​Nhập khẩu từ Trung Quốc sắp chạm mốc 40 tỉ USD

TTO – Theo thống kê của Bộ Công thương, xuất khẩu trong tám tháng qua của VN sang Trung Quốc ước đạt khoảng 9,79 tỉ USD, tức trung bình mỗi tháng xuất khẩu 1,2-1,3 tỉ USD.

Thu hoạch lúa đông xuân ở Nông trường Cờ Đỏ, Cần Thơ - Ảnh: Hoàng Thạch Vân
Thu hoạch lúa đông xuân ở Nông trường Cờ Đỏ, Cần Thơ – Ảnh: Hoàng Thạch Vân

Tuy nhiên, tính đến hết tháng 8-2014 tổng nhập khẩu từ Trung Quốc đã lên tới khoảng 27,06 tỉ USD (tăng 15,77% so với cùng kỳ năm ngoái). Như vậy, VN tiếp tục nhập siêu từ Trung Quốc trên 17 tỉ USD, trung bình mỗi tháng nhập siêu 2,16 tỉ USD.

Với đà tăng trưởng ổn định như những tháng qua, cộng với nhu cầu tiêu dùng thường tăng trong những tháng cuối năm, dự tính nhập khẩu hàng hóa của VN từ Trung Quốc năm 2014 có thể chạm mốc 40 tỉ USD.

Cũng theo thông tin từ Bộ Công thương, những mặt hàng VN xuất khẩu nhiều sang Trung Quốc gồm máy tính linh kiện điện tử, hàng nông sản như gạo, sắn…

Cơ cấu xuất khẩu của VN sang Trung Quốc hiện nay là nhóm hàng nông – lâm – thủy sản chiếm khoảng 30-31%, nhóm hàng khoáng sản chiếm tỉ trọng 20-21%…

Về chi tiết, mặt hàng VN xuất khẩu sang Trung Quốc đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD là máy tính linh kiện điện tử, với kim ngạch đạt 1,26 tỉ USD trong tám tháng của năm 2014 (tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2013 vẫn giảm 15,81%). Đứng vị trí thứ hai là mặt hàng dầu thô, với kim ngạch đạt 960,55 triệu USD (tăng mạnh 85,58%).

Tám tháng đầu năm nay, gạo tiếp tục là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực của nước ta xuất khẩu sang Trung Quốc, với kim ngạch đạt 721,74 triệu USD.

Vừa qua có thông tin Trung Quốc chính thức cấm nhập gạo qua đường tiểu ngạch từ VN. Tuy nhiên, trên thực tế điều này đã không ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta.

Tám tháng đầu năm 2014 có bảy mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD trở lên gồm: máy tính linh kiện điện tử 2,73 tỉ USD, máy móc thiết bị 5 tỉ USD, điện thoại linh kiện đạt 3,71 tỉ USD…

Đặc biệt, dù sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng biển VN, việc đa dạng hóa thị trường, giảm nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc đã được nói đến nhiều nhưng thực tế nhiều mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu từ Trung Quốc nhập về vẫn tăng, như vải các loại tăng 24,06%, đạt 3,03 tỉ USD; sắt thép các loại tăng 26,88%, đạt 2,07tỉ USD…

“Trung Quốc cũng là một trong những nước Việt Nam nhập siêu lớn nhất, sự lệ thuộc ngày càng nhiều. Trong ba năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng trung bình hằng năm 800 triệu USD, nhưng nhập khẩu tăng 3-3,5 tỉ USD/năm”, báo cáo của cơ quan chuyên môn Bộ Công thương viết.

C.V.KÌNH
 

Việt Nam được gì sau chuyến thăm Trung Quốc của đặc sứ Lê Hồng Anh ?

Trọng Nghĩa /@FRI

Ngày 26 – 27/8/2014, đặc sứ Việt Nam ông Lê Hồng Anh đã thăm Trung Quốc với mục tiêu được tuyên bố chính thức là đàm phán với giới lãnh đạo Bắc Kinh về các biện pháp « làm dịu tình hình », sau căng thẳng hiếm thấy nẩy sinh từ vụ giàn khoan HD-981. Kết quả chuyến công du được thể hiện qua một cam kết cải thiện quan hệ song phương gồm ba nội dung, trong đó quan trọng nhất là nội dung thứ ba liên quan đến Biển Đông.

Cam kết này đã được đúc kết trong cuộc họp ngày 27/8/2014, giữa ông Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, được Hà Nội giới thiệu như là Đặc phái viên của Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, với ông Lưu Vân Sơn, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Ba nội dung chỉ đạo quan hệ song phương Việt Trung

Theo bộ Ngoại giao Việt Nam, cuộc hội đàm đã nhất trí về ba nội dung quan trọng có chức năng chỉ đạo quan hệ song phương Việt-Trung trong thời gian tới đây. Theo giới phân tích, hai nội dung đầu chỉ mang tính chất chung chung, khẳng định trở lại quyết tâm thúc đẩy quan hệ song phương mọi mặt.

Đáng chú ý nhất chỉ có nội dung thứ ba, vì liên quan đến các biện pháp mà cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều cam kết tiến hành nhằm tránh để xảy ra tình trạng cực kỳ căng thẳng bùng lên vào đầu tháng Năm 2014, sau khi Trung Quốc đơn phương đưa giàn khoan nước sâu HD-981 vào cắm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dùng một lực lượng tàu thuyền hùng hậu để ngăn cản, thậm chí tấn công vào lực lượng chấp pháp Việt Nam được cử đến khu vực.

Trong bản thông cáo báo chí ngày 27/08, bộ Ngoại giao Việt Nam đã cho biết chi tiết như sau :

« Nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam- Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc;

Tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển;

Kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp;

Duy trì đại cục quan hệ Việt – Trung và hoà bình, ổn định trên Biển Đông »

Trung Quốc vẫn tiếp tục khiêu khích ?

Giới phân tích nhìn chung không thấy thay đổi nào trong quan hệ Việt Trung, tức là không có gì cấm cản Bắc Kinh tiếp tục các hành vi lấn lướt và khiêu khích Việt Nam trong tương lai. Chuyên gia Mỹ Alexander Vuving thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á Thái Bình Dương tại Hawaii là một trong các nhà phân tích có quan điểm như trên.

Trả lời hãng tin Bloomberg hôm 28/08/2014, ông Vuving nhận định : « Tôi không thấy có đột phá nào trong quan hệ Trung-Việt. Trung Quốc không có lý do gì để kềm hãm các hành vi khiêu khích. Họ vẫn rất quyết đoán. Việt Nam không còn lựa chọn nào khác là xích lại gần các đối thủ của Trung Quốc như là Mỹ, Nhật và Ấn Độ ».

Thái độ cứng rắn của Bắc Kinh có thể được chứng minh qua luận điệu của báo chí Trung Quốc, đã không ngần ngại lên lớp Việt Nam như Nhân dân Nhật báo, trong một bài bình luận bằng tiếng Hoa, ngay trên trang nhất của ấn bản hải ngoại hôm 27/08 đã nhắn nhủ « Đừng để vấn đề Biển Đông phá vỡ đại cục ».

Đối với tác giả bài báo, sở dĩ quan hệ song phương Việt Trung bị tổn hại đó là vì Việt Nam đã cho tàu quấy rối hoạt động của giàn khoan Trung Quốc ngoài biển, lại để cho bạo động bùng lên trên đất liền gây thiệt hại về người và của cho Trung Quốc. Theo tờ báo, Việt Nam phải nhớ rằng mình lệ thuộc rất nặng vào kinh tế Trung Quốc.

Một bước tiến tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh tiếp tục

Trái với các quan điểm có thể gọi là bi quan kể trên, Giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia về Biển Đông và quan hệ Việt Nam Trung Quốc tại trường Đại học Maine (Hoa Kỳ) thì lại cho rằng kết quả chuyến công du Trung Quốc của đặc sứ Lê Hồng Anh không phải là tiêu cực, không phải là một sự quy hàng Trung Quốc, thậm chí còn là một bước tốt tạo cơ sở cho Việt Nam đấu tranh tiếp tục với Bắc Kinh trên hồ sơ Biển Đông.

Theo giáo sư Long, quyết tâm của Việt Nam, cũng như áp lực của Mỹ và ASEAN đã buộc Trung Quốc phải tái lập những cam kết hòa dịu mà họ đã từng hứa với Việt Nam vào năm 2011 mà không hề thực hiện, dẫn đến sự cố giàn khoan HD-981.

Khi lập lại những lời cam kết này, trong đó có vấn đề « không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp », Trung Quốc đã mặc nhiên chấp nhận một khái niệm hoàn toàn giống với đề nghị đóng băng các hành vi khiêu khích mà Mỹ và Philippines từng đề nghị tại Hội nghị ASEAN ở Miến Điện, và đã bị Trung Quốc lớn tiếng bác bỏ.

Đây cũng chỉ là lời hứa, nhưng theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long, nếu Trung Quốc tiếp tục làm ngơ thì Việt Nam có cơ sở để đấu tranh thêm và dùng đến biện pháp kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế, một phương án mà Việt Nam vẫn để ngỏ.

Sau đây, mời quý vị nghe phần phân tích qua điện thoại mà Giáo sư Ngô Vĩnh Long đã dành cho Ban Việt ngữ RFI

Bối cảnh chuyến thăm : Trung Quốc bị sức ép sau vụ giàn khoan HD-981

Ngô Vĩnh Long : Trước hết, chúng ta nên xem chuyến đi của ông Lê Hồng Anh trong bối cảnh những sự kiện đã diễn ra trong những tháng vừa qua, đặc biệt là sự kiện Trung Quốc cắm giàn khoan HD-981 trong thềm mục địa của Việt Nam, và sau đó là phản ứng của ASEAN, với tuyên bố chung của các Ngoại trưởng (công bố) ngày 10/08/2014, cũng như vai trò của Mỹ trong việc ủng hộ ASEAN và Việt Nam trước các hành động leo thang của Trung Quốc…

Trong bối cảnh đó, nếu thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam trước chuyến đi của ông Lê Hồng Anh là đúng – ông Lê Hồng Anh được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mời sang thăm với mục đích là để trao đổi với lãnh đạo Trung Quốc về các biện pháp làm dịu tình hình, không không để tái diễn các vụ căng thẳng như vừa qua – thì tôi thấy rằng chính Trung Quốc, dưới áp lực của thế giới, của các nước ASEAN trong khu vực, đã phải dịu giọng.

Nhìn trong bối cảnh đó mới hiểu được các thỏa thuận chung giữa hai bên trong chuyến thăm là như thế nào. Đúng là Trung Quốc trước áp lực nên đã phải dịu giọng

RFI : Việt Nam thu hoạch được gì ?

Ngô Vĩnh Long : Tôi nghĩ là Việt Nam thu hoạch được nhiều. Trước hết là Việt Nam đặt vấn đề với phía Trung Quốc mà cũng giống như là Nhân dân Nhật báo ngày 26/08 nói là mục đích chuyến đi Trung Quốc của ông Lê Hồng Anh là phía Việt Nam muốn phía Trung Quốc bảo đảm chắc chắn không để tái diễn sự kiện giàn khoan HD-981 trên Biển Đông như trong thời gian qua.

Thành ra sau khi hai ông Lưu Văn Sơn phía Trung Quốc và ông Lê Hồng Anh gặp nhau thì đã đưa ra một thỏa thuận chung, một nguyên tắc ba điểm, với điểm thứ ba là Trung Quốc công nhận vấn đề Biển Đông là vấn đề quan trọng và đối với Trung Quốc là phải tìm các giải pháp cơ bản và lâu dài để giải quyết vấn đề Biển Đông cũng như một số vấn đề khác.

Đây là một điều quan trọng trong chuyến đi vừa qua, nghĩa là Trung Quốc nói : « Chúng tôi công nhận là đã có những sự cố gây bất an ninh trong khu vực và bây giờ chúng tôi cũng đồng ý là sẽ đàm phán thiết thực », mà đây là vấn đề mà ASEAN đã đưa ra.

Một vấn đề nữa là nguyên tắc thứ ba không những nói đến vấn đề « tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, đồng thời tích cực nghiên cứu và bàn bạc các giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, kể cả vấn đề hợp tác cùng phát triển », (mà lại còn) « kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp ».

Điều đó có nghĩa (giống như) là đề nghị « đóng băng » các hành động ở Biển Đông như Mỹ và Philippines cũng như ASEAN đã nói hồi đầu tháng Tám. Tôi nghĩ rằng đây là việc Trung Quốc thấy là cần phải nhượng bộ, không những Việt Nam mà cả các nước trong khu vực, để cho có thể có hòa bình và ổn định.

RFI : Việt Nam có thể dựa vào thỏa thuận đạt được nhân chuyến đi của ông Lê Hồng Anh để thúc đẩy Trung Quốc thực hiện đúng đắn những lời đã cam kết ?

Ngô Vĩnh Long : Thực ra những lời cam kết này, Trung Quốc đã từng đưa ra năm 2011, nhưng họ tránh né, không đàm phán thiết thực. Việc Trung Quốc không đàm phán thiết thực đã bị Tuyên bố chung của ASEAN tháng 08/2014 chỉ trích.

Nếu lần này Trung Quốc lại cam kết là sẽ tuân thủ những gì đã hứa vào năm 2011, nhưng rồi lại tránh né, lại không đàm phán thiết thực, thì đó sẽ là cái cớ để Việt Nam thúc đẩy ASEAN, thúc đẩy các nước khác ủng hộ Việt Nam trong cuộc tranh đấu với Trung Quốc.

Cũng như vậy, Việt Nam vẫn có thể đem Trung Quốc ra kiện bởi vì thấy rằng Trung Quốc nói một đằng, làm một nẻo.

Đây là bước để Việt Nam tiếp tục tranh đấu về lâu về dài với Trung Quốc.

RFI : Việt Nam vẫn duy trì khả năng kiện Trung Quốc như phát ngôn viên bộ Ngoại giao đã hàm ý cho biết ?

Ngô Vĩnh Long : Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng đó. Nếu Trung Quốc vẫn ngoan cố, vẫn không đàm phán một cách thiết thực thì Việt Nam phải đi đến hành động này.

Thật ra chuyến đi của ông Lê Hồng Anh là bắt buộc vì chính Trung Quốc mời. Một nước lớn hay một nước nhỏ bên cạnh anh, mời anh sang để thương thuyết, anh không đi không được. Trước khi anh sang, thì anh đã có đặt điều kiện rồi, và bên kia đã chấp nhận điều kiện mặc dầu lẽ dĩ nhiên là nước lớn không bao giờ muốn mất mặt.

Họ chấp nhận điều kiện rồi thì sẽ tìm cách để mà nghiêm túc thực hiện, thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản. Đây đúng là một bước tiến cho Việt Nam.

RFI :  Việt Nam phải nhượng bộ Trung Quốc điều gì ?

Ngô Vĩnh Long : Việt Nam vừa rồi có nhượng bộ Trung Quốc. Nhưng tôi nghĩ đây là vấn đề phụ và vấn đề nhân đạo.

Việt Nam vừa rồi nói là sẽ bồi thường và đã bồi thường một số công nhân Trung Quốc bị thiệt mạng, bị thương, và nói rằng sẽ tiến hành bồi thường nhân đạo nhất định cho những công nhân Trung Quốc bị hại, và sẽ cử đoàn đến Trung Quốc thăm hỏi đại diện gia quyến các nạn nhân v.v… Đây là vấn đề Việt Nam đã làm với các nước khác…

Tôi thấy đây không phải là vấn đề Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc, mà là vấn đề cho thấy Việt Nam cao thượng.

Nếu tôi không lầm thì có nhiều người Trung Quốc ở Việt Nam gây hại chứ không phải chỉ là người Việt Nam. Và bây giờ Việt Nam bồi thường cho các công ty Trung Quốc, thì Trung Quốc cũng phải nghĩ đến vấn đề bồi thường cho Việt Nam. Đặc biệt là cho ngư dân Việt Nam mà Trung Quốc đã cho những chiến thuyền hay tàu bè của họ đâm phải rồi có người chết v.v…

Nếu Việt nam làm vấn đề nhân đạo mà Trung Quốc lại không có hoạt động gì để chứng tỏ là Trung Quốc cũng cao thượng như Việt Nam thì rõ ràng người ta thấy Trung Quốc khó chơi.

Có nhiều người có thể nghĩ đây là vấn đề nhượng bộ của Việt Nam, nhưng tôi thấy đây là một đường đi tốt cho Việt Nam trong vấn đề không những vận động sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc, mà vận động được sự ủng hộ của thế giới, cho thấy là Việt Nam đàng hoàng.

Ngoài ra thì trước khi ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc, thì có sự kiện bà Bùi Thị Minh Hằng và một số nhà yêu nước phản đối Trung Quốc bị đem ra tòa xử.

Có thể có một nhóm hay có ai trong nước nghĩ rằng đây là vấn đề nhượng bộ Trung Quốc. Nếu việc đó đã làm trước khi ông Lê Hồng Anh sang Trung Quốc, thì tôi nghĩ sau chuyến đi này, chính phủ Việt Nam nên lợi dụng ngày 2 tháng Chín để gọi là ân xá những người bị xử vì phản đối Trung Quốc.

Trước hết là để chính phủ Việt Nam khỏi mất mặt với nhân dân trong nước và nhân dân thế giới. Thứ hai nữa là để vận động sự ủng hộ của nhân dân trong nước và nhân dân thế giới trong vấn đề tranh đấu về xa về dài với Trung Quốc.

RFI : Kết quả đạt được nhân chuyến thăm là thời cơ để người dân Việt Nam đấu tranh với chính phủ để thúc đẩy phia Trung Quốc tôn trọng cam kết ?

Ngô Vĩnh Long : Đúng như thế, đây là một cơ hội cho dân chúng Việt Nam để yêu cầu chính phủ Việt Nam thi hành đúng những lời cam kết giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nếu Trung Quốc không thi hành đúng những lời cam kết với Việt Nam, thì dân chúng Việt Nam có quyền làm áp lực, có quyền đòi hỏi để những vấn đề cam kết được thi hành đúng mức nếu không muốn nói là triệt để.

Hiện nay tôi nghĩ là phía Trung Quốc phải chứng minh (thiện chí), bởi vì Trung Quốc đã gây bất an ninh trong khu vực chứ không phải là Việt Nam hay các nước khác. Trung Quốc, qua thỏa thuận chung 3 điểm vừa rồi, nên chứng minh rằng họ lần này sẽ đàm phán thiết thực, để có thể tìm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được như trong thỏa thuận chung có nói.

Thành ra nếu Trung Quốc không đàm phán thiết thực, Việt Nam và các nước khác phải « đẩy » Trung Quốc cho đến mức mà họ phải thi hành những vấn đề này.

Trong cục diện hiện nay, thì Việt Nam nên tiếp tục vừa hòa hoãn với Trung Quốc, vừa tiếp tục tranh đấu Đây là vấn đề rất quan trọng, vì hai nước giận nhau thì phải giải quyết vấn đề, nhưng nếu Trung Quốc không làm những vấn đề (đã cam kết) thì chính phủ Việt Nam phải tiếp tục tranh đấu chứ không thể nhượng bộ Trung Quốc mãi.

Chẳng lẽ kịch bản Thành Đô tái hiện?!

 Thiện Tùng

Cách đây không lâu, tôi có bài viết “Trung Quốc cần Việt Nam hơn Việt Nam cần Trung Quốc” đăng trên Bauxite Việt Nam. Giải thích cho vấn đề này: Bành trướng để bá quyền là bản chất cố hữu của nhà cầm quyền TQ. Bởi bản chất ấy, họ ít bạn nhiều thù. Bạn của họ có chăng cũng do sợ mà phủ phục, chớ thực chất “đồng sàng dị mộng”. Từ lâu cũng như hiện nay, TQ tứ bề thọ địch: phía Bắc có Nga; phía Đông có Nhật, Nam Hàn và cả Đài Loan; phía Tây có Ấn Độ; phía Nam có khối Asean.

Asean là khối 10 nước nhỏ, nhưng lại là vùng đất béo bở. TQ bung ra hướng Nam này nằm trong khả năng nếu thu phục được VN. Về tương quan, từng nước trong khối không phải là địch thủ đối với TQ, nhưng nếu 10 nước đồng lòng với nhau thì TQ phải sợ. Bởi vậy, chia để trị, để thôn tính là ngón nghề của TQ, họ thích bàn thảo song phương, tối kỵ đa phương.

Thu phục VN trở thành ý đồ chiến lược bao đời của giới cầm quyền TQ. Bành trướng về hướng Nam mà không thu phục được VN là mộng không thành. Do vậy, về sách lược, TQ khi cứng lúc, mềm đối với VN, quyết không để VN vuột khỏi tầm tay mình.

Lối hành xử của TQ “mềm nắn, rắn buông”. Không phiền nhắc đến chuyện xa xưa: dùng lời ngon tiếng ngọt dụ khị không được, năm 1979, TQ xua 600 ngàn quân tràn sang biên giới phía Bắc VN “dạy cho VN một bài học”. Thằng học trò ngỗ nghịch chẳng những không chịu học mà còn quơ “thước” phang lại thầy máu me be bét, mang đầu máu chạy.

Dùng biện pháp cứng không được thì mềm: TQ bí mật cử đặc phái viên thuộc Cục tình báo Hoa Nam sang VN vuốt ve lãnh đạo đảng CSVN và mời họ sang Thành Đô mật bàn “đại cục” giữa 2 đảng và 2 nước. Đối với lãnh đạo đảng CSVN, hội nghị Thành Đô có lợi lộc gì không làm sao biết được, chớ đối với nhân dân VN nó là một thảm họa – thảm họa như thế nào không cần nói mọi người cũng đã biết.

Sau gần một phần tư thế kỷ (1990-2014) vuốt ve, thấy lãnh đạo VN có vẻ “phủ phục” Bắc triều, TQ nôn nóng kéo giàn khoan vào hải phận VN, gọi là thăm dò dầu khí chớ kỳ thực thăm dò phản ứng để độc chiếm biển Đông theo đường lưỡi bò mà họ tự vạch. Không ngờ, chẳng những nhân dân VN mà gần như các nước trên thế giới đều đồng thanh phản ứng. Đáng nói, những người lãnh đạo đảng CSVN không quản được dân mình, để chúng biểu tình la hét om sòm, buộc giới lãnh đạo VN, không cách nào khác, từng bước thay phiên nhau phản đối TQ – người phản đối sau chót đúng 2 tháng khi TQ đặt giàn khoan là Tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng.

Thấy nuốt không trôi và sợ VN vuột khỏi tay mình, TQ hộc tốc rút giàn khoan trước dự định 1 tháng. Họ coi việc rút giàn khoan ra khỏi lãnh hải VN là thượng sách, vừa tránh búa rìu dư luận đối với mình, vừa cứu đảng CSVN một bàn thua trông thấy. Quả vậy, việc TQ rút giàn khoan như cấp cho lãnh đạo đảng CS VN viên thuốc hồi sinh, các vị bắt đầu nói năng “mạnh miệng” hơn một chút với dân mình.

Có lẽ vì “đại cục” giữa 2 đảng anh em do mật nghị Thành Đô mang lại, lãnh đạo đảng CSVN cử đặc phái viên Lê Hồng Anh sang gặp giới cầm quyền TQ. Họ tiếp tục “đi mây về gió” theo phương cách hội nghị Thành Đô, nói mà không cho người ta biết mình nói nội dung gì và muốn làm gì. Theo Tân Hoa Xã: “Hai bên đã đạt được nhận thức chung nguyên tắc 3 điểm về tiếp tục phát triển quan hệ Trung-Việt:

1/ Lãnh đạo hai Đảng, hai nước sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo trực tiếp phát triển quan hệ song phương, thúc đẩy quan hệ Việt-Trung trước sau như một, phát triển lành mạnh ổn định.

2/ Hai bên phải tiếp tục sâu sắc giao lưu giữa 2 Đảng, nhìn về lâu dài, khôi phục và tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng, kinh tế, thương mại, an ninh, hành pháp, nhân văn, v.v.

3/ Hai bên đồng ý tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo 2 Đảng và 2 nước; nghiêm túc thực hiện thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa 2 nước Việt-Trung, vận dụng tốt cơ chế đàm phán Chính phủ về biên giới Việt-Trung, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác, không áp dụng hành động phức tạp và mở rộng tranh chấp, giữ gìn đại cục của quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình và ổn định của Biển Đông (mà TQ gọi là Nam Hải)”.

Kết thúc chuyến đi, Lê Hồng Anh chuyển lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang mời Chủ tịch đảng và cũng là Chủ tịch nước Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam.

Qua hiện tượng trên, người ta có quyền nghi ngờ kịch bản Thành Đô sẽ tái hiện. Vì mật nghị giữa 2 Đảng, trước đây không nhất thiết gặp nhau ở Bắc Kinh mà gặp ở thủ phủ tỉnh Vân Nam – Thành Đô, thì sắp tới có lẽ hai Đảng sẽ gặp nhau không nhất thiết ở Hà Thành mà có thể Sài Thành hay tỉnh lỵ nào đó của Việt Nam không chừng.

Ngày nào 2 đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc còn đi đêm với nhau và nói không cho dân hiểu thì ngày đó chẳng những nhân dân VN có quyền nghi ngờ lãnh đạo của mình và bè bạn thế giới cũng được quyền nghi kỵ đối với Việt Nam.

31/08/2014

T.T.

Tác giả gửi BVN

Bước Đường Cùng cho Giang Trạch Dân ở Thượng Hải

Stephen Gregory, Epoch Times

Tập Cận Bình Chuẩn Bị Hạ Bệ Cựu Lãnh Đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc

Cựu Lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân tham dự phiên khai mạc của Đại hội toàn quốc lần thứ 18 tại Đại lễ đường nhân dân vào ngày 8 Tháng Mười Một năm 2012, tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tại Đại hội này, Tập Cận Bình đã được bầu vào vị trí cao nhất trong Đảng, ông là người ra lệnh bắt các thành viên của phe Giang Trạch Dân với cáo buộc tham nhũng trong 19 tháng qua. (Feng Li / Getty Images)

Thời gian còn lại của Giang Trạch Dân chỉ còn được đếm từng ngày. Kẻ thống trị hệ thống chính trị của Trung Quốc trong hơn hai thập kỷ qua hiện đang bị điều tra tại chính sân sau của ông ta, thành phố Thượng Hải.

Tin về đoàn điều tra chống tham nhũng của lãnh đạo đứng đầu ĐCSTQ Tập Cận Bình đến làm việc tại Thượng Hải đã được thông báo rộng rãi. Một công bố ngắn gọn vào ngày 11 tháng 8 trên trang web chính thức của Viện kiểm sát tối cao Thượng Hải, cơ quan chịu trách nhiệm việc điều tra và truy tố tội phạm, cho biết cuộc điều tra đang được tiến hành một cách nghiêm túc.

Doanh nhân nổi tiếng Vương Tông Nam, chủ tịch của Tập đoàn Thực phẩm Bright, đã bị bắt vì hối lộ và biển thủ công quỹ. Đó được cho là tội ác sẽ bị xét xử của Vương, nhưng hành vi phạm tội thực sự của ông ta là do có mối quan hệ chặt chẽ với cựu lãnh đạo ĐCSTQ Giang Trạch Dân và con trai của Giang là Giang Miên Hằng.

Thượng Hải là bệ phóng cho tham vọng chính trị quốc gia của Giang Trạch Dân và ông ta đã hình thành cơ sở quyền lực cho mình tại đây.

Giang từng là người đứng đầu Đảng của Thượng Hải từ năm 1985 đến năm 1989. Đối mặt với một phong trào dân chủ mạnh mẽ vào năm 1989, Đặng Tiểu Bình đã rất ấn tượng với cách làm mạnh tay của Giang trong việc xử lý các bất đồng chính kiến ​​ở Thượng Hải, trong khi nhiều vị lãnh đạo ĐCSTQ khác thì đứng bên lề.

Sau khi cách chức Tổng bí thư Triệu Tử Dương vì sự cảm thông của ông đối với sinh viên, Đặng Tiểu Bình đã đưa Giang Trạch Dân đến Bắc Kinh. Sau khi nắm quyền, Giang đã lần theo dấu vết và trừng phạt tàn nhẫn những ai bất đồng chính kiến ​​trong vụ ‘xe tăng’ vào đêm mùng 4 tháng 6.

Sau khi nắm quyền ở Bắc Kinh, Giang cất nhắc những cán bộ không mấy tiếng tăm ở Thượng Hải vào các vị trí quan trọng trong Đảng. Họ hình thành một đội ngũ lãnh đạo chủ chốt để Giang có thể sử dụng để chi phối hệ thống chính trị của Trung Quốc trong hơn 20 năm.

Nhắm mục tiêu vào Giang

Hơn 19 tháng qua, người đứng đầu ĐCSTQ Tập Cận Bình đã thực hiện một chiến dịch chống tham nhũng trên diện rộng, đồng thời đã hạ bệ các đồng minh thân cận nhất của Giang Trạch Dân.

Đỉnh cao của chiến dịch này là việc thông báo công khai cuộc điều tra chính thức về cựu chiến lược gia an ninh Chu Vĩnh Khang vào ngày 29 tháng 7. Dự đoán sự sụp đổ của Chu sẽ đánh dấu hồi kết cho cuộc thanh trừng phe phái đối lập trong Đảng của Tập đã nhanh chóng bị xua tan.

Ngay sau khi có thông báo về Chu, Nhân Dân nhật báo – cơ quan ngôn luận của ĐCSTQ đã công bố một bài bình luận có tiêu đề “Hạ bệ con hổ lớn Chu Vĩnh Khang chưa phải là sự kết thúc của chiến dịch chống tham nhũng”. Bài báo chỉ ra rằng Chu đã được cấp trên nâng đỡ. Ai cũng biết rằng Giang Trạch Dân là người đã cất nhắc Chu.

Mặc dù bài báo đã nhanh chóng bị gỡ bỏ, nhưng vẫn đủ thời gian để được sao chép và lan truyền rộng rãi trên toàn mạng Internet Trung Quốc.

Hai tuần trước đó, Thời báo Đại Kỷ Nguyên đã báo cáo rằng cố vấn hàng đầu của Giang Trạch Dân là Tăng Khánh Hồng đã bị bắt. Nếu chiến dịch chống tham nhũng trở thành một hoạt động càn quét, thì sau đó mục tiêu hợp lý tiếp theo chính là Giang Trạch Dân. Những con hổ lớn khác đều đã bị hạ bệ.

Việc bắt giữ Vương Tông Nam vào tuần trước đã khiến cho Giang bị tổn thất. Nếu Giang không thể bảo vệ Vương tại Thượng Hải, thì sau đó ông ta sẽ bị tước bỏ quyền lực tại thành lũy thâm sâu nhất của mình.

Nếu những động thái vừa qua mới chỉ là màn mở đầu, thì sau khi Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương điều tra hàng ngàn vụ trước đây tại những nơi khác ở Trung Quốc, thì hiện nay nó đang được thực hiện tại Thượng Hải, tạo ra một cuộc điều tra bủa vây từ ngoài vào trong. Ủy ban kiểm tra đang tấn công vào những mắt xích yếu nhất ở ngoại vi để chúng phơi bày các mối liên hệ với trung tâm và sau đó tiến hành từng bước cho đến khi mục tiêu cuối cùng bị bao vây và vô hiệu.

‘Bế tắc’

Theo cơ quan ngôn luận nhà nước Tân Hoa Xã, 85.000 quan chức đã bị điều tra trong vòng 6 tháng qua.

Mặc dù phạm vi điều tra của chiến dịch này rất rộng lớn, tuy nhiên tại một cuộc họp vào ngày 26 tháng Sáu của Bộ Chính trị, Tập Cận Bình đã phàn nàn rằng lực lượng tham nhũng và chống tham nhũng đang ở thế “bế tắc”.

Bốn ngày sau đó có thông báo rằng bốn quan chức cấp cao đã bị thanh trừng trong cùng một ngày: cựu lãnh đạo quân sự hàng đầu Từ Tài Hậu; cựu Chủ nhiệm Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước Tưởng Khiết Mẫn, và nguyên phó chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc Vương Vĩnh Xuân; và Lý Đông Sinh, cựu thứ trưởng Bộ Công an và là người đứng đầu phòng chuyên trách đàn áp Pháp Luân Công.

Bất chấp sự thanh trừng mạnh mẽ này, phe của Giang vẫn có những động thái chống cự.

Ngô Phạp, trưởng ban biên tập tạp chí các vấn đề Trung Quốc bằng tiếng Hoa có trụ sở tại Hoa Kỳ, gần đây đã nói với NTDTV rằng quân đội đang tiếp tục theo dõi Quách Bá Hùng, nay đã nghỉ hưu, là một trong những nhân vật được Giang Trạch Dân bổ nhiệm vào vị trí cao trong lực lượng vũ trang Trung Quốc.

Ngô Phạp cho biết “Một số khu vực quân sự, bao gồm cả Quân khu Quảng Châu và Quân khu Bắc Kinh, đã hoàn toàn không nghe theo sự chỉ đạo của Tập Cận Bình. Họ làm theo lệnh của Quách Bá Hùng và phe của ông ta”.

Cuộc chống cự của Quách là theo chỉ thị của phe Giang, bất chấp lệnh từ Trung ương Đảng.

Trong mười năm Hồ Cẩm Đào là người đứng đầu danh nghĩa của ĐCSTQ, đã có một câu nói phổ biến ở Trung Quốc là “một trật tự không bao giờ vượt quá xa cổng ra vào của Trung Nam Hải.” Trung Nam Hải là trụ sở chính và là khu liên hợp lãnh đạo của ĐCSTQ tại Bắc Kinh.

Để Tập Cận Bình được biết đến là người hoàn toàn thống lĩnh ĐCSTQ, ông ta cần phải nhổ tận gốc phe cánh của Giang, cũng có nghĩa là phải hạ bệ Giang.

“Cuộc sống và cái chết”

Nhưng ông Tập chậm chí có một lý do mạnh mẽ hơn để theo đuổi chiến dịch của mình vì kết quả của nó chính là: sự sống còn.

Trong bài phát biểu ngày 26 tháng 6 trước Bộ Chính trị, Tập được cho là đã nói rằng: “Trong cuộc chiến chống tham nhũng, cuộc sống và cái chết và danh lợi là vô nghĩa đối với tôi.”

Tập đã học được bài học về mối đe dọa đối với cuộc sống của mình trước khi chính thức được bầu vào vị trí cao nhất của Đảng. Theo những người trong Đảng, việc phát hiện ra kế hoạch đảo chính chống lại Tập Cận Bình là cùng lúc với những động thái trong chiến dịch chống lại Giang Trạch Dân và phe của ông ta.

Sau khi cảnh sát trưởng Trùng Khánh Vương Lập Quân xin tị nạn tại Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô vào tháng Hai năm 2012, ông ta đã bị chuyển đến Bắc Kinh. Sau đó Trung ương Đảng biết được rằng Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai – cựu Bí thư tỉnh ủy Trùng Khánh – là người Giang đã từng muốn cất nhắc lên vị trí Tổng Bí thư, đã có dự định hạ bệ Tập ngay sau khi ông nhậm chức.

Các mối đe dọa đối với Tập vẫn chưa chấm dứt mặc dù âm mưu đảo chính đã bị vỡ lở. Đại Kỷ Nguyên báo cáo rằng trong khoảng thời gian các nhà lãnh đạo Đảng tập trung tại Bắc Đới Hà vào mùa hè năm 2013, Chu Vĩnh Khang đã từng nỗ lực ám sát Tập với một quả bom được hẹn giờ tại một hội nghị và trong một dịp khác với một cây kim độc khi Tập đến thăm một bệnh viện.

Vào ngày 6 tháng 8, Tạp chí Thế giới (World Journal) bằng tiếng Hoa có trụ sở tại Hoa Kỳ đã đăng bài về những tin đồn được lưu truyền rộng rãi trong quân đội Trung Quốc rằng Quách Bá Hùng đã lên kế hoạch thực hiện một cuộc đảo chính.

Động cơ

Trong khi truyền thông phương Tây đã bắt đầu quan tâm hơn đến cuộc chiến sống còn giữa Tập và Giang, thì các thông tin quan trọng đang dần hé lộ động cơ của cuộc chiến này. Họ cho rằng nền chính trị Trung Cộng đang ở vào thời điểm vô cùng nguy hiểm.

Rõ ràng là nếu Tập thể hiện sự yếu kém của mình trước kẻ thù, ông sẽ bị thua. Nhưng tại sao Giang Trạch Dân cần phải cho rằng Tập là kẻ thù trí mạng của mình?

Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ngoài tầm hiểu biết của các phương tiện truyền thông: đó chính là chính sách đàn áp Pháp Luân Công.

Giang Trạch Dân đã cấu kết với Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Bạc Hy Lai, Lý Đông Sinh và các nhà lãnh đạo hàng đầu khác của ĐCSTQ để thực hiện tội ác tày trời đối với nhân dân Trung Quốc.

Theo văn phòng báo chí của Pháp Luân Công, Trung tâm Thông tin Pháp Luân Đại Pháp, hàng trăm ngàn học viên Pháp Luân Công vẫn đang bị giam giữ kể từ khi Giang phát động chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công vào tháng Bảy năm 1999.

Theo thông cáo báo chí vào thời điểm đó, chiến dịch này đã tìm cách nhổ tận gốc môn tu luyện tinh thần truyền thống của Trung Quốc được 100 triệu người dân Trung Quốc tập luyện vào năm 1999. Do đó nó đã thiết lập trạng thái chiến tranh cho chế độ cầm quyền nhằm làm việc trái lương tâm lên 1/13 dân số Trung Quốc, xử lý họ như những tội phạm hình sự khi họ nỗ lực tuân theo các nguyên tắc của Chân Thiện Nhẫn.

Các học viên bị giam giữ thường bị tra tấn và tẩy não. Theo trang web của Pháp Luân Công Minghui.org, 3.776 trường hợp đã được xác nhận bị chết vì tra tấn và lạm dụng. Do khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin từ Trung Quốc, số lượng học viên thực tế bị chết được cho là cao hơn nhiều lần.

Ngoài ra, các học viên còn là mục tiêu bị thu hoạch nội tạng cưỡng bức. Trong năm 2011, các nhà nghiên cứu David Kilgour và David Matas, các tác giả của cuốn sách “Thu hoạch đẫm máu” (Bloody Harvest) đã điều tra về hoạt động mổ cướp nội tạng cưỡng bức, và nhà báo điều tra Ethan Gutmann, tác giả của “Sự tàn sát: Giết người hàng loạt, thu hoạch nội tạng, và Giải pháp bí mật của Trung Quốc đối với vấn đề bất đồng chính kiến​​” (The Slaughter: Mass Killings, Organ Harvesting, and China’s Secret Solution to Its Dissident Problem) ước tính rằng trong những năm 2000-2008, có tới 62.000 học viên đã bị giết để lấy nội tạng. Hiện nay con số này có thể là nhiều hơn hàng chục ngàn.

Giang Trạch Dân và phe của ông ta sợ Tập Cận Bình vì Tập không liên quan đến tội ác chống lại nhân loại này. Có khả năng Tập sẽ chấm dứt cuộc bức hại. Nếu Tập làm như vậy thì sự kêu gọi việc bắt những kẻ có trách nhiệm trong việc này ở Trung Quốc sẽ chiếm áp đảo.

Để tránh phải chịu trách nhiệm, phe Giang Trạch Dân đã tìm mọi cách để giành lại quyền lực, cũng đồng nghĩa với việc cố gắng hạ bệ Tập.

Hệ thống tham nhũng

Tập không phải là lãnh đạo ĐCSTQ đầu tiên sử dụng tham nhũng để tấn công kẻ thù của mình, nhưng trong trường hợp của phe Giang Trạch Dân, chiến dịch chống tham nhũng này không chỉ là một cái cớ. Nó nhắm đến một hệ thống quyền lực chính trị.

Giang Trạch Dân được coi là một tên hề ở Trung Quốc, nhưng ông ta đã biết cách điều hành để trở thành người quyền lực nhất tại Trung Quốc trong hơn 20 năm qua. Bằng cách cho phép tham nhũng ở mọi cấp lãnh đạo của Đảng, Giang đã mua lòng trung thành của cấp dưới đối với ông ta.

Các nhà bình luận về chiến dịch của Tập cho rằng tham nhũng như thể rằng đó đơn giản là cách thức điều hành của ĐCSTQ. Khi làm như vậy, họ đã bỏ qua quy mô tham nhũng trên diện rộng của phe Giang, thực sự vượt xa bất cứ điều gì được biết trước đó.

Các nhà bình luận cũng thường viết một cách khá vô cảm, và thiếu đi mặt cấp bách của vấn đề này đối với người dân Trung Quốc.

Khi người dân Trung Quốc nghĩ về tham nhũng, họ không nghĩ về những chiếc ô tô Audi lấp lánh đi trên đường phố hoặc sự nuông chiều của tình nhân hay những bữa ăn xa hoa.

Họ nghĩ về cuộc sống bên trong những ngôi làng ung thư. Họ nghĩ về thực phẩm nhiễm độc, nước nhiễm độc, và không khí không còn trong lành.

Họ nhớ đến hệ thống trại cải tạo lao động đã gần như chấm dứt hoạt động trước khi Giang lên nắm quyền và làm thế nào mà dưới quyền ông ta số lượng trại cải tạo lại tăng nhiều đến như vậy.

Họ biết về “hệ thống duy trì sự ổn định” – do Chu Vĩnh Khang sử dụng để chống lại các học viên Pháp Luân Công – cướp nhà cửa và trang trại của những người phản đối sự đàn áp này.

Người dân Trung Quốc cũng nhìn thấy một xã hội không còn ràng buộc đạo đức. Họ lướt qua câu chuyện kinh khủng này đến câu chuyện kinh khủng khác trên Internet và tự hỏi, làm thế nào các giá trị đạo đức của dân tộc mình lại suy đồi đến vậy?

Bằng cách này và vô số những cách khác, cuộc chiến chống tham nhũng của Tập hứa hẹn cho người dân Trung Quốc sẽ thoát khỏi sự bất bình nhức nhối.

Hạ bệ Giang

Ý nghĩa lớn nhất của việc khôi phục lại các luật lệ này, bằng việc chống tham nhũng, sẽ là việc hạ bệ chính Giang Trạch Dân.

Khi các cán bộ Đảng thấy rằng Giang đã nằm dưới sự kiểm soát của Tập, thì mạng lưới ảnh hưởng của Giang khắp Trung Quốc sẽ bắt đầu phân rã.

Ông Tập có thể hy vọng sau đó người dân Trung Quốc sẽ có thể tin tưởng vào một ĐCSTQ thuần khiết, nhưng sự tin tưởng của người dân Trung Quốc vào sự hồi sinh của Đảng đã qua rồi.

Chiến dịch của Tập Cận Bình sẽ chấm dứt một kỷ nguyên, nhưng con đường dẫn tới tương lai vẫn chưa rõ ràng.

Quan điểm thể hiện trong bài viết này là những ý kiến ​​cá nhân của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của Epoch Times.

Thanh trừng của Tập Cận Bình

vnm_2013_1983726Từ ngày lên ngôi tới nay, chưa đầy 2 năm, Tập Cận Bình đã làm nhiều đợt thanh trừng, từ nhỏ tới lớn, mà người Trung cộng cho rằng từ việc đập ruồi cho đến giết hổ, dưới danh nghĩa chống tham nhũng, nhưng thực tế là củng cố quyền lực, tiêu diệt tất cả những người chống đối mình, chống đối trước đây cũng như chống đối hiện nay. Việc thanh trừng này đang nhằm vào một con hổ lớn, Chu Vĩnh Khang, đã từng là nhân vật đầy quyền thế của Trung cộng.
Liệu cuộc thanh trừng này có dám động đến Giang Trạch Dân, cựu Chủ tịch nước, cựu Tổng bí thư đảng, con hổ lớn nhất. Đây là câu hỏi mà nhiều nhà báo Trung cộng và ngoại quốc đang đặt ra.
Chúng ta hãy xem xét từ diễn tiến sự việc cho tới nguyên nhân rồi đưa ra một vài tiên đoán khiêm nhượng cho vấn đề.
I) Tập cận Bình, ông là ai
Tập Cận Bình sinh vào ngày 01/6/1953, tại Bắc Kinh, nhưng quê quán thật của ông là ở Thiểm Tây, con của ông Tập Trọng Huấn (1913-2002). Ông vào đảng Cộng sản lúc 16 tuổi, có học trường Thanh Hoa, trường đào tạo cán bộ cao cấp của đảng. Nhiều báo chí ngoại quốc và ngay cả báo chí Hồng Kông, Trung cộng cho rằng ông Tập Trọng Huân là một trong 8 đại gia của đảng, được lập ra bởi Đặng Tiểu Bình, để tránh việc chuyển quyền một cách bạo động, đẫm máu. Thực ra không phải vậy, Tập Trọng Huân là một trong những phó Thủ tướng thời họ Đặng nắm quyền, nhưng không nằm trong 8 đại gia. Đó là: 1) Đặng Tiểu Bình (1905-1997), 2) Dương Thượng Côn (1907-1998), 3) Văn Chấn (1908-1993), 4) Trần Vân (1905-1995), 5) Lý tiên Niệm (1909-1992), 6) Bành Chân (1902-1997), 7) Tống Nhiệm Cùng (1909-2005), 8) Bạc Nhất Ba (1908-2007), cha của Bạc Hy Lai.
Nhiều nhà báo, nhất là ở Trung cộng và Việt cộng, khen ông là người có nhiều bằng cấp, nào là cử nhân chính trị học, kỹ sư hóa chất, thạc sĩ và tiến sĩ luật. Họ còn khen ông là người thận trọng, kín đáo. Tuy nhiên điều đó cũng nói nên mặt trái của nó: Đó là nhiều bằng cấp, chứng tỏ là ham danh, nhất là hiện nay ở Trung cộng và Việt Nam, bằng cấp giả đầy đường, mua bằng lợi hay dùng quyền thế để có bằng, nhưng thực tài học chẳng có gì. Một con người thận trọng, kín đáo thường là một con người ít cởi mở, thâm độc, hay đá giò lái, hay đâm sau lưng. Có người cho rằng ông là tay em của Giang Trạch Dân. Quả đúng như vậy. Họ Giang đã cài họ Tập vào làm nhân vật thứ nhì của nhóm lãnh đạo Trung cộng trong suốt thời gian Hồ Cẩm Đào làm Tổng bí Thư và Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân Ủy hội, với ý đồ là kiểm soát họ Hồ và trong tương lai, khi họ Hồ không còn tại chức, họ Tập lên ngôi, thì họ Giang dễ dàng khống chế, sai khiến họ Tập.
Nhưng có lẽ tình hình hoàn toàn đi ngược lại những dự đoán của Giang Trạch Dân. Từ ngày Tập Cận Bình lên ngôi tới nay, chưa đầy 2 năm, từ cuối năm 2012, ông lên chức Tổng bí thư vào tháng 11/2012, sự kiện đã diễn ra không có lợi cho chính Giang Trạch Dân.
Có người cho rằng Tập Cận Bình là tay em của Giang Trạch Dân, làm sao có sự kiện này. Quả thực họ Tập là tay em của họ Giang, nhưng trong lịch sử Tàu, chuyện học trò phản thầy, gia nô phản chủ là chuyện cơm bữa.
Trở lại sơ qua về lịch sử Tàu hiện đại, theo một số chuyên gia thì sau Biến cố Thiên An Môn 1989, trong một buổi họp Ban Thường vụ Bộ chính trị, Đặng Tiểu Bình đề cử Hồ Cẩm Đào lên thế Triệu Tử Dương trong chức vụ Tổng bí thư, vì ông này bị tố cáo là đã nhân nhượng với sinh viên học sinh và những người biểu tình. Dương Thượng Côn không đồng ý và đã phản ứng lại bằng cách đề cử Giang Trạch Dân, lúc đó đang nắm quyền ở Thượng hải. Ông nói: “Đồng chí Đặng, ở đời không tái tam ba bận, trong quá khứ Đồng chí đã đề nghị 2 người Tổng bí thư là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Nhưng không xong. Lần này không nên có lần thứ ba.” Chính vì vậy mà có sự dàn xếp để họ Giang lên chức Tổng bí thư, họ Hồ làm phó. Sự bất đồng giữa Dương Thượng Côn và Đặng tiểu Bình bắt đầu từ đây.
Dương Thượng Côn là tay em của họ Đặng từ lâu, từ thời Chiến tranh với Nhật, họ Đặng làm tư lệnh Quân đoàn V I I I, họ Dương làm phó, cả hai người đều học ở Liên sô về. Họ Dương là người thứ 28 học trường Đông phương mà những người cộng sản cho rằng đó là một trường đại học do Lénine mở ra, nhưng thực sự thì trình độ rất kém, để được vào học, chỉ cần có 2 chứng chỉ làm việc 2 năm ở các công xưởng. Ở Tàu, chúng ta thấy có Chu Ân Lai, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình, Dương Thượng Côn v.v… Ở Việt Nam chúng ta thấy có Hồ Chí Minh, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai v.v…
Họ Đặng và họ Dương thân nhau từ thời đi học, sau đó làm chung với nhau suốt một thời gian dài. Sau năm 1978, họ Đặng trở lại chính quyền, đã nâng đỡ họ Dương, cho làm đến chức Quân Ủy toàn quân, rồi Chủ tịch Nhà nước. Trong thời gian biến cố Thiên An Môn 1989, người ra phi trường đón Gorbatchev, lúc đó còn là Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên sô, là Dương Thượng Côn.
Ở Tàu, ngay cho đến nay, tinh thần phong kiến, gia tộc, bang trưởng, cha truyền con nối còn rất nặng. Dương Thượng Côn sau khi làm Chủ tịch nước, thì truyền lại cho con mình làm Quân Ủy toàn Quân. Đấy là chưa nói đến việc họ Dương còn có người con rể làm Tham mưu trưởng quân đội. Để đàn áp biểu tình Thiên An Môn chính là quân đội của con cháu Dương Thượng Côn. Trong tám Đại gia vào thời bấy giờ, đứng đầu là họ Đặng, đứng thứ nhì là họ Dương. Đứng thứ ba là Văn Chấn, một người tướng vô học, nhưng đánh hơi theo chiều rất giỏi, đã đi theo Đặng Tiểu Bình, và được ông này đặt cho biệt hiệu: “Cây đại bác đáng yêu của tôi.”
Trở về việc thanh trừng: Ngày 29/7 vừa qua, Tập Cận Bình ra thông cáo điều tra Chu Vĩnh Khang. Nhiều người nói rằng họ Tập đã phạm vào những cấm kỵ, luật truyền miệng, bất thành văn, đặt ra bởi Đặng Tiểu Bình, đó là không được điều tra những người đương kim hay những người cựu Ủy viên trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Thực ra thì chính Đặng Tiểu Bình đã vi phạm đầu tiên luật bất thành văn, cấm kỵ này. Vì sau khi Giang Trạch Dân lên ngôi, chưa đầy 3 năm, thì họ Đặng đã cùng họ Giang ép Dương Thượng Côn từ chức Chủ tịch nước vào năm 1992, ông này còn sống đến năm 1998.
Nhưng “Gậy ông lại đập lưng ông”, đó là họ Đặng chết năm 1997, chỉ 2 năm sau thì Giang Trạch Dân ra lệnh điều tra tài sản của con cháu, gia đình họ Đặng; và mặc dầu không nói ra, nhưng Giang Trạch Dân đã ra lệnh ruồng bắt, thủ tiêu những người theo Pháp luân công, một giáo phái, theo tinh thần tổng hợp tôn giáo, triết lý, Phật, Khổng, Lão, Nho, theo châm ngôn Chân, Thiện, Nhẫn (Trọng Sự thật, Làm điều Thiện và Cố Kiên nhẫn). Ngoài việc luyện tập thân thể cân bằng, cường tráng, còn có việc luyện tập tinh thần trong sạch, trọng sự thật, làm điều thiện, kiên nhẫn, không nói dối, không làm điều ác, như vừa nói. Một tâm hồn trong sạch trong một thân thể khỏe mạnh. Đó là mục đích của Pháp luân công. Pháp luân công được phép hoạt động chính thức ở Tàu bởi Đặng Tiểu Bình, sau biến cố Thiên An Môn. Phải chăng cho phép Pháp luân công hoạt động chính thức ở Tàu, là Đặng tiểu Bình đã nghĩ đến việc thay thế triết học Mác Lê Mao, trở về nền triết học cổ truyền. Đây là một câu hỏi lớn nhưng chưa có câu trả lời dứt khoát.
Điều người ta biết là từ sau khi họ Đặng chết, Giang Trạch Dân đã đàn áp thẳng tay giáo phái này, nạn nhân lên tới cả triệu người, vừa bị vào tù, vừa bị thủ tiêu, hành quyết, lấy những bộ phận con người bán ra nước ngoài để làm giàu, và người làm việc này là Chu Bân, con trai Chu Vĩnh Khang.
Họ Tập lên chức Tổng bí thư Đảng vào cuối năm 2012. Từ đó đến nay, chưa đầy 2 năm, nhưng đã thi hành một cuộc thanh trừng nội bộ rộng lớn, vi phạm tất cả những cấm kỵ theo luật bất thành văn được Đặng Tiểu Bình thiết lập lên. Cuộc thanh trừng này lấy nhãn hiệu là chống tham nhũng, nhưng thực chất bên trong là đấu đá nội bộ, tranh giành quyền lực giữa những phe phái với nhau: Phe Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư, phe Giang Trạch Dân, cựu Tổng bí thư, phe Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư vừa hết nhiệm kỳ. Nhưng tranh chấp có vẻ gay cấn nhất chính là giữa phe Giang Trạch Dân và Tập Cận Bình.
Có người nói họ Tập là tay em của họ Giang, sao lại thế?
Quả thật họ Tập là tay em của họ Giang, được họ Giang cài vào nhóm lãnh đạo dưới thời Hồ Cẩm Đào, nghĩ rằng họ Tập là người “kín đáo, ít biểu lộ lập trường, không có lập trường rõ rệt”, vừa để kiểm soát Hồ Cẩm Đào, vừa nghĩ sau khi ông này không còn tại vị, Tập Cẩm Bình lên thế ngôi, thì Giang Trạch Dân dễ khuynh loát hơn.
Việc hai cuộc họp toàn bộ Trung Ương đảng vào giữa năm 2012, với sự có mặt của Giang Trạch Dân, mang ý nghĩa là họ Giang muốn chứng tỏ họ Tập là tay em của minh trước công chúng.
II) Diễn tiến cuộc thanh trừng từ ngày Tập Cận Bình lên ngôi
Nhiều người cho rằng cuộc thanh trừng của Tập Cận Bình bắt đầu từ sự kiện Bạc Hy Lai bị rớt đài và bị đưa ra tòa vào ngày 19/3/2012. Người ta còn nhớ Vương Lập Quân, nhân vật thứ 2 của Trùng Khánh, đặc trách công an, mật vụ, tay em đắc lực của vợ chồng Bạc Hy Lai, làm bất cứ việc gì do vợ chồng này sai bảo. Bỗng một hôm ông ta chạy vào tòa Tổng Lãnh sự Hoa kỳ ở Trùng Khánh xin tỵ nạn chính trị, nói rằng vợ chồng họ Bạc muốn giết ông.
Tất nhiên tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ chấp nhận bảo vệ ông, trong đó có những cuộc thẩm vấn, lấy tin tức hay không thì không rõ. Một thời gian sau thì Vương Lập Quân được người của Trung ương từ Bắc Kinh xuống hộ tống đưa về Bắc Kinh, và sự việc Bạc Hy Lai nổ ra. Sự việc Bạc Lai Hy không phải chỉ là tham nhũng và chuyển tiền ra nước ngoài của vợ Bạc mà còn liên quan đến án mạng, một tài phiệt Anh quốc, bị bà này giết chết, mà đằng sau, theo nhiều nhà báo, là sự việc chính trị, đảo chính cướp quyền.
Giang Trạch Dân, sau khi thấy không thể khống chế được Tập Cận Bình, đã đứng đằng sau Chu Vĩnh Khang, người nắm quyền công an, cảnh sát, pháp luật, dầu khí, nhân vật thứ 4, Bạc Hy Lai, Tỉnh trưởng Trùng Khánh, nhân vật đang lên lúc bấy giờ và Từ Tài Hậu, Phó Quân Ủy Trung Ương, nhân vật thứ nhì trong quân đội. Cả 3 nhân vật này cùng nhiều người khác phát động chính biến, bị Hồ Cẩm Đào, đương kim Tổng bí thư khám phá và trấn áp, theo nguồn tin bán chính thức nhưng đáng tin cậy. Trước và sau cuộc họp Bắc Đới Hà, Chu Vĩnh Khang đã 2 lần tìm cách bí mật ám sát Tập Cận Bình nhưng không thành.
Như trên đã nói, từ ngày họ Tập lên ngôi đến giờ chưa đầy 2 năm, thế mà cuộc thanh trừng tham nhũng, nhãn hiệu bề ngoài, thực chất là cuộc đấu đá nội bộ, đã kỷ luật 182 000 viên chức, trong đó có 36 thứ trưởng, và 3 con hổ lớn là Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu và Bạc Hy Lai.
Tóm lược một vài sự kiện quan trọng dựa theo ngày tháng năm:
Giang Trạch Dân làm Tổng bí thư từ năm 1989 tới 2001, Hồ Cẩm Đào từ năm 2001 tới gần cuối 2012, Tập Cận Bình lên chức Tổng bí thư vào tháng 11/2012. Tháng 2/2012, Vương Lập Quân, tay em của Bạc Hy Lai, đặc trách về Công An, mật vụ, tình báo tại Trùng Khánh chạy trốn vào tòa Tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Trùng Khánh, sau đó được bảo vệ đưa lên Bắc Kinh, lúc này Hồ Cẩm Đào vẫn là Tổng bí thư.
Tập Cận Bình, sắp lên Tổng bí thư, Hồ Cẩm Đào đương kim Tổng bí thư, Ôn Gia Bảo, đương kim Thủ tướng, lập thành liên minh, truy tố Bạc Hy Lai.
Ngày 19/3/2012, Bạc Hy Lai bị đưa ra tòa. Sau khi Bạc Hy Lai rớt đài, Chu Vĩnh Khang, tay chân của Giang Trạch Dân, đặc trách về an ninh, tình báo và dầu khí, phát động cuộc chính biến, nhưng bị Hồ Cẩm Đào điều quân trấn áp.
Tháng 9/2012, Tập Cận Bình biến mất trong 2 tuần, theo nhiều nguồn tin thì trong một cuộc họp Ban Thường vụ Bộ Chính trị họ Tập bị một đồng nghiệp dùng ghế ném vào ông làm ông bị trật xương sống.
Sau cuộc họp Đới Hà đầu năm 2013, hai lần Chu Vĩnh Khang tìm cách bí mật ám sát Tập Cận Bình, nhưng không thành.
Ngày 30/6/2014, Tập Cận Bình mở Hội nghị Cục Chính trị, tuyên bố khai trừ Từ Tài Hậu, nhân vật thứ nhì trong quân đội, ra khỏi Đảng cộng sản Trung cộng. Ngày 29/7/2014, Đảng Cộng sản Trung cộng tuyên bố án điều tra Chu Vĩnh Khang.
Gần đây nhất, ở Bắc Kinh, có nhiều tin đồn về đảo chánh, do Phạm Trường Long, Phó Quân Ủy thứ nhất, cùng Phòng Phong Huy, Tham mưu trưởng, nhưng nhiều người nói đứng đằng sau là Quách Bá Hùng, nguyên Phó Quân Ủy. Có người còn nói thêm là có dính dáng với Trường Vạn Toàn, đương kim Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 1/8/2014 có một cuộc họp mặt quân đội, cũng đồng thời là lễ sinh nhật của Quách Bá Hùng, được 87 tuổi, Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư, và Lý Khắc Cường, đương kim Thủ tướng, có tới tham dự, nhưng ra về rất sớm. Theo như nhiều nguồn tin từ cuộc họp mặt đưa ra thì một số cựu Ủy viên, cũng như một số tân Ủy viên trong quân Ủy hội đã họp và bàn bạc rất lâu, sau đó còn rời đi họp chỗ khác. Từ đó có người cho rằng họp để bàn tính việc đảo chính. Việc này không thể tiên đoán cưỡng ép được. Vì dù sao cũng chỉ là tin đồn. Việc chắc chắn là đang có một cuộc tranh quyền khốc liệt ở Trung cộng, một cuộc đấu tranh quyền lực sống còn, kiểu: “Anh sống thì tôi chết. Tôi sống thì Anh chết” giữa họ Giang và họ Tập.
III) Nguyên nhân:
– Nguyên nhân sâu xa từ chế độ quân chủ phong kiến Tàu mà chế độ cộng sản hiện nay chỉ là sự kéo dài, là mặt trái của chế độ này.
Một nhà tư tưởng kiêm sử gia đã viết: “Lịch sử Tàu là một chuỗi dài đấu tranh quyền lực, chiếm đất và thôn tính các quốc gia khác. ”
Thật vậy nhìn vào lịch sử dòng dài của Tàu, lấy một vài thời đại tiêu biểu, trong hạn hẹp của bài này:
Thời Xuân thu – Chiến quốc (722-256, trước Tây Lịch), đây là một thời huy hoàng về tư tưởng, văn hóa, triết lý của Tàu với Lão tử, Khổng tử, Tôn tử, Bách gia chư tử, nhưng đây cũng là một thời đại của sự tranh quyền, cướp nước, thôn tính lẫn nhau lên đến cao độ.
Thời nhà Đường (618-907), một triều đại to lớn của lịch sử Tàu. Người lập ra nhà Đường là Lý Uyên, nhưng trong đó phải kể đến Lý thế Dân, người được coi là một đại Hoàng đế của Tàu. Cũng vì tranh quyền, cướp nước, ông đã phải giết 2 người anh em của ông là Lý kiến Thành và Lý nguyên Các, ép bố ông là Lý Uyên thoái vị, lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó chính các con ông đã cũng vì tranh giành quyền lực, làm cuộc đảo chính ông, nhưng không thành. Cũng dưới thời nhà Đường với nhân vật nổi tiếng mà người Tàu ai cũng biết là Võ tắc Thiên (625-705), người đàn bà đầu tiên và duy nhất lên làm vua nước Tàu. Bà được Lý thế Dân tuyển vào làm tài nhân lúc mới 14 tuổi. Trước khi Lý thế Dân chết, bà đã tằng tịu với con trai út của Lý thế Dân là Lý Trị. Sau khi Lý thế Dân chết, bà phải đi vào tu ở chùa Cảm Nghiệp và Lý Trị lên ngôi. Chỉ một thời gian ngắn bà được Lý Trị đưa về làm cung phi, sau lên quí phi. Vì muốn giành ngôi hoàng hậu, bà đã không ngần ngại giết chết con gái sơ sinh của mình và đổ tội cho hoàng hậu, sau đó bà này bị Lý Trị truất phế, đưa bà lên ngôi hoàng hậu. Từ khi Lý Trị bị bệnh thong manh (không nhìn rõ), bà lên ngôi nhiếp chính bán chính thức, rồi nhiếp chính chính thức sau khi ông chết. Trong thời gian nhiếp chính, bà đã nhiều lần đưa con của mình lên ngôi vua, rồi lại truất phế, đến nỗi bà ép một người con của bà là Lý Hiền phải treo cổ tự tử chết. Sau đó bà chính thức lên làm vua.
Trở về thời đại gần chúng ta hơn là triều đại nhà Thanh (1644-1911) trước thời Dân quốc và Cộng sản hiện nay. Đây cũng là một triều đại lớn của Tàu, với những ông vua giỏi và cầm quyền lâu như Khang Hi, cầm quyền từ năm 1662 đến 1722, Càn Long từ năm 1735 đến 1795.
Chỉ lấy thời Khang Hi, ông có 9 con trai. Chín người này, mặc dầu là anh em, nhưng đã tranh giành ngôi Thái tử, đến nỗi đầu độc lẫn nhau, rồi giết chết nhau. Ngày xưa người ta gọi 9 người con của Khang Hi là 9 con rồng tranh ngôi (Cửu long tranh ngôi); ngày hôm nay, người ta gọi những người trong Bộ Chính trị là những con hổ tranh quyền thì cũng vậy.
Cuộc tranh giành quyền lực giữa những con hổ đang diễn ra ở Trung cộng, không những nó mang tất cả tính chất khốc liệt của thời quân chủ phong kiến Tàu, mà nó còn mang tính man dại của cộng sản, vì chủ nghĩa cộng sản, bắt đầu từ Marx, cho rằng con người sinh ra là từ con vật, thêm vào đó lại chủ trương phá hủy mọi hàng rào đạo đức, không còn cái gì là liêm sỉ. Chúng ta cứ lấy cuộc thanh trừng của Tập cận Bình hiện nay thì rõ. Hô hào chống tham nhũng, nhưng bắt đầu từ Tập cận Bình cho tới một anh cộng sản nhỏ, ai mà không tham nhũng. Điều này, dân Tàu biết rất rõ. Khổng Tử ngày xưa có nói: “Nhân vô liêm sỉ hà như vật dã.” (Người không có liêm sỉ chỉ là con vật).
Miệng hô hào chống tham nhũng, nhưng chính mình tham nhũng. Thử hỏi liêm sỉ để ở đâu?
– Nguyên nhân từ chủ nghĩa cộng sản đã biến người cộng sản, nhất là giới lãnh đạo thành “Quỷ nhập tràng.”
Ông Lê Xuân Tá, cựu Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật đảng Cộng sản Việt Nam, từ bỏ đảng, có viết: “Sự ngu dốt và sự thấp hèn tự nó không đáng trách. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao quyền lực, và được cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó trở thành quỷ nhập tràng. Và con quỉ này nó ý thức rất sớm và rất rõ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, vô nhân đạo và không thương tiếc. Cách mạnh Hồng vệ binh ở bên Tàu là thế; vụ Nhân văn giai phẩm ở Việt Nam là vậy. Nhưng vì nó là ngu dốt và thấp hèn, nên những thứ này lâu ngày đã trở nên sỏi thận, sỏi mật, sơ gan, cổ chướng trong lục phủ, ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ này (ý nghĩa chỉ chế độ cộng sản – Lời chú thích của tác giả bài này) không ai đánh mà tự chết. ”
Còn ông Yakolek, cựu Ủy vên Bộ Chính trị, cựu Cố vấn của Gorbatchev, cũng có viết: “Giới lãnh đạo cộng sản là một loài sâu bọ, con mới đẻ nằm lên xác con già, con già đè lên xác con trẻ. Nhưng trong đó có một con khỏe nhất, leo lên chỗ cao nhất. Tuy nhiên để được địa vị này, thì nó phải giẵm lên xác không biết bao con khác.”
Thật vậy bắt đầu ngay từ Lénine, mặc dầu xuất thân trong một gia đình trung lưu khá giả, có học đến cử nhân luật, nhưng đây là con người mang nhiều ý nghĩ, tư tưởng hận thù, không độ lượng, nhất là sau khi cái chết của người anh vì chống lại chính quyền Nga hoàng đương thời. Ông hoạt động chính trị, đi theo phong trào cộng sản, bị trục xuất khỏi Nga, sống lang thang ở Âu châu, hoạt động trong Đệ Nhị quốc tế cộng sản. Tuy nhiên ông không phải là người sáng chói trong tổ chức này, trước ông còn có Kautski, Rosa Luxemboug v.v… Ngay ở trong nước, những người hoạt động trong Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản, lập ra đảng Xã hội, Dân chủ, Thợ thuyền Nga giỏi hơn ông nhiều, chẳng hạn như Plékhanov, Axelrod và ngay cả Trotski. Tuy nhiên thời cơ lúc đó là gần chấm dứt Đại Chiến Thứ Nhất (1914 -1918), nước Đức đang phải đương đầu với 2 mặt trận: Đông bắc với chính quyền Nga Hoàng Nicolas 2, Tây nam với Pháp. Bộ tham mưu Đức muốn dồn nỗ lực vào mặt trận phía Tây nam. Lợi dụng thời cơ, lúc đó đang ở Thụy sĩ, Lénine tuyên bố « Hòa bình bằng bất cứ giá nào. Trả đất cho dân và ngay cả nhượng đất để có quyền. » Chính vì vậy mà Bộ Tham mưu Đức đã đưa ông về trong một toa xe lửa bọc sắt, bên trong có cả những người công an, tình báo Đức, nói tiếng Nga rất giỏi. Với sự giúp đỡ của Đức ông đã cướp được chính quyền. Cướp được quyền, mang sẵn trong đầu lý thuyết của Marx, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, đây là “Vi trùng ghen tị” mà ông Lê xuân Tá nói, Lénine đã áp dụng lý thuyết của Marx và đã “Trở thành quỷ nhập tràng” là vậy. Một con quỉ khác con người ở chỗ là đối với nó trên không có Trời, dưới không có đất, không xem đạo đức, lễ nghĩa ra gì cả, làm bất cứ việc gì để thành công, trong đó có việc nói dối, lừa đảo và giết người.
Những người lãnh đạo cộng sản sau này, từ Mao, Đặng, Hồ, Lê Duẫn và con cháu cũng chỉ là quỉ nhập tràng, vì được Lénine, Staline lượm về trao quyền lực, lợi dụng tình thế sau Đệ Nhị Thế Chiến, rồi cấy vào vi trùng ghen tị là lý thuyết Mác Lê. Thế rồi cha dạy con, con dạy cháu cho tới ngày hôm nay.
Vấn đề nói dối, thông tin tuyên truyền sai sự thật, lừa đảo dân đã trở thành quốc sách của chính quyền từ thời Lénine, được tăng cường bởi Staline và được tiếp nối bởi những giới lãnh đạo cộng sản sau này.
Theo như nhà kinh tế Nga, ông Girsh Itsykovich Khanin, kinh tế Nga từ năm 1928 tới năm 1985, tổng sản lượng quốc gia không tăng trưởng 84 lần như những con số chính thức của chính quyền, mà chỉ tăng trưởng gấp 6,6 lần. Như từ năm 1928 tới năm 1940, theo con số của nhà nước thì tăng trưởng là 13,9%, thực tế chỉ là 3,2% ; từ năm 1980 tới 1985, theo con số nhà nước thì tăng trưởng 3,5%, thực tế chỉ là 0,6%. (Theo báo Capital – Hors série – Juin, Juillet 2014).
Theo như Abraham Lincoln: “Người ta có thể nói dối một hai lần, nhưng người ta không thể nói dối mãi. Người ta có thể lừa đảo một hai người, nhưng người ta không thể lừa đảo cả một dân tộc.”
Sự thật sớm muộn sẽ được phơi bày.
Sự thật nước Tàu của Tập Cận Bình hiện nay là kinh tế càng ngày càng trở nên khó khăn, mức tăng trưởng không phải ở 2 con số nữa, trong khi đó nạn tham nhũng, hối lộ không dẹp nổi như nhiều chính quyền vừa qua hứa, mà càng ngày càng tăng. Hối lộ tham nhũng nặng nề nhất là trong đảng cộng sản, vì là độc đảng và lại nắm chính quyền.
Chính vì vậy mà ngay Tập Cận Bình có lúc đã tuyên bố: “Đảng cộng sản Trung cộng là nơi chứa những thành phần thối tha nhất của xã hội.”
IV) Tiên đoán hậu quả sự việc
Phải chăng Tập Cận Bình đang mắc vào một cái sai lầm to lớn như Gorbatchev trước đây, đó là cố cải cách một chế độ không thể cải cách được, rồi đi đến hậu quả là làm chế độ sụp đổ?
Có thể như vậy, đầu năm 2014, qua chỉ thị của họ Tập, Ban Tư tưởng, Ý thức hệ của Đảng đã ra lệnh cho các đảng viên, nhất là những người cao cấp, phải đọc và học hỏi Tocqueville (1805-1859), vào thời sau Cách mạng Pháp 1789, với hai quyển sách nổi tiếng, quyển đầu là “De la Démocratie en Amérique” (Về Vấn đề Dân chủ ở châu Mỹ), được giới trí thức Mỹ ngay cho tới ngày hôm nay, vẫn cho rằng đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất nói về dân chủ, văn hóa và văn minh Hoa kỳ; quyển sách thứ nhì mang tên “L’Ancien Régime et la Révolution” (Chế độ cũ và Cách mạng). Đây là quyển sách mà Đảng Cộng sản Tàu yêu cầu đảng viên nghiên cứu học tập vì trong đó có câu: “Thời gian nguy hiểm nhất cho một chế độ, đó là lúc mà chế độ này bắt đầu cải cách.” Theo như Tocqueville thì Chế độ cũ của Pháp, thời vua Louïs XVI (L’Ancien Régime) đã sụp đổ vì chế độ này bắt đầu cải cách.
Tập cận Bình, Đảng Cộng sản Tàu, muốn học hỏi thời Cách mạng Pháp và nhất là thời cải cách của Gorbatchev, để rút tỉa kinh nghiệm.
Tuy nhiên ý thức được, nhìn được sự nguy hiểm, nhưng tránh được hay không lại là một chuyện khác. Chẳng khác nào như ai cũng muốn thành công, ai cũng muốn trở nên giàu có, nhưng giàu có hay thành công được hay không, lại là một việc.
Trong lịch sử, từ cổ chí kim, biết bao chế độ, triều đại, đế quốc đã sụp đổ!
Những chế độ, những triều đại, đế quốc này sụp đổ, không có nghĩa là họ không nhìn thấy những nguy cơ đe dọa mình nhưng nhiều khi vì quá trễ, hay mắc vào những “Tất yếu lịch sử” không thể đi ngược lại, càng đi ngược lại, càng đâm đầu vào chỗ chết, đó là những chế độ dựa trên một nền tảng triết lý, đạo đức sai lầm, đi ngược lại lòng dân, đi trái chiều tiến bộ của lịch sử nhân loại. Chẳng khác nào như một căn nhà, khi nền móng đã ọp ẹp, những cột chính đã mục nát, thì càng sửa đổi càng làm cho căn nhà chóng sụp đổ.
Căn nhà Trung cộng, dựa trên nền tảng triết lý sai lầm, đó là lý thuyết Mác Lê, đã được thử nghiệm 70 năm nay, nhưng đã thất bại; những cột trụ chính là những cựu hay đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, ai cũng tham nhũng, hối lộ. Chống tham nhũng hối lộ nhiều khi lại là chống lại chính mình, đó là cái bình phong bên ngoài để che giấu sự đấm đá, tranh quyền nội bộ.
Đây là một trong những viễn tượng hậu quả của cuộc thanh trừng đang tiến hành của Tập Cận Bình. Đấy là chưa nói đến trường hợp tồi tệ: 19 con hổ già, cựu Ủy viên Bộ Chính trị, liên kết với một vài con hổ mới, đương kim Ủy viên, bao vây con hổ Tập cận Bình, bị coi là con hổ lạc đàn, nhưng lại tìm cách khống chế chúng, bằng cách ám sát một lần nữa, đảo chính một lần nữa; vì có những tin đồn, nhưng không phải là không đáng tin cậy, theo đó, Giang Trạch Dân đứng sau Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai, đã làm đảo chính hụt cũng như nhiều lần ám sát hụt họ Tập.
Nhưng nếu họ Tập thành công, thắng trong cuộc thanh trừng chống tham nhũng, hối lộ, làm cho chế độ trở nên trong sạch, lấy lại được niềm tin của dân, chế độ trở nên tự do, dân chủ, đi đúng chiều hướng của văn minh nhân loại, hội nhập được vào cộng đồng thế giới, thì dù muốn hay không muốn, Tập Cận Bình sẽ trở thành một vĩ nhân của lịch sử Trung quốc cận đại.
Suy đi tính lại, khả thế thành công của Tập Cận Bình rất là mong manh. Có thể đến một lúc nào họ Tập phải ngừng cuộc thanh trừng, thỏa hiệp với những con hổ già, để được tại vị; mặc dầu họ Tập tuyên bố rất cứng rắn trong cuộc họp Ban Thường trực Bộ Chính trị, ngày 26/6 vừa qua, theo tiết lộ của một số nguồn tin bán chính thức, nhưng đáng tin cậy: “Tôi không màng đến sự sống chết, không màng đến việc tiếng tăm của tôi còn hay mất, tôi nhất quyết chống tham nhũng, lấy lại lòng tin của dân. ” (1)
Paris ngày 30/08/2014
Chu Chi Nam và Vũ Văn Lâm