cáo phân tích nội bộ?

Không hẳn là chủ đề hay nội dung bài, mà đặc trưng hiển thị nhất của bài viết này là cấu trúc câu hỏi – đánh giá – bình luận.

Về phương pháp, bài viết này được thể hiện theo dạng báo cáo, chuyên đề phân tích và có hàm lượng phân tích khoa học. Về nội dung, bài viết này nêu những vấn đề theo phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh và quy nạp. Phương pháp và nội dung như thế là khác hẳn với dạng bài viết thông thường theo dạng mô tả, phân tích và có tính báo chí hơn.

Ðiểm đặc biệt có thể ghi nhận về phương pháp cấu trúc bài viết này có thể khiến cho một số bạn đọc liên tưởng đến cách thức diễn đạt những báo cáo nội bộ. Nếu giả thiết này là đúng, bài viết trên phải có nguồn tin xuất xứ từ một báo cáo phân tích nội bộ nào đó, thậm chí có thể từ một cơ quan “nghiên cứu chiến lược” sâu xa, được chuyển cho tác giả để “chế tác.”

Và nếu giả thiết trên là đúng, nhiều khả năng tác giả là người trong nội bộ chứ không thuộc về nhóm nhân sĩ, trí thức phản biện độc lập hay cả những trí thức “phản biện trung thành.”

Liên hệ với những bài “phản tuyên truyền” trong thời gian gần đây, giả thiết về nguồn tin và gốc gác nội bộ của bài viết lẫn tác giả chiếm xác suất cao nhất.

Những câu hỏi còn lại chỉ là tác giả thuộc “phe” nào, và bài viết tung ra nhằm mục tiêu gì.

“Những nhân sự cứng rắn với Trung Quốc”?

Trong bài “Những gì diễn ra sau chuyến đi Bắc Kinh của phái viên Lê Hồng Anh,” có thể lược dẫn một số đánh giá và phân tích đáng chú ý:

“Ðiều này đồng nghĩa với việc vô hiệu hóa các phản ứng mạnh của thủ tướng và các cơ quan của chính phủ vừa qua có những tuyên bố cứng rắn đối với Trung Quốc” (Ðánh giá câu hỏi 1).

“Nguyễn Phú Trọng tự biến mình thành bầy chuột để tế lễ con mèo như tranh dân gian của nước ta” (Ðánh giá câu hỏi 2).

“Trung Quốc nhân cơ hội này tấn công vào nội bộ ta để phá nhân sự đại hội lần thứ XII, gây áp lực loại những nhân sự có quan điểm cứng rắn với Trung Quốc” (Ðánh giá câu hỏi 3).

“Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng là người chịu trách nhiệm chính, ông cần nghiêm túc kiểm điểm để thấy rõ trách nhiệm của mình đối với việc đối phó với Trung Quốc ở Biển Ðông và việc ngày càng tránh né Việt Nam của Lào, Cambodia để lệ thuộc sâu hơn vào Trung Quốc” (Bình luận câu hỏi 5).

“Mong Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông đọc kỹ các câu hỏi và bình luận của dư luận trong và ngoài nước sau chuyến đi của phái viên Lê Hồng Anh để soi lại mình, vẫn còn đủ thời giờ để điều chỉnh nếu như muốn tránh sự phế truất của đảng viên và nhân dân” (Bình luận câu hỏi 5).

Phần đánh giá và bình luận về những đánh giá và bình luận – tuy riêng rẽ nhưng có tính kết tập trên – xin tùy thuộc độc giả.

Một gợi ý nho nhỏ để góp phần “giải mã” về xuất xứ nguồn tin và tác giả của bài viết trên là văn phong của tác giả này đã đột ngột biến đổi trong đoạn ví Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng “như bầy chuột để tế lễ con mèo” (Ðánh giá câu hỏi 2). “Chuột” cũng là hình ảnh mà một số dư luận viên rất thích dùng để đặc tả những khuôn mặt trong giới đấu tranh dân chủ ở Việt Nam.

Phần bình luận tại câu hỏi 5 về “hướng dẫn kiểm điểm nghiêm túc” đối với ông Nguyễn Phú Trọng cũng dường như muốn hàm ý về một không khí “chi bộ” nào đó sắp tới (có thể Hội Nghị Trung Ương 10?), và có thể không kém phần “nghiêm túc” như Hội Nghị Trung Ương 6 của đảng vào cuối năm 2012 – thời điểm xuất hiện khái niệm “đồng chí X” và tiếp theo hình ảnh tổng bí thư rơi lệ.

Ðể cuối cùng, chúng ta hãy cùng đoán xem “những nhân sự cứng rắn với Trung Quốc” là ai và có “cứng rắn” thật hay không.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một Ông Hồ Khác

Tưởng Năng Tiến

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, lên án nó, để vĩnh viễn không cho nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy. – Trần Đức Thảo

Bên dưới bài viết (“Giới Thiệu Đèn Cù”) của nhà báo Ngô Nhân Dụng, trên trang Dân Luận, có phản hồi này:

Khách Ngô Văn Gạch (khách viếng thăm) gửi lúc 15:09, 03/09/2014 – mã số 127424

VTV tối qua (2-9) đưa tin có ông cựu chiến binh tên là Suất ở Hà Nội sưu tầm những tư liệu về Hồ và trưng bày tại tư gia, nhiều học sinh ở các trường trung học phổ thông đến đấy tham quan coi như được giáo dục về việc học tập về tư tưởng và đạo đức của Hồ.

Giá ai có điều kiện tặng cho ông Suất một cuốn Đèn cù để bổ sung cho việc sưu tầm của ông ta thì tốt quá. Tôi quả quyết rằng nếu có cuốn đó trong nhà ông ta thì khối người bỏ tiền ra mua vé vào xem để hiểu hơn và sâu sắc về tư tưởng “đạo đức” của vị “cha già đời của dân tộc”.

“Khi con người ta bị lừa thì cái rác cũng biến thành thiêng liêng”. Dân ta đã và đang bị lừa. Hồ chính là cái rác, lại rước cái chủ nghĩa Mác Lên nin vào gieo rắc tai họa cho dân tộc trong khi cả thế giới đã vứt chủ nghiã Mác Lênin vào sọt rác rồi.

Sau vài phút lò dò trên mạng thì tôi biết thêm rằng ông cựu chiến binh này tên chính xác là Lương Minh Suốt, 67 tuổi, thương binh chống Mỹ, huy hiệu 40 năm tuổi Ðảng, thuộc chi bộ 3, đảng bộ phường Việt Hưng. Ông là người “có kho tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ,” theo như ghi nhận của báo Nhân Dân – số ra ngày 31 tháng 8 năm 2014.

Ông Lương Minh Suốt cũng cho phóng viên của tờ báo này biết thêm phương cách giáo dục thiếu nhi, bằng hình ảnh:

“Ở gia đình có trẻ nhỏ chưa học chữ, thông qua hình ảnh, các cháu cũng học Bác được. Thí dụ: khi xem ảnh Bác Hồ kính cẩn nhường bát cháo cho cụ già, Bác ngồi tắm rửa cho thiếu nhi ở Việt Bắc… thì các cháu hiểu được Bác Hồ là người kính trọng người già và thương yêu trẻ nhỏ và các cháu có thể kể lại chuyện đó thông qua hình ảnh mà chúng quan sát được.”

Công khó, và lòng kính trọng của ông Suốt đối với bác Hồ khiến tôi nhớ đến một bài viết công phu (“Chủ Tịch Hồ Chí Minh Trên Bìa Tạp Chí Times”) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Ông cũng bỏ thời gian sưu tập, đúc kết những số báo Time viết về “cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta” rồi chuyển dịch sang tiếng Việt Ngữ để chia sẻ với mọi người. Xin được ghi lại vài ba đoạn chính để rộng đương dư luận:

Tạp chí Time của Mỹ ra đời năm 1923. Trong hơn tám mươi lăm năm qua, đã có năm lần hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam xuất hiện trên trang bìa tạp chí này.

Lần thứ nhất chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 22.11.1954 với chủ đề “Hồ Chí Minh của Đông Dương”. Bài viết cho ảnh trang bìa là nói về sự kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc Việt Nam sống dưới chế độ cách mạng của chính quyền Hồ Chí Minh…

Ấn tượng về lãnh tụ Việt Minh được thể hiện qua câu chuyện sau được tác giả bài viết kể lại. Một người dân Việt Nam ở trong thành phố vừa được giải phóng nói rằng mình đã được thấy ông Hồ. “Ông ấy là tấm gương sống của một nhà cách mạng. Ông ấy có một cuộc đời riêng không thể nào chê trách được. Ông ấy ăn mặc giản dị. Ông ấy là một người thông minh. Ông ấy nói tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Trung và tiếng Việt. Ông ấy rất khéo léo: khi ông ấy nói chuyện với mọi người ông ấy nói thẳng thắn để đứa bé lên tám cũng hiểu được. Ông ấy nhẫn nại vô cùng. Ông ấy đã hy sinh cả cuộc đời riêng của mình cho cách mạng…”

Lần thứ hai chân dung Bác Hồ xuất hiện ở bìa số ra ngày 16.7.1965 với chủ đề “Việt Nam: Miền Bắc không khoan nhượng”. Đây là một năm sau ngày đế quốc Mỹ đưa máy bay ra ném bom phá hoại miền Bắc. Bài viết cho ảnh trang bìa mang đầu đề “Bắc Việt Nam: Nhà mác xít trong rừng sâu”.

Chiến tranh ngày càng lan rộng, đất nước phải đương đầu với cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Nhưng “Hà Nội đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh toàn thể. Hồ Chí Minh là thế, vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản, ở tuổi 75, ông là lãnh tụ phe Đỏ già nhất, từng trải nhất…

Lần thứ ba Hồ Chí Minh xuất hiện trên trang bìa của Time là trong bức ảnh chụp chung với nhà ngoại giao Shelepin ở số ra ngày 14.1.1966. Bìa số này đăng hai bức ảnh, phía trên bức này là bức ảnh chụp tổng thống Mỹ Johnson và các cố vấn đang họp bàn tại Ranch. Chủ đề của số này là “Cuộc tấn công hòa bình của Mỹ và sự đáp trả của cộng sản”.

Lần thứ tư chân dung Hồ Chí Minh lại xuất hiện trên trang bìa Time là ở số ra ngày 12.9.1969. Lúc này lãnh tụ Việt Nam vừa mất nên chủ đề của số là “Kỷ nguyên mới ở Bắc Việt Nam” cùng với bài viết cho ảnh trang bìa có tên “Di sản của Hồ Chí Minh…”

Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là dành để tạo ra một nước Việt Nam thống nhất, thoát khỏi sự đô hộ của ngoại bang. Ông được nhân dân cả hai miền Bắc – Nam gọi là “Bác Hồ”. Không một lãnh tụ dân tộc nào còn sống hiện nay ngoan cường đứng vững được lâu đến thế trước mũi súng kẻ thù. Sự qua đời của ông chắc chắn sẽ còn ảnh hưởng lan xa ở Bắc Việt Nam, ở châu Á và ngoài đó nữa”…

Lần thứ năm chân dung Hồ Chí Minh xuất hiện trên bìa Time là ở số ra ngày 12.5.1975, gần hai tuần sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bức ảnh mang dòng chữ “Người chiến thắng” với chủ đề là “Cái gì tiếp theo ở châu Á?”. Bài viết “Lời tạm biệt nghiệt ngã cuối cùng” bình luận về thắng lợi của nhân dân Việt Nam: “Cuối cùng Việt Cộng và Bắc Việt đã tràn vào Sài gòn, giương cao lá cờ của Chính phủ cách mạng lâm thời, bắt giữ tổng thống Dương Văn Minh và thủ tướng Vũ Văn Mẫu của Nam Việt Nam. Đối với nhiều người Mỹ, đây là cái chết đã chờ đợi bao lâu, nhưng khi nó đến thì vẫn bị choáng váng”…

Hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh năm lần được đưa lên trang bìa của tạp chí Time, trong đó bốn lần là chân dung toàn mặt bìa, cho thấy mối quan tâm của dư luận Mỹ nói riêng, thế giới nói chung, đối với cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu của chúng ta, cũng như đối với quá trình lịch sử của nước Việt Nam hiện đại. Ngoài ra, Việt Nam còn là chủ đề xuất hiện trên nhiều số khác của Time.

Phạm Xuân Nguyên – Hà Nội 15.8.2009

Năm năm sau, vào ngày 14 tháng 9 năm 2014, thính giả của BBC lại có dịp được nghe nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội) bình luận về tác phẩm Đèn Cù của nhà văn Trần Đĩnh:

“… tôi nghĩ là những cuốn như Đèn Cù là nên có và cần có, ở những người có vị trí như tác giả Trần Đĩnh, thì những thông tin, những sự thực được nói ra nó mang tính khả tín rất cao, và nó được bảo đảm bằng thẩm quyền mà ông đã nói ra.”

“Cho nên độ xác thực, đáng tín cậy là sẽ cao, và như vậy nó cần thiết để soi rọi vào nhiều mặt, nhiều góc của lịch sử Việt Nam hiện đại.”

Tôi cũng có cái may mắn được đọc qua tác phẩm này nên vô cùng tâm đắc với quan niệm (phóng khoáng) của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Tuy nhiên, lòng vẫn không khỏi băn khoăn khi nghĩ đến hình ảnh của một ông Hồ Chí Minh chí thánh (“vị thánh râu dài của nước Việt Nam cộng sản”) qua trí “tưởng tượng” của ban biên tập báo Time và một ông Hồ hoàn toàn khác – với “những góc khuất về đời tư” và “nhân cách” – theo như cách diễn đạt của BBC:

Trong cuốn sách mới được xuất bản ở hải ngoại, tác giả Trần Đĩnh đã đề cập nhiều chi tiết được cho là có tính ‘thâm cung bí sử’ về nội bộ Đảng Cộng sản, trong đó có nhiều thông tin liên quan các ‘góc khuất’ về nhân cách, đời tư của nhiều lãnh tụ, từ ông Hồ Chí Minh, tới ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ v.v…

Về cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số thông tin trong cuốn sách gợi ý rằng ông Hồ chính là người đã cải trang ‘đeo râu’ theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam. Và chính lãnh tụ này là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm, cũng như đã đả kích giai cấp địa chủ, chứ không phải là ‘vô can’, hay ‘không hề biết’ như vẫn được báo chí và lịch sử đảng Việt Nam ‘tuyên truyền’, giải thích.”

Một số chi tiết khác gợi ý cố lãnh tụ này có các mối quan hệ với một số phụ nữ, điều chưa bao giờ được các tài liệu, văn kiện, báo chí của Đảng Cộng sản Việt Nam công bố hoặc đề cập.

Khi được hỏi về tính chân thực và căn cứ của các ‘sự thực’ này, nhà văn Trần Đĩnh nói:

“Tôi sống lúc ấy thì tôi biết chứ, ví dụ như chuyện Cụ có những cái này, cái nọ thì bạn bè tôi nói, thì biết thôi. Chứ còn bây giờ nói lại thì thực là khó.

Quả là “khó” thật! Thí dụ như chuyện “ông Hồ chính là người đã “cải trang” theo dõi vụ đấu tố địa chủ đầu tiên ở Việt Nam” thì Trần Đĩnh không thấy tận mắt mà chỉ nghe nói lại nên độ khả tín, tất nhiên, phải có phần giới hạn.

Nhưng việc ông Hồ Chí Minh “chính là người đã trực tiếp ‘viết báo kết tội đích danh’ một nữ địa chủ kháng chiến, bà Nguyễn Thị Năm (trên báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng 7 năm 1953) thì đã được kiểm chứng và trở thành một sự kiện hiển nhiên, vô phương chối bỏ.

Bài (“Địa Chủ Ác Ghê”) vỏn vẹn chỉ có 487 chữ (tính luôn cả tựa) nhưng lột tả được chân dung đích thực nhà cách mạng Hồ Chí Minh rõ hơn 5 bài viết về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chủ Tịch – trải dài từ năm 1954 đến 1975 – trên tuần báo Time. Bài báo này cũng làm “nhạt phai” ý nghĩa của (chừng) năm trăm ngàn bài báo khác – tràn ngập trên hệ thống báo chí của Đảng và Nhà Nước, gần hai phần ba thế kỷ qua – về tấm gương đạo đức của bác Hồ.

Thời gian đã hé lộ ra một ông Hồ khác. Và tôi mong ước cũng sẽ có lúc nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên bỏ công sưu tập để chia sẻ với độc giả về một ông Hồ mới này.

Đây là một ước mong hết sức chân thành và khẩn thiết. Hoạ cộng sản rồi cũng sẽ qua thôi nhưng dân Việt vẫn còn phải sống lâu với di sản Marx, cũng như di sản của Hồ Chí Minh. Nếu những di sản này được “xử lý” một cách đúng đắn thì di hoạ, chắc chắn, sẽ giảm thiểu được rất nhiều.

Dân Hồng Kông luyến tiếc thời là thuộc địa của Anh


Cờ cũ của Hồng Kông phấp phới trong đoàn biểu tình
Anh đã trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc được 17 năm, khoảng thời gian gần bằng một thế hệ. Trái với truyền thông Bắc Kinh rêu rao Hồng Kông hạnh phúc khi về với mẫu quốc, những người Hồng Kông lúc này đang luyến tiếc thời họ bị coi là thuộc địa của Anh.

Cờ Anh phấp phới trên tay người Hồng Kông

Trong hơn 150 năm cai trị Hồng Kông, Anh đã biến Hương Cảng từ một vùng đất hoang sơ trở thành một đô thị phồn thịnh với mức sống cao hàng đầu thế giới. Khi trở lại với Trung Quốc, người Hồng Kông cảm thấy luyến tiếc thời họ sống dưới cái mác thuộc địa Anh, nhưng thực ra quyền con người được đảm bảo đầy đủ.

Người ta có thể thấy sự luyến tiếc của người Hồng Kông khi họ tham gia cuộc biểu tình đòi cải cách dân chủ hồi đầu tháng 7. Có đến 500.000 người tham gia, đủ mọi thế hệ từ già đến trẻ, từ những người sống dưới sự cai trị của nước Anh đến những người sinh sau 1997.

Một hình ảnh đáng gọi là “cái tát” với Bắc Kinh chính là việc người Hồng Kông mang lá cờ khi họ nằm trong liên hiệp Anh đi biểu tình chứ không thèm mang lá cờ bông hoa Dương Tử Kinh vốn được coi là cờ chính thức của Hồng Kông sau khi trở về Trung Quốc.

Trang Wall Street Journal cho biết có cả những người trẻ tuổi mang luôn cờ của Vương quốc Anh đi vẫy trong đoàn biểu tình. Đó là thông điệp cho thấy họ nhớ nước Anh đến mức nào và tất nhiên độ nhớ Anh tỷ lệ thuận với độ chán ghét Bắc Kinh.

Những người đó chỉ khoảng 20 tuổi và họ không có ý niệm gì về cuộc sống của Hồng Kông trước năm 1997. Nhưng thế hệ đi trước có thể đã truyền cho họ cảm hứng về một xã hội Hồng Kông trong quá khứ còn tự do và đáng mơ ước hơn phương Tây lúc này.

Đừng mong Bắc Kinh thay đổi thái độ

Không hiểu quan chức chóp bu sẽ nghĩ gì khi người biểu tình Hồng Kông lại mang ảnh của Nữ hoàng Anh Elizabeth đệ nhị một cách tôn kính, trong khi họ lại đốt ảnh ông Leung Chun-ying, người bị châm biếm là “quan thái thú” của Bắc Kinh. Ông Leung là người được Bắc Kinh cử lãnh đạo Hồng Kông trong khi dân chúng lại không ưa ông này.


Cờ Anh và ảnh nữ hoàng Anh được nâng niu
Ảnh của “thái thú” Leung bị đốt cháy
Thật ra những hành động phản kháng trên chỉ thể hiện sự bất mãn của người dân Hồng Kông trước áp đặt ngột ngạt của Bắc Kinh. Khi tiếp nhận Hồng Kông năm 1997 từ Anh, Trung Quốc hứa sau 20 năm sẽ cho người dân Hồng Kông tự do lựa chọn người lãnh đạo. TQ cũng hứa tương tự với Macau.Nhưng giờ thì Bắc Kinh đang muốn nuốt lời hứa. Họ muốn người dân Hồng Kông bỏ phiếu bầu lãnh đạo của mình, nhưng các ứng cử viên lại phải do “hội đồng” gồm những người thân Bắc Kinh đề cử.

Ngoài ra, các ứng viên phải có phẩm chất “yêu nước”, mà theo cách hiểu rõ ràng hơn là “yêu Bắc Kinh”. Giữa tháng 6, Bắc Kinh ra cáo bạch khẳng định rõ không thể có dân chủ đầy đủ tại Hồng Kông như người dân ở đây mong muốn.

Đã đến lúc Bắc Kinh nên xem lại chính sách của họ với Hồng Kông, Macau. Tuy nhiên, sẽ khó trông chờ thái độ tích cực hơn từ Bắc Kinh khi họ vẫn đang kiên quyết muốn thực hiện các tham vọng của mình bất chấp lý lẽ. Đến ngay cả luật pháp quốc tế, Bắc Kinh còn chà đạp thì đâu dễ họ thay cách hành xử với Hồng Kông hay Macau.

Anh Tú (tổng hợp)