Nguyễn Bá Thanh không xứng đáng được chữa trị ở Mỹ

bathanhVẫn biết Mỹ là nước nhân đạo. Đặc biệt những người làm ngành Y Tế, từ lao công, tới Bác Sĩ, đều nhã nhặn, lịch sự đối với bệnh nhân. Họ làm việc tận tâm, tận sức, chỉ nhìn cách thiết kế phòng trực của bệnh viện thì biết, phòng trực ngoài hành lang, không vách chắn, không cửa nẻo, thân nhân người bịnh có thể gọi bất cứ lúc nào, chưa kể những phương tiện điện thoại đặt trên giường bịnh, và “giây dựt” khẩn cấp trong restroom, bệnh viện sạch đẹp như khách sạn hạng sang. Trình độ nghề nghiệp của Y, Bác Sĩ thuộc bậc tối ưu. Do đó kẻ chống Mỹ sừng sỏ nhất của thế giới, khi bịnh đau cũng thèm được chữa trị ở Mỹ.

Chữa trị hoặc cấp cứu cho con người, thuộc tính nhân đạo, nhưng với Nguyễn Bá Thanh, không đúng, có khi ngược lại thành bất nhân, những bằng chứng sau đây:

– NBT vì ham ăn đất, đã tàn sát giáo dân Cồn Dầu, Đà Nẵng. Chính Nguyễn Bá Thanh đã ra lệnh Công An giết anh Nguyễn Thành Năm, sau đó ém nhẹm vụ việc.

– NBT không chỉ cướp đất của người sống, cướp luôn của người đã qua đời, san bằng nghĩa trang Cồn Dầu.

– Cùng đồng bọn, đồng chí nhưng NBT không nương tay với thiếu tướng CA Lê Văn Thanh, buộc đương sự phải ra tòa, khi đang nằm trên băng ca, thở oxy.

Khi Cồn Dầu bị chế độ CS và NBT bách hại, Nguyễn Thành Năm phải bỏ mình. Atlanta đã tổ chức cầu nguyện, tại hội trường Grand Ballroom, được đông đảo đồng hương, tham dự. Nguyễn Thanh Năm là giáo dân Công Giáo, nhưng ngày cầu nguyện được đồng chủ trì bởi các vị: Sư, thuộc các chùa Atlanta, các Mục Sư, Linh Mục, các vị chức sắc đạo Cao Đài, Hòa Hảo.

Anh Nguyễn Thành Tài, anh ruột Nguyễn Thành Năm, đến từ Texas, rất tiếc hơn một năm nay anh Nguyễn Thành Tài, đã thay đổi số phone. Nếu liên lạc được, có thể nhờ Luật Sư tham vấn, để biết chúng ta có thể làm được gì.

Nếu biết Nguyễn Bá Thanh, nằm tại bệnh viện nào, chúng ta tổ chức biểu tình. Những tên mặt chì, ngoan cố vô nhân tính, cần phải hành động đúng mức, để làm gương cho đồng bọn ác ôn, như tên chánh án xử: Bùi T Minh Hằng, Nguyễn T Thúy Quỳnh, Nguyễn Văn Minh, cần phải biết hối ngộ.

Những kẻ lúc mạnh khỏe, tùng theo đảng CS hà hiếp dân lành, cướp đất, cướp nhà, cướp ruộng, đàn áp bách hại những người yêu nước, khi bịnh đau được hưởng chế độ nhân đạo của Mỹ, hoặc những nước tự do, là điều nghịch lý.

Khi đón Nguyễn Thành Tài, từ phi trường Atlanta, tôi hỏi về Linh Mục Châu Ngọc Tri, anh Tài nói: Giá như cha Tri có trách nhiệm một chút, em tôi sẽ không chết! Dạo ấy trời vào thu từ lâu, sau câu nói của anh Tài, tôi nhìn ra hai bên sườn đồi, rừng rú xám xịt, như muốn đỗ mưa, lòng buồn da diết, và rất hối hận, vì cha Tri đến Atlanta nhiều lần, chúng tôi đều đón rước trọng thị, ai ngờ khi về xứ ông bán con chiên của mình cho bầy sói, ông ăn cơm Chúa, mà thờ qủy.

Nhân chuyện NBT chữa trị ở Mỹ, mong cha Tri sớm giác ngộ, hoàn lương.

NBT chữa trị ở Mỹ, có thể là cuộc thanh trừng, theo hình thức khác với Phạm Quý Ngọ trước đây. Nếu bịnh thật, như báo CS loan tin, “chữa trị tại bệnh viện đặc biệt,” tính đến nay hơn hai tuần, giả sử tiền viện phí một triệu đô la, ai trả? Nếu NBT trả, cái chức “bài trừ tham nhũng” thật trơ trẽn và khôi hài, nếu lấy tiền của dân, càng phi lý, vô đạo, bất công hơn nữa.

Mới đây viếng tang bà Võ Thị Thắng, Trương Tấn Sang, viết: “Có kẻ hiểm ác, giấu mặt đối xử bất nhân’ với bà Võ Thị Thắng”

Trương Tấn Sang đừng quên rằng: Toàn thể Đảng Cộng Sản, đều hiểm ác và bất nhân. Kẻ đạo đức nhất của đảng là Hồ Chí Minh, chính là kẻ hung hiểm ác nhất, bất nhân nhất, chưa hết: Cộng Sản ngoan cố và ngang ngược, chứng minh:

Tòa CS xử bà Bùi Thị Minh Hằng “tội gây rối trật tự” 3 năm tù giam, tương đương tội cố sát. Trước đó mấy ngày tòa đồng Nai, xử tên đại úy Ngô Văn Vinh, vì ăn chia không đều, đã bắn chết “thủ trưởng” của hắn, thiếu tá Sơn, bắn bị thương thêm một đồng bọn, thượng úy Phú. Vinh chuẩn bị kỹ lưỡng súng đạn, chờ đợi ra tay, bắn tên Sơn cho tới khi súng hết đạn thì thôi, xử 3 năm. Tương đương tội “gây rối trật tự công cộng.”

Vâng. Cộng Sản là lũ hiểm ác, giấu mặt (mướn côn đồ thế thân) bất nhân, “hãy đi chết đi,” không xứng đáng được chữa trị ở Mỹ.

© Ông Bút

© Đàn Chim Việt

Đưa người ta không đưa sang sông

Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.

Hạ Đình Nguyên

Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu thơ của Thâm Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị – theo như tường trình của VOV:

“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ chức trọng thể…”
“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.”
Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.

Theo vnexpress:

Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16 tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi 17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên – sinh viên – học sinh…

Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Độc lập hạng nhì cho bà Võ Thị Thắng. Ảnh: Đời Sống Pháp Luật

Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp, cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận 6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân. Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay nhưng chị quyết không khai báo.”

Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”

Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết nhưng nhiều người khác thì không.

Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:

Báo Dân Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:

Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…

Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.

Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969. Ảnh: Minh Đức

Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn. Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai 12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:

“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”

Vẫn theo bản tin thượng dẫn:

Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.

Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân. Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.

Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay – rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.

Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC, hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.”

Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!

Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang FB của BBC, độc giả Lê Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là qúi hoá hết sức!
Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?

© Tưởng Năng Tiến

© Đàn Chim Việt

Tòa Kháng Án: Không trục xuất Nguyễn Tấn Vinh về Việt Nam

WESTMINSTER, Calif (NV) – Vào trung tuần tháng Tám, nhà đấu tranh Nguyễn Tấn Vinh nhận được tin ông hằng mong mỏi: Tòa Kháng Án Khu Vực 9 ở Passadena quyết định ngừng lệnh trục xuất ông về Việt Nam do tòa Di Trú Hoa Kỳ ban ra cách đây 5 năm.

Thở phào nhẹ nhõm, ông Vinh cho biết phán quyết này “kết thúc một giai đoạn cũ” của cuộc đời mình.

“Tôi nóng lòng bắt đầu một đoạn đời mới, vẫn đấu tranh, nhưng theo một cách khác, cho thích hợp với bối cảnh thời cuộc.” Ông tâm sự, rồi nói thêm: “Đây là tin vui chung, vì nếu chính phủ Hoa Kỳ quyết định trục xuất, trao tôi cho chính quyền Hà Nội, thì giống như tạt một gáo nước lạnh vào mặt những người đấu tranh đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.”

Ông Nguyễn Tấn Vinh (phải) và em trai là ông Võ Đức Văn tại tòa soạn nhật báo Người Việt, sau khi được tin ông Vinh không bị trục xuất về Việt Nam. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Ông Võ Đức Văn, em ruột, “chiến hữu” của ông Nguyễn Tấn Vinh trong đảng Dân Tộc Việt Nam, cũng từng nằm tù vì đấu tranh, và là người biết bao năm nay đôn đáo khắp nơi để lo hồ sơ kháng án cho anh trai, bày tỏ niềm hân hoan: “Quyết định của tòa cho thấy nước Mỹ luôn dành sự bênh vực về pháp lý cho người đấu tranh chống lại các chế độ độc tài.”

Ông Văn cho rằng nhờ chính sách không ủng hộ những chế độ độc tài toàn trị, mà dù ông Nguyễn Tấn Vinh có “vướng víu vào pháp lý” nước Mỹ cũng “không thể đang tâm” trục xuất ông về Việt Nam, để giao cho nhà cầm quyền nước này.

Hồ sơ kháng án của ông Nguyễn Tấn Vinh, do Luật Sư Gary Silbiger đảm trách, tập trung vào một chiến lược then chốt, là xin tòa cho thân chủ ông được bảo vệ theo Convention Against Torture (CAT) – Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.

Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn (CAT) là công ước quốc tế đòi hỏi các nước ký kết phải có biện pháp hữu hiệu chống tra tấn tại nước mình, và nghiêm cấm các quốc gia trả di dân về đất nước họ, nếu có lý do để tin rằng khi trở về, họ sẽ bị hành hạ hay tra tấn.
Đầu đuôi câu chuyện
Câu chuyện bắt đầu cách đây hơn 13 năm.

Ông Nguyễn Tấn Vinh qua Mỹ định cư từ năm 1985, và gia nhập đảng Dân Tộc Việt Nam, ít lâu sau khi trở thành thường trú nhân.

Vào tháng Sáu, 2001, ông Vinh và nhiều thành viên khác của đảng Dân Tộc Việt Nam đồng loạt tổ chức các vụ đặt bom trước hai tòa đại sứ Việt Nam tại Manila và Bangkok để “gióng lên tiếng nói phản đối chế độ độc tài toàn trị và việc đàn áp nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội,” nói theo lời của đảng này.

Việc đặt bom đổ bể, ông Vinh bị bắt giam tại Manila, Philippines.

Mãn hạn tù ở Philippines, ông Vinh bị đưa về Hoa Kỳ để tiếp tục vào tù, vì đã phạm luật Hoa Kỳ trong việc dùng giấy thông hành (passport) của người khác để đến Philippines.

Sau khi mãn hạn tù ở Mỹ, ông Vinh bị nhân viên Sở Di Trú chờ sẵn ngoài cửa, đưa về tạm giam ở Lancaster, rồi nhiều nhà tù khác, chờ ngày ra tòa, vì theo luật di trú Hoa Kỳ, thường trú nhân Hoa Kỳ phạm pháp và bị án tù lâu hơn một năm, có nguy cơ bị trục xuất.

Ngày 5 Tháng Tám, năm 2009, Tòa Án Di Trú Hoa Kỳ ra phán quyết ông Vinh “bị trục xuất, trả về Việt Nam.”

Ngày 19 Tháng Mười Một, 2009, đơn xin kháng án của ông với Hội Ðồng Tái Xét Di Trú Hoa Kỳ (Board of Immigration Appeals) tại Virgina, do Luật Sư Gary Silbiger đảm trách, bị khước từ.

Sau nhiều lần kháng án, cuối cùng hồ sơ của ông được chuyển lên Tòa Kháng Án Khu Vực 9 ở Passadena, tòa án liên bang có thẩm quyền cao nhất nước Mỹ (chỉ dưới Tối Cao Pháp Viện).

Hy vọng cao nhất của Luật Sư Silbiger trong việc làm cho lệnh trục xuất bị ngừng lại, là xin tòa cho thân chủ mình được bảo vệ theo Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.

Muốn được như vậy, ông phải làm sao thuyết phục được các thẩm phán là nếu bị trả về Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ bị nhục hình.

Ông Nguyễn Tấn Vinh (trái) cùng một số thành viên của đảng Dân Tộc Việt Nam, tuần hành trước cửa Tòa Kháng Án Khu Vực 9 (Apellate Court, Ninth Circuit) ở Passadena, trước phiên xử quyết định có trục xuất ông hay không, vào ngày 8 tháng Mười, 2013 (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Quyết định có nên ngăn chặn lệnh trục xuất ông về Việt Nam của tòa Di Trú Hoa Kỳ hay không, quả  không đơn giản. Đó là lý do tại sao Tòa Kháng Án Khu Vực 9 đã phải dùng đến thủ tục “En Banc,” một tiến trình thảo luận giữa các thẩm phán, kéo dài gần một năm mới đi đến kết quả.

Câu hỏi được đặt ra để rút tỉa kinh nghiệm là tại sao cũng với chừng đó chứng cớ, mà cả Tòa Di Trú lẫn Hội Đồng Tái Cứu Xét Di Trú đều bác đơn xin được bảo vệ theo CAT của ông Nguyễn Tấn Vinh, trong khi đó Tòa Kháng Án Khu Vực 9 lại chấp thuận.

Ông Nguyễn Tấn Vinh nhận định: “Tôi thua ở tòa địa phương là vì nhân chứng hai bên không cân xứng. Bên công tố họ mời giáo sư luật về hưu, ông Tạ Văn Tài, ở Massachussets xuống, ông này là giáo sư luật, có tài hùng biện, lại nói tiếng Anh hay, còn phía tôi, nhân chứng, trong đó có bà Luật Sư Bùi Kim Thành, dù chính bản thân từng bị cộng sản hành hạ, nhưng mới ở Việt Nam qua, nói tiếng Anh không rành, còn người thông dịch thì không có sức thuyết phục.”

Trong khi đó, ông Võ Đức Văn cho rằng có lẽ nhờ thủ tục “En Banc” nên Tòa Kháng Án Khu Vực 9 mới có đủ thời giờ (gần một năm) để xét kỹ chứng cớ do hai bên đưa ra, trong khi đó các tòa dưới, mỗi tòa chỉ có vài giờ hay vài ngày để quyết định.
Lập luận của tòa
Tập tài liệu dài gần 30 trang do Tòa Kháng Án Khu Vực 9 công bố hôm 14 tháng Tám, 2014, đúc kết ý kiến của các vị thẩm phán, cho thấy sự cân nhắc kỹ lưỡng của họ trước khi quyết định ngừng lệnh trục xuất của tòa Di Trú.

Tài liệu này trích ý kiến của chánh án Harry Pregerson, được xem như kết luận của tòa: “Các chứng cớ đưa ra buộc chúng tôi phải kết luận rằng, xác xuất ông Nguyễn Tấn Vinh bị tra tấn nếu bị đưa về Việt Nam cao hơn là không bị tra tấn nhiều, vì thế chúng tôi đề nghị tòa dưới ngừng trục xuất, để ông được bảo vệ theo Công Ước Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc Về Chống Tra Tấn.”

Trong phần nêu ra chứng cớ cụ thể, chánh án Pregerson dẫn chứng: “Ông Nguyễn Tấn Vinh đưa ra sáu nhân chứng, trong đó hai người là tù nhân chính trị và bản thân từng bị hành hạ. Người thứ nhất cho biết ông bị bỏ đói, không cho uống nước, và chứng kiến một bạn tù vì bị bỏ đói và khát đến chết. Người thứ hai (bà Bùi Kim Thành) khai rằng bà bị chích một loại thuốc gì đó khiến khi tỉnh dậy bị mất trí nhớ, đầu óc lùng bùng, ngoài ra còn bị đánh đập đến nỗi gãy chân, và sức khỏe bị vĩnh viễn tàn phá.”

Về phía nhân chứng của Tòa Di Trú, chánh án Pregerson phân tích: “Phía chính quyền đưa ra nhân chứng duy nhất là một giáo sư dạy luật tại Đại Học Luật ở Harvard đã về hưu (ông Tạ Văn Tài). Trước tòa, nhân chứng này trình bày những gì ông nghĩ về tình hình tại Việt Nam, và kết luận rằng nếu bị trả về Việt Nam, nhiều phần chắc là ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ không bị hành hạ, tra tấn.”

Kết luận của nhân chứng Tạ Văn Tài, vẫn theo phân tích của chánh án Pregerson, dựa trên ba lập luận chính, và cả ba lập luận này đều không được Tòa Kháng Án Khu Vực 9 chấp nhận: “Thứ nhất, nhân chứng (Tạ Văn Tài) khai rằng hành hạ tù nhân trái với luật pháp Việt Nam, và thứ hai, Việt Nam sẽ không hành hạ tù nhân chính trị vì sợ làm ảnh hưởng đến uy tín của nước này trước thế giới. Cả hai điều này không đúng, vì theo các bản tường trình của Human Rights Watch và tường trình của chính Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, dù luật pháp Việt Nam cấm việc hành hạ người tù, công an của nước này thường xuyên đánh đập va tra tấn tù nhân trong lúc bị bắt hay giam cầm.”

“Cuối cùng, nhân chứng (Tạ Văn Tài) lập luận rằng dù chắc chắn là khi về đến Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Vinh sẽ bị bắt giam và bị hỏi cung, nhưng chắc là ông Vinh sẽ hợp tác với họ và khai hết, vì thế chính quyền Việt Nam sẽ không ‘cần’ phải tra tấn. Lập luận này rất buồn cười, thứ nhất chính vì hàm ý của người chứng, rằng chính quyền Việt Nam không cần phải tra tấn nếu ông Vinh khai hết, điều này có nghĩa là nếu ông Vinh không chịu khai thì họ sẽ tra tấn. Nhưng quan trọng hơn, các chứng cớ do tường trình của Human Rights Watch và tường trình của chính Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra cho thấy, chính quyền Việt Nam thường xuyên đánh đập tù nhân, hoặc vì ép họ nhận tội, hoặc vì muốn trừng phạt hay dằn mặt những người bất đồng chính kiến, chứ không liên quan gì đến việc họ chịu khai hay không chịu khai.”

Cũng vẫn theo công bố dài 30 trang của Tòa Kháng Án Khu Vực 9, một chứng cớ nữa cũng được Tòa Kháng Án Khu Vực 9 xét đến và đánh giá cao, đó là việc Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao Việt Nam viết một công điện cho Interpol Việt Nam ngày 8 Tháng Năm, 2002, gửi đến Tòa Ðại Sứ Việt Nam tại Manila, nhờ chuyển cho chính phủ Philippines yêu cầu dẫn độ ông Vinh về Việt Nam để trừng trị vì âm mưu tấn công sứ quán Việt Nam bằng bom.

Chánh án Pregerson nhận định: “Hội Ðồng Tái Cứu Xét Di Trú Hoa Kỳ” kết luận rằng chính phủ Việt Nam nhiều phần chắc cũng chẳng biết ông Nguyễn Tấn Vinh là ai, đừng nói gì đến chuyện bắt bớ, giam cầm hay hành hạ khi ông Vinh về đến Việt Nam. Kết luận như thế chắc phải là mù lòa (blind) vì không để ý gì đến chứng cớ rõ ràng trong công điện đòi chính phủ Philippines yêu cầu dẫn độ ông Vinh về Việt Nam để trừng trị nói trên.”
Rút tỉa kinh nghiệm
Nhìn lại con đường đã vượt qua, ông Nguyễn Tấn Vinh chia sẻ: “Thấy mọi việc khó khăn quá, tôi thoạt đầu cũng bi quan, định buông mặc cho số mệnh, nhưng càng nghĩ thì tôi càng thấy mình là người đi đấu tranh thì không thể bỏ cuộc dở chừng, mà phải còn nước còn tát, vì thế tôi đi gặp một bà làm thiện nguyện ở nhà tù, nhờ bà tìm dùm cho một luật sư chuyên bào chữa cho người bị trục xuất, nhờ đó mới gặp được Luật Sư Gary Silbiger.”

“Vui nhất là được nhìn thấy mẹ già 88 tuổi của tôi an tâm và sung sướng. Má tôi vui đến nỗi trông bà trẻ lên mấy tuổi.”  Ông tâm sự.

Ông Võ Đức Văn (trái), em trai và là ngừơi đảm trách việc hỗ trợ pháp lý cho ông Nguyễn Tấn Vinh, nói chuyện với Luật Sư Gary Silbiger. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Ông Võ Đức Văn, người bỏ nhiều năm trời để đi khắp nơi vận động cho anh ruột khỏi bị trục xuất, chia sẻ kinh nghiệm đi vận động. Ông kể: “Tôi mang hồ sơ đi khắp nơi để vận động cho anh Vinh. Một lần tôi đi gặp ông dân biểu liên bang Ed Royce trong cuộc kêu gọi sự dàn xếp chính trị cho vấn đề Biển Đông, ông Ed Royce nói những người Mỹ gốc Việt có trách nhiệm đối với vấn đề Việt Nam, tôi hỏi ông là không biết người Mỹ gốc Việt có được quyền can thiệp vào vấn đề chính trị Việt Nam hay không? Ông Ed Royce nói có chứ. Tôi hỏi, vậy ông có bao giờ nghe một người là thường trú nhân ở đây bị trục xuất về Việt Nam vì đi đấu tranh cho Việt Nam không, ông Royce nói chưa bao giờ nghe. Rồi bảo tôi đưa hồ sơ cho ông nghiên cứu.”

Ông Văn kể tiếp: “Không biết ông Ed Royce có giúp gì cho mình không, và giúp như thế nào, nhưng sau đó tôi được giới thiệu đi nhiều nơi. Tôi đến cả Bộ Nội An, gặp đại diện của bà Janet Napolitano, và từ đó được họ giới thiệu đến gặp một cơ quan bảo vệ nhân quyền của Quốc Hội, ngoài ra còn nhiều vị dân biểu liên bang khác cũng đã sẵn lòng giúp đỡ . Tôi nghĩ rằng không có sự giúp đỡ của họ, của báo chí, của cộng đồng thì chúng ta không có được một kết quả sẽ trở thành tiền lệ như thế này.”

Được hỏi về những điều chiêm nghiệm được, ông Văn nhận định: “Tôi thấy rằng trong việc đấu tranh pháp lý thân chủ và luật sư cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau để mang đến kết quả tốt nhất. Mình phải bỏ thì giờ trình bày sự việc cho luật sư, và đưa hết những chứng cớ cho họ để họ có thể bào chữa tốt nhất cho mình.”

Về dự tính tương lai, ông Nguyễn Tấn Vinh cho biết trong khi chuẩn bị tiếp tục một giai đoạn đấu tranh mới, ông muốn dành nhiều thì giờ bên mẹ, vì bên tai ông giờ vẫn còn vang câu nói của bà: “Con được ở lại Mỹ rồi, má hết lo rồi. Còn tương lai con thì sao con có thể cho má biết không?”
“Tôi chưa dám cho bà biết dự tính của mình!” Ông Vinh nói thêm.

Còn ông Võ Đức Văn thì cho biết hiện giờ đang đi học luật. Ông nói: “Những ngày tháng trong tù cho tôi nhiều thời gian để suy nghĩ, và tôi thấy rằng nếu mình muốn tiếp tục tranh đấu đòi nhân quyền cho Việt Nam thì học luật là điều cần thiết. Học luật cũng là để chuẩn bị hành trang cho mình đầy đủ hơn, vì sự đóng góp của mình cho đất nước sẽ là về lâu về dài.”

@NguoiViet