Thấy gì qua thu nhập 64 tỉ đồng của Chủ tịch tỉnh Bình Dương?

Hưng Long
– Câu chuyện về tài sản của ông Lê Thanh Cung, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương được Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương xác nhận. Theo đó, vị lãnh đạo này sở hữu hàng chục hécta cao su gây sửng sốt trong dư luận. Hơn hết, hàng chục hécta đất cao su đã được cấp trái phép.

Hàng chục hécta đất vào tay ông chủ tịch như thế nào?

Ngày 4-9, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương đã tổ chức họp giao ban báo chí quý III/2014. Ông Nguyễn Minh Giao, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương xác nhận, Chủ tịch UBND tỉnh Lê Thanh Cung hiện đang sở hữu vài chục hécta cao su. Ông Giao đã đưa ra thông tin khiến dư luận như “xóa tan” ngờ vực về việc ông Lê Thanh Cung đang sở hữu lô đất cao su hơn 100ha. Cũng tại buổi giao ban báo chí này, ông Giao còn khẳng định, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2004, ông Cung có thu nhập 50 triệu đồng/ngày. Đối với người dân Việt Nam, thu nhập của Chủ tịch tỉnh Bình Dương thuộc hàng “khủng”.

Nhưng nếu như vườn cao su ông Cung có được từ thừa kế của người thân hay do lao động bằng năng lực thì chắc hẳn chẳng ai quan tâm. Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ tịch Hội Luật gia TP HCM phân tích: UBND huyện Bến Cát đã có sai phạm khi giao đất nông nghiệp cho Phó chủ tịch nay là Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương sử dụng.


Biệt thự của ông Lê Thanh CungThời điểm từ tháng 1-1997 đến tháng 12-2000, hàng chục hécta cao su bỗng dưng như từ trên trời rơi xuống theo “quyền lực” của lãnh đạo tỉnh. Lô đất của ông Cung lại “nằm gọn” trong 980,137ha của Công ty Chế biến cây công, nông nghiệp xuất khẩu tỉnh Bình Dương (tên viết tắt: Công ty Sobexco). Hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ cho đến khi công ty này giải thể, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản thu hồi đất của Công ty Sobexco số đất trên. Trong đó, giao cho dân đã nhận khoán trước: 320,24ha; bán thẳng vườn cây cao su cho người sử dụng 306,979ha; đấu giá vườn cây cao su: 352ha; đấu giá đất chuyên dùng: 0,918ha.

Ông Cung cũng là “dân” nên được giao phần đất nằm trong diện “giao cho dân đã nhận khoán trước: 320,24ha” thuộc khu đất lâm trường Long Nguyên tại ấp 8, xã Long Nguyên (huyện Bến Cát). Ngày 9-9-2003, UBND tỉnh có công văn về việc chấp thuận giao 320,7ha đất trước đây do Công ty Sobexco quản lý cho UBND huyện Bến Cát quản lý và xem xét giao đất sản xuất nông nghiệp cho người dân có nhu cầu theo thẩm quyền.

Căn cứ vào công văn nói trên của UBND tỉnh, UBND huyện Bến Cát đã thực hiện giao đất theo thẩm quyền trên cơ sở sổ xanh đổi sổ đỏ. Không quá ngạc nhiên khi, ông Phó chủ tịch Cung cũng nằm trong danh sách các hộ dân được giao đất. Diện tích đo đạc lại khi cấp sổ đỏ là 320,24ha. Trong đó, cấp sổ đỏ cho 112 hộ dân: 283,53ha; diện tích hành lang đường: 9,61ha; đất khu dân cư ấp 8 Long Nguyên: 24,3ha; đất bãi rác: 2,8 ha.

Trong 112 hộ dân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 283,53ha, ông Cung đứng tên hàng chục hécta đất. Một Phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương thời bấy giờ từng phải làm giải trình trong việc phân cấp đất của Công ty Sobexco đã để lại bút tích về việc có ít nhất 3 cán bộ được cấp đất trong đợt này. Bản viết tay thể hiện: “Cán bộ: 9 Cung – Phó chủ tịch, Út Đoàn – Phó chủ tịch, Út Tuyền (Ban TC)”. Báo cáo Kết quả Thanh tra của tỉnh Bình Dương có đề cập đến diện tích đất mà ông Cung được giao nhưng không nhắc đến việc thu hồi phần đất của ông Lê Thanh Cung.

Cần làm rõ nguồn gốc đất và thu nhập

Trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới, Luật sư Nguyễn Văn Hậu đưa ra dẫn chứng, căn cứ vào thời điểm xảy ra sự việc và các quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28-8-1999 của Chính phủ để xác định tính pháp lý của các quyết định giao đất nông nghiệp của UBND huyện Bến Cát đối với ông Lê Thanh Cung. Vị Phó chủ tịch tỉnh được giao hàng chục hécta đất cao su là bất thường, trái với quy định của pháp luật.

Điều 8 Nghị định 85/NĐ-CP quy định: “Đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và bộ đội về hưu hoặc nghỉ mất sức đang hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên, nếu có khả năng sản xuất, có nhu cầu sử dụng đất, thì UBND xã, phường, thị trấn căn cứ vào quỹ đất ở tại địa phương và tùy theo đối tượng cụ thể mà cho họ được thuê có thời hạn một số đất để sản xuất…”.


Vườn cao su của gia đình ông CungCăn cứ theo quy định trên, UBND huyện Bến Cát giao đất nông nghiệp cho ông Lê Thanh Cung là vi phạm về đối tượng được giao đất. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định 85/1999/NĐ-CP thì chỉ hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ hoạt động sản xuất đó, được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận, thì được Nhà nước giao đất trong hạn mức để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối và không thu tiền sử dụng đất.

Luật sư Hậu khẳng định: “Khi đó, ông Lê Thanh Cung đang là Phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương nên không thể là đối tượng để được giao đất nông nghiệp theo quy định trên”. Quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định 85/1999/NĐ-CP thì các đối tượng là cán bộ, công chức Nhà nước đang sinh sống tại địa phương chỉ được thuê đất từ quỹ đất công ích của UBND xã để sử dụng vào mục đích nông nghiệp.

Ngoài ra, UBND huyện Bến Cát còn vi phạm về hạn mức giao đất nông nghiệp. Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 85/1999/NĐ-CP thì hạn mức giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm là không quá 10ha. Do đó, việc giao 50ha đất nông nghiệp trồng cây lâu năm cho một cá nhân, hộ gia đình là trái quy định pháp luật.

Ngày 26-12-2000, Tổng cục Thuế đã có công văn trả lời về chính sách thu đối với Công ty Sobexco cho Cục Thuế tỉnh Bình Dương. Khi công ty không có nhu cầu sử dụng đất thì diện tích đất nông nghiệp phải được trả lại cho Nhà nước để giao cho các đơn vị khác sử dụng theo hình thức giao đất hoặc cho thuê đất. Công ty chỉ được phép bán giá trị tài sản trên đất như: cây cao su và các cơ sở hạ tầng khác nếu có.

Luật sư Hồ Nguyên Lễ, Trưởng văn phòng Luật sư Luật Tín Nghĩa đưa ra ý kiến về việc thu thuế thu nhập của ông Lê Thanh Cung. Nếu ông Lê Thanh Cung không nộp thuế thu nhập cá nhân là hành vi phạm pháp, cần xử lý!

Luật sư Lễ đánh giá: “Một cá nhân thu nhập trên 64 tỉ đồng trong 5 năm, đây là một khoản thu nhập “khủng” nên theo tôi cơ quan thuế phải kiểm tra chặt chẽ về trách nhiệm nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (trước đây) hoặc nộp thuế thu nhập cá nhân (hiện nay)”. Trách nhiệm của người nộp thuế là kê khai nộp thuế phải rõ ràng, đầy đủ nộp thuế vào ngân sách Nhà nước và quyết toán thuế đối với mọi khoản thu nhập theo quy định của pháp luật về quản lý thuế (Điều 24 Luật Thuế thu nhập cá nhân).

Nếu cơ quan quản lý thuế phát hiện cá nhân, tổ chức có vi phạm pháp luật về thuế thì có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật và kiến nghị cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh tội phạm vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật và thông báo tiến độ, kết quả xử lý vụ việc cho cơ quan quản lý thuế. (Điều 9, Điều 13 Luật Quản lý thuế).

Người Việt hải ngoại ‘càng vững mạnh’

Lễ khánh thành tượng Đức Thánh Trần tại Little Saigon đầu tháng 9

Gần đây có quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đã dùng danh xưng của tượng là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần.

Khác với các nhân vật lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ, còn được coi là đã hiển linh để phù hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết

Sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, của họ, điển hình là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ phải bỏ xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô thị, những polis mới ở nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.

Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi này. Điều đáng để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.

Chiến tranh kết thúc, nhiều người Việt bỏ nước ra đi

Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.

Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình. Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó.

Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt.

Người Việt nay có cộng đồng lớn tại Mỹ

Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc của chính mình.

Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đôla hàng năm đã được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước. Có điều thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triẻn, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ đưa các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ võ nhưng vị này không hề quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước mà rất nhiều bài thuyết trình, khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyên truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua.

Chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó.

Sự hình thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”

Cộng Đồng của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính ngài.

Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng vì tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.

Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Phạm Cao Dương lấy bằng tiến sĩ sử học ở Đại học Paris, và dạy ở nhiều đại học tại Sài Gòn trước 1975. Sau khi sang Mỹ, ông dạy về lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California trước khi về hưu.

Huy chương toán quốc tế đang làm gì, ở đâu?

228 lượt học sinh Việt Nam dự thi Olympic Toán quốc tế (IMO) trong 40 năm qua đã giành 52 huy chương vàng, 94 huy chương bạc, 67 huy chương đồng, 1 giải thưởng đặc biệt.

Ngoài ‘nhân vật” đã trở nên quen thuộc Ngô Bảo Châu, những vàng, bạc, đồng khác trong 40 năm qua hiện đang làm gì, ở đâu?TS Hoàng Lê Minh – huy chương vàng IMO đầu tiên của Việt Nam năm 1974 – nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành Toán – Tin tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva năm 1984. Hiện tại ông Minh là một chuyên gia CNTT, đã tham gia nhiều dự án, đề tài cấp nhà nước về CNTT và tham gia tư vấn các vấn đề liên quan đến Điện toán đám mây, Phần mềm nguồn mở… Ông Minh đã có kinh nghiệm nhiều năm công tác tại các trường Đại học và Viện nghiên cứu ở châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Ông đã từng giữ chức vụ Trưởng Bộ môn Ứng dụng Tin học – Đại học Tổng hợp TPHCM (năm 1995).

Ngoài ra, ông Hoàng Lê Minh từng có kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo tại nhiều cơ quan khác như: Giám đốc Trung tâm Phần mềm ĐH Quốc gia TPHCM; Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM; Trưởng Ban Quản lý các dự án CNTT TPHCM; Phó Giám đốc Sở Bưu chính, Viễn thông TPHCM. Hiện ông đang giữ chức vụ Viện trưởng, Viện Công nghiệp phần mềm và Nội dung số Việt Nam, thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
  TS Hoàng Lê Minh

ThS Phan Vũ Diễm Hằng – nữ sinh Việt Nam đầu tiên đoạt giả ba tại IMO năm 1975. Chị là cháu nội của cụ Phan Kế Toại, Phó Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhiệm kỳ 1955 – 1961.

Sau khi đạt giải Olympic toán năm 1975, chị học đại học ở Liên Xô, tại MGU. Ra trường thì về công tác tại Viện Vệ sinh Dịch tễ TW. Công tác tại đây được 16 năm, năm 1997, chị xin ra ngoài, làm cho chương trình phòng chống AIDS của Liên Hợp Quốc, rồi cho những chương trình, dự án khác nhau. Hiện chị làm tư vấn độc lập về y tế công cộng.

 Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
  Chị Phan Vũ Diễm Hằng

TS Nguyễn Thị Thiều Hoa – nữ thí sinh đầu tiên của Việt Nam đoạt HCB tại IMO năm 1976. Chị lấy bằng Tiến sĩ khoa học tại Viện Toán học (thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ). Chị là giáo sư đại học tại Mỹ.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
Chị Thiều Hoa được chào đón khi chiến thắng từ Vienna trở về

GS Vũ Kim Tuấn – huy chương Bạc IMO năm 1978. Chỉ một năm sau khi tốt nghiệp ĐHTH Belarus (Minsk) năm 1984, anh bảo vệ TS năm 1985, và hai năm sau là TSKH khi vừa 26 tuổi.

Từ năm 1989 – 1994, anh làm việc tại Viện Toán học. Anh nhận học bổng  Humboldt danh giá năm 1994. Các năm 1994-2003 anh lần lượt giữ chức PGS và GS của ĐHTH Cô-oet. Từ năm 2003 đến nay, anh là giáo sư ở Khoa Toán Đại học West Georgia (Mỹ). Anh là chuyên gia về biến đổi tích phân, các hàm đặc biệt và Giải tích số.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
GS Vũ Kim Tuấn

GS  Đỗ Đức Thái – huy chương Đồng IMO năm 1978. Anh không có cơ hội đi học đại học tại nước ngoài. Năm 1993 anh bảo vệ luận án Tiến sĩ tại ĐHSP Hà Nội dưới sự hướng dẫn của GS-TSKH Nguyễn Văn Khuê. Hai năm sau đó anh bảo vệ thành công luận án TSKH cũng tại ĐHSP Hà Nội. Anh là người trẻ nhất trong đợt trong học hàm phó giáo sư năm 1996 và cũng là người trẻ nhất trong đợt trong học hàm giáo sư năm 2003. Hiện anh là trưởng khoa Toán của ĐHSP Hà Nội.

Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
GS Đỗ Đức Thái

TS Lê Bá Khánh Trình, người nổi tiếng do đoạt giải nhất với số điểm tuyệt đối 42/42 và giải đặc biệt về lời giải độc đáo tại IMO 1979 ở Luân Đôn (Vương quốc Anh). Sau ngày nhận giải, Lê Bá Khánh Trình được tuyển thẳng vào khoa toán – cơ, Trường đại học Tổng hợp Moskva. Tiếp đến, ông làm nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của Viện sĩ Andrey Alexandrovich Gontrar (Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga). Bốn năm sau, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ rồi trở về Việt Nam làm giảng viên Khoa toán – tin, Trường đại học Khoa học tự nhiên.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
  TS Lê Bá Khánh Trình

GS Lê Tự Quốc Thắng – Huy chương vàng với số điểm tuyệt đối 42/42 tại IMO năm 1982. Ông sinh năm 1965 tại Huế trong một gia đình có truyền thống về toán, cha là ông Lê Tự Hỷ từng là giảng viên khoa toán tại Đại học Huế, mẹ là bà Đinh Thị Quý Hương là giáo viên dạy toán cấp 3.

Ông theo học khoa toán tại trường ĐH Tổng hợp Quốc gia Moskva, Nga. Trong 8 năm học tại đây ông đã 2 lần đoạt giải nhất nghiên cứu khoa học của trường. Năm 1991, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ chuyên ngành toán hình học topo.

Từ năm 1992 – 1994 ông đã trải qua các vị trí công tác tại tại Viện toán học Steklov (Nga); Viện Toán học Max – Planck (Đức); Viện Vật lý lý thuyết Trieste (Ý); Đại học Tokyo (Nhật Bản).

Từ 1994 đến 1996 ông là giáo sư trợ lý tại Đại học Bang New York (State University of New York, SUNY) ở Buffalo, New York. Ông còn là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Osaka, Viện Mittag – Leffler, Thụy Ðiển, Viện nghiên cứu khoa học toán tại Tokyo, Nhật Bản, Đại học Grenoble, Đại học Paris VII, Pháp, Đại học Genève, Thuỵ Sĩ…

Từ tháng 1/2004 đến nay ông là giáo sư chính thức của Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
GS Lê Tự Quốc Thắng

GS Đàm Thanh Sơn – huy chương vàng điểm tuyệt đối IMO 1984 – tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva năm 1991 và nhận bằng tiến sỹ vật lý tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Moskva năm 1995.

Từ năm 1995-1999: Ông là học giả hậu tiến sĩ (postdoc) tại Viện Đại học Washington-Seattle và Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).

Từ năm 1999-2002: Ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại Viện Đại học Columbia, đồng thời là học giả (fellow) ở Trung tâm Nghiên cứu RIKEN-BNL, Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven (BNL), Hoa Kỳ. Từ năm 2002, ông quay lại Seattle, được bổ nhiệm chức giáo sư tại Khoa Vật lý của Viện Đại học Washington và đồng thời là học giả cao cấp (Senior Fellow) tại Viện Vật lý Hạt nhân trực thuộc viện đại học này.

Từ tháng 9/2012, ông là giáo sư (University Professor) tại Viện Đại học Chicago, Hoa Kỳ.

Theo thông báo ngày 29/4/2014 của Hàn lâm viện Khoa học Hoa Kỳ (National Academy of Sciences – USA, viết tắt : NAS), Viện này vừa tiến hành bầu ra 84 thành viên mới, trong đó có GS Đàm Thanh Sơn.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
GS Đàm Thanh Sơn

GS Nguyễn Tiến Dũng (sinh năm 1970) – huy chương vàng IMO năm 1985. Anh là thí sinh Việt Nam nhỏ tuổi nhất tham dự IMO khi chưa tròn 15 tuổi. Anh tốt nghiệp ĐHTH Matxcơva về Toán năm 1991. Sau đó anh nghiên cứu  tại ICTP 2 năm, giữa chừng  về lại ĐHTH Matxcơva bảo vệ luận án TS. Năm 1995,  được tuyển làm nghiên cứu viên của CNRS (TT khoa học quốc gia của Pháp). Anh bảo vệ TSKH (habilitation) năm 2001 và ngay sau đó được nhận làm GS tại ĐHTH Toulouse (Pháp).

 Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
  GS Nguyễn Tiến Dũng

PGS Phan Thị Hà Dương – giành HCĐ IMO năm 1990. Cùng năm đó, chị trở thành SV Khoa Toán – Cơ – Tin, ĐH Tổng hợp Hà Nội. Hết năm thứ 3, Hà Dương được học bổng của Chính phủ Pháp. Với hồ sơ đẹp, chị được xét đặc cách vào học tiếp năm thứ 4 (điều hy hữu xảy ra) tại ĐH Paris 6.

Chị bằng cao học về Hình học đại số năm 1995. Nhưng sau đó chị chọn ngã rẽ khác – sang tin học. Tháng 1/1999, luận văn Tiến sỹ của chị được Hội đồng chấm luận án ĐH Paris 7 xếp vào loại rất xuất sắc (très honorable). Đặc biệt, năm đó, tin chị trúng tuyển vị trí Phó Giáo sư tại trường này gây bất ngờ lớn: Năm đó, Khoa Tin học, ĐH Paris 7 cần tuyển 3 Phó GS mà có tới 100 đơn. Và, cô tiến sỹ trẻ đã vượt qua hầu hết những người lớn tuổi và kinh nghiệm hơn mình để xếp ở vị trí số 1.

Tháng 8/2005, chị rời vị trí là niềm ao ước của nhiều người để trở về làm việc tại Viện Toán học VN, cho đến nay.

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
  PGS Phan Thị Hà Dương

Lê Hùng Việt Bảo – giành hai huy chương vàng hai năm liên tiếp trong các kỳ IMO các năm 2003 và 2004, là một trong ba thí sinh giành huy chương vàng với số điểm tuyệt đối (42/42) IMO năm 2003.

Năm 2004, Việt Bảo được tuyển thẳng vào lớp “Cử nhân Toán tài năng” của trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội. Năm 2008, Bảo tốt nghiệp ngành Toán Đại học Cambridge, nước Anh. Hiện nay Bảo đang làm nghiên cứu sinh tại khoa Toán đại học Harvard, Hoa Kỳ, với Richard Taylor (học trò của Andrew Wiles).

  Hoàng Lê Minh, Lê Bá Khánh Trình, Đàm Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu, Lê Hùng Việt Bảo, Đỗ Đức Thái, Olympic Toán quốc tế, IMO, Phan Vũ Diễm Hằng, Phan Thị Hà Dương
Chủ tịch nước Trần Đức Lương tặng quà cho Lê Hùng Việt Bảo
  • Ngân Anh (tổng hợp)

Gần 5,000 năm văn hiến, 90 triệu dân, vị trí Việt Nam ở đâu?

cyclistsHiện nay trên thế giới có khoảng 195 quốc gia. Nếu tính mật độ dân số, VN đứng hàng thứ 14, của thế giới, hàng thứ 3 của Đông Nam Á, một trong 13 nước có mật độ đông dân nhất, trên toàn cầu, là “cường quốc” về dân số. Nếu ví đất nước như một con thuyền, thì VN đã khởi hành từ 5,000 năm, xét về phương diện kỹ thuật hoặc kinh tế, con thuyền ấy đã đi tới đâu?

Về kỹ thuật: Trên thị trường thế giới, chưa thấy những mặt hàng nhỏ, thông dụng như: Đồng hồ, xe máy (loại 2 bánh), máy bơm nước, máy xới, máy cắt cỏ… của VN, không chỉ chưa có hàng xuất khẩu, người tiêu dùng trong nước còn phải mua của ngoại quốc, VN có nhiều công ty may dệt, có hàng bán ra nước ngoài, nhưng chưa biết chủ nhân ông là người mình, hay ngoại quốc đầu tư? Có hoàn toàn tự túc vật tư sản xuất, hay phải lệ thuộc ngoại nhập?

Sản xuất các loại máy như trên, cũng còn là ước mơ qúa cao xa, mới đây tập đoàn Samsung, Nam Triều Tiên, cho VN một hợp đồng béo bỡ, họ yêu cầu làm những phụ kiện nhỏ nhặt, để cung ứng cho Galaxy S4 và Tab như: Sạc bin, tai nghe, (bluetooth) võ nhựa, cáp USB…nhưng VN không thể đáp ứng nổi.

Một đất nước, không tự sản xuất, trước hết để sử dụng, sau đó xuất khẩu, đương nhiên là nước nghèo, bởi vậy không có gì lạ, khi xét về Tổng GDP (Gross Domestic Product) của Việt Nam ở Đông Nam Á đứng thứ 5/11 nước, và đứng thứ 50 trên thế giới, với 170 tỷ USD ( Bảng xếp hạng của năm 2012). “Do GDP bình quân đầu người tính bằng USD còn quá thấp, nên Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về quy mô tuyệt đối, trong khi tốc độ tăng GDP tính theo giá so sánh mấy năm nay đã tăng chậm lại”.
Điều gì làm con thuyền, khởi hành đã 5,000 năm, với chín chục triệu dân, mà thường nói: “Dân ta cần cù, nhẫn nại, thông minh” phải ì ạch, chậm tiến như vậy? Xin rút ra các nguyên nhân sau:

1- Do triền miên chiến tranh và thiên tai.
2- Có thể do văn hóa, có điều gì chưa ổn?
3- Cộng Sản làm đất nước chậm tiến, tụt hậu?

Nguyên nhân 1 khỏi bàn, vì ai cũng thấy. Nguyên nhân 2, đóng vai trò chính yếu, làm cho con thuyền bị trì trệ. Trong văn hóa người mình có gì đó chưa ổn, ví dụ: Bảo thủ, hoặc không cùng lòng gánh vác việc chung?

Bảo thủ: Thời vua Tự Đức, chỉ biết có nước Tàu trên hết, còn lại là bọn “mọi trắng,” ngoại giao nhất định “bế môn tỏa cảng,” không bang giao với nước khác, chỉ biết có Tàu là trên hết và duy nhất, thậm chí Pháp xâm lược Việt Nam, đồng thời tấn công luôn Trung Hoa, tự họ chưa giữ được nước, vua Tự Đức còn sai sứ đi cầu viện Trung Hoa! Nhiều nhà canh tân như: Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định, dâng sớ xin cải cách, vua và quần thần nhất quyết bác khước. Cùng thời này, bên Nhật, vua Minh Trị Thiên Hoàng, đã quyết liệt canh tân đất nước. Ông được coi là một vị minh quân có công lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, đã canh tân và đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia hiện đại, thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của các nước cường quốc phương Tây, giữa lúc chủ nghĩa thực dân đang phát triển mạnh.

Nói về bảo thủ, đưa ra hai nhà vua Tự Đức và Minh Trị Thiên Hoàng, chưa đủ để minh định, chúng ta tìm lại lịch sử tranh đấu tại Quảng Nam, trong biến cố “Loạn đầu bào.” Những nhà cách mạng đương thời, rất vất vả để kêu gọi người dân theo mới, hoặc trong những tác phẩm Tự Lực Văn Đoàn, để nhìn nhận sự thật tính bảo thủ của người Việt mình, từ gia đình tới xã hội.

Không cùng lòng gánh vác việc chung:

Hiện nay từ trong nước, tới hải ngoại phần đông xem việc tranh đấu chống CS độc tài, là việc riêng của ai đó, khái niệm còn khá mơ hồ!

Trong nước:

Rõ ràng “Hội nghị thành đô” là hiệp ước bán nước, tệ hơn hòa ước Patenôtre, hòa ước Giáp Thân 1884, nước Việt rơi vào tay Pháp, hình như người dân không nghĩ rằng thời gian sẽ có năm 2020, lịch VN sẽ “kinh qua” năm khốn nạn 2020 một cách “thần thánh”!? Đại đa số tuổi trẻ hiện thời chỉ cuồng nhiệt theo bóng đá, hoặc hâm mộ những tên lạ hoắc, trong phim ảnh, hay ca nhạc. Được mấy ai quan tâm đến nước non!? Cho rằng 2020 là xa xôi, thử hỏi Vũng Án – Hà Tỉnh đất đai rộng bao nhiêu, để tiếp nhận mười ngàn lao động Tàu? Mười ngàn chỉ là con số của “nhà nước,” thực tế ai biết chính xác? Hầu hết các tỉnh thành, đều có phố Tàu, nhìn lại Bôxit, chạnh nghĩ tới bầy chim sẻ, vui đùa dưới mái hiên, mà không nghĩ tới cảnh nhà cháy, tổ vỡ. Những đàn ông Tàu, cùi hủi, nghèo khó không lấy vợ được nơi bản xứ, lại rủng rỉnh qua VN mua gái, sau mười năm nữa, đàn ông con trai Việt, tìm vợ nơi đâu?

Hải ngoại:

Tuy chống Cộng miệt mài, nhưng đoàn người đấu tranh mỗi ngày sẽ ngắn lại, cũng khó bền bỉ, vì vắng bóng tuổi trẻ, trước tiên họ lo ăn học, vừa làm thêm, vừa học, thời gian đâu còn, hết học thời gian sau đó lấy vợ, sinh con, bận bịu với gia đình, ở hải ngoại có được mảnh bằng, chưa được yên thân, mà phải học nữa để tiếp thu tài liệu mới, phần nhiều những bằng cấp đòi hỏi hằng năm thi lại (renewal), nếu không, mảnh bằng đạt được năm nào, kể như hết hạn. Thực tế khách quan như vậy, cũng không thể không thấy từ trong văn hóa, đã không nghĩ về việc chung. Sau thành công trên xứ người, tuổi trẻ lo ngắm hoa chung quanh ngôi nhà đồ sộ, khoác chiếc khăn tắm, dạo quanh hồ bơi, dư giờ hơn nữa đưa gia đình đi chơi ngoài đảo, sòng bài… gọi là enjoy. Mấy ai suy tư: Vì sao mình lại có mặt nơi này? Tổ quốc mình ở đâu? Hiện tình ra sao, thời sự VN họ cũng mơ màng, như một xứ sỡ nào đó bên Công Gô! (Congo) vài phòng mạch bác sĩ người Việt, có giá sách trang trọng, nhưng chỉ để dành cho báo Time, Atlanta journal, New York Time… báo chữ Việt không có cửa, người đọc khom người xuống dưới nền nhà mà lấy, bịnh nhân của họ, tất nhiên người Việt rặt ròng, không một bóng dáng “Tây.”

Tuy vậy, kể từ khi đặt chân trên đất Mỹ, ngày 31 tháng 8/ 1996, đến nay 18 năm, 13 ngày, tôi không thể quên những khuôn mặt trẻ, trí thức dấn thân tại Atlanta – Georgia, nơi có chừng vài chục bạn trẻ. Hy vọng các bạn nhìn xa, trông rộng ra khỏi vòng vây cố hữu.

Tuổi lớn:

Hầu hết tuổi lớn, ra hải ngoại, không vượt biên, cũng H.O, họ thừa biết Cộng Sản, nhưng số tiền mấy năm gần đây, gởi về VN trên 10 tỷ Dollar (?) Với “doanh thu” này qúa lý tưởng, để nuôi một chế độ phi nhân, vô luân. Nó cản trở rất lớn, khi các chính giới yêu cầu CS cải thiện chế độ, hoặc can thiệp cho các tù nhân bị bắt bớ giam cầm vô cớ, “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, sợ ai? Mười tỷ Dollar mỗi năm do Việt Kiều gởi về, con số khá mờ mịt, nếu trừ đi 3 tỷ con số tuyên truyền, còn 7 tỷ cũng qúa vỹ đại, nếu trừ tiếp 4 tỷ do “xuất khẩu lao động” gởi về, số còn lại chừng 3 tỷ, do gia đình vượt biên và H.O “tài trợ,” xin nhấn mạnh hai chữ gia đình, chứ H.O và những thuyền nhân năm xưa, bây giờ già yếu lão, họ chỉ có 2 khoản tiền, hoặc là tiền già, hoặc tiền lương hưu, không tới $1000 Dollar/ tháng, chưa đủ trang trải cho bản thân, lấy đâu gởi về VN, nhưng họ đã thờ ơ, không chia xẻ với con cái từ nhỏ, khiến con số vài ba tỷ, đội lên hàng chục tỷ, thiết tưởng cũng là điều đáng suy nghĩ về cái văn hóa người mình, không lo việc chung, KHÔNG GỞI TIỀN, việc không khó, nhưng trong tâm thức, có chấp nhận hay không mới là vấn đề.

Hai lời khuyên nhớ đời:

Kỷ niệm 18 năm, ngày đến xứ sở tự do, dẫu chết tôi không bao giờ quên lời khuyên, của một niên trưởng. Vì không có người thân bảo trợ, gia đình tôi đến Washington D.C, ở đây chừng 3 tháng, tôi có viết vài bài báo, ký tên Nguyễn Tân Phong, đăng trên Phố Nhỏ (hiện nay còn giữ kỷ niệm), sau đó đến Atlanta định cư, cho tới hôm nay. Ngày đầu tiên, người chủ cho share phòng, là ông bà Phước, ông ta trước 1975 một đại úy Chiến Tranh Chính Trị, không hiểu ai nói với ông, ở Washington DC, tôi viết bài chống Cộng, hay vì cớ gì đó, ông Phước, trong buổi tiếp đón đầu tiên, bằng nồi cháo vịt, uống bia Budweiser, ông ấy khuyên tôi:

“Cháu à, cháu mới đến Mỹ, việc trước hết phải lo thi lấy bằng lái xe, sau đó mua một chiếc xe cu cũ, rồi tìm cái dốp (job) mà làm, rồi mua một cái nhà cho vợ con nó ở. Chuyện đấu tranh, chính trị là việc của người ta, cháu bận tâm làm gì.” Tôi nghẹn ngào, đè nén cơn thở dài(hắt) ra, không nói được hai tiếng cảm ơn tối thiểu! Ông đại úy Phước, giờ còn khỏe và đang ở trên đường Indiant Creek, Dekalb. Đó là khuyên đầu tiên, khi đặt chân tới Atlanta, làm sao quên được.

Lần khác trong tiệc cưới, tình cờ nhằm thời điểm đồng hương vận động chống Phan Văn Khải đến Hoa Kỳ, tôi gặp một niên trưởng còn bự hơn ông Phước, khuyên: “Thôi cháu ơi, đến Mỹ rồi thì lo làm ăn đi, đấu tranh làm gì!” Tôi chưa hề đem việc đấu tranh, hay chính trị nói ở cuộc tiệc. Lần này tôi bật ngược:

Ông khuyên tôi làm ăn? Tôi không phải hạng lêu bêu, cà ngỗng để nghe ông khuyên, tôi chưa đói rách, cũng có nhà để ở, có xe để đi, lương ông tám đồng rưởi, tôi lái xe forklift 12 đồng một giờ, tôi cũng chưa trốn việc, để đi đấu tranh, tại sao ông khuyên tôi?

Hai người, không phải hấu hết tại hải ngoại, ai cũng tệ, nhưng tâm lý chung, chỉ biết giới hạn trong phạm vi gia đình, họ chưa có một không gian rộng mở.

Ngoài ra người mình rất khó đoàn kết, trong lãnh vực kinh doanh, cũng như trong đoàn thể xã hội, chính trị. Trong kinh doanh thường có tật xấu, xem bộ làm ăn khấm khá, họ đưa người thân, gia đình vào thật nhiều, tạo vây cánh, gây khó khăn để đối tác nản lòng, thối phần hùn. Xem chừng không phát triển, kiếm cớ rút vốn chuồn êm. Trong đoàn thể, nãy sinh mâu thuẫn, họ đánh nhau kịch liệt, thù hơn kẻ thù.

3- Cộng Sản làm đất nước chậm tiến.

Một người làm chủ một gia đình, chỉ cần tính sai trong một năm, gia đình ấy đã lụn bại, một chủ nhân của một công ty, làm sai trong vòng một năm, công ty đó khó tránh khỏi phá sản. Quốc gia tất nhiên phải có người nghèo, người giàu. Lãnh đạo giỏi và nhiệt tâm, tìm cách nâng đỡ giới nghèo. Chỉ có CS giết người giàu, cướp hết tài sản của người giàu, để đất nước cùng nghèo mạt hạng. Từ khi cướp chính quyền đến nay, CS chưa khi nào đúng, trên chiều hướng phát triển đất nước. Với hiện tình như vậy, nước không nghèo mới lạ. Sau thời kỳ đổi mới, (thực chất theo cũ, như miền Nam trước 1975) xã hội phát sinh nhiều đại gia, và nhiều tiến sĩ, làm người dân nghi ngờ thực chất của nó.

Tuy nhiên Cộng Sản, hiện diện chỉ mới 84 năm/5000 văn hiến. Sự trì trệ ngày nay phải có nhiều nguyên nhân sâu xa hơn. Chắc hẳn trong văn hóa của người mình có điều gì đó chưa ổn. Tin rằng bình tâm, lắng đọng tâm hồn và chân thành, sẽ tìm được những khuyết tật. CS không khác nào người lái thuyền, không bằng cấp, không chuyên môn. Chủ nhân của con thuyền là toàn dân Việt Nam, dù thụ động ngoài ý muốn, vai trò chủ nhân cũng không thể chối bỏ hết trách nhiệm.

Nếu so với các nước: Lào, Campuchia, Cuba, Nam Triều Tiên, con thuyền Việt Nam đã khởi hành 5,000 bị trì trệ. Nếu so với Thái Lan, Nam Triều Tiên, con thuyền đã đi lạc hướng, quay về điểm xuất phát, mất đến nhiều ngàn năm.

Điều gì đã gây ra trì trệ, lạc lối? Cộng Sản chỉ là phong trào, giới hạn trong khoảng thời gian nhất định. Nếu không chân thành, tìm nguyên nhân đích thực, vài ngàn năm nữa, con thuyền Việt Nam, chắc sẽ kịp ai?

© Ông Bút

© Đàn Chim Việt

Triển lãm cải cách ruộng đất, thất bại của sự tuyên truyền

Kính Hòa, phóng viên RFA

Một nhân viên đang hướng dẫn khách tham quan buổi triển lãm.
Một nhân viên đang hướng dẫn khách tham quan buổi triển lãm.

Triển lãm cải cách ruộng đất ở Hà Nội nhằm tuyên truyền cho sự kiện mà đảng cộng sản Việt Nam cho là một thành công trong sự nghiệp cách mạng của họ, bị đóng cửa rất sớm chứ không kéo dài đến hết năm nay như dự tính. Nhiều người cho rằng sự tuyên truyền của đảng đã thất bại trong cuộc triển lãm này.

Mục đích của cuộc triển lãm

Chỉ sau 4 ngày mở cửa, triển lãm cải cách ruộng đất tại Hà Nội đóng cửa.

Cải cách ruộng đất là một sự kiện rất lớn ở miền Bắc Việt Nam sau năm 1954. Trên thực tế nó đã bắt đầu vài năm trước đó khi đảng cộng sản Việt Nam còn chưa giành được quyền cai trị trên miền Bắc. Cuộc cải cách được tiến hành nhằm lấy đất của tầng lớp địa chủ, phú nông chia cho nông dân nghèo. Rất nhiều người đã bị giết chết trong các phiên tòa sơ sài, hay còn gọi là các phiên đấu tố địa chủ. Việc này chính những người cộng sản Việt Nam cũng nói rằng đó là sai lầm của họ, và họ nói rằng họ đã xin lỗi trong một phiên họp quốc hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm 1950.

Cuộc triển lãm mở ra ở Hà Nội được ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng quốc gia nói là để giới thiệu thành tựu đạt được của cuộc cải cách ruộng đất. Ông còn nói thêm là cuộc triển lãm không nhằm mục đích nói về những sai lầm của đảng hay là những oan khuất của những người bị thiệt mạng.

Trên thực tế nhiều khách tham quan đã chú ý tới phần nói về những sai lầm của đảng cộng sản. Mà phần này lại được trưng bày rất sơ sài. Ba ngày sau khi triển lãm mở cửa, báo Vnexpress viết bài : Khoảng lặng bên trong cải cách ruộng đất. Trong bài viết này tờ báo có trích lời một khách tham quan cho rằng giai đoạn cải cách ruộng đất là một giai đoạn đau buồn của dân tộc. Báo Tuổi trẻ thì viết bài Triển lãm cải cách ruộng đất, cần sòng phẳng với lịch sử. Trong bài này có trích lời một đại biểu quốc hội là ông Lê Như Tiến, rằng chế độ cho những người bị oan sai chưa đầy đủ. Nhưng ông cũng nói thêm rằng chuyện tiến hành cải cách ruộng đất là đúng.

Cái chuyện này nó là một cái dấu vết không tốt đối với đảng, bây giờ ông ấy công khai để mà thanh minh, để mà biện minh.
– Ông Hà Sĩ Phu

Dư luận trên mạng Internet thì chú trọng rất nhiều đến việc bắn chết nhiều người trong cải cách ruộng đất, và người ta cũng đặt ra câu hỏi về tính đúng đắng của cuộc cải cách ruộng đất.

Ông Hà Sĩ Phu, một trí thức bất đồng chính kiến ở Đà Lạt nói về chuyện này:

Cái chuyện này nó là một cái dấu vết không tốt đối với đảng, bây giờ ông ấy công khai để mà thanh minh, để mà biện minh. Cái câu biện minh rất là rõ đấy, tức là tuy có những sai lầm, nhưng về căn bản là đem lại ruộng đất cho người dân, ví dụ như thế. Ông ấy tưởng rằng một cái ngụy biện như thế có thể làm tình hình nó khá hơn, nhưng có biết đâu rằng cái sự việc này bản chất nó rất là tồi tệ, cho nên một cái câu như thế làm sao giải quyết vấn đề được. Đó là một thất bại vì bản thân cái chủ trương cải cách ruộng đất là một thất bại. Vì có lấy ruộng đất cho dân đâu, bắt vào hợp tác ngay đấy chứ.”

Không lường hết phản ứng dư luận

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo, một người có gia đình bị nhiều đau khổ trong cuộc cải cách ruộng đất cho rằng việc triển lãm cải cách ruộng đất ở Hà Nội lại là việc phơi bày ra những cái xấu gây bất lợi cho đảng cộng sản:

4-74bdd-250.jpg
Các đồ dùng của địa chủ nhìn từ bức vách của một ngôi nhà bần cố nông. Courtesy of dantri

Họ lờ đi một tội ác của cải cách ruộng đất. Đó chính là cái câu khẩu hiệu của chính đảng cộng sản Đông dương hồi năm 1930 là Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ. Họ lờ đi bản chất của cải cách ruộng đất là đấu tố địa chủ rất là khủng khiếp. Mà hầu hết những người địa chủ đó là yêu nước, đóng rất nhiều thuế nông nghiệ, thóc lúa cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ giết những ân nhân của mình, họ làm chuyện bất nhân.

Họ đã làm một chuyện dại dột, họ đã chọc vào tổ ong vò vẽ của dư luận, họ muốn nói với giới trẻ rằng cải cách ruộng đất rất tốt. Nhưng chúng tôi là những người chứng kiến cải cách ruộng đất, hàng vạn người như tôi lên tiếng phẫn nộ. Họ bị gậy ông đập lưng ông.”

Cuộc triển lãm Cải cách ruộng đất lại trùng vào thời điểm quyển sách Đèn cù của nhà văn Trần Đĩnh ra đời mà trong đó có nói nhiều đến những vụ giết hại khủng khiếp của cải cách ruộng đất. Vì vậy cũng có lời đồn đoán là cuộc triển lãm được đưa ra để phản công lại quyển sách đó. Nhưng nhiều người trong đó có nhà thơ Trần Mạnh Hảo thì cho rằng đây cũng chỉ và việc tuyên truyền bình thường của đảng cộng sản mà thôi. Ông nói thêm về sự tuyên truyền ấy:

Họ quan niệm tuyên truyền là lừa bịp, họ hay qui kết những người bất đồng chính kiến là tuyên truyền chống chế độ, thì bản thân họ nghĩ chuyện tuyên truyền là lừa dối, là bậy bạ rồi. Cho nên khi nghe tuyên tuyền của họ đều phải nghĩ ngược lại hết.”

Ông Hảo cũng nói là cuộc triển lãm Cải cách ruộng đất chứng tỏ sự vỡ trận của bộ phận phụ trách tuyên truyền của đảng:

Cái này cũng là cái với trận trong sự vỡ trận về lý luận của họ, lý luận và truyên truyền của họ, tức là họ không còn phương cách nào nữa.”

Ông Hà Sĩ Phu nói là những người thực hiện cuộc triển lãm đã không lường được sự phản ứng của dư luận. Bên cạnh đó ông cũng cho rằng sự tuyên truyền của đảng cộng sản vẫn còn ảnh hưởng tới một phận dân chúng:

Nhưng có biết đâu rằng trong thời đại thông tin này thì mọi thứ đều liên đới nằm trong kho tri thức của nhân loại rồi, người ta đâu có ngu đâu, đâu có đơn giản đâu.”
– Ông Hà Sĩ Phu

Đối với nhân dân mà ít thông tin, nằm ở bên dưới thì cũng có người bị ảnh hưởng của cái tuyên truyền đó. Tức là họ nói rằng đấy cái động cơ cũng là  ruộng đất về tay dân cày, về sau thì ruộng của địa chủ có chuyển về cho dân cày thật, đó là thắng lợi cơ bản, còn tổn thất thì nhỏ thôi. Họ nói như thế đấy. Nhưng có biết đâu rằng trong thời đại thông tin này thì mọi thứ đều liên đới nằm trong kho tri thức của nhân loại rồi, người ta đâu có ngu đâu, đâu có đơn giản đâu.”

Cùng ý nghĩ với ông Hà Sĩ Phu, chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một trong những người phát động phong trào dân sự Chúng tôi muốn biết nói rằng trong thời đại hiện nay, cũng chẳng có thể che được những tội ác trong quá khứ nữa.

Cuộc triển lãm được mở ra ngay chính giữa trung tâm đô hội của thủ đô Hà Nội, nhưng có lẽ những người tổ chức không mong đợi một loại khách tham quan đặc biệt là những người nông dân mất đất ở ngoại thành kéo vào xem triển lãm trong ngày 12/9. Đó là một điều trớ trêu vì mấy mươi năm sau sự kiện mà đảng cộng sản gọi là long trời lở đất với mục tiêu ruộng đất cho dân cày thì rất nhiều nông dân Việt Nam hôm nay vẫn không có ruộng để cày.

Nhiều nhà quan sát cho rằng sự xuất hiện của nhóm người này là giọt nước cuối cùng làm cho giới chức có trách nhiệm đóng cửa cuộc triển lãm.

Trần Huy Liệu – Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Văn Bính, tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ ngày 18-5-1953 Chính trị – xã hội Trần Huy Liệu

Nhưng mình không dự hội nghị, mà đi dự cuộc đấu địa chủ Nguyễn Văn Bính tức Tổng Bính tại xã Dân Chủ… Theo lối rẽ vào xã Trung Thần, đã thấy từng tốp người từ các ngả đường kéo đến…, trong đó có cả những bà bồng bế con thơ… đôi người đàn bà mặc quần mới. Lũ trẻ con giành nhau chạy trước. Một thanh niên leo lên cây me vệ đường rung cây cho quả rơi xuống để mọi người nhặt… Mình có ấn tượng như đi xem hội ở vùng quê. Họ không nói chuyện gì về đối tượng sắp đem tranh đấu cả.

Vào một nhà tập hợp. Những ủy viên chấp hành nông hội xã và cán bộ đội công tác đương tíu tít về những công việc tổ chức. Ban tiếp tế nấu từng chảo cơm, bày từng dãy mâm cơm cho những “tân khách”, ai muốn ăn thì ghi tên vào với giá tiền 3.000 đồng một bữa. Mình mặc dầu đã mang cơm nếp đi theo cũng ngồi vào ăn. Dọc đường đi đến trường sở ở trong rừng, có dân quân du kích và công an xã vác súng đi lại canh gác. Từng chòm người ngồi xúm xít dưới gốc cây hay trong một chiếc nhà trống. Một chị phụ nữ bán xôi và bánh khúc tha hồ đắt hàng. Nhưng cho mãi đến gần 11 giờ, cuộc đấu mới bắt đầu. Vì thôn nọ phải chờ thôn kia, xóm nọ phải chờ xóm kia. Có người đi từ sáng sớm, chưa kịp ăn cơm. Có người gần trưa mới tới. Ban tổ chức đã không giao trách nhiệm chặt chẽ những người phụ trách các khu vực hướng dẫn quần chúng đến cho được đúng giờ hay ít nhất là không chậm trễ quá. Mình cố ý ngồi lẫn vào từng đám quần chúng để nghe ngóng dư luận, nhưng không thấy gì. Một anh bạn hỏi người ngồi bên thì y nói: “Tôi đối với ông ấy (chỉ địa chủ Tổng Bính) cũng không có chuyện gì”. Ban tổ chức đi gọi người nào có “vấn đề” với địa chủ thì vào trước. Một số lững thững đi vào. Có người không chịu vào trước, nói: “Tôi có ít thôi, để nói vào cuối cùng”. Nhưng có ai biết được người tố cuối cùng sẽ là ai? Trường sở tranh đấu tại một khu rừng thưa, gần cánh đồng, bên một cái đình. Không có hầm hố tránh máy bay gì cả. Cũng may trời nắng ráo. Mưa thì sẽ ra sao? Ngoài lá quốc kỳ và ảnh Hồ Chủ tịch, những khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, “Triệt để giảm tô, kể cả thoái tô. Thực hiện giảm tức, phát triển sản xuất. Thực hành tiết kiệm” và một chiếc băng dài đề “Đả đảo và trừng trị xứng đáng tên địa chủ cường hào gian ác Nguyễn Văn Bính”. Mình nhận thấy không có một khẩu hiệu phản đế nào. Một thói quen trong lúc này là người ta mải nhìn vào địa chủ phong kiến mà quên kẻ thù đương phải tranh đấu bằng vũ trang là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Trước mấy chiếc bàn để dành cho chủ tịch đoàn và ban thư ký, một chiếc bục kê lên cho địa chủ quỳ và đằng sau có những biển quy định chỗ ngồi: “địa chủ ngoan cố”, “địa chủ đã thanh toán”, “phú nông nói láo”, “phú nông chưa thành khẩn” và “những người phú nông”. Số quần chúng đến dự độ 700 trở lại. Có cả một số bộ đội và nhân viên cơ quan ở gần. Ban điện ảnh Nha Thông tin có đến quay phim. Theo lời căn dặn của chủ tịch đoàn, thì, khi máy quay phim kêu sè sè, mọi người không nên nhìn vào, mà phải “căm thù địa chủ”. Lễ khai mạc bắt đầu. Trên ghế chủ tịch đoàn là ban chấp hành nông hội, nghĩa là bần, cố, trung nông. Có cả một phụ nữ và một thương binh. Phát ngôn nhân của chủ tịch đoàn cũng dõng dạc mạnh bạo, không kể vô số những sai lầm về danh từ cũng như về văn phạm. Nhưng những lời tuyên bố đầu tiên đã lộn xộn giữa phú nông và địa chủ. Người ta không nói ngay đến địa chủ thủ phạm, mà đã kể đến từng “tên” phú nông thuộc các loại, do du kích áp giải “mời” đến hội trường. Chủ tịch truyền lệnh cho cử tọa hễ thấy địa chủ vào thì hô đả đảo. Một việc làm không cần đến mệnh lệnh. Đến lượt địa chủ vào. Hai tay bị trói quặt ra sau, nhưng vẫn phải bò từ ngoài vào, đeo bên mình những gói quần áo. Ngoài tiếng hô đả đảo, những người ngồi gần lối y vào cũng với tay ra đánh tát tơi bời. Không đợi để quỳ lên bục, một người đã túm lấy tóc mà “tố”. Trận vũ bão bắt đầu.

Mình đã đọc hồ sơ của B., biết rõ tội ác của B. B. trước làm lý trưởng rồi phó tổng hồi Pháp thuộc. Sau Cách mạng tháng Tám, B. làm chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến xã rồi UBHCKC huyện. B. cũng là đảng viên cộng sản đầu tiên ở đây. Một số người vào tố đầu tiên buộc tội B. đã làm tay sai cho Cung Đình Vận, tuần phủ Thái Nguyên ngày trước, để lùng bắt Việt Minh và đồng chí Chu Văn Tấn.

Tuy vậy, ngoài một người ra, hầu hết những người khác đều không đem được ra những bằng chứng cụ thể. Có người không nói được rõ cả việc xảy ra ở đâu ngày tháng nào. Kết quả là B. chỉ nhận sau cuộc Nhật đảo chính Pháp, có nhiều trộm cướp xảy ra, mình làm tổng lý phải đem lính dõng và tuần phiên đi canh gác, thế thôi. Đến lượt tố các vấn đề kinh tế. Một điểm đáng chú ý là trong khi đấu tố địa chủ mà không nổi bật lên cái gì là chiếm đoạt ruộng đất hay tô tức. Người ta chỉ len vào những việc phụ khác như ăn hối lộ, quỵt tiền công, tham ô, đánh người… Có một số người mà phần nhiều là phụ nữ tố tên B. bằng một giọng kể lể tự nhiên thì được công chúng nghe rõ ràng và thấm thía. Một bà đau xót vì chồng bị B. đánh 3 cái ba toong và khi B. vào nhà bà sục bắt cán bộ thời bí mật, cán bộ chạy làm vỡ một rổ bát để nhà bà không có cái bát mà ăn. Một chị ở giơ cái chân khấp khểnh vì bị sâu quảng để truy nguyên vì B. mà què chân. Một anh ở khác tố cáo vì B. không cấp thẻ thuế thân trong thời Pháp thuộc nên không đi đâu được. Tuy vậy, có bà kể lể vì bị quỵt 3 nồi thóc, đi tới kết quả là con ốm bị chết để kết luận bằng câu: “Vậy mày có trả tao 3 nồi thóc không?”. Cũng một bà khác có anh ở cho B. ốm chết, rồi cũng suy luận theo kiểu trên để đi tới đòi mấy nồi thóc tiền công. Một chị chấp hành nông hội, ngồi ghế chủ tịch đoàn là chị Bân đã tố B. cướp một con trâu với tinh thần căm tức dào dạt, nhưng chị vừa nói vừa vỗ tay xỉa xói vào mặt B. khiến mình có cảm tưởng như nghe cuộc cãi nhau của một mụ bán hàng chua ngoa ở chợ Đồng Xuân.

Ngoài ra, không thiếu những điều vô lý đến phì cười Có người tố B. đã quyên tiền của mình để đóng cho Việt Minh trước cuộc Cách mạng tháng Tám mà không nói rõ B. đe dọa nếu không quyên thì sẽ bị giết. Có người tố B. đã làm chết hai du kích chỉ vì B. đã phái đi bố trí trong khi quân Pháp tiến lên Thái Nguyên năm 1947. Có người còn tố B. đã làm thịt lợn đãi du kích mà con lợn đó là lợn nhà của B. Một anh tự xưng là bộ đội Anh Bắc trước cuộc cách mạng trong khi tố B. đã không quên “quảng cáo” cho B. là B. đã đốt bằng sắc của thời Pháp thuộc. Một anh phu phà nhắc lại chuyện năm xưa đã bị B. đánh một cái tát vì té nước vào quần B. rồi cứ sừng sộ mãi: “Mày có phải là cán bộ không?”. Nhiều người tố giác B. đã thừa cơ ăn cắp vải, đồng hồ, súng lục… khi quân ta đánh chiếm Thái Nguyên tháng 8-1945. Rồi sau khi nghe B. phân trần, người ta vẫn cứ truy mãi: “Thế còn đạn mày lấy ở đâu?”. Cuộc tranh đấu càng kéo dài, những vấn đề đem ra tố càng trở nên lung tung, tản mạn. Một chị phụ nữ là y tá của một cơ quan cũng lăng xăng chạy vào hỏi chiếc bút Pắc-ke bị mất năm trước khi cơ quan còn đóng ở nhà B. Một người khác kể tội B. khi dạy học đã dùng thước đánh mình. Nói tóm lại, người ta không còn thấy gì là tính chất giai cấp đấu tranh của nông dân chống địa chủ nữa.

Nếu mình hôm ấy chỉ là một người xa lạ đến dự thì sẽ không biết B. có phải là địa chủ cường hào gian ác không và vì sao phải đem ra đấu tố? Khuyết điểm là chủ tịch đoàn, trước khi đem tố, không giới thiệu tóm tắt những tội trạng của y rồi mọi người đem bằng cớ ra để chứng thực. Những phần tử cốt cán đem ra tố, đã bị bồi dưỡng theo một kiểu cách sai lệch đến lố bịch. Đại đế anh nào chạy ra cũng đầu tiên vỗ ngực bằng một câu hỏi: “Mày có biết tao là ai không?” và “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, “Đéo mẹ tiên sư mày, không nhận tao đánh bỏ mẹ bây giờ”… bằng những cử chỉ hùng hổ và quát tháo om sòm, lại không có lý lẽ gì cũng như không đem được ra chứng cứ. Ngu ngốc đến nỗi khi nhắc đến những việc làm thời Pháp thuộc của B, rồi hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”, là có ý chỉ vào thế lực đế quốc cái đó đã đành. Tới khi hỏi những việc làm của B. bằng danh nghĩa chính quyền của ta, cũng cứ gạn hỏi: “Mày đã dựa vào thế lực nào?”. Và nếu quên hỏi câu này thì lại có người nhắc hỏi. Đã thế, không cho “phạm nhân” được trả lời, vì trả lời tức là “ngoan cố”. Những tiếng quát tháo: “Mày còn chối tao đánh bỏ mẹ bây giờ” và những tiếng hò hét của công chúng ở ngoài: “Không cho nó nói”, “Không cho nó phân trần” chỉ tỏ ra những hèn kém, yếu ớt không tin được vào lý lẽ của mình. Sau khi chủ tịch đoàn đọc bản cáo trạng, mình phải lấy làm ngạc nhiên là cuộc tố đã không nêu ra được tội trạng của B. Chẳng những thế, người ta bắt tội nhân phải quỳ trên sàn gỗ tính ra từ 11 giờ đến 4 giở rưỡi chiều. Mỗi khi tội nhân run rẩy gục xuống thì những tiếng thét từ xung quanh lại vang lên: “Quỳ cao lên!”. Anh du kích đứng sau lưng thỉnh thoảng lại dọi một báng súng mỗi khi thấy phạm nhân quỳ thấp xuống, nghĩa là đặt đít vào hai gót chân. Có lúc chủ tịch đoàn ra lệnh cho B. được ngồi xuống một tí thì người tố và quần chúng lại bắt quỳ cao lên. Ngoài hình phạt bắt quỳ thường xuyên, người ta đã đánh đập tội nhân rất tàn nhẫn. Mỗi người ra tố, theo thói quen và bắt chước lẫn nhau, đều nắm tóc tội nhân để giật hỏi. Sau mấy câu hỏi không đi đến đâu, người tố thấy mình trơ trẽn nên phải kết thúc bằng một cái tát để xuống đài. Có người đã thoi vào mang tai tội nhân. Có người đã đá phốc lên bụng. Trong khi ấy, chủ tịch đoàn hay một vài người ở ngoài chỉ khuyên bằng một câu nhè nhẹ “Không cần đánh nó!” hay “Đánh nó thêm bẩn tay!”. Trước mắt mình đã có một ấn tượng rất xấu: một anh, cứ cách năm, mười phút lại lên nắm tóc tội nhân hay xen vào cuộc đấu tố của người khác để hỏi một vài câu trống rỗng, rồi theo đó một cái tát. Mình không thể thấy được ở y một căm thù giai cấp mà chỉ thấy ở y một hèn nhát của một kẻ đánh hôi trong trận đòn hội chợ. Mình còn thấy ở y, cũng như một số khác trong khi đánh đập tội nhân còn có ý biểu dương tinh thần trước mặt cán bộ. Cũng hôm nay, mình còn thấy hai đứa trẻ con trong đám quần chúng cốt cán cũng luôn chạy ra bắt địa chủ phải quỳ cao và túm tóc đánh tát theo kiểu này. Họ hiểu lầm hai chữ “đấu lực” bằng cách dùng nhục hình vô nhân đạo. Họ không biết sức mạnh của giai cấp không phải đánh hôi một cách hèn nhát, có tính chất báo thù cá nhân. Hiện tượng xấu xa này còn do ở những cán bộ của chúng ta, trong khi huấn luyện trong lớp cũng như nói ngoài quần chúng, là: “Kỷ luật thì cấm đánh ẩu, giết ẩu, nhưng nếu nông dân người ta căm thù quá độ mà đánh tát một vài cái thì cũng không sao”. Câu nói này đã trở nên như một châm ngôn. Nó gợi bảo quần chúng là có thể đánh một vài cái được, miễn là đừng đánh chết. Rồi đó, những kẻ lưu manh đã thừa cơ đánh để trả thù hay đánh để chơi, đánh cho thích. Mình thật không muốn thấy nhục hình khôn nạn còn diễn ra dưới chính quyền dân chủ nhân dân này!

Hôm ấy, còn diễn ra một cảnh tượng nữa là người trong gia đình tên B. cũng được áp giải ra hội trường. Trong đó có một bà cụ già khọm, mẹ của B, và một đứa trẻ độ 3, 4 tháng nằm trên bàn tay vợ của B. Chủ tịch đoàn gọi vợ B. lên khuyên chồng thú nhận tội lỗi. Cảnh này chỉ gây cho công chúng rủ lòng thương những kẻ mặc dầu đã sống vào bóc lột và áp bức đương bị trả thù!

Sau trận đấu, chủ tịch đọc bản cáo trạng và cho phép B. được ngồi nghe. Đến lượt cho nói, B. phân trần là trước kia làm tổng lý thì sự áp bức bóc lột nông dân là điều không tránh khỏi. Nhưng sau khi giác ngộ thì B. đã thấy rõ cuộc cách mạng của ta là đánh đổ phong kiến và đế quốc, làm cách mạng ruộng đất. Trên con đường tiến của Liên Xô vĩ đại, B. không dại gì đi vào con đường chết. Từ sau Cách mạng tháng Tám, B. đã tích cực phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nếu có những việc lặt vặt xảy ra, thì nó chỉ là bột phát, không chủ ý. Nếu nhân dân giết y thì y chịu, chớ y không chịu nhận là phản cách mạng, mưu bắt cán bộ. B. nói có thực không, đó là một chuyện. Điều đáng ghi ở đây là cuộc đấu hôm nay đã không đạt được mục đích yêu cầu và không làm cho B. khuất phục. Tuy vậy B. vẫn phải ký vào bản cáo trạng kể trên.

*

Đến lượt Phùng Thái Ký, một Hoa kiều địa chủ kiêm công thương nghiệp. Từ sáng, Phùng vẫn ngồi dưới tấm biển đề “địa chủ ngoan cố”. Thực ra Phùng không phải mục tiêu định đem đấu hôm nay. Nhưng chủ tịch đoàn vừa gọi ra chất vấn, Phùng nói líu tíu khó hiểu, thì mấy nông dân Hoa kiều đã ồ lại thoi đánh túi bụi con của Phùng. Đến đây thì trật tự bị mất hẳn. Chủ tịch đoàn bị động.

Cuộc chất vấn trở thành cuộc đấu. Những việc đem ra tố đều thuộc về hiềm thù cá nhân, xích mích xóm giềng giữa một số Hoa kiều, không có gì là tính chất của nông dân đấu địa chủ. Hầu hết mọi người lại chỉ nhằm vào thằng con của Phùng, một thanh niên ngỗ ngược. Khác với Nguyễn Văn Bính, thằng con của Phùng không thể quỳ cho người ta đánh, mà lăn ra khóc hu hu. Cuối cùng, hai bố con Phùng cũng phải ký vào bản cáo trạng, nhận bồi thường cho nông dân.

*

Ngoài hai địa chủ, đến lượt một số phú nông. Từ sáng, một số phú nông đã phải ngồi theo từng loại.

Khi mà cuộc đấu tố B. đến lúc quyết liệt nhất thì chủ tịch đoàn truyền lệnh cho đem những “phú nông” chưa chịu thanh toán ra một chỗ bắt phải nhận bồi thường cho nông dân. Mà ai cũng thấy rõ là một hình thức uy hiếp phú nông rõ rệt, vượt quá phạm vi “trung lập phú nông” theo sách lược của Đảng.

*

Sau cùng là những lời tuyên bố không phải của chủ tịch đoàn, mà của anh NQC, trưởng đội công tác xã Dân Chủ. Anh hoan hô cuộc thắng lợi của nông dân và nhắc nhở về việc củng cố nông hội.

Nhưng cái điệu lệch của cán bộ là chỉ nhắc đến Hồ Chủ tịch, đến Đảng, mà không nói đến chính quyền dân chủ nhân dân. Những khẩu hiệu hô trước khi mít tinh giải tán cũng thiếu hẳn khẩu hiệu chống đế quốc.

*

4 giờ rưỡi, mít tinh giải tán, mình ra về trong đám quần chúng, nhưng không nhặt được một dư luận nào thêm. Nhọc mệt. Bực bội. Một vài ấn tượng xấu trong cuộc mít tinh vẫn ám ảnh trong đầu mình.

Cuộc đấu tố thí điểm địa chủ Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long ở hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ ngày 22-5-1953

Số người tới dự độ 1 vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên…

Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa! Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống.

Rút kinh nghiệm lần trước, chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò. Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói xấu cán bộ. Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ thuật khác hôm đấu Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không còn nữa. Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm động.

Còn anh Cò, một người thiểu số đã bị Hoàng Công, con Thị Năm, bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước cuộc Cách mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận. Bằng một giọng chân thành đến ngây ngô, anh đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời.

Cũng có không ít những người nói không đạt ý, không rõ việc. Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu? Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm. Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì.

Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.

Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.

Về phía quần chúng, thì, khi nghe người tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được. Một người trong chủ tịch đoàn cũng phạm một lỗi quá nặng. Trong khi quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng, lại trả lời: “Đem ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”. Đây là lời dặn của cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh đập địa chủ. Nếu lỡ tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ tịch ngốc nghếch kia đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa chủ biết.

Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội trường im lặng để lắng nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng một vị chủ tịch đã đọc chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có lúc phải ngừng lại để lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục là nửa chừng phải thay người khác. Về việc này, mình hỏi một cán bộ phụ trách thì được biết là trước khi đọc, bản chữ viết đã chú ý viết rõ ràng và vị chủ tịch nọ đã đọc đi đọc lại, đảm bảo là đọc được.

… Tính ra suốt ngày hôm nay không được uống nước dưới trời nắng. Trời tối, nhiều lúc lạc đường, về đến cơ quan một cách mệt mỏi.

Nhật ký ngày 31-5-1953

31-5-1953

Sáng sớm, mình xuống xã Dân Chủ cùng hai người trong tổ kiểm tra để kiểm tra việc thoái tô, thoái tiền công và chia quả thực. Nằm ở nhà một bần nông, sáng và chiều vùi đầu vào trong đám giấy tờ của đội công tác để tìm ra vấn đề. Một điều nhận thấy là giấy tờ lộn xộn quá, vì kém văn hóa và thiếu khoa học. Thiếu đến cả những hình thức thông thường. Nhiều tài liệu phải vừa đọc vừa hỏi mới biết rõ sự việc. Trong khoản nông dân bắt địa chủ và phú nông bồi thường có cả khoản trâu bò phá hoại hoa màu từ mấy năm trước. Đến cả bần, cô nông với trung nông cũng thanh toán cả món nợ từ năm nảo năm nào. Có anh cố nông năm nay 39 tuổi khai bị một địa chủ quỵt công ở 25 năm, sau đem bình nghị phải giảm xuống 15 năm. Sau cùng là 9 năm. Có người đòi công ở 2 năm tới 86 nồi thóc (mỗi nồi 22 cân) trong khi công ở mỗi người nhiều nhất trong một năm chỉ có 20 nồi. Hơn nữa có anh bần nông bắt đến địa chủ bắn chết một con lợn 15 cân từ năm 1935 là 8 nồi thóc. Nếu tính theo giá hiện thời: 300 đồng bạc ngân hàng một cân thóc thì con lợn 15 cân ấy (kể cả lòng lẫn cứt), giá bồi thường mỗi cân tới 3.520 đồng, trong khi thời giá chỉ có 2.700 đồng. Ấy là chưa kể con lợn hồi ấy, địa chủ, người bắn chết, có ăn thịt không hay con lợn vẫn về nhà có lợn. Đại để những việc như thế đã nói rõ sự lạm quyền thế mới lên và sự tham lam trắng trợn của một số bần, cố nông chưa được giáo dục.

Buổi tối, mình dự một tổ nông hội bàn về mấy nguyên tắc chia ruộng công. Trong gian nhà bức, nóng, người đến dự vừa đau mắt, vừa buồn ngủ, mỏi mệt, uể oải sau một ngày làm việc dưới nắng hè để sáng mai lại phải dậy sớm đi làm. Trong khi ấy, chủ tọa buổi họp là một cố nông không biết điều khiển gọn ghẽ, cứ hỏi đi hỏi lại, bắt mọi người đều phải phát biểu ý kiến. Có nhiều vấn đề trở đi trở lại mãi. Thêm vào đấy, mấy phần tử cốt cán cứ nói theo giọng cán bộ, tuôn một tràng dài những lý luận và danh từ không cần thiết. Rồi, sau đó, cũng làm đủ mọi phương thức: phê bình hội nghị, duyệt y biên bản, kéo tới 11 giờ khuya.