‘Sẽ đòi cắt quan hệ với Việt Nam’

Ông Thach Setha nói ông muốn chính phủ Việt Nam phải “tôn trọng chủ quyền” của Campuchia

Gần đây, cộng đồng người Khmer Krom, tức xuất xứ từ Nam Bộ, Việt Nam, đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối chính sách đất đai của Việt Nam, nhất là sau phát biểu của quan chức sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh rằng miền đất này thuộc về Việt Nam từ lâu đời.

Cuối tuần rồi, cộng đồng Khmer Krom tổ chức môt diễn đàn mở về các yêu sách của họ.

BBC đã nói chuyện với ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, một trong các lãnh đạo biểu tình. Ông Thach Setha còn là cựu Thượng Nghị sỹ và là nhà hoạt động thuộc đảng Cứu quốc của chính trị gia Sam Rainsy.

Ông Thach Setha: Mục đích của diễn đàn hôm nay là cho người dân tiếng nói nhằm thúc đẩy việc siết chặt luật nhập cư ở Campuchia. Đây là một trong các vấn đề nóng hiện nay.

Nếu như chính quyền không siết chặt luật pháp thì tình hình đất nước sẽ rất nguy hiểm. Mục đích thứ hai là cho phép người dân hiểu rõ ràng hơn về vấn đề đất đai Kampuchea Krom.

Tôi sẽ thu thập tất cả các ý kiến, kiến nghị ngày hôm nay và gửi cho Quốc hội cũng như chính phủ.

Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu

Ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia

BBC: Xin ông nói rõ hơn về yêu sách của các ông đối với vấn đề chủ quyền mà ông nói là đất đai Kampuchea Krom?

Ông Thach Setha: Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.

Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu.

Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc gia khác.

BBC: Nói thật chính xác, thì đòi hỏi của các ông là gì trong các cuộc biểu tình vừa rồi?

Ông Thach Setha: Chúng tôi muốn phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản.

Nhiều cuộc biểu tình phản đối Việt Nam đã diễn ra trước tòa đại sứ Việt Nam tại Phnom Penh trong thời gian gần đây

BBC:Ông sinh ra ở Việt Nam nhưng có vẻ không ưa người Việt?

Ông Thach Setha: Chúng tôi không thù ghét người Việt Nam. Chúng tôi tôn trọng quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Campuchia.

Như tôi nói lúc trước, tôi muốn phía Việt Nam xin lỗi người Khmer Krom. Chúng tôi biểu tình một cách hòa bình. Chúng tôi không phân biệt đối xử. Chúng tôi cũng tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối Asean.

BBC: Bản thân ông còn là một chính trị gia thuộc phe đối lập. Đây có phải là hoạt động chính trị của ông không?

Ông Thach Setha: Đây không phải hoạt động chính trị. Tôi làm công việc này với tư cách lãnh đạo một tổ chức dân sự và chúng tôi cùng các tổ chức dân sự khác biểu tình phản đối Việt Nam hiểu sai lịch sử của chúng tôi.

Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam thì đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi.

Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam.

Đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi.

Ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia

BBC: Trong cuộc biểu tình lần trước của người Khmer Krom, một số người đã đốt cờ Việt Nam và xé ảnh ông Hồ Chí Minh. Ông nghĩ thế nào về hành động của họ?

Ông Thach Setha: Chúng tôi không chủ trương đốt cờ. Thế nhưng nếu nhìn vào các cuộc biểu tình ở các quốc gia khác thì quý vị cũng thấy người biểu tình họ đốt quốc kỳ của những nước mà họ phản đối. Họ đốt cờ, đốt xe cộ, thậm chí tiểu tiện lên chân dung lãnh tụ nước kia… Ngay tại Việt Nam một vài tháng trước, người ta cũng đốt cờ Trung Quốc và còn đánh người Trung Quốc nữa.

Chúng tôi chủ trương không bạo động. Thế nhưng một số người không kìm nổi tình cảm của mình, khi họ mang kiến nghị đến sứ quán Việt Nam nhưng bị từ chối tiếp nhận thì họ rất xúc động giận dữ và đốt cờ.

Đối với riêng tôi thì quan điểm là giải quyết vấn đề một cách hòa bình thông qua thương lượng. Nhưng đốt cờ cũng không phải là hành động gì tồi tệ lắm mà chỉ là cách biểu thị sự thất vọng của người biểu tình mà thôi.

BBC: Ông có lo ngại sẽ xảy ra bạo lực trong những cuộc biểu tình sắp tới không? Khi đám đông bị kích động thì thường khó kiểm soát được họ.

Ông Thach Setha: Không, tôi không lo ngại về bạo lực. Chúng tôi biểu tình trên đất Campuchia, theo luật pháp của Campuchia và luật quốc tế. Chúng tôi không có lo lắng gì về an ninh cả.

Đây chỉ là hình thức bày tỏ quan điểm công khai, đối thoại của người dân.

BBC đã liên lạc với sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh để hỏi phản ứng của họ, nhưng không được phản hồi.

@bbc

Lượm lặt tin 10-8-14

Thu chi của Đảng CS là ‘tuyệt mật’

Tài liệu về dự trữ ngân sách và các khoản thu, chi đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt Nam được chính thức nhắc lại là thể loại văn bản thuộc hàng ‘tuyệt mật’, hoặc ‘tối mật’, theo một tờ báo từ TP HCM.

Trang ‘Một Thế Giới’ vừa công bố danh sách được Thủ tướng Chính phủ tại Việt Nam quy định về nhiều tài liệu liên quan đến hoạt động của Ban Kinh tế Trung ương Đảng.

Căn cứ vào quyết định do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký hôm 4/9 vừa qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 10 năm nay, các tài liệu thực hiện nhiệm vụ quốc tế về công tác tài chính đối với các Đảng, các tổ chức chính trị nước ngoài có quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thuộc diện bí mật.

Trang web ‘Bấm Một Thế Giới‘ cũng chụp lại hình họ nói là quyết định vừa ký của Thủ tướng Việt Nam.

Ngoài ra, hạng mục ‘tuyệt mật’ này còn gồm cả các tài liệu, sổ công tác, thiết bị lưu giữ thông tin (gồm USB, thẻ nhớ, ổ cứng) chứa thông tin có nội dung thuộc độ Tuyệt mật của cơ quan Ban Kinh tế Trung ương.

Bí mật hay công khai?

Trong phần dẫn nhập vào quyết định mới nhất của chính phủ Việt Nam có nhắc đến cơ sở pháp lý của văn bản là ‘Luật Tổ chức Chính phủ 25/12/2000′ và Pháp Lệnh Bảo vệ Bí mật Nhà nước 28/12/2000’ và một số văn bản pháp quy khác.

————

Quyết định tăng cường bảo mật đến từ đề nghị của Trưởng Ban Kinh tế Trung ương ̣(phải)

Tuy nhiên, quyết định của Việt Nam chỉ nhấn mạnh đến nhu cầu bảo mật của nhà nước và cho hay việc ra quyết định này đến từ đề nghị của Trưởng Ban Kinh tế Trung ương và Bộ trưởng Bộ Công an.

Được biết hồi đầu năm nay, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, ông Lý Khắc Cường cũng ký một quyết định tương tự.

Nhưng theo tờ Bấm China Daily hồi tháng 2/2014, ông Lý nói nhu cầu của việc ra quy định mới về bảo mật là “nhằm tăng cường tính minh bạch của chính phủ”.

Trung Quốc muốn chấn chỉnh việc áp dụng khá thoải mái dấu ‘mật’ hoặc xếp hạng ‘bí mật quốc gia’ cho rất nhiều thông tin các cơ quan nhà nước nắm giữ.

Các cơ quan nhà nước được chính phủ yêu cầu những gì cần công bố cho dư luận biết thì không được dán nhãn ‘bí mật quốc gia’.

Ngoài ra họ cũng quy định rõ thời hiệu áp dụng chế độ bảo mật cho văn bản và chia cả thành các cấp độ bảo mật khác nhau.

Văn bản này của Trung Quốc có hiệu lực từ 1/3/2014.

———————————————-

TQ nói về hai phi công tử nạn

Trung Quốc nói có hai phi công của họ tử nạn trong khi bay tập nhưng nói không phải từ sự cố xảy ra trên hàng không mẫu hạm Liêu Ninh.

Tàu Liêu Ninh được dùng để huấn luyện cho không quân của hải quân TQ

Tin ‘hai phi công tử nạn khi bay tập với tàu Liêu Ninh’ được các hãng thông tấn AP và AFP đưa ra sau khi Tân Hoa Xã gián tiếp nói Chủ tịch Tập Cận Bình ký quyết định tặng danh hiệu cho cả đơn vị phi công.

Chủ tịch Trung Quốc khen thưởng một phi đoàn sau khi hoàn thành buổi tập cất cánh và hạ cánh đầu tiên trên chiếc hàng không mẫu hạm duy nhất của Trung Quốc.

Trong danh sách ‘ phi đoàn anh hùng’ có tên hai phi công tử nạn.

Tin tức nói phi cơ J-15 được dùng vào công việc tập luyện này.

Đây là loại phi cơ tiêm kích có tên là Jian (tiêm) do Trung Quốc sản xuất ở Thẩm Dương, dựa trên mẫu của Sukhoi -33 của Nga.

Hãng AP trích Tân Hoa Xã hôm 28/8 cho hay vụ tử nạn xảy ra hôm 27/8 nhưng chỉ được một số blog về quốc phòng của Mỹ nêu ra sau đó.

Phi cơ Trung Quốc trên tàu Liêu Ninh

Các hãng thông tấn nước ngoài nói đây là một bước thụt lùi cho tham vọng phát triển hải quân của Trung Quốc.

Nhưng sau đó, truyền thông Trung Quốc lại nói có hai phi công tử nạn nhưng không phải ở tàu Liên Ninh.

Theo Nhân dân Nhật báo hôm Chủ Nhật 7/9, hai phi công tử nạn “không thuộc phi đội bay thử ở tàu Liêu Ninh”.

Trung Quốc có chiếc hàng không mẫu hạm duy nhất vốn thuộc thế hệ từ thời Liên Xô, mua từ Ukraine về để sử dụng cho mục tiêu huấn luyện nhằm phát triển hải quân.

Tin mới nhất cũng cho hay Nga có ý định muốn cùng Trung Quốc sản xuất phi cơ tầm xa, loại Sukhoi Superjet từ 2015, theo hãng tin RIA trích lời Phó Thủ tướng Dmitry Rogozin hôm 8/9/2014.

———————————————-

Nhà sàn gỗ lim 2 trăm tỷ của đại gia Điện Biên

Căn nhà sàn nằm giữa chốn “thâm sơn cùng cốc” của đại gia phố núi Điện Biên được cất dựng từ gần nghìn khối gỗ lim. Riêng nguyên vật liệu xây dựng đã tốn tới 200 tỷ đồng.

Những người dân Điện Biên vẫn thường truyền tai nhau về độ chịu chơi của một đại gia phố núi khi bỏ vài trăm tỷ đồng ra xây dựng một căn nhà sàn hoàn toàn bằng gỗ lim.

Ngôi nhà sàn bằng gỗ lim này được đại gia Bùi Đức Giang xây dựng trong vòng 4 năm và mới được xác nhận kỷ lục Guiness Việt Nam về nhà sàn bằng gỗ lim lớn nhất Việt Nam.

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Ngôi nhà trị giá hàng trăm tỷ đồng này trải rộng trên diện tích gần 500 m2 nằm trong một khu du lịch sinh thái ẩn mình giữa núi rừng Điện Biên. Điều độc đáo của ngôi nhà sàn là được cất dựng hoàn toàn bằng gỗ lim quý hiếm nguyên khối từ sàn nhà, nóc mái, tường, trần, cột, xà, kèo, toàn bộ nội thất… thậm chí cả tường bao.

Hơn 500 khối gỗ lim quý hiếm đã được dùng để xây dựng căn nhà độc đáo có một không hai này

Ngôi nhà sàn này gồm có 7 gian gỗ lim có chiều cao 11 mét, gồm có 16 cột cái bằng gỗ lim nguyên khối có đuờng kính 45 cm. Hệ thống cột quân và cột hiên có đường kính 40 cm. Công trình được thi công trong vòng hơn 2 năm với trên 10.000 thợ lành nghề.

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Tầng 2 của nhà sàn được trang trí bằng 25 tấm trạm trổ tinh xảo. Các cánh cửa bằng gỗ lim cũng được đục đẽo trạm trổ công phu.

Ngôi nhà sàn này được dựng với hệ thống tường gỗ lim với con tiên đường kính 19 cm có mái che. Đặc biệt, trên các tường gỗ được trang trí bằng 25 bức chạm trổ tinh xảo các họa tiết dân gian như hoa cỏ, chim muông thú..

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Nhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện BiênNhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện BiênNhà sàn  đại gia Điện Biên  nhà sàn bằng gỗ lim của đại gia Điện Biên  Điện Biên

Bước ngôi nhà, nhiều người cảm thấy choáng ngợp trước không gian bao trùm bởi loại gỗ quý hiếm và cảm giác mát mẻ đến lạ kỳ. Hàng chục những bộ cột gỗ lớn, bàn ghế được đục đẽo, chạm trổ thủ công tinh xảo bởi đội ngũ thợ lành nghề trên chất liệu gỗ lim nguyên khối.

(Theo Giadinhonline)

 

Khổ ghê, người Việt Nam nào lấy đất Kampuchia Krom?

Trương Nhân Tuấn

Nếu xét lại một cách sâu xa (trên vấn đề pháp lý) thì không có người VN nào “lấy đất” của Kampuchia hết cả.

Nam Kỳ lục tỉnh được vua nhà Nguyễn ký nhượng cho Pháp vào các hiệp ước năm 1862 và 1874. Nếu đất đó là « của » Kampuchia, thì đáng lẽ năm 1863, khi ký hiệp ước để nhận sự bảo hộ của Pháp, thì vua Miên phải lên tiếng phản đối (hoặc bảo lưu) cho Pháp biết vùng đất đó là của mình. Sự im lặng của Miên (qua các hành vi của nhà Nguyễn năm 1862 và 1874) là nhìn nhận đất đó thuộc chủ quyền của VN.

Mặt khác, nếu đất đó thuộc chủ quyền của Miên, sự im lặng của triều đình Nam Vang, từ năm 1962 cho đến năm 1949, mặc nhiên được hiểu là vương triều Cambodge đã từ bỏ chủ quyền (không điều kiện) ở vùng đất đó cho Pháp.

Trong khi đó, các triều vua nhà Nguyễn tiếp nối (cho đến Bảo Đại), cũng như tất cả các đảng phái chính trị VN, quốc gia cũng như cộng sản, đều có chung mục đích đánh Pháp để dành độc lập và thống nhất (ba kỳ) đất nước. Những yêu sách này đã thể hiện liên tục trong suốt lịch sử Việt Nam thời cận đại.

Vì vậy Quốc hội Pháp quyết định trả Nam Kỳ lại cho Bảo Đại (hậu duệ nhà Nguyễn), mà không trả cho Sihanouk, vào tháng 3 năm 1949 là điều hợp lý.

Phía Kampuchia đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền của VN tại vùng đất Nam Kỳ, qua các yêu cầu đòi phân định lại biên giới, với chính quyền thực dân Pháp, sau đó với các chính quyền của VN. Theo đó toàn bộ vùng Khmer Krom thuộc về VN.

Điển hình nhất, bộ bản đồ Kampuchia (do sở Địa dư Đông dương ấn hành năm 1953), được Sihanouk yêu cầu thế giới tôn trọng « lãnh thổ của Kampuchia », thì theo đó toàn bộ các tỉnh Nam Kỳ cũng thuộc về VN.

Vì vậy, trên phương diệp pháp lý, phía Kampuchia không có lý do nào để lên tiếng đặt lại yêu sách về lãnh thổ với VN.

Lãnh thổ Thái Lan hiện thời bao gồm ¾ lãnh thổ của Khmer ngày xưa. Trên đất Thái Lan, cũng có đông đảo người Miên sinh sống, (như một sắc dân Khmer Krom ở VN). Không thấy người Miên nào đòi lại đất từ người Thái.

Những người nông dân thật thà chấc phác Kampuchia đã bị các thế lực (chống VN) tuyên truyền nhằm xách động tinh thần dân tộc.

Điều mà người ta không bao giờ quên là dân Khmer, trong lịch sử, đã nhiều lần phát động tinh thần bài xích người Việt, đã tàn sát người Việt (cáp duồn), trong khi phía người Việt thì chưa bao giờ làm các việc dã man tương tự.

Indonesia, một mẫu mực dân chủ khó ngờ ở Đông Nam Á

Joe Cochrane (TNYT) | Trà Mi lược dịch
“Mặc dù Indonesia là quốc gia Hồi giáo đông dân nhất trên thế giới và có hơn 300 sắc tộc khác nhau, tiến trình dân chủ hóa đang đi đúng hướng. Quân đội đã chấp nhận quyền dân sự tối cao, và đó là điều quan trọng.” – Ikrar Nusa Bhakti.


Thống đốc Jakarta, Joko Widodo, sẽ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Indonesia vào tháng tới. Nguồn: Darren Whiteside / Reuters.JAKARTA, Indonesia – Có lúc người ta tưởng quá khứ đen ngòm đã trở lại Indonesia.

Bên trong, Tòa án Hiến pháp nghe kháng cáo của ứng cử viên tổng thống vừa thất cử – một cựu tướng lãnh và là con rể của người lãnh đạo độc tài cũ của Indonesia – tố cáo rằng cuộc bầu cử hồi tháng Bảy đã bị gian lận và cần phải hủy bỏ.

Bên ngoài, người ủng hộ ông ta đã đụng độ với cảnh sát chống bạo động để xông vào tòa án. Cảnh sát đã dùng vòi rồng và hơi cay.

Nhưng khi các thẩm đưa phán quyết từ chối bản kháng cáo tháng trước, một điều kỳ lạ đã xảy ra: ứng cử viên thất cử đã miễn cưỡng chấp nhận thất bại.

Cuộc tranh cử tổng thống sôi động nhất trong lịch sử Indonesia đã đi đến một kết thúc thật ấn tượng và hòa bình. Tháng tới, Joko Widodo, thống đốc Jakarta, sẽ tuyên thệ nhậm chức trước Quốc hội, bước lên nấc thang sau cùng từ một người con của một ông thợ mộc ở khu ổ chuột trở thành người lãnh đạo của quốc gia đông dân hàng thứ tư trên thế giới.

Mười sáu năm sau khi Suharto, tổng thống độc tài, tham nhũng và tàn bạo mà chính phủ của ông đã được quân đội hậu thuẫn để cai trị Indonesia trong 32 năm qua, đã buộc phải từ chức trong bối cảnh các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ bất bạo động, Indonesia đã trở thành một mẫu mực cho sự chuyển giao quyền lực dân chủ trong hòa bình, ở Đông Nam Á, một khu vực mà dân chủ đang ngày càng trở nên hiếm hoi.


Dân Indonesia xếp hàng để bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống ở làng Bojong Koneng tại Bogor, tỉnh Tây Java, hồi tháng Bảy. Nguồn: Bay Ismoyo / Agence France-Presse – Getty ImagesTại Thái Lan, quân đội vừa lật đổ một chính phủ dân cử vào tháng Năm, lần thứ hai trong tám năm. Malaysia và Campuchia đã bị sa lầy trong tình trạng hỗn loạn chính trị kể từ các cuộc bầu cử quốc hội năm ngoái, trong đó phe đối lập ở cả hai nước đều tuyên bố là bầu cử gian lận. Ở Malaysia, Campuchia và Singapore chưa từng có một cuộc bàn giao quyền lực một cách dân chủ cho phe đối lập chính trị.

Philippines đã có các cuộc bầu cử dân chủ, nhưng mất giá trị vì bị gian lận và bạo lực, và hai vị tổng thống sau cùng của Philippines đã bỏ tù những người tiền nhiệm của họ.

Và đó là những nền dân chủ. Việt Nam vẫn là quốc gia dưới sự cai trị độc đảng của cộng sản kể từ khi thống nhất đất nước, và Myanmar đang bước những bước đầu tiên hướng đến cởi mở sau nhiều chục năm sống dưới chế độ quân phiệt.

Indonesia, ngoài cuộc bầu cử tổng thống, đã tổ chức thành công cuộc tổng tuyển cử vào tháng Tư, trong đó có gần 140 triệu người đi bỏ phiếu, tỉ lệ cử tri đi bầu là 75 phần trăm. Tất cả các đảng phái tranh cử đều công nhận kết quả.

Marcus Mietzner, một chuyên gia về Indonesia tại Đại học Quốc gia Australia cho biết,

Không còn nghi ngờ gì nữa, Indonesia hiện là nước dân chủ nhất Đông Nam Á, và đây là điều không ai có thể dự đoán vào năm 1998.

Thành quả của Indonesia trên các mặt khác vẫn còn nhiều chỗ có thể cải thiện được. Tham nhũng vẫn còn hoành hành trong quốc gia với 250 triệu dân, tín hữu cái tôn giáo thiểu số vẫn còn bị phân biệt đối xử và hành hung, và theo Human Rights Watch, các thành viên của lực lượng công an của nhà nước vẫn được hưởng quyền “bất khả xâm phạm” dù có những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Nhưng hầu hết các lãnh vực nêu trên đã có tiến bộ lớn kể từ thời còn chế độ độc tài.

Một lý do chính cho sự thành công của Indonesia là, không giống như ở Thái Lan, các nhà lãnh đạo dân sự sau Suharto ở Indonesia đã đẩy quân đội ra khỏi vùng ảnh hưởng chính trị. Các nhà lập pháp đã thông qua việc sửa đổi hiến pháp loại bỏ những nghế dân biểu dành cho quân đội trong Hạ viện và mở ra các cuộc bầu cử trực tiếp, từ tổng thống xuống hàng thị trưởng.

Sĩ quan quân đội hiện dịch bị cấm giữ chức quyền trong chính phủ và không được hoạt động đảng phái chính trị, và sau cùng, quân đội Indonesia đã buộc phải bán tất cả các cơ sở kinh doanh thương mại của họ.

Quân đội Thái Lan, mặt khác, đã nhiều lần khẳng định quyền lực của họ trong các cuộc khủng hoảng chính trị trong suốt giai đoạn lịch sử hiện đại – đã có hàng chục cuộc đảo chính thành công từ những năm 1930 – và quân đội tự cho họ là chính đáng vì là lực lượng bảo vệ duy nhất của chế độ quân chủ.

Một tiến bộ dân chủ quan trọng đối với Indonesia, theo giới quan sát, là bước táo bạo tản quyền tự chủ đến mọi vùng miền xa xôi trên khắp quần đảo một năm ngay sau khi Suharto từ chức vào tháng Năm 1998. Sự tản quyền đó đã phá vỡ độc quyền chính trị của Jakarta và ngăn chặn được sự xuất hiện của một lực lượng chính trị thống trị quốc gia mới.

Đổi mới đó cũng cho các đảng phái chính trị nhỏ hơn một cách để sống còn ngay cả khi họ không thắng trong cuộc bầu cử trên toàn quốc. “Những lực lượng thua ở những khu trung tâm vẫn có thể nắm giữ quyền lực tại các tỉnh, huyện; điều này khiến họ chấp nhận kết quả của những cuộc tranh cử,” Mietzner nói.

Dĩ nhiên chuyển hướng cho tự chủ ở vùng miền đã phải một qua gian đoạn hỗn loạn, bị ảnh hưởng xấu vì các bản án dành cho hàng chục sứ quân tham nhũng ở các khu vực.

Trường hợp ông Joko là một ví dụ điển hình về sự thành công của đổi mới này. Sinh ra trong một khu ổ chuột ven sông tại thành phố Surakarta ở giữa đảo Java, người thợ mộ 53 tuổi đã hai lần được bầu làm thị trưởng và dùng kết quả đắc cử thống đốc Jakarta năm 2012 làm dàn phóng vào sân khấu chính trị quốc gia.

Ông Joko sẽ là tổng thống đầu tiên trong lịch sử Indonesia không xuất thân từ nhóm tinh hoa chính trị thời Suharto, hoặc là một cựu tướng lãnh quân đội, và là người đầu tiên đảm nhận chức vụ tổng thống mà đã có kinh nghiệm điều hành chính phủ.

Ông Joko sẽ tuyên thệ nhậm chức vào 20 tháng 10 trong với sự tham dự của cựu Tổng thooang tiền nhiệm, Susilo Bambang Yudhoyono, theo hiến pháp đã không được phép tranh cử cho nhiệm kỳ thứ ba. Một chính trường như thế chưa bao giờ thấy ở Malaysia, Campuchia, Singapore (và Việt Nam – TM).

Simon Tay, Chủ tịch Viện Quan hệ Quốc tế Singapore, cho biết khái niệm bàn giao quyền lực cho khối đối lập chính trị đã trở thành một khái niệm xa lạ ở những quốc gia này vì các giới lãnh đạo ở các nước đó đã nắm giữ quyền lực quá lâu.

“Toàn bộ hệ thống cai trị, họ không biết đến bất cứ điều gì khác,” Simon Tay nói. “Bản chất của cuộc thay đổi chính trị sẽ rất sâu rộng, và có một nỗi sợ hãi rằng đất nước Indonesia mà họ từng biết sẽ không còn nữa.”

Indonesia đã chứng minh rằng thực tế không phải như vậy.

Những năm đầu tiên trong cuộc dân chủ hóa là hỗn loạn, nét đặc thù là những cuộc biểu tình xảy ra trên toàn quốc, tình trạng bất ổn giữ các sắc tộc đã giết chết hàng ngàn người, các cuộc khủng bố của nhóm Hồi giáo cực đọa và mối e ngại quân đội sẽ bẻ cong luật dân sự. Người lãnh đạo đầu tiên được bầu một cách dân chủ từ bốn mươi năm, Abdurrahim Wahid, đã bị buộc tội, vào năm 2001, sau chưa đầy hai năm nhậm chức vì bị cáo buộc là tham nhũng và thiếu năng lực, sau khi cuộc đấu đá căng thẳng với phe đối lập ở Quốc hội.

Tuy vậy, Indonesia vẫn kiên trì, và trong năm 2004, cử tri đã chọn Yudhoyono trong cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên trong lịch sử Indonesia. Trước đó, Tổng thống do cơ quan lập, bị Suharto kiểm soát chặt chẽ, bầu chọn.

Đối thủ của ông Yudhoyono, bà Megawati Sukarnoputri, tổng thống đương nhiệm và là con gái lớn của Sukarno, người sáng lập của Indonesia, chấp nhận thất cử, từ chức, mặc dù bà từ chối tham dự lễ nhậm chức của Yudhoyono.

Cuộc bầu cử mới nhất tại Indonesia không phải là không có vấn đề. Kẻ thua cuộc, Prabowo Subianto, chấp nhận thất bại, nhưng ông vẫn tiếp tục tuyên bố rằng cuộc bầu cử đã hỏng vì có gian lận lớn. Sau khi bị Tòa án Hiến pháp phủ quyết, Prabowo đã đi kiện chính phủ tại Tòa án hành chính nhà nước, và đã đơn kiện của ông đã bị từ chối hồi tuần trước. Liên minh các đảng phái chính trị ủng hộ Prabowo, chiếm đa số khi Quốc hội triệu tập vào tháng Mười, đã đe dọa hình thành một ủy ban đặc biệt để điều tra cuộc bầu cử.

Trong khi một ủy ban như vậy ở Quốc hội sẽ không có thẩm quyền để hủy bỏ kết quả cuộc bầu cử, nó có thể gây ảnh hưởng xấu cho tính hợp pháp của ông Joko đối với dân biểu Hạ Viện.

Giới phân tích chính trị, tuy nhiên, nói điều này khó xảy ra vì một số các đẩng trong liên minh dự kiến sẽ bỏ cánh của ông Prabowo trong vài tuần tới và đi với phe của ông Joko, và làm cho phe của Joko chiếm đa số trong quốc hội tạo điều kiện dễ dàng cho chính phủ thông qua các dự luật.

“Có vẻ như Prabowo không muốn chấp nhận thất bại, nhưng cái gọi là ‘liên minh đối lập vĩnh viễn’ của ông sẽ có thay đổi đáng kể trong những ngày sắp tới,” Ikrar Nusa Bhakti, một học giả khoa học chính trị tại Viện Khoa học Indonesia ở Jakarta cho biết. Ông nói tiếp,

Mặc dù Indonesia là quốc gia Hồi giáo đông dân nhất trên thế giới và có hơn 300 sắc tộc khác nhau, tiến trình dân chủ hóa đang đi đúng hướng. Quân đội đã chấp nhận quyền dân sự tối cao, và đó là điều quan trọng.

Joe Cochrane (TNYT)

Trà Mi lược dịch

Áp lực nợ công tăng một cách đáng ngại


Tại một ngân hàng ở Hà Nội ngày 18/08/2014. Nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh một cách đáng ngại.

Tại một ngân hàng ở Hà Nội ngày 18/08/2014. Nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh một cách đáng ngại.

Reuters
Thanh Phương

Theo đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) của tạp chí The Economist công bố ngày 20/08/2014 nợ công của Việt Nam hiện đã lên tới 83 tỷ đôla, tăng thêm 3 tỷ đôla trong vòng 5 tháng . Tính đổ đồng, mỗi người dân Việt Nam hiện nay gánh món nợ khoảng hơn 900 đôla.

Theo lời bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng trả lời chất vấn ở Quốc hội gần đây, tỷ lệ chi tiêu nợ công trên GDP của Việt Nam vào năm 2013 là 53,4%, tức là vẫn còn dưới ngưỡng an toàn 65% theo khuyến cáo của các định chế tài chính quốc tế.

Đúng là nếu so sánh với nhiều nước khác, tỷ lệ nợ công của Việt Nam chẳng thấm vào đâu, chẳng hạn như tính đến năm 2014 nợ công của Nhật Bản lên đến 242% GDP, hay của Mỹ lên tới 107%. Nhưng cái chính không phải là ở tỷ lệ, mà là khả năng thanh toán và cơ cấu nợ công của quốc gia đó.

Mặt khác cũng cần phải thấy là nợ công chính thức của Việt Nam hiện nay chưa tính tới nợ của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp Nhà nước thì mức nợ công này cao hơn rất nhiều. Chưa kể là có thể Việt Nam sẽ phải dùng ngân sách Nhà nước để trả những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước.

Chuyên gia kinh tế tế Lê Đăng Doanh, trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội, cũng cho rằng nợ công của Việt Nam đúng ra phải tính luôn cả nợ của các doanh nghiệp Nhà nước, mà Nhà nước sẽ phải gánh thay. Ông cho rằng áp lực nợ công của Việt Nam hiện đang gia tăng một cách đáng ngại :

“Nợ công của Việt Nam theo số liệu chính thức do Bộ Tài chính công bố là vào khoảng 54 hay 56% GDP, như vậy còn dưới ngưỡng an toàn 65% mà Ngân hàng Thế giới ấn định. Tuy vậy ở Việt Nam, số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước cho đến nay chưa được tính vào số nợ công của Nhà nước.

Số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước, theo các số liệu do các chuyên gia đưa ra, là khoảng 51% GDP. Nếu cộng với số nợ công mà Bộ Tài chính công bố, thì tổng số nợ công có thể lên đến 106% hay 107% GDP. Như vậy là nó vượt xa tỷ lệ 65% của Ngân hàng Thế giới.

Nếu như doanh nghiệp Nhà nước không trả nợ được -như trường hợp Vinashin- Nhà nước phải đứng ra trả nợ thay, bởi vì Nhà nước đã đứng ra bảo lãnh, hay chính Nhà nước đã đi vay cho các doanh nghiệp này.

Điểm thứ hai cũng cần phải thấy rằng tổng số nợ công đã tăng lên một cách nhanh chóng trong thời gian gần đây và gánh nặng trả nợ đã lên đến mức 25% tổng số chi ngân sách. Đấy là một con số rất đáng lo ngại.

Trong số nợ này, có số nợ trong nước do chính phủ phát hành trái phiếu, mà trái phiếu trước kia do tình hình lạm phát nên có lãi suất rất cao. Lãi suất này, nay cũng giảm dần. Tuy vậy số nợ phải trả trong nước cũng rất là lớn và nghĩa vụ trả nợ trong năm 2014 cũng tăng rất mạnh so với năm 2013 và những năm trước đây. Cho nên, điều đáng lo ngại là tốc độ tăng của nợ công cũng như tốc độ tăng của tỷ lệ chi ngân sách để trả nợ công.”

Theo tường thuật của tờ VnEconomy, tại một cuộc tham luận vào trung tuần tháng 7 vừa qua, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, tiến sĩ Trần Đình Thiên đã nêu lên ba nguy cơ của nợ công Việt Nam :

Thứ nhất là tốc độ tăng nợ vay cao, hiện đã đến mức vay để trả nợ, chứ không phải vay để sản xuất rồi bán đi lấy tiền trả nợ. Thứ hai là cơ cấu nợ, bởi vì trong nợ công của Việt Nam, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, nên áp lực trả nợ gay gắt và ngày càng tăng cao. Thứ ba là năng lực trả nợ của Việt Nam đã thực sự đáng báo động, với nghĩa vụ trả nợ năm 2014 đã vượt qua vạch đỏ (25% tổng thu ngân sách) và chắc sẽ còn tăng cao trong năm tới và có thể vượt qua ngưỡng mất an toàn là 30%.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng đặc biệt lưu ý về áp lực của các món nợ ngắn hạn đối với Việt Nam:

“ Số nợ mà cho các chương trình hỗ trợ chính thức ODA cấp thì có thời hạn trả nợ dài, có một thời gian ân hạn cũng đáng kể, thường là 5 năm và lãi suất thấp. Cho nên, số nợ đó thì không đáng lo ngại. Đáng lo ngại là số nợ trái phiếu chính phủ trong nước và số nợ vay thương mại như khoản vay 750 triệu đôla năm 2005 để mang về cấp toàn bộ cho Vinashin và lần thứ hai là khoản vay 1 tỷ đôla năm 2010 cũng đưa về cho các tập đoàn và doanh nghiệp Nhà nước.”

Chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, trả lời RFI từ Sài Gòn, cũng chia sẽ ý kiến nói trên của ông Lê Đăng Doanh :

“ Dòng tiền được huy động để thanh toán những khoản nợ gốc và lãi cho những khoản nợ ngắn hạn sẽ tạo áp lực mạnh hơn là các khoản nợ dài hạn. Ở đây nó cũng thể hiện mức độ rủi ro còn rất cao của Việt Nam. Nếu một nước có mức độ rủi ro thấp thì người ta có thể vay được các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp, còn Việt Nam thì phải vay ngắn hạn nhiều hơn và với lãi suất cao hơn. Cũng giống như một doanh nghiệp không có năng lực cao thì thường là các ngân hàng cho vay với lãi suất cao và thời hạn ngắn.”

Như tiến sĩ Lê Đăng Doanh có nói ở trên, tại cuộc họp báo của chính phủ ngày 28/08/2014, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Nguyễn Văn Nên xác nhận là chính phủ Việt Nam đang xem xét khả năng vay 1 tỷ đôla dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tể. Khoản vay này là nhằm để “ đảo nợ” , tức là sẽ được dùng để trả một khoản vay trên dưới 1 tỷ đôla có lãi suất cao hơn nhiều. Theo bộ trưởng Nguyễn Văn Nên, như vậy số nợ không thay đổi nhưng lãi thì trả thấp hơn.

Theo chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, việc phát hành trái phiếu quốc tế để lấy tiền trả nợ là chuyện bình thường ở các quốc gia khác, nhưng điều đáng ngại ở Việt Nam là trong khi nợ công tăng thêm, thì hiệu quả sử dụng nợ lại giảm xuống :

“ Các chính phủ đều có xu hướng phát hành trái phiếu để huy động nguồn tiền bên ngoài, có thể để thực hiện đầu tư công, đầu tư vào một số dự án nào đó, hoặc là để trả nợ. Cho nên việc phát hành trái phiếu là một chuyện bình thường. Tuy nhiên, đối với Việt Nam thì gần đây rất nhiều chuyên gia cảnh báo là tình hình nợ công đang tăng lên và hiệu quả sử dụng nợ công cho việc phát triển kinh tế thì đang có xu hướng kém đi.

Thật ra cái việc đi vay nợ để phát triển kinh tế là điều tốt. Thy vì nhận viện trợ thì vay nợ thể hiện trách nhiệm của một nước sử dụng đồng tiền đó để phát triển kinh tế. Nếu là viện trợ cho không thì người ta xu hướng sử dụng vào những chuyện không hiệu quả, còn đi vay nợ thì người ta phải nghĩ đến chuyện trả nợ và như vậy phải đầu tư vào những dự án tốt.

Thế nhưng tình hình ở của Việt Nam trong một hai thập niên gần đây là đầu tư công kém đi hiệu quả. Trên thực tế ta đã thấy là có nhiều công ty Nhà nước đã mắc nợ rất nhiều và lâm vào tình trạng là do hoạt động không hiệu quả nên không thể trả được nợ đúng hạn, nên Nhà nước phải đứng ra trả nợ thay.

Quốc hội và chính phủ cũng đang cố gắng giảm những khoản đầu tư đó và kêu gọi các tập đoàn Nhà nước nên tập trung vào những lĩnh vực chuyên biệt của mình hơn là đầu tư dàn trải, như trường hợp của Vinashin.”

Đây là lần thứ ba trong vòng 9 năm qua, chính phủ Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế. Trước đây, năm 2005, chính phủ đã phát hành trái phiếu quốc tế tại thị trường chứng khoán New York, để vay 750 triệu đôla với kỳ hạn 10 năm. Số trái phiếu này sẽ đến hạn trả nợ gốc và lãi vào năm 2016. Tuy nhiên, do chính phủ cho Vinashin vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên và khoản vay đã không được sử dụng hiệu quả, nên Vinashin hầu như không có khả năng trả nợ cho chính phủ.

Đến năm 2010, chính phủ lại phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore. Số tiền này sau đó cũng được chính phủ cho một số tập đoàn kinh tế lớn như Dầu khí, Điện lực, Vinalines… vay lại. Tập đoàn Vinalines thì như đã biết, đang nợ hàng tỷ đôla không biết bao giờ mới trả xong.

Như vậy là sau khi đã vay nợ cho các tập đoàn Nhà nước làm ăn không hiệu quả, nay Nhà nước phải vay tiền coi như là để trả nợ thay cho các tập đoàn đó. Đối với tiến sĩ Lê Đăng Doanh, việc phải vay nợ mới để trả nợ cũ là một điều rất nguy hiểm đứng về mặt tài chính :

“ Đó là một điều rất đáng lo ngại, tức là chính phủ không thể dùng tiền ngân sách hay dự trữ ngoại tệ để trả nợ, mà phải vay nợ mới để trả nợ cũ. Việc vay nợ này hiện còn thuận lợi vì lãi suất trên thị trường thế giới thì thấp. Gần đây hãng Moody’s đã nâng hạng tín nhiệm tín dụng và tài chính của Việt Nam, cho nên vay kỳ này sẽ có lãi suất thấp hơn so với năm 2005.

Nhưng việc không tiền để trả mà phải vay nợ mới để trả nợ cũ là một tín hiệu rất đáng lo ngại đối với giới tài chính quốc tế. Tôi nghĩ rằng họ sẽ thương lượng một lãi suất thế nào đấy để trang trải cái rủi ro ấy. Họ sẽ có cái đánh giá rất là nghiêm túc.”

Tại hội nghị về kế hoạch và đầu tư vào cuối tháng 8/2014, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố “ Việt Nam dứt khoát không để vỡ nợ”. Nhưng tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa trấn an được giới chuyên gia, như lời tiến sĩ Lê Đăng Doanh :

“ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh quyết tâm của chính phủ và tôi rất trân trọng cái quyết tâm ấy. Tuy vậy, thứ nhất, chúng ta không có khả năng dùng tiền tiết kiệm của chúng ta, tiền ngân sách thu được, mà lại phải vay nợ mới để trả nợ cũ. Thứ hai, tình hình mất cân đối ngân sách của chúng ta là khá nghiêm trọng. Tôi nghĩ đó là một vấn đề mà giới chuyên gia kinh tế và tài chính thực sự quan ngại và đang bàn cách giải quyết, để trong tương lai tránh việc vay nợ mới để trả nợ cũ.”

Nếu tình trạng nợ công như hiện nay cứ tiếp diễn, liệu Việt Nam có nguy cơ bị vỡ nợ hay không ? Đối với chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, để tránh nguy cơ đó, Việt Nam phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn Nhà nước và giảm bớt những dự án đầu tư công không cần thiết :

“ Cho tới hiện nay thì người ta chưa nghĩ đến việc Việt Nam vỡ nợ giống như Hy Lạp. Nhưng rõ ràng là cần phải điều chỉnh lại hoạt động của các tập đoàn Nhà nước, cũng như phải giảm bớt các dự án đầu tư công quá tham vọng và không hiệu quả, để có thể bớt những khoản vay của nước ngoài, cũng như là dành đồng vốn cho các dự án có hiệu quả hơn. Như vậy sẽ làm giảm bớt nguy cơ vỡ nợ.

Tôi không nghĩ là chính phủ chi tiêu nhiều, đây chỉ là sự thiếu hiệu quả trong việc đầu tư vào khu vực kinh tế Nhà nước. Nếu đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, nếu quyết tâm cấu trúc lại các tập đoàn kinh tế, tập trung vào những lĩnh vực thật sự có hiệu quả, thì trong thời gian tới áp lực nợ công sẽ giảm nhiều.

Thời gian qua, chương trình cổ phần hóa, được tiến hành từ cách đây hơn một thập niên rồi, nhưng còn rất chậm và sự hình thành các tập đoàn Nhà nước lớn thì càng ngày càng rõ nét hơn. Quốc hội và chính phủ cũng đã nhận thức là phải tiến hành rất nhanh việc cổ phần hóa các công ty Nhà nước, cũng như tái cấu trúc nền kinh tế, phát triển hoạt động tư doanh, thì mới mong là tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tăng lên và từ đó gánh nặng nợ công giảm dần.”

@RFI