Đèn Cù và Hồng Kông

Dương Hoài Linh

Mấy hôm nay dư luận xôn xao về hiện tượng “Đèn Cù” xuất hiện vào đúng dịp Trung thu, một cái tết thiếu nhi cổ truyền của dân tộc. Tâm lý, bức bối, tối tăm, ngột ngạt rất mong chờ những cơn mưa hạ, những giọt nước mát hoặc một chút ánh sáng soi rọi trong đêm. Dân mạng lao vào đọc, trích dẫn, bình luận “Đèn Cù” với mong muốn tác phẩm này sẽ tạo ra một chuyển biến lớn về nhận thức,bạch hóa những góc khuất còn tăm tối trong cuộc đời của các huyền thoại một thời của dân tộc.

Đèn Cù đã đáp ứng những thông tin về một sự giải thiêng. Khi trước đó vẫn còn những đoàn người rồng rắn vào viếng lăng cụ Hồ,viếng mộ cụ Giáp. Đèn Cù đã đưa ra những chi tiết xác thực, có sức thuyết phục hơn về những gì trước đây chỉ là các giai thoại truyền miệng trong dân. Đèn Cù cũng cung cấp cho lớp hậu sinh sau này một cái nhìn trực diện vào “thần tượng” sau khi bóc đi lớp hào quang giả tạo, đưa họ trở về đúng với cái bản chất vốn có của nó.

Thế nhưng để nói rằng “Đèn Cù” sẽ tạo một chuyển biến mạnh mẽ, tác động đến phong trào “đấu tranh dân chủ”, kéo gần đến ngày “tự đào huyệt” của thể chế toàn trị tôi e rằng chỉ là một sự lạc quan tếu. Hình ảnh gởi gắm ý niệm của tác giả trong việc vẽ ra một đoàn nông dân chân đất, áo vải xoay quẩn quanh trong một ngọn nến yếu ớt cũng không mới lắm nếu so với các ý niệm của các hồi ký trước đó (Thiên đường mù, Đêm giữa ban ngày, Hoa xuyên tuyết…) Và các thông tin về lãnh tụ, về CCRĐ, về vụ án xét lại chống Đảng… cũng đã được đề cập bởi Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Dương Thu Hương… Có chăng lần này sự thật được phơi ra một cách trần trụi hơn mà thôi.

Có lẻ chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng, cái mà chúng ta muốn đạp đổ không phải Đảng CS, người CS hiện tại cũng như quá khứ của họ mà chính là thể chế độc tài, độc đảng. Trong một thể chế dân chủ thì mọi đảng phái đều có quyền tồn tại. Và sự giải thiêng hình ảnh của một lãnh tụ một đảng phái chỉ là một phần nhỏ trong quá trình vận động để giải thể một chính thể. Vấn đề cần thiết hơn là phải giúp người dân thấy rõ tầm quan trọng của việc phân chia và hạn chế quyền lực, phân biệt rõ giữa dân chủ thực chất và dân chủ giả hiệu,quyền tự do tối thiểu của một con người.

Những ngày qua cũng là những ngày mà nền dân chủ của Hồng Kông đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quốc hội Trung Quốc hôm 31/8 đã bác bỏ lời kêu gọi về việc công khai đề cử các ứng viên cho vị trí trưởng đặc khu hành chính Hồng Kông.

Theo đó, người dân Hồng Kông có thể được bầu chọn trực tiếp lãnh đạo của mình vào năm 2017 nhưng việc đề cử ứng viên cho vị trí này sẽ được tiến hành thông qua một ủy ban đại diện. Như vậy chính quyền Trung Quốc đã can thiệp vào chính trị của mảnh đất “một quốc gia hai chế độ” này bằng xe bọc thép và cả hơi cay. Các nhà đấu tranh dân chủ Hồng Kông tức giận tuyên bố sẽ bắt đầu “kỷ nguyên bất tuân dân sự” với nhiều hoạt động nhằm chiếm cứ khu trung tâm tài chính Hồng Kông.

Có lẽ với chúng ta việc truyền bá “Đèn Cù” là cần thiết. Nhưng có lẽ cần thiết hơn là noi gương Hồng Kông. Bởi chúng ta không thể để cho chính phủ luôn rêu rao: “Đòi hỏi dân chủ, pháp quyền của nhân dân là tất yếu”… bằng mồm.

Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu

Ông Lý Quang Diệu
Ông Lý Quang Diệu

Cao Huy Huân

@Blog Cao Huy Huân/VOA

Trong thế kỷ 21, có những điều mà trong thế kỷ trước không ai nghĩ rằng sẽ có nhiều thay đổi đến vậy. Giờ phút này, một công dân trẻ như tôi ngồi đây, viết những dòng chữ này thì đất nước Việt Nam, nơi tôi đang sống, làm tôi thất vọng về trình độ phát triển. Sáng nay tôi được đọc một bản nói rằng năng suất lao động của người Việt chỉ bằng 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thái Lan và tệ hơn, chỉ bằng 1/15 của người Singapore.

Singapore, một đất nước nhỏ bé về diện tích, đang ám ảnh những công dân Việt Nam ở thế kỷ 21 này. Những khu dân cư, những trung tâm thương mại, những thành phố mới được xây dựng… tất cả đều được “ăn theo” mô hình và kỹ thuật của Singapore. Nhưng tại sao lại là Singapore? Chẳng phải những mô hình, những kỹ thuật đó Singapore cũng đã học tập từ những quốc gia phương Tây tiên tiến hay sao? Tại sao từ một làng chài kém phát triển trên bán đảo Malay, Singapore đã phát triển thành một quốc gia đứng thứ 2 ở châu Á về mức sống? Câu trả lời có thể dẫn đến nhiều nguyên nhân, nhưng căn nguyên nhất vẫn là yếu tố con người.

Lý Quang Diệu, nhân vật đã thay đổi và biến làng chài nhỏ bị dịch bệnh triền miên trở thành đất nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu của châu Á. Singapore là nơi mà những kiến trúc hiện đại cùng chung sống với thiên nhiên chan hòa, nơi cả thế giới ngưỡng mộ về chuẩn mực môi trường xanh sạch, nơi có làn sóng di dân ngược từ châu Âu sang châu Á. Nhưng trong những ngày đầu lập nước vào thập niên 60 thế kỉ trước, Lý Quang Diệu, thủ tướng đầu tiên của Singapore, đã từng nói “hy vọng là một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển giống như Sài Gòn”. Thật  đáng kinh ngạc khi có một thời chính nhà lãnh đạo của Singapore đã mơ tưởng và bị ám ảnh về sự phát triển của Sài Gòn.

Còn bây giờ thì sao? Sau hơn 30 năm, chính người Việt Nam đang thèm thuồng được như Singapore  ngày nay. Sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, chính Lý Quang Diệu, người từng có tuổi thơ sinh sống tại Biên Hòa, đã nắm ngay lấy cơ hội đó để biến thời cuộc thành lợi ích cho Singapore. Sau năm 1975, tất nhiên Mỹ và phương Tây đóng cửa với Việt Nam, mọi giao thương với châu Á đều dành cho đồng minh của họ. Singapore được Lý Quang Diệu phát triển thành cảng trung chuyển đường biển lớn nhất tại khu vực. Và đúng theo quy luật về thương mại – kinh tế, Singapore được thừa hưởng những đặc quyền của một cảng biển lớn, một cửa ngõ hướng vào Đông Nam Á và cả châu Á.

Lý Quang Diệu cho rằng, cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của những nước phi Cộng sản ở châu Á. Rõ ràng là trước khi tuyên bố như thế, Lý Quang Diệu đã nhanh chóng nắm lấy cái “tiền đề quan trọng” đó để biến Singapore từ một quốc gia non trẻ kém phát triển thành một đất nước giàu có. Lý Quang Diệu nhận định rằng, sau khi Mỹ rút khỏi miền nam Việt Nam, lập tức những đồng minh của Mỹ ở châu Á tranh thủ thời cơ để trở thành 4 con rồng châu Á, và sau này có thêm sự xuất hiện của 4 con hổ Đông Nam Á. Bốn con rồng được nói đến là Singapore, Nam Triều Tiên, Hong Kong và Đài Loan. Bốn con hổ là Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia. Vậy Việt Nam đã biến đi đâu trong bản đồ khu vực? Và lý do gì Việt Nam lại tụt hậu một cách nhanh chóng như vậy?

Lý Quang Diệu từng nói rằng lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành người khổng lồ ở châu Á. Ông cho rằng, đất nước Singapore nhỏ bé với diện tích và dân số chỉ xấp xỉ Sài Gòn, hoàn toàn không có tài nguyên thiên nhiên, chỉ có một ít đất để xây dựng và ngay cả nước sinh hoạt cũng phải nhập từ nước bạn Malaysia, nhưng Singapore đã phát triển trở thành đất nước có GDP cao thứ hai ở châu Á chỉ sau Nhật Bản. Lại nói đến Nhật Bản, Lý Quang Diệu cũng chỉ ra những bất lợi của quốc gia này, đó là một quốc gia bại trận sau Chiến tranh thế giới thứ hai, không giàu tài nguyên, quanh năm động đất và sóng thần,  nhưng chỉ vài  năm sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản là người khổng lồ châu Á. Lý Quang Diệu cho rằng, sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố: điều kiện tự nhiên (vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), con người và thời cơ. Trong đó, để có yếu tố thời cơ, thì yếu tố con người phải vững và nhanh nhạy. Lý Quang Diệu đánh giá rất cao điều kiện tự nhiên của Việt Nam, nhưng ông không đánh giá cao yếu tố con người trong sự phát triển chậm chạp này. Tôi hay đọc các bài viết trong nước ca ngợi sự thông minh, tính cần cù, chịu khó của người Việt. Xin lỗi, tôi không thấy được sự thông minh và cần cù đó. Xin nhắc lại, năng suất làm việc của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore, tức là một người Singapore làm việc bằng 15 người Việt Nam. Dân số Singapore là 5 triệu dân, dân số Việt Nam là hơn 90 triệu dân. Vậy tức là năng suất làm việc của 5 triệu dân Singapore chỉ mới bằng 75 triệu dân Việt Nam, thế nhưng GDP của Singapore là gần 300 tỷ USD, trong khi GDP của Việt Nam là khoảng 170 tỷ USD. Đó chỉ là một so sánh chung chung, chưa tính đến dân số ở độ tuổi lao động của hai quốc gia. Một khi yếu tố con người đã yếu kém như thế thì yếu tố cơ hội cũng sẽ chẳng có nhiều.

Lý Quang Diệu tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng người tài, ông nói rằng người tài ở Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. Tôi đồng tình với quan điểm này của Lý Quang Diệu. Tôi thường nghe nói về cậu bé thần đồng Đỗ Nhật Nam và cũng thường xem các video thi hùng biện tiếng Anh của em. Báo chí và truyền thông Việt Nam cũng hay đề cập đến em, nhưng tuyệt nhiên không thấy có một động thái nào của chính phủ Việt Nam dành cho Đỗ Nhật Nam. Phải chăng đối với chính phủ Việt Nam, cậu bé ấy không phải là nhân tài cần đầu tư và phát triển? Chưa kể là trong một lần phát biểu về truyện tranh, cậu bé ấy đã bị những người lớn Việt Nam công kích, chỉ vì em không thích đọc truyện tranh mà chỉ thích đọc sách khoa học. Thật trớ trêu. Đỗ Nhật Nam chỉ là một trường hợp thần đồng được báo chí ưu ái, nhưng cũng bị chính phủ thờ ơ. Vậy còn những thần đồng thầm lặng khác ở cái đất nước hơn 90 triệu dân này thì sẽ nhận được hỗ trợ gì từ chính phủ? Trong mọi sự phát triển, yếu tố con người luôn tối quan trọng. Thật đáng tiếc.

Nói thế nào đi chăng nữa, Lý Quang Diệu cũng chỉ là người ngoài, không phải người Việt Nam. Thế nhưng những nhận định khách quan của ông cũng đáng để suy ngẫm về sự phát triển của một quốc gia nhiều thuận lợi như Việt Nam. Tôi thường thấy Việt Nam rất tự hào về lực lượng lao động trẻ với giá nhân công rẻ của minh. Tôi cảm thấy đó là một điều đáng xấu hổ. Giá nhân công rẻ chẳng qua là do trình độ, tay nghề kém nên chẳng thể đòi hòi được trả công cao. Gần đây, quốc gia láng giềng với GDP thấp hơn Việt Nam là Campuchia cũng đã tự chế tạo được xe hơi. Ngược lại, khi hãng điện tử Samsung đưa ra danh sách những mặt hàng có thể đặt gia công với các doanh nghiệp Việt Nam thì mới vỡ lẽ là Việt Nam chưa thể sản xuất nổi cái sạc pin, usb và ngay cả vỏ nhựa cho điện thoại di động. Tất nhiên, Việt Nam đã đánh mất cơ hội gia công cho hãng này. Việt Nam còn sẽ đánh mất nhiều cơ hội như thế cả về quy mô và số lượng nếu cứ tiếp tục tự hào với những cái thuộc về quá khứ và không nhận thức được một cách thấu đáo và nghiêm túc rằng mình đang ở đâu trên bản đồ khu vực và thế giới. Lý Quang Diệu nói phải mất 20 năm nữa Việt Nam mới bằng Malaysia, vậy thì 20 năm nữa Malaysia sẽ phát triển ra sao và mãi mãi người Việt Nam sẽ bị ám ảnh bởi sự thua kém của mình hay sao?


Cao Huy Huân

Sinh trưởng ở Việt Nam và học tập tại Hoa Kỳ. Là một đại diện cho thế hệ sinh ra và lớn lên sau bước ngoặt lịch sử 1975. Luôn theo dõi sao sát những diễn biến xảy ra trong nước và nêu lên cảm nghĩ của một thế hệ hậu bối thông qua blog dưới một lăng kính trong vắt và đa chiều.

Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II

JB nguyenhuuvinh

Thật ra, trước khi đến tham dự cuộc Triễn lãm này, hẳn nhiên là mọi người dân Việt Nam từ già đến trẻ không ai không ít nhất một vài lần trong đời đã được nghe, được nói đến sự rùng rợn, sự bất nhân trong cuộc CCRĐ đã từng xảy ra trên đất nước ta. Thế nên, việc người ta đến, để xem, để tham quan, tham dự không chỉ là việc xem nó ra sao, mà điều cơ bản là để xem thái độ nhìn nhận với những tội ác đã gây ra như thế nào.

Như trên đã nói, việc trưng bày hiện vật tại cuộc Triển lãm này, gợi nên một cuộc đấu tố mới, mà nạn nhân là oan hồn của hàng trăm ngàn người đã chết, đã điêu đứng, đã tán gia bại sản trong biến cố cả xã hội lên đồng cướp đoạt có tổ chức mang tên CCRĐ.

Hiện vật xưa và hiện thực nay: Chân mình cứt lấm bê bê

Những vật dụng đời thường của người dân xưa kia được mua sắm bằng sức lao động, trí tuệ và công sức mồ hôi, nước mắt của họ được đưa ra như những bằng chứng tố cáo họ đã “bóc lột người dân Việt Nam hết sức thậm tệ” mới có những thứ này. Đó là sập gụ, tủ chè, nồi đồng, áo quần đẹp.. bên cạnh người nông dân bị bóc lột là tấm áo vá chằng vá đụp, ngôi nhà tranh vách đất được tạo dựng lại. Nhìn những vật dụng này, nó gợi cho người xem lòng căm thù bọn bóc lột. Sự bóc lột đó ra sao? Đó là những chiếc thùng hai đáy, khi người vay đến đáy trên và khi trả thì phải trả đáy dưới. Thế là bóc lột, thế là ngồi mát, ăn bát vàng. Mặc dù việc vay, trả là thỏa thuận giữa người vay và người cho vay.

Thế nhưng, khi xem những hiện vật kia, những câu hỏi sau đây hiện ra cần lời đáp. Đó là vì sao, ngày xưa Đảng nhất định phải lãnh đạo nhân dân lật đổ địa chủ thống trị, cướp bóc, bắn giết họ và tiêu diệt họ?

Nếu những vật dụng như đang trưng bày kia đã nung nấu căm thù của người dân? Vậy thì ngày nay người dân sẽ xử lý thế nào với những cán bộ cộng sản đi những chiếc xe trị giá 3.000 con trâu? Những ngôi biệt thự giá hàng ngàn cây vàng mà cán bộ cộng sản “mượn” của dân nhưng không trả trong khi dân còn phải tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con đi học?

Nếu vì những chiếc thùng hai đáy kia làm cho người dân khốn khổ. Thì nhân dân Việt Nam ngày nay cần phải làm gì khi họ nghiễm nhiên bị trấn lột từ phía nhà nước từ tiền viện phí, học phí, giá cả, xăng dầu, các loại thuế, phí từ cầu đường, cho đến nhà vệ sinh… và cả nghĩa địa. Thậm chí ngay cả nhà cửa đất đai cha ông họ đổ máu xương mới xây dựng lên được mà đảng thích áp đặt ra sao thì buộc người dân phải chịu như vậy, nếu không thì đã có… nhà tù và súng đạn?

Nếu người nông dân phải vùng lên lật đổ chính quyền phong kiến ngày xưa, vì quan lại sống trong những ngôi nhà đẹp đẽ trái ngược với những ngôi nhà đất xiêu vẹo, thì ngày nay, sau hơn hai phần ba thế kỷ theo sự lãnh đạo của đảng đi cướp phá giai cấp bóc lột, họ sẽ phải làm gì khi những đảng viên đang sống trong những biệt thự xa hoa, lộng lẫy?  còn người dân sống trong những “đặc khu ổ chuột giữa Sài Gòn”,  Hà Nội, thậm chí bị cướp mất đất đai nhà cửa khi phải lưu vong trên chính quê hương mình?

Phải chăng, tội lỗi của địa chủ, quan chức phong kiến ngày xưa là ở chỗ họ không biết cách có cô em nuôi cho tiền xây biệt thự  lộng lẫy như Tổng Thanh tra Chính phủ, không biết cách dán hộp các tông ngoài giờ kiếm tiền mua nhà khủng như Thống đốc ngân hàng nhà nước Lê Đức Thúy, không biết cách trồng cao su xây biệt thự như Chủ tịch Bình Dương hoặc không biết đẻ con nhiều tiền để xây dinh cơ khổng lồ như Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương?

Thực chất, những địa chủ khi xưa, những quan lại phong kiến thời đó, họ chỉ thiếu và thua một điều: Họ không đủ khả năng và không có cơ hội để trơ trẽn và bất chấp liêm, sĩ, nhân cách như những đảng viên ưu tú kia của Đảng CS. Có lẽ, cái hạn chế của bọn đế quốc, phong kiến so với đạo đức, văn minh CS là chỗ đó, tức là đã không tạo ra được những cán bộ ưu tú như “Đảng ta”. Và kết cục là đã thua, “đảng ta” đã cướp được chính quyền từ họ.

Bên cạnh tôi, các nhà báo, đài truyền hình đua nhau phỏng vấn, ghi hình những người nói lên cảm xúc khi thăm triển lãm, ca ngợi cuộc CCRĐ vĩ đại. Một người đang “chém gió” hăng say trước máy quay truyền hình rằng: “Nhiều tác phẩm như Tắt Đèn, Kim Lân… nhưng bây giờ tôi mới thấy một chiếc áo nông dân vá chùm vá đụp…”. Tôi hỏi ông ta:

– Thưa ông, ông nghĩ gì cuộc CCRĐ để nhằm “đưa lại ruộng cày cho nhân dân”, giờ ruộng đất lại vào tay quan chức của nhà nước, của đảng. Vậy ông nghĩ gì và liệu có phải làm lại cuộc CCRĐ đó không?

Câu trả lời của ông ta là: Chính sách đất đai là sở hữu toàn dân, nhà nước quản lý, là nọ, là kia… nhưng ruộng đất bây giờ ai chiếm hữu thì… tôi không biết.

luật đất đai
luật đất đai
Thunghaiday
Thunghaiday

Nhao2

Nhao3

Nạn nhân ca ngợi thủ phạm và mơ ước tiếp tục CCRĐ

Với súng, đạn, sắt thép và nhà tù cùng với hệ thống loa tuyên truyền triền miên, dai dẳng mọi nơi mọi lúc, thật sự đảng CS đã làm được một điều kỳ diệu: Tẩy não người dân.

Cái gọi là Cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa của Cộng sản thành công đến mức các nạn nhân tự nguyên tung hô, ca ngợi thủ phạm. Đau đớn và xót xa cho thân phận những kẻ cả tin và mê muội đến tận cùng. Tôi đã từng nghe về những nạn nhân cho đến khi bị đảng chặt đầu vẫn hô vang “Hồ Chủ tịch muôn năm” hay “Đảng CS muôn năm” mà không thể nào tin nổi.

Thế nhưng, đời lắm sự bất ngờ.

Condiachu
Condiachu

Trong phòng triển lãm, một ông già, ngực đeo mấy tấm huân chương tự xưng là con địa chủ, xúm quanh là các phóng viên truyền hình. Ông đang say sưa kể cho các phóng viên về truyền thống mấy đời yêu nước của nhà mình. Nào là ông cậu của bố ông là ông Hai Hiên, người làm đầu bếp đã đầu bỏ thuốc đầu độc cả Trung đoàn lính Pháp tại Hà Nội trong vụ Hà Thành đầu độc nổi tiếng trước đây và bị chặt đầu, còn ông thì đi bộ đội chiến đấu vì đảng, vì nước. Tôi hỏi ông:

– Bác cho biết, cuộc trưng bày này có ý nghĩa gì không? khi mà quan chức nhà nước giờ còn nhiều đất đai hơn cả địa chủ ngày xưa?

– Nếu bây giờ có CCRĐ, thì bác sẽ xung phong làm đao phủ để đi chém những thằng đã chiếm lại đất đai, tài sản của nhân dân, của những người nghèo. Hiện nay còn nhiều tầng lớp ăn trên ngồi trốc.

– Vì sao?

– Vì bây giờ nó bóc lột dân tợn quá.

– Bây giờ vẫn còn bóc lột sao?

– Bóc lột quá đi chứ.

– Xin hỏi bác thêm một câu: Vừa rồi, bác nói một câu là nhờ có “bác Hồ”. Vậy “bác Hồ” là người đứng đầu chính phủ lúc bấy giờ có chịu trách nhiệm gì về vấn đề này không? Hay mấy giọt nước mắt đó ông đã phủi hết trách nhiệm về tội ác của CCRĐ?

– Nói thế thì… hôm nay tôi không mang một tài liệu của Hoàng Tùng nói về việc này…

Vậy đấy, với những nạn nhân, họ vẫn luôn coi “bác Hồ” và đảng vô tội. Đó mới là thành công, mới là ngoạn mục.

Tò mò, tôi gặp lại ông sau triển lãm. Ông cho biết: Ông tên là Lê Đình Phúc, năm nay 73 tuổi. Bố ông là Lê Đình Hàm, một người có công với đảng và tuyệt đối tin tưởng “bác Hồ”. Thế nhưng, khi cơn bão CCRĐ do đảng CS đưa đến, lưỡi hái của đảng đã không chừa cả người bạn của đảng là bố ông. Ông Lê Đình Hàm bị bắn chết cùng một lúc với bà Nguyễn Thị Năm vào ngày 09/7/1953 tức là 29/5 âm lịch.

Điều mà ông tâm đắc là cho đến nay, là ngay khi bị bắn chết, bố ông vẫn hô to: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động VN muôn năm” và coi đó như hành động vẻ vang chứng tỏ sự vô tội của bố mình. Tiếc thay, dù đã hô thật to cả Đảng và “Bác” thì cái mạng cũng không thể bảo toàn. Nghe ông say sưa kể, tôi chợt nghĩ: Không rõ, nếu có “Bác” ở đó, thì liệu “bác” có cứu Cụ Lê Đình Hàm khỏi lưỡi hái của đảng hay không?

Và từ đó đến nay, ông đi khiếu nại từ trung ương đến địa phương, nhưng chưa có chỗ nào giải oan cho bố ông, ngoại trừ ông Trần Đức Lương cấp cho bố ông Huân Chương kháng chiến. Ông đưa tấm ảnh ba cái đầu đặt trên đất nói rằng: Đây là đầu của Hai Hiên, cậu bố ông đã bị Pháp giết man rợ khi đầu độc nhà bếp của chúng. Tôi buồn cười bảo:

Đầu độc giết cả trung đoàn của Pháp mà nó giết thì có man rợ bằng bây giờ dân không làm gì mà đưa vào đồn công an ra còn cái xác và được báo là tự tử không ông?

Ông ngẩn mặt nhìn tôi rồi nói: “Anh nói đúng, nhưng… thẳng thắn quá”.

Video: Phỏng vấn tại Triển lãm CCRĐ:

(Còn nữa)

Hà Nội, Ngày 10/9/2014

  • J.B Nguyễn Hữu Vinh

Con bạc khét tiếng gốc Việt bị bắn chết ở Australia

Peter Hoang, người đàn ông gốc Việt nổi tiếng là một trong những con bạc lớn nhất ở Australia, vừa bị bắn chết tại thành phố Sydney.
hoang-4906-1410335222.jpg

Peter Hoang. Ảnh: ABC

Theo Telegraph, Peter Hoang bị bắn nhiều phát và được tìm thấy đã chết trên một con đường trong công viên Croydon vào khoảng 1h30 sáng 7/9 (giờ địa phương). 

Lần cuối Hoang được nhìn thấy là gần một cửa hàng McDonald’s, được cho là trong một cuộc gặp với chính kẻ đã hạ sát anh ta. Khi đó, Hoang lái một chiếc Nissan Skyline màu đen.

Là con bạc quen mặt với cảnh sát, Hoang, 36 tuổi, sống ở một chung cư trong thành phố, mang hai quốc tịch và từng sử dụng một cái tên khác là Peter Minh Nguyen.

“Chúng tôi đang tìm hiểu đời sống của anh ta, nhưng anh ta có tiếng là một tay cờ bạc với mức sống cao”, thanh tra Nick Read cho biết. “Hiện tại chúng tôi chưa thể tìm được người thân nào của anh ta và muốn bất kỳ ai quen biết hoặc nhìn thấy điều gì vào sáng chủ nhật hãy liên hệ với chúng tôi”.

Hoang từng thắng xổ số Tattslotto hai lần vào năm ngoái và đã chi ra hơn 90 triệu USD trong 5 năm qua vào các casino trên khắp Australia. Anh này từng bị bắt ở Casino Crown với gần 1,5 triệu USD tiền mặt vào năm 2012. Hoang là khách quen ở đây.

Đầu năm nay, Hoang bị triệu tập ra tòa án Melbourne với cáo buộc giao dịch bằng tiền phạm tội. Tòa án cho hay Hoang đã thua gần 8 triệu USD trong 12 năm qua tại Crown dù không có nguồn thu nhập nào đáng kể. Anh ta thậm chí còn nhận hơn 50.000 USD tiền trợ cấp của chính phủ từ năm 2001 đến 2007 và không kê khai thuế.

Tòa án sau đó đã cấm Hoang xuất ngoại do lo ngại anh ta có thể sẽ bỏ trốn để tránh các cáo buộc.

hoang1-2823-1410335223.jpg

Cảnh sát Sydney tại hiện trường vụ hạ sát Peter Hoang. Ảnh: The Australian

Theo luật sư David Grace, thân chủ của ông sống bằng nghề đánh bạc và gần đây thu về 2,5 triệu USD từ một sòng bạc ở Adelaide.

Hoang có người thân ở Việt Nam và đã về nước ít nhất 12 lần kể từ năm 2000.

Hiện chưa có ai bị bắt trong vụ việc trên nhưng cảnh sát đang truy tìm hai người đàn ông được phát hiện gần hiện trường vào thời điểm Hoang bị bắn. Một người mặc áo có mũ màu đỏ còn người kia lái một chiếc ôtô nhỏ màu sáng.

Anh Ngọc

***************

Pete Hoàng, em họ của Phó Thủ Tường Việt Nam bị bắt tội rửa tiền tại Úc

Pete Tân Hoàng hay là Hoàng Tấn Phùng, con trai của ông Hoàng Quốc Chí, là chú ruột của phó thủ tướng CSVN Hoàng Trung Hải đã bị bắt tại Úc vì mang trên người số tiền 1.2 triệu USD.

Hoàng Tấn Phùng còn tuyên bố là số tiền KHỔNG LỒ là 90 triệu USD đã KIẾM ĐƯỢC ở Úc trong 5 năm qua là nhờ ĐÁNH BÀI thắng được.

Thời gian nhiều năm trước đó, Hoàng Tấn Phùng đã thua cho các sòng bài với số tiền là 8 triêu USD, một số tiền quá lớn trong cuộc đời của một người khó lòng làm ra được số tiền nầy.

Tờ OnlineCasino tại Úc đã đưa tin Hộ chiếu cao của tay cờ bạc cao cấp Pete Hoàng đã bị tịch thu.

Một thẩm phán tại tòa án Melbourne đã từ chối trả lại hộ chiếu cho Hoàng , nói rằng ông sẽ không được phép về Việt Nam cho một kỳ nghỉ hoặc để thăm cha mẹ nuôi của mình.

Thẩm phán Susie Cameron đồng ý rằng không cho Hoàng được phép đi ra nước ngoài vì có thể Hoàng sẽ không trở lại cho phiên tòa phúc thẩm trong tháng Sáu tới đây.

Công tố viên Andrew Buckland nói rằng Hoàng không có quan hệ với ai tại Úc, mặc dù là một công dân Úc, tuy nhiên Hoàng không có bất cứ quan hệ gia đình và không có tài sản thuộc sở hữu trong nước Úc.

Hoàng đang đối mặt với cáo buộc liên quan đến xử lý tài sản, bị nghi ngờ đây là số tiền thu được của một tổ chức tội phạm. Trước đó, Hoàng đã từng bị bắt tại một Casino ở Thailand vào năm 2012 trong khi đang có trong người gần 1.5 triệu USD tiền mặt.

Các công tố viên nói rằng Hoàng có thể phải đối mặt với một bản án lên đến ba năm nếu bị kết tội .

Theo Công tố viên Buckland , Hoàng không có bất cứ nguồn tài chính nào để chứng minh tài khoản với một lượng lớn tiền mặt mà anh ta đã mang vào một sòng bạc ở Úc Châu.

“Ngoài việc đánh bài, ông không có nguồn thu nhập hợp pháp nào khác ” Buckland nói.

Và theo Buckland , hơn 12 năm, Hoàng đã thua mất gần 8.000.000 USD tại sòng bài Crown – tất cả mà không có bất kỳ thu nhập nào được ghi lại.

Trường hợp của công tố chủ yếu vào phân tích về nguồn gốc tài chính của Hoàng. báo cáo đưa ra, ở xung quanh 7.100.000 USD, số tiền mà Hoàng đánh bạc trong sòng bạc của Úc là ” dẫu không có nguồn . ”

Theo Grace , Hoàng đã giành thắng hơn 2,5 triệu USD tại sòng bài SkyCity Adelaide trong những tuần gần đây, cũng được cho là đã thắng được hơn 600,000 USD tại 2 lần sổ Tattslotto trong năm ngoái. Trong tất cả tài sản, Hoàng tuyên bố kiếm tiền được qua cờ bạc là 90 triệu USD trong 5 năm trước khi ông bị bắt

@ Đất Việt 5-6-14
http://www.datviet.com/vi%E1%BB%87t-h%E1%BA%A3i-ngo%E1%BA%A1i/147122-pete-ho%C3%A0ng,-em-h%E1%BB%8D-c%E1%BB%A7a-ph%C3%B3-th%E1%BB%A7-t%C6%B0%E1%BB%9Dng-vi%E1%BB%87t-nam-b%E1%BB%8B-b%E1%BA%AFt-t%E1%BB%99i-r%E1%BB%ADa-ti%E1%BB%81n-t%E1%BA%A1i-%C3%BAc.html#.U5NOOctOVhE

J.B Nguyễn Hữu Vinh – Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? – Phần I

J.B Nguyễn Hữu Vinh

Tôi sinh ra sau khi cuộc “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ) được thực hiện xong. Khi tôi có chút hiểu biết thì những sự kiện đã xảy ra trước đó cả chục năm vẫn hàng ngày, hàng giờ được nhắc lại như một nỗi kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng đó không phải là bom rơi, đạn lạc, người chết hay lũ lụt… mà nó hiển hiện và tồn tại trong từng công việc, từng cách nghĩ, việc làm của người dân Việt Nam đã chịu ảnh hưởng từ “cuộc cách mạng long trời lở đất” trước đó được gọi là CCRĐ.

“Long” và “lở”

Ở cuộc cách mạng đó, điều duy nhất đạt được thành công rõ nét nhất, chính là sự phá hủy nhanh chóng một nền văn hóa Việt Nam được xây dựng qua cả ngàn năm và thường xuyên được coi là nền văn hiến quý báu từ lâu đời.

Cuộc CCRĐ với khẩu hiệu rất đơn giản, hiền lành “Người cày có ruộng” đã nhanh chóng đưa cả xã hội Việt Nam với con số nông dân chiếm tuyệt đối lao vào một cơn cuồng nộ cướp, phá, giết… bất chấp tất cả những nguyên tắc xã hội xưa nay là bảo vệ sự công bằng, bác ái và nhân hậu, trật tự và luân lý. Ở cuộc CCRĐ đó, những giá trị tinh thần bị hủy hoại rất thành công. Những hiện tượng con đấu cha, vợ tố chồng vốn là điều tối kỵ trong truyền thống văn hóa Việt Nam từ ngàn đời không hề được dung dưỡng, này được dịp tha hồ thể hiện để “lập công”.

Có thể nói, cuộc CCRĐ đã thật sự làm “long” và “lở” không chỉ là trời đất, mà thực sự đã làm long, lở và sụp đổ, tan rã một hệ thống đạo đức, văn hiến tự ngàn đời. Nhà văn Dương Thu Hương có viết, đại ý rằng: Đất nước Việt Nam đã qua lịch sử cả ngàn năm, trải qua bao nhiêu chế độ. Nhưng, chưa có một chế độ nào có thể làm cho con đấu cha, vợ tố chồng, con gái, con dâu vu cáo cha đẻ, bố chồng cưỡng hiếp mình. Chỉ có chế độ Cộng sản làm được điều “vĩ đại” đó mà thôi.

Và cứ thế, xã hội đi vào cơn trầm luân của chủ nghĩa vô thần, vô luân, vô luật pháp. Kể từ đó, cái gọi là “vô sản”, cái sự “nghèo” được coi là môt phẩm chất tốt đẹp nhất để tiến thân trong xã hội cộng sản. Sự phân tầng xã hội căn cứ vào mức độ “nghèo” của cá nhân đạt đến mức nào. Có thể nói rằng: Trừ giai đoạn những người Cộng sản lộ nguyên hình là các tư bản đỏ, phần trước đó, sự nghèo khó là tấm áo khoác của hầu như toàn bộ bộ máy lãnh đạo, là nấc thang, là tiêu chuẩn cho việc thăng quan, tiến chức và cầm quyền trong xã hội Việt Nam.

Câu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của Trần Phú Tổng bí thư Đảng CS được dùng như một câu Kinh Thánh trong mọi hành động xã hội, đã nhanh chóng đưa Việt Nam vượt ra khỏi ranh giới xã hội loài người. Cái gọi là “thành phần” xuất hiện trong CCRĐ thời đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu “thành phần” nghĩa là cái gì và từ đâu ra.

Dần dần theo với thời gian, với những lo toan của cuộc sống đầy gian nan vì kinh tế, giá cả, độc hại, môi trường… người ta nguôi ngoai dần với những tội ác mà cái gọi là CCRĐ đã gây ra cho dân tộc. Cả xã hội, cả đất nước gồng mình lên qua bao cuộc chiến tranh và cố quên đi những nhức nhối, lở loét, hận thù âm ỉ trong lòng người nông dân xuất phát từ cuộc CCRĐ đã qua.

Bỗng nhiên, hôm nay nhà nước mở “Triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội”.

Ngay từ khi nghe tin có cuộc triển lãm về Cải cách ruộng đất tại Hà Nội, nhiều người đã tỏ ý nghi ngờ về mục đích và nội dung của nó. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao sau 60 năm, giờ nhà nước Cộng sản mới nói đến CCRĐ? Phải chăng, họ muốn thật sự nhìn nhận lại những sai lầm, những hậu quả để rút kinh nghiệm? Phải chăng, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN hiểu rằng không thể có điều gì giấu kín mãi được. Khi mà sự bưng bít đang được thực hiện, thì những tác phẩm như Ba người khác của Tô Hoài, Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên và mới đây là Đèn Cù của Trần Đĩnh sẽ còn hấp dẫn bạn đọc trong và ngoài nước.

Và để hóa giải những điều đó, đảng đã dám “nhìn thẳng vào sự thật” như lời đảng tuyên bố cách đây… 30 năm?

Những câu hỏi đó, thôi thúc chúng tôi đến khai mạc “Trưng bày chuyên đề về Cải cách ruộng đất 1946-1957″ tại 25 Tôn Đản, Hà Nội.

Triển lãm hay cuộc đấu tố mới?

Khi chúng tôi đến, thủ tục khai trương Triển lãm đã bắt đầu. Theo như Ban tổ chức, thì việc triển lãm là nhằm để “cho thế hệ sau hiểu hơn về CCRĐ”. Thế nhưng, nhìn vào đám người tập trung khoảng vài ba chục ở buổi khai trương, người ta mới cảm nhận được rằng: Sau mấy chục năm dưới sự lãnh đạo của đảng, thế hệ trẻ ngày nay cho rằng sự quan tâm đến những vấn đề ngoài bản thân mình là điều xa xỉ. Tập trung xem triển lãm, chủ yếu là mấy ông già hoặc công an, cán bộ, một số các cháu gái phục vụ với áo dài đỏ lăng xăng đi lại cầm băng đỏ và kéo. hàng loạt các phóng viên truyền hình, quay phim tua tủa. Chỉ có vậy.

Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lên phát biểu: “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới, một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”.

Chưa rõ cái “dân chủ” cái “giá trị to lớn” của CCRĐ ở đâu, người ta chỉ biết rằng đó là một cuộc cướp bóc trắng trợn và được cả xã hội tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Hậu quả của nó là hàng trăm ngàn con người bị cướp bóc, ảnh hưởng, hàng loạt người bị giết chết bằng nhiều cách. Thậm chí là ngay cả những người là ân nhân của Đảng cũng không thoát bày tay của đảng đưa sang thế giới bên kia mà miệng vẫn hô vang “bác” và đảng muôn năm(!).

Thế rồi, tất cả vào khu gian trưng bày hiện vật triển lãm. Không gian của Triển lãm trong một căn phòng khá rộng, hơn 200 mét vuông.

Cũng không có gì lạ khi nhìn hình thức bài trí của Triển lãm này. Nếu như, người ta kinh hoàng đến tận ngày nay các buổi đấu tố địa chủ khi xưa, thì bây giờ vào xem lại Triển lãm này, người ta sẽ thấy rõ tư duy đấu tố đang được lặp lại dưới hình thức “Trưng bày hiện vật”.

Đó là khu vực tố cáo đời sống “sung sướng, giàu có bọn địa chủ”, nào là cái điếu hút thuốc, đôi giày thêu, chiếc ấm đồng, cái sập gụ… tất cả đều được đưa ra ghép vào tội ác của bọn địa chủ, phong kiến.

Một vị nhìn phương phi, mặc chiếc áo xám có hình cờ Việt Nam như các đại biểu Quốc hội vẫn đeo đi cùng với vài quan chức của nhà bảo tàng. đám báo chí chĩa máy quay, máy ảnh vào đó đi từng bước. Tôi đi bên cạnh một vòng theo chiều kim đồng hồ bám dọc tường. Lời cô thuyết minh viên leo lẻo: “Nhữn hiện vật này chứng minh rằng bọn địa chủ bóc lột nhân dân ta thậm tệ”. Thế nhưng, có lẽ chính cô ta không hiểu từ “bóc lột” nó có nghĩa như thế nào và trong những thứ được trưng bày ở đây, thứ nào là bóc, thứ nào được lột và từ đâu.

Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ liên tục: “CCRĐ xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất và nông dân đổi đời…” và rất nhiều ngôn từ như xưa nay đảng vẫn nói.

Tôi quay lại nói với vị này: “Quan chức Cộng sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa, ăn chơi còn gấp trăm lần địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền tham nhũng của dân, còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của họ. Bây giờ có ông quan hàng trăm ha đất như Chủ tịch Bình Dương thì bọn địa chủ sao so được anh nhỉ?”

Qua chỗ hai người kéo cày, tôi bảo: “Bây giờ khác xưa rồi, bây giờ có tận bốn đứa học sinh kéo bừa cơ”. Mọi người cười ồ, ông quan này cũng gật đầu đồng tình làm mình thấy lạ là một ông quan có thái độ vui thế. Đi một đoạn, ông hỏi: Ở huyện nào đấy? Không hiểu ông định hỏi quê quán hay nơi ở nhưng không tiện hỏi lại, nên tôi trả lời: Tôi ở ngay HN đây thôi. Và cứ thắc mắc không biết ông này là ai.

Cho đến khi về nhà mới biết đó là ông Lê Như Tiến – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng của Quốc hội. Chính ông này đòi phải ra nghị quyết về Biển Đông hôm trước.

Có thể nói, những hiện vật trưng bày trong cái gọi là Triển lãm này là một mô hình đấu tố mới, nhằm lấp liếm, bào chữa cho những tội ác đối với ngay cả những đồng bào của mình, đối với những người có đầu óc và tri thức làm giàu cho quê hương đất nước. Bỗng dưng một ngày đẹp trời họ được hưởng nhờ thành quả Mác – Lenin xếp họ vào “giai cấp bóc lột”. Và họ bị cướp đoạt, bị tra tấn, bị bắn, bị giết và “CCRĐ hoàn thành thắng lợi”.

Cố thuyết minh viên chỉ vào hai chiếc áo rách mà rằng: “Đây là hai chiếc áo của nông dân, bị bọn địa chủ bóc lột thậm tệ. Nhưng không phải tất cả các địa chủ đều xấu, mà vẫn có những địa chủ tốt”. Khi hết buổi thuyết minh, tôi nói với cô ta: “Cô thuộc bài, nhưng nói có những địa chủ tốt là sai”. Cô ta hỏi lại: “Sai chỗ nào ạ”. Tôi đáp: “Cô có hiểu Trần Phú đã viết Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” hay không mà bảo có địa chủ tốt? Tốt sao phải đào?”. Cô ta ấp úng: “Nhưng mà những điều đó đã qua hơn 50 năm rồi ạ”. Tôi hỏi lại: “Vậy sao chiếc áo rách này hơn 50 năm vẫn còn giữ?”. Cả phòng triễn lãm cười vang.

Thật ra, tranh luận với cô ta thì chẳng có mấy tác dụng. Nhưng điều thú vị, là chính những người tham gia vào xem triển lãm lại là những người luôn có những cái thở dài và lắc đầu ngán ngẩm mà không dám phản ứng khi bên cạnh, bên ngoài là hàng loạt công an. Một người chụp ảnh liên tục các hiện vật lầm bầm trong miệng: “Đ.M, cứ tưởng là chúng nó phục thiện, biết nhận lỗi, ai ngờ lại bày trò lưu manh này ra”.

Và khi chụp hình xong, anh ta kết luận: “Thôi, cái hay hôm nay, là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa chủ, phong kiến ngày xưa chẳng là cái đ. gì so với bọn quan cộng sản tham nhũng hôm nay”.

(Còn tiếp)

Cải cách Ruộng ̣đất: văn bản và ý kiến

Triển lãm ‘tài sản địa chủ’ tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội

Nhìn lại một số văn bản và ý kiến trước đây và hiện nay nhân cuộc triên lãm Cải cách Ruộng đất đang diễn ra tại Hà Nội:

Luật Cải cách Ruộng đất 04/12/1953 do Hồ Chí Minh ký:

Chương IV: Cơ quan chấp pháp và phương pháp thực hiện cải cách ruộng đất

Điều 32. – Trong thời gian cải cách ruộng đất, sẽ lập Uỷ ban cải cách ruộng đất ở Trung ương, khu và tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền, Uỷ ban cải cách ruộng đất có nhiệm vụ thi hành luật cải cách ruộng đất, và lãnh đạo cụ thể cuộc phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất.

Điều 33. – ở cấp xã, hội nghị đại biểu nông dân toàn xã, ban chấp hành Nông Hội xã là những cơ quan hợp pháp chấp hành luật cải cách ruộng đất.

Điều 34. – Khi phân định thành phần giai cấp, phải theo đúng điều lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn do Chính phủ quy định.

Thành phần giai cấp do hội nghị đại biểu nông dân bình nghị và quyết định. Người đương sự phải được dự hội nghị để tham gia bàn định.

Quyết định của xã về thành phần giai cấp phải do Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh duyệt y, hoặc do cơ quan được Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh uỷ quyền, duyệt y. Gặp trường hợp tranh chấp, thì phải đưa ra Toà án Nhân dân Đặc biệt xét định.

Điều 35. – Nghiêm cấm mọi hành động chống lại hoặc phá hoại phong trào phát động quần chúng cải cách ruộng đất. Từ lúc ban hành luật cải cách ruộng đất đến lúc tuyên bố kết thúc cuộc cải cách ruộng đất, tuyệt đối cấm địa chủ chuyển dịch ruộng đất, trâu bò, nông cụ bằng bất cứ hình thức nào. Kẻ phạm pháp do Toà án Nhân dân Đặc biệt xét xử.

Trung Quốc đã bắt đầu Thổ địa Cải cách từ 1950

Điều 36. – ở những nơi phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất, sẽ lập Toà án Nhân dân Đặc biệt. Toà án Nhân dân Đặc biệt có nhiệm vụ:

1) Xét xử Việt gian, phản động, cường hào gian ác và những kẻ chống lại hoặc phá hoại cải cách ruộng đất;

2) Xét xử những vụ tranh chấp về ruộng đất và tài sản có liên quan đến cải cách ruộng đất;

3) Xét xử những vụ tranh chấp về phân định thành phần giai cấp.

Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật. Nghiêm cấm bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập, tra tấn hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác. Điều lệ tổ chức Toà án Nhân dân Đặc biệt do Chính phủ, quy định.

Văn bản của Chính phủ Việt Nam:

Hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế quốc dân (1955-1957):

Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khóa II) đã thảo luận kỹ và kết luận về thắng lợi và sai lầm của cải cách ruộng đất. Hội nghị đã đề ra phương hướng và chủ trương sửa sai 10 điểm.

Hội đồng Chính phủ họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiểm điểm việc thi hành Luật cải cách ruộng đất và công tác chỉnh đốn tổ chức, quyết định những chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm

Với tinh thần dũng cảm tự phê bình và phê bình, với ý thức trách nhiệm cao trước toàn thể nhân dân, Đảng Lao động Việt Nam một mặt nhanh chóng sửa chữa sai lầm, mặt khác có những biện pháp củng cố và phát huy thắng lợi, kịp thời có những chủ trương đúng đắn đưa nông thôn miền Bắc tiến lên.

Cuối tháng 10-1956, Hội đồng Chính phủ họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiểm điểm việc thi hành Luật cải cách ruộng đất và công tác chỉnh đốn tổ chức, quyết định những chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm.

Ngày 9-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về chế độ báo chí nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân và ngăn cấm những kẻ lợi dụng báo chí làm hại đến công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà.

Nguyễn Minh Cần trên trang RFA về ‘đấu tố địa chủ’

“…Của nỗi thì rõ rồi, nhưng của chìm là vàng bạc, tiền thì rất khó cho nên phải truy tài sản. Nhưng nói thực ra anh em họ vẫn gọi là “truy của” hay “tra của”. Truy ngày, truy đêm liên tục. Tôi còn nhớ khi tôi đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình thì có nghe một câu than như thế này, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ:

Truy đêm rồi lại truy ngày Tra lui tra tới của mày để đâu Sân vườn, chuồng lợn, bờ ao Đào tung, xới hết chẳng sao: có vàng Trời ơi, oan thật là oan Thân con quá khổ biết làm sao đây

Còn việc lập hồ sơ các loại địa chủ, cường hào thì chủ yếu dựa vào lời tố của bần cố nông. Nhưng có một điều có thể nói là người ta đánh vào lòng tham lam, vào lòng hận thù…Và người ta nói rằng ai tố nhiều thì sau này là chia tiền, chia ruộng đất, chia tài sản…thì sẽ được nhiều. Cho nên, nói thật đánh vào lòng tham, đánh vào lòng hận thù, cho nên cũng nhiều người tố rất bừa bãi. Ở nông thôn lúc bấy giờ gọi là “tố điêu” hoặc “tố đại hội”, “tố bừa”.

Nhưng khốn nỗi, tất cả những lời tố đó đều coi như những bằng chứng để kết tội người địa chủ, hoặc người đối tượng mà mình coi là phản động hay đảng phái…Cho nên sau khi lên hồ sơ rồi, tức là đưa lên đoàn cải cách ruộng đất, tức là đoàn duyệt xong và chuẩn bị cho việc đấy và xử án…

Tổ chức tòa án là tổ chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ…

Tổ chức tòa án là tổ chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ, bắt quì xuống như thế nào…tất cả những cái đó được đạo diễn trước một cách rất cẩn thận. có cả một kế hoạch, diễn tập như diễn một vỡ tuồng.

Như vậy đấu, có khi đấu 2-3 ngày tùy theo “tình trạng nghiêm trọng” của địa chủ hay số người…Sau khi kết án thì hành quyết ngay ở trước mặt. ”

Về triển lãm Cải cách Ruộng đất

Từ 1958, Hà Nội nhất trí coi việc áp dụng mô hình Xô Viết, ruộng đất của gần như toàn bộ nông dân miền Bắc lại bị đưa vào hợp tác xã

Trương Huy San

Nguyễn Quang Lập trên Facebook:

“Phần trưng bày gây nhiều cảm xúc nhất cho người xem có lẽ là góc đối lập về cuộc sống của giai cấp địa chủ với tầng lớp bần cố nông. Một bên là cuộc sống xa hoa, phong lưu, thừa mứa chứa chan, ăn sung mặc sướng, một bên là rách rưới bần cùng, áo đụp hàng chục tấm vá, cơm không đủ ăn, kéo cày thay trâu, nhà cửa xiêu vẹo, dột nát. Những khung cảnh cách đây gần nửa thế kỷ ấy, đến giờ trông vẫn quen quen.”

Chau Doan trên Facebook:

“Không một học thuyết cao siêu nào được cho phép con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng để tách mình ra thành một tầng lớp khác, đoạn tuyệt với thành phần cũ. Đời thủa nhà ai con lại gọi bố, mẹ bằng mày, xưng tao? Bố mẹ lại gọi con là ông bà nông dân, thưa gửi thành kính. Còn gì cay đắng hơn không?

…Điều này tàn phá luân lý, quan hệ, niềm tin của con người. Những gì quý giá nhất mà phá đi, thì cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa? Nông dân, bần cố nông mù chữ đứng lên xử những người có học, mà đa phần toàn là vu khống, rồi xử bắn họ. Cuộc cách mạng long trời lở đất hay là một cuộc tàn sát?

Cứ nghe chuyện xử bắn bà Năm là lòng mình xót xa. Người phụ nữ đẹp như thế, giỏi như thế, và bà ta rất yêu cách mạng nữa chứ. Buôn thép, lụa, cưu mang Việt Minh nhiều như thế. Cống hiến số vàng, tiền lớn thế lại bị bắn đầu tiên.

Triển lãm là ‘Cải cách Ruộng đất 1946 -1957’ nhưng cuối 1953 Hồ Chủ tịch mới ký ‘Luật Cải cách Ruộng đất’

Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng những người cộng sản lúc ấy bị sức ép từ Xô Cộng và Trung Cộng, và đây chính là sự phi lý, nỗi nhục, nỗi khổ của dân tộc này. Điều này cho mỗi cá nhân chúng ta một bài học. Đừng nghe bố con thằng nào, trước hết phải tin ở mình, phải vận dụng đầu óc, suy nghĩ để tự tách bạch đúng sai trong cuộc đời.

Đảng cần nhìn thẳng vào quá khứ. Thời đại thông tin, không thể mập mờ được đâu. Đảng phân minh với quá khứ thì Đảng mới dẫn dắt chúng em tới tương lai tươi sáng được Đảng ạ. Tóm lại, cái triển lãm này là một thất bại hoàn toàn. Không nói thì thôi, đừng nói nửa chừng. Người hiểu biết, vào chỉ thấy bực mình.”

Trương Huy San trên Facebook:

“Rất tiếc chưa ai chỉ ra rằng, cái sai của cải cách ruộng đất không phải là phần đã sửa mà là cái gốc của nó: Đảng đã tự trao cho mình quyền có thể tước đoạt tính mạng và tài sản của người dân một cách man rợ. Triển lãm có đưa những nụ cười của những nông dân được chia “quả thực” nhưng Triển lãm đã không cho biết niềm vui không đạo lý đó của những bần cố nông cũng ngắn chẳng tày gang. Từ 1958, đặc biệt là sau khi Hồ Chí Minh (người dưới sức ép của Mao & Staline đã đưa cải cách ruộng đất vào áp dụng với nhân dân ta) dự hội nghị 81 đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế tại Mascova trở về, nhất trí coi việc áp dụng mô hình Xô Viết (vào VN) là “một vấn đề mang tính bắt buộc”, ruộng đất của gần như toàn bộ nông dân miền Bắc lại bị đưa vào hợp tác xã.”

Trinh Nguyễn trên báo Bấm Thanh Niên:

“Nhưng hạn chế lớn nhất của triển lãmchính là thiếu vắng các câu chuyện kể. Sự “nhạy cảm” của đề tài cải cách ruộng đất có lẽ cũng giống như đề tài thời bao cấp. Đó là những thời kỳ chúng ta đã từng có cái sai, để rồi nhìn thấy nó và sửa chữa nó. Nhưng nếu triển lãm bao cấp của Bảo tàng Dân tộc học cách đây cả chục năm tái hiện được câu chuyện thân phận con người thì triển lãm này chưa chạm vào đó. Không ai rõ, những con người cụ thể, có những hiện vật được trưng bày ở đây, đã đi qua thời kỳ đó ra sao. Họ, con cháu họ, hiện sống thế nào, quan niệm gì về thời kỳ lịch sử ấy.”

Bốn tầng nấc của người dân chủ VN

Nhân bài viết vừa qua của Liên Sơn ‘Bấm mộng mị dân chủ‘ trên website Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà Báo Độc Lập đã gây ra nhiều tranh luận thú vị, tôi xin có đôi lời đóng góp như một góc nhìn về chính trị Việt Nam.

Tạm gọi theo cách của tôi và một phần dư luận hiện nay là góc nhìn về “phe dân chủ”, “quần chúng”, “phe cải cách” cùng “phe bảo thủ” trong Đảng CS Việt Nam.

Phe nào như thế nào thì cũng ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước, dù ít dù nhiều, một góc nhìn đa chiều sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận, để qua đó quần chúng có thể có nhiều thông tin hơn về bức tranh chính trị của đất nước

Viết cho phe dân chủ

Người dân chủ là người dùng các chuẩn mực dân chủ pháp trị trong lý luận để từ đó thực hiện các hành vi từ bất đồng chính kiến, phê phán, rồi tranh đấu với đảng cầm quyền độc tài. Do đó luôn cần sự ủng hộ, gắn kết với quần chúng và các người dân chủ khác. Đó chính là cơ sở cho việc hình thành phong trào, rồi lên cao hơn là tổ chức hội đoàn đến đảng đối lập rồi khi thành công, là chính quyền dân chủ.

Do đó trước khi nói đến chính quyền dân chủ, phải hình thành được một tư duy và lề lối sống và sinh hoạt dân chủ với nhau, và với chính quần chúng, người cùng ý thức như mình. Không thể có một tổ chức dân chủ nào có thể vững bền khi lập ra tổ chức tranh đấu dân chủ nhưng người trong đó là những người độc tài trong tư duy và hành xử nội bộ, và không có một thỏa ước, một nội qui sinh hoạt dân chủ thực thụ đựợc áp dụng và được sự đồng tình của toàn tổ chức một cách nghiêm chỉnh.

Những người như ông Võ Văn Kiệt là thuộc phe cải cách

Từ nguyên tắc này cũng có thể nói cuộc tranh đấu cho dân chủ của những cá nhân và tổ chức “chưa dân chủ” thật sự như thế cũng khó hay không thể dẫn đến một chế độ và một chính quyền thực sự dân chủ.

Từ nhận định có tính nguyên tắc đó, đi đến nhìn nhận của một số người viết như Liên Sơn vừa qua khi bàn về “mộng mị dân chủ”, trong đó đánh giá, theo tôi, vừa bi quan, vừa không chính xác đầy đủ, làm quần chúng hiểu sai về phong trào dân chủ, không thể hiện sự đánh giá toàn cảnh bức tranh dân chủ đa sắc màu hiện nay.

Cần thấy rõ là người dân chủ hiện diện khắp nơi, trong quần chúng, đến cả trong đảng cầm quyền, ở mọi giai tầng xã hội, không chỉ gói gọn trong phạm trù được Liên Sơn đề cập là những cái tên A, B nào đó để rồi nghĩ rằng đó là đa số người dân chủ. Không chỉ gói gọn trong cộng đồng “có tên tuổi” hiện nay mà là có khắp nơi với hành động tranh đấu đa dạng khác nhau.

Từ một cậu học sinh lập ra video blog đưa lên mạng internet phê phán sự bảo thủ, độc tài của thể chế qua việc áp đặt tư duy giáo dục, cho đến một đảng viên đảng cộng sản ở nghị trường quốc hội không bấm nút thông qua Hiến Pháp 2013, đó chính là những người có tư duy và hành động dân chủ.

Nhiều người như thế thì đó chính là nền tảng của phong trào dân chủ. Do đó, khi đánh giá về dân chủ, phải nhìn chung các mặt này, để từ đó có thể hi vọng và lạc quan.

Theo tôi, bốn tầng nấc của người dân chủ là người bộc lộ chính kiến, người bất đồng chính kiến, người tranh đấu, và chính khách đối lập. Tất cả những quần chúng nếu có xu hướng tranh đấu đều sẽ đi qua một hay toàn bộ bốn bước này, tùy theo nội lực và khát vọng của họ, và bước chân nào cũng cần được tôn trọng, vì họ dám đi. Còn trong quá trình đi, có va vấp, té ngã thì là chuyện bình thường vì có đi và có vấp ngã là quy luật.

Có nhiều tổ chức đoàn thể tự ra đời ở Việt Nam trong 10 năm qua

Chúng ta không cần bàn về các danh hiệu do quần chúng vì tấm lòng nhiệt tình mà trao tặng cho người tranh đấu, chỉ nên bàn là khi có sự tôn vinh của quần chúng rồi, người đón nhận danh hiệu nên phải làm thế nào để xứng đáng với tấm lòng của công chúng hơn. Người được tôn vinh cần một sự góp ý và tiếp thu góp ý chân thành khi cần, là một lề lối dân chủ cần có.

Sáu mảng tác động chính trị Việt Nam

  1. Bảo thủ cầm quyền
  2. Cải cách cầm quyền
  3. Quần chúng tranh đấu
  4. Áp lực quốc tế và quốc nội
  5. Quần chúng phổ thông
  6. Nghiên cứu gắn kết

Tôi quan sát phong trào dân chủ hơn 10 năm nay, có nhiều tổ chức đoàn thể thành lập trong nước rồi sau đó tàn lụi đi, ngoài sự đàn áp của nhà cầm quyền, còn là do chính lối sinh hoạt nội bộ chưa đến “tầm” như khi họ tuyên bố lúc mới ra đời. Các thành viên chỉ chú trọng gắn kết trên quan điểm chính trị, chưa có sự đồng thuận hoạt động trên một thỏa ước tập thể để từ đó mọi người đều phải hành xử theo như một tấm gương dân chủ.

Chú trọng đưa ra các tuyên bố nhiều hơn thực hiện điều lệ sinh hoạt nội bộ nhằm xây dựng con người dân chủ; chú trọng mở rộng ra ngoài nhiều hơn gắn bó chiều sâu bên trong; chú trọng cạnh tranh giữa những người tranh đấu trong tổ chức hơn là chú trọng mục tiêu tranh đấu của toàn tổ chức với đối thủ độc tài. Đó là những điều nên tránh

Gắn kết và chia rẽ

Một vấn đề khác cần chú ý là hiện tình đất nước hiện nay đã hình thành nên sáu mảng chính trị có tác động vào thế cuộc chính trị ở Việt Nam. Tôi tạm gọi là mảng bảo thủ cầm quyền, mảng cải cách cầm quyền, mảng quần chúng đứng ra tranh đấu, mảng áp lực lên đảng cầm quyền, từ bên ngoài của quốc tế và từ bên trong của sự nâng cao đời sống và dân trí (mảng quần chúng phổ thông), và mảng nghiên cứu gắn kết các yếu tố trên để hình thành một phong trào dân chủ có chất lượng và hoạt động phối hợp hiệu quả.

Cái còn thiếu của phong trào dân chủ hiện nay chính là mảng hoạt động gắn kết: yếu tố cuối cùng. Hầu như rất ít người làm công tác gắn kết này, trong khi lẽ ra cần sự gắn kết của ba mảng sau, để qua đó tận dụng những khe hở của hai mảng đầu, nhằm hình thành cho được đối trọng đủ mạnh với đảng cầm quyền, tức mảng thứ ba, mảng quần chúng đứng ra tranh đấu.

Nếu cần ủng hộ thì ủng hộ nhóm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc đưa Việt Nam “thoát Trung-thân Mỹ” vì nó có lợi cho đất nước trong hiện nay, việc khác tính sau

Cũng hay xảy ra việc những nhóm có chiến thuật tranh đấu khác nhau thường hay chỉ trích lẫn nhau dù nằm trong cùng một mảng. Thực ra nếu đặt các khác biệt đó ở tầm nhìn rộng lớn, thì phải tìm cách phối hợp, gắn kết các nhóm khác nhau này lại trong cùng một mảng, vì những công việc của các nhóm đó chính là bổ sung cho nhau.

Thiếu phối hợp sẽ xung khắc, có gắn kết sẽ thành sức mạnh tổng hợp. Ví dụ nếu coi những người tranh đấu đi quốc tế vận động các tổ chức nhân quyền, chính khách quốc tế ủng hộ na ná như nhóm “ngoại vận”, thì những người còn nằm trong đảng nhưng có xu hướng dân chủ và hành động ủng hộ cải cách tiến bộ phải được coi như nhóm “địch vận”, có cùng mục tiêu. Do đó cần kết hợp, chia sẽ thông tin và đối thoại với nhau để công việc các bên có hiệu quả cộng hưởng, hơn là chỉ trích “làm như tôi mới đúng, làm như các ông đó là yếu, là chưa đủ dũng khí”.

Có người nói cái dở của người Việt là hay chia rẽ. Nhận xét thế là chỉ nhìn một chiều, cần có cái nhìn rộng hơn khi đưa nó vào nhận xét về phong trào dân chủ. Trong tình hình tranh tối tranh sáng, địch ta lẫn lộn, an ninh đông hơn dân chủ thì sự chia rẽ (vì riêng rẽ) có khi là cần thiết để giữ ngọn lửa dân chủ, không bị “chết chùm”.

Cái quan trọng trước khi phong trào dân chủ chiến thắng chính là phải giữ ngọn lửa dân chủ qua các thời kỳ đàn áp khác nhau của đảng cầm quyền chứ không phải có bao nhiêu cây đuốc thì dùng cho hết lửa. Việc cá lớn cá bé cùng chui vào một cái rổ trong khi đảng cầm quyền còn mạnh thì chỉ làm cái ao hết cá, các con cá chưa vào rổ vì còn riêng rẽ với đàn cá kia chính là những người giữ lửa. Do đó cái cần chú ý là chia rẽ vì cần riêng rẽ (để giữ lửa) khác với nghĩ rằng thấy chưa hội tụ thì cho đó là chia rẽ do…mâu thuẫn.

Người dân chủ hay dùng nền dân chủ kiểu Mỹ làm chuẩn mực. Học hỏi dân chủ pháp trị theo Mỹ là tốt, nhưng nếu học thì đừng học nửa vời. Cái hạn chế của người tranh đấu là khi đã đặt một ai vào vị trí lãnh đạo dân chủ thì sau đó ra sức bảo vệ kể cả khi người đó sai lầm. Mỹ không có chuyện đó, dân bầu tổng thống là một chuyện, nhưng khi tổng thống làm bậy thì cũng bị phê phán thậm chí bãi chức.

Tôi cám ơn những ai trong đảng cầm quyền đã đồng ý cho internet vào Việt Nam một cách phổ thông để tôi có điều kiện và thông tin để tranh đấu cho dân chủ nhiều hơn

Người dân chủ nên học điều này, để khỏi sa vào cái tư duy từ lãnh đạo cho lên thành lãnh tụ, rồi trở thành một hội-đảng bao che bảo vệ nhau bất chấp đúng sai. Cuối cùng thành ra…giống như đảng cộng sản và các lãnh đạo cộng sản (chỉ thích nghe khen và bài bác việc chê bai). Việc ủng hộ ai và phê phán ai trong từng giai đoạn, thời kỳ là chuyện bình thường nếu khen chê có lý luận thực tế và logic, và cần xem nó là việc phải làm, chứ không phải lúc khen thì nói là “nịnh”, lúc chê lại bảo là “âm mưu đánh phá”.

Phe cải cách và phe bảo thủ

Có người nói ở Việt Nam chỉ có phe lợi ích và phe bảo thủ, chưa có cái gì gọi là phe cải cách. Theo tôi điều này không đúng trong thực tế. Tôi Nguyễn An Dân, một công dân sống trong thể chế độc tài lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, tôi cám ơn những ai trong đảng cầm quyền đã đồng ý cho internet vào Việt Nam một cách phổ thông. Để từ đó tôi có điều kiện và thông tin để tranh đấu cho dân chủ nhiều hơn.

Cùng là thể chế tư duy cộng sản toàn trị, nhưng dân Việt Nam cũng khá hơn Bắc Triều Tiên…do đó nếu nói trong đảng cầm quyền chưa có phe cải cách thì vừa thiếu thực tế, vừa non kém và lạc hậu. Toàn Đảng có thể không cần cải cách thì vẫn là “phe lợi ích” được, ví dụ như gia đình họ Kim ở Bắc Triều Tiên. Do đó tình hình dân chúng dễ thở hơn hiện nay chính là sự tổng hòa từ các yếu tố : sự nới rộng bên trong của phe cải cách, hiệu quả của áp lực quốc tế bên ngoài, sự tranh đấu của quần chúng. Cắt bỏ đi một bộ phận nào đó, là sai lầm về lý luận tranh đấu, và về nhận định thực tiễn, dẫn đến sai lầm và yếu kém về chiến lược và chiến thuật tranh đấu.

Nhưng cũng có người ngộ nhận rằng tôi kêu gọi ủng hộ phe cải cách nghĩa là ủng hộ phe của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nghĩ như vậy là chưa thấu đáo hết ý nghĩa của cụm từ phe cải cách. Trước khi bàn về phe cải cách, cần làm rõ phe bảo thủ là gì?

Hiện trạng đất nước thì nhiều bệnh, nhưng tựu trung từ ba cái chính: đó là thiết chế đảng và chế độ theo mô hình chính quyền mất dân chủ, theo đuổi một tư tưởng Mác Lê phi thực tế, và đưa đất nước sa vào một quan hệ lệ thuộc với một láng giềng độc tài có dã tâm xâm lược nguy hiểm là Trung Cộng. Tôi gọi ba vấn đề này là tư duy bảo thủ, và bất kỳ ai trong đảng cầm quyền muốn giữ nó thì là phe bảo thủ, và bất kỳ ai muốn phá vỡ nó, chính là phe cải cách. Phe cải cách có từ khi đảng ra đời, chứ không phải bây giờ mới có.

Đất nước thì nhiều bệnh, nhưng tựu trung từ ba cái chính. Đó là thiết chế đảng và chế độ theo mô hình chính quyền mất dân chủ, theo đuổi một tư tưởng Mác Lê phi thực tế, và đưa đất nước sa vào một quan hệ lệ thuộc với một láng giềng độc tài có dã tâm xâm lược nguy hiểm là Trung Cộng.

Chẳng qua dần dần quyền lực của phe này mạnh lên, cộng với sự bùng nổ về thông tin, nên công chúng biết đến họ nhiều hơn. Như nhóm Xét lại chống đảng trong quá khứ, hay như ông Trần Xuân Bách, ông Võ Văn Kiệt…chính là người của phe cải cách chứ gì nữa. Còn họ cải cách thế nào là một phạm trù khác.

Trong bài viết trước, nhiều người lý giải tôi nói “Hội Nhà Báo Độc Lập nên tranh thủ sự ủng hộ của phe cải cách” nghĩa là tôi “khuyên” Hội này ủng hộ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một đánh giá sai về lý luận do họ không đọc kỹ các tư duy của tôi. Ông Nguyễn Tấn Dũng không phải là tiêu biểu của phe cải cách, và các hoạt động của ông Dũng chỉ tiêu biểu cho một thời kỳ thân Mỹ của nhóm chính phủ. Nếu cần ủng hộ thì ủng hộ nhóm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong việc đưa Việt Nam “thoát Trung-thân Mỹ” vì nó có lợi cho đất nước trong hiện nay, việc khác tính sau.

Thành ra nói chưa có phe cải cách này trong đảng là thiếu cái nhìn hiện thực khách quan. Nếu không phải những đảng viên có tư duy cải cách cùng ký lá thư 61 vị vừa qua, thì chúng ta gọi họ là gì, gọi là “phe lợi ích” chăng ? Hoàn toàn không ổn. Do đó, người tranh đấu cần tranh thủ sự ủng hộ của phe cải cách nghĩa là hướng đến sự liên kết với các đảng viên có tư duy cải cách, chứ không phải ca tụng ông A, ông B nào đó khi mọi thứ còn đang mù mờ cài răng lược.

Nếu ông Nguyễn Tấn Dũng có mở rộng dân chủ, thì ông ta chỉ là một thành viên (có quyền lực nhiều) của phe cải cách, chứ không đại diện cho phe cải cách, ông Dũng về hưu thì vẫn còn phe cải cách. Đây là cái cần minh định để sáng tỏ về lý luận.

Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả Nguyễn An Dân từ TP Hồ Chí Minh.

Nhân triển lãm Cải cách ruộng đất : Nguyễn Thị Năm là ai?

Lê Thọ Bình
@ Le Thọ Bình Face Book

Khi cuộc CCRĐ được tiến hành và trớ trêu thay, người đầu tiên được “lựa chọn” để bắn “thí điểm” là bà Nguyễn Thị Năm. Sau những cuộc đấu tố với đủ các thứ tội ác được gán ghép, người phụ nữ mới 47 tuổi (sinh năm 1906) này đã bị đem ra xử bắn (năm 1953) và được báo chí đương thời coi là phát súng hiệu cho một cuộc vận động “long trời lở đất”.

Vậy bà Nguyễn Thị Năm là ai?

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì “Bà Nguyễn Thị Năm, hay còn gọi là Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch của bà Năm, được ghép từ tên của hai người con trai của bà là Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát-NV) sinh năm 1906 vốn là một phụ nữ giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, bà đã sớm thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng như thói tục của người xưa vừa làm ăn nơi thành thị vừa bám sát với thôn quê, nhất là vào thời chiến tranh loạn lạc.

Người sớm giác ngộ nhà buôn trẻ tuổi Nguyễn Thị Năm chính là nhà văn Nguyễn Đình Thi tham gia Mặt trận Việt Minh ở Hải Phòng rồi sau đó bà gặp, công tác phục vụ, giúp đỡ nhiều cán bộ cách mạng. Sau này bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện…

Khó kể hết những đóng góp của nhà tư sản ấy cho cách mạng. Từng ủng hộ Việt Minh trước Cách mạng Tháng Tám 20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng vàng) rồi sau này là thóc gạo, vải vóc, nhà cửa. Bà là một trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của “Tuần lễ Vàng” ở Hải Phòng với hơn một trăm lạng vàng.

Một sự kiện vô tiền khoáng hậu khi ấy đối với một phụ nữ chân yếu tay mềm là bà đã ngồi trên chiếc xe ô tô riêng của gia đình mình, treo cờ đỏ sao vàng, phóng từ Hải Phòng lên thẳng Chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền. Sau thời điểm kháng chiến toàn quốc, bà chính là người đã trao chiếc búa cho đội tự vệ làm cái việc san bằng địa khu biệt thự Đồng Bẩm thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến”.

Cũng vẫn theo nhà sử học Dương Trung Quốc “Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Hanh là Đại đội phó bộ đội thông tin. Ông Hanh từng bị thương khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngay ở Cầu Giấy – cửa ngõ Thủ đô. Còn ông Công từng tháp tùng đoàn đại biểu chính phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu… vào Huế tước ấn kiếm vua Bảo Đại rồi sau này trở thành một Trung đoàn trưởng nổi tiếng của Sư đoàn 351”.

Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc… Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà cho đến khi bà bị đưa ra đấu tố và bị bắn “thí điểm”.

Vì sao lại là bà Năm?

Trong Hồi ký của mình ông Đoàn Duy Thành, từng là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và tiếp theo là Phó Chủ tịch HĐBT có kể: “Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: “Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?”. Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: “Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!”. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!”

Thủa sinh thời, trong một lần trò chuyện với ông Hoàng Tùng, Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương, người từng nhiều năm “điếu đóm” cho Cụ Hồ (ông tự nhận thế) có kể lại rằng (1): “Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ cứ thế làm”.

Khi còn sống Giáo sư Trần Quốc Vượng có lần kể lại với tôi rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì “Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào”.

Ông Bùi Tín còn kể: “Ông Hoàng Quốc có lần Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với cụ Hồ Chí Minh. Cụ chăm chú nghe rồi phát biểu: Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này. Thế nhưng không có gì biến chuyển cả”.

Còn tác giả của “Màu tím hoa sim” Hữu Loan thì nói với tôi rằng, việc lựa chọn bà Năm có các nguyên do sau: Thứ nhất, phương châm chính trong CCRĐ là “thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù”. CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất, là một đại địa chủ. Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ nữ hay đàn ông. Thứ ba, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ mới.

Vấn đề được đặt ra ở đây là, người đứng đầu Đảng LĐVN lúc đó có thực sự “bất lực” trước sức ép của cố vấn Trung Quốc mà buộc phải đồng ý cho xử bắn bà Nguyễn Thị Năm không?

Điểm qua như thế để chúng ta thấy được rằng vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, trong đó có những người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải tiếp tục được làm sáng tỏ.

Bà Năm bị đấu tố và xử bắn như thế nào?

Tôi đã nhiều lần có dịp lên Đồng Bẩm (Thái Nguyên) để tìm hiểu và nghe lại những vị cao niên ở đây kể về vụ án bà Nguyễn Thị Năm, nhưng tiếc rằng, kết quả thu được không nhiều. Năm 2007, tình cờ tôi có đọc được bài viết trên “Người Làng Trà” Nhà báo Nguyễn Thông đã đưa một số chi tiết có liên quan đến bà Nguyễn Thị Năm. Tôi có tìm đến cụ Vãn mà anh Thông nói tới, người được cho là người ở trong nhà bà Năm. Tuy nhiên cụ Vãn đã khước từ kể nhớ lại chuyện cũ.

Theo cuốn “Trần Huy Liệu – Cõi đời” của Trần Chiến, Nhà xuất bản Kim Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó là uỷ viên Thường trực Quốc hội, thanh tra Cải cách Ruộng đất tại hai xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Thái Nguyên). Ông dự cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và bà Nguyễn Thị Năm (22-5-1953).thì phiên xét xử bà NGuyễn Thị Năm diễn ra như sau:

“Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái nắng nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ tịch đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật dậy hô đả đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải đứng lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.

Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc lý lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những người tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần: “Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.
Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận tội”.Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò”.

Vẫn theo Trần Huy Liệu: bà Năm, tham gia phiên tòa hôm ấy kể lại rằng: bà Năm cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính được cho ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào đấu tố.

Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế lực nào?”, “Mày cho tao ăn cơm của chó, mèo thế à?”… vang lên rầm rầm. Bầu không khí hờn căm ngùn ngụt ngút trời xanh! Rút kinh nghiệm của lần đấu trước đó là cứ sau mỗi lần hô như vậy là kèm theo một cái tát vào mặt kẻ bị đấu tố, lần này Chủ tịch đoàn yêu cầu: “chỉ đấu tố, không được tát kẻ thù!”

Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì.

Chị Đăng (3), một người ở của gia đình bà Năm lâu năm, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, tiếc là với một giọng quá lưu loát quen thuộc như một người “tố nghề” được huấn luyện nên ít làm cho ai cảm động.

Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.

Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta để cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải nhịn đói.

(Câu chuyện tuy hết sức phi lý và hài hước của ông này, nhưng thật kỳ lạ là sau đó đã được một văn nghệ sĩ làm thành hẳn một bài thơ tràng thiên rất cảm động-NV).

Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của bà Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét.

Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố cáo rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Nội dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên không ai rõ chị ta nói gì.

Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”.

Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên”.

Địa chủ ác ghê

Chỉ một ngay sau khi bắn bà Năm, ngày 21-7-1953, báo Nhân dân đăng bài “Địa chủ ác ghê”. Sau đây là toàn văn bài báo:

“Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:Giết chết 14 nông dân. Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật. Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên. Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.

Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng. Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!”.

Tác giả bài báo được ghi là: C.B.

Nhà tan cửa nát

Theo nhà báo Xuân Ba thì ngay sau khi bà Năm bị bắt, Đội cải cách đã nhiều lần khám xét, lục lọi mọi hang cùng ngõ hẻm ngôi nhà, khu vườn của gia đình bà Năm và đem đi tất cả những gí, kể cả dao cùn, giẻ rách,có thể mang đi được. Theo lời cô dâu cả bà Năm thì trước khi bị bắt đưa đi bà Năm còn ném lại cho cô một cái túi đựng đầy kim cương. Trong một đợt khám xét Đội cải cách đã phát hiện ra cái túi kim cương ấy và ra lệnh tịch thu! Tịch thu nhưng không hề có biên bản, giấy biên nhận mà là thu trắng tài sản của bọn tư sản địa chủ cường hào gian ác. “Không biết cái túi của cụ nhà tôi mà đội cải cách tịch thu ngày ấy có mang sung vào công quỹ hay là mang đi làm của riêng?” – Cô con dâu bà Năm sau này mỗi lần nhắc lại việc này đều băn khoăn với một câu hỏi như vậy.

Những người con của bà Nguyễn Thị Năm sau này có một cuojc sống hết sức long đong. Theo nhà báo Xuân Ba thì ông Cát qua đời năm 1989, ở tuổi 64, trong một tai nạn giao thông thảm khốc. Còn ông Hanh, sau khi Đảng sửa sai CCRĐ, quyết định đưa gia đình con cháu rời Thái Nguyên, mảnh đất đã chứng kiến cảnh nhà tan cửa nát, nơi mà dẫu những gào thét “địa chủ ác nghê”đã dịu đi đôi chút, nhưng còn đầy thù hận và khổ đau. Ông đưa vợ con, cháu về Hà Nội. Vài người bạn thân hoặc quen biết từng nhờ cậy gia đình ông trước đây cho ở nhờ, Nay đây mai đó. Mãi sau này ông mới tậu được một căn phòng nhỏ ở 117 Hàng Bạc và tá túc tại đó cho tới ngày nay, khi cả hai ông bà đã ở tuổi 90.

Năm 1998 ông Nguyễn Hanh và ông Nguyễn Cát hai con trai của bà Năm đã được công nhận là cán bộ hoạt đông lâu năm, cán bộ tiền khởi nghĩa. Còn người con dâu Đỗ Thị Diệp, sớm hơn năm 1980 đã được xác nhận danh hiệu cán bộ hoạt động lâu năm.

Còn riêng đối với bà Nguyễn Thị Năm thì người ta mới có động thái duy nhất là hạ thành phần cho cụ từ tư sản địa chủ cường hào gian ác xuống tư sản địa chủ kháng chiến!

P/S: Tôi biết, trong cuộc CCRĐ còn nhiều người bị bắn oan, nhà tan cửa nát, con cháu cũng long đong, lận đận, cơ cực thậm chí còn hơn cả gia đình bà Nguyễn Thị Năm và cho đến nay họ vẫn chưa được viết một dòng nào về số phận của họ, con cháu họ. Tôi muốn dành bài viết này như một nén hương dành cho bà Nguyễn Thị Năm và những nạn nhân như bà để chúng ta, mà không chỉ chúng ta, không bao giờ quên một trong những giai đoạn bi thương nhất của lịch sử dân tộc!

Ghi chú:

(1) Sau này trong Hồi ký của mình và trong nhiều bài trừ lời phỏng vấn báo chí Ông Hoàng Tùng vẫn khẳng định lại lời nói này.

(2) Theo một số nhà nghiên cứu khác thì lúc này hai con bà Nguyễn Thị Năm là ông Hanh và ông Công không có mặt trong phiên tòa này.

(3) Chưa xác định được chị Đăng trong phiên tòa này và cụ Vãn mà nhà báo Nguyễn Thông nói trong “Làng Trà” có phải là một không.