
Diên Vỹ chuyển ngữ
Chương 17: Sau những hào nhoáng
Điều đầu tiên Hồ Cương giảng giải cho tôi về việc hối hộ một thẩm phán là tầm quan trọng của ẩm thực. “Mọi người đều từ chối lời mời đầu tiên. Sau ba hoặc bốn lần mời mọc, bất cứ ai cũng chấp nhận – và một khi anh đã ăn uống với nhau, anh đang trở thành gia đình.” Trong mọi bình phẩm về nạn tham nhũng ở Trung Quốc, chi tiết về việc nó hoạt động ra sao: những cơ chế tinh vi, những thủ tục và những cấm đoán… vẫn là điều bí ẩn đối với tôi. Trong những năm qua, tôi đã thu thập được một số kiến thức vụn vặt qua việc tìm hiểu cuộc đời của Lưu “Đại nhảy vọt” tại Ma Cao hoặc đọc những phóng sự điều tra trên báo Tài Tân của Hồ Thư Lập. Cho đến khi tôi gặp Hồ Cương, anh ta bắt đầu giúp tôi lấp đầy những khoảng trống còn lại.
Mới nhìn qua, Hồ Cương rõ ràng không phải là một người thầy của môn nghệ thuật đen về thăng tiến. Khi tôi gặp anh ta, anh đã là một tiểu thuyết gia, một người đàn ông nhỏ con, khó tính vào tuổi năm mươi đang càu nhàu một cách tự hào nhưng lo lắng về đứa con gái của mình và dặn dò những người kèm cặp không được cho nó ăn nhiều quá. Nhưng cũng như nhiều người khác, một khi cơ hội đầy rẫy, anh ta không thể nào cưỡng lại. Khi còn ở đại học, Hồ theo ngành triết, và sau khi tốt nghiệp, anh bắt đầu một sự nghiệp êm ả trong Phòng Nhân sự của một trường đại học. Khi nền kinh tế Trung Quốc cất cánh, anh tìm được việc làm tại một công ty đấu giá, chuyên bán những tranh cổ Trung Quốc và nhận lãnh huê hồng sau mỗi bức tranh bán được. “Tôi khám phá ra rằng nhiều bức tranh và trướng người ta gửi tới là đồ giả, điều này làm tôi rất lý thú,” anh kể với tôi trong một buổi ăn trưa. “Tôi nghĩ, chà, tôi vẫn có thể bán những món này với giá cao, ngay khi lương tâm tôi cảm thấy áy náy.”
Lòng áy náy của anh không lưu lại lâu. Anh bị tràn ngập bởi tranh giả đến nỗi cuối cùng cũng tự mình làm lấy và đã ngạc nhiên nhận thấy rằng mình cũng có năng khiếu nhái lại những nét cọ mạnh mẽ của Tề Bạch Thạch hoặc phong cách hiện thực của Từ Bi Hồng. Anh cũng đã mở rộng nghề đấu giá của mình qua lĩnh vực quản lý nhà bị thu hồi, trong đó một chữ ký của một thẩm phán có thể giúp anh kiếm được một món huê hồng hậu hĩnh qua việc bán các toà nhà, đất hoặc những tài sản khác. Dường như ai cũng muốn kiếm phần, Hồ nói. “Thế nên tôi bắt đầu nghĩ, nếu họ làm được, sao mình lại không?”
Nhưng mọi thứ ở Trung Quốc đều có sự cạnh tranh, nhiều người đang tranh giành cơ hội để hối lộ một vài người có quyền lực, và Hồ nhận ra ngay rằng anh phải làm điều gì trên cả quà cáp. Anh ta phải xây dựng những quan hệ cá nhân, và hoá ra anh lại có tài về khoản này; anh hối lộ những thẩm phán trước hết bằng thuốc lá, rồi tiệc tùng, sau đó là những chuyến đi mát xa. Chẳng ai chỉ dạy anh cả, nhưng anh vốn là một người tỉ mỉ, và đã tạo ra một số luật lệ để tự mình tuân theo: không bao giờ hối lộ một người lạ; tặng tiền bạc vào mùa thu, khi hoá đơn học phí vừa gửi về. Không bao lâu, anh đã bận rộn với vô số quan hệ với các chánh án đến nỗi một ngày anh phải đi đến ba tiệm mát xa. “Ba lần một ngày,” anh nói, nhìn tôi một cách báo động. “Không dễ chịu chút nào, mệt lắm.”
* * *Trong hàng thế kỷ qua, mọi thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đều đưa ra chiến lược riêng của mình để xoá nạn tham nhũng. Hồng Vũ Đế trong thế kỷ mười bốn đã ra lệnh tử hình các quan chức ăn cắp, lột da và nhồi rơm vào thi thể của họ như những hình nộm để làm gương. Nhưng những răn đe này cũng chẳng kéo dài được. Quyền cao chức trọng vẫn là con đường chắc chắn để tiến tới giàu sang, đến nỗi một kẻ môi giới tên là Hoà Thân, khi bị bắt vào năm 1799, ông đã thâu tóm một tài sản lớn gấp mười lần ngân sách thường niên của chính quyền. Năm 1935 nhà văn và dịch giả Lâm Ngữ Đường nhật xét rằng, “Ở Trung Quốc, một người có thể bị bắt vì ăn cắp một chiếc ví, nhưng anh ta không bị bắt vì ăn cắp tài sản quốc gia.”
Trong thời kỳ hiện đại, tham nhũng và tăng trưởng đã cùng nhau bùng nổ. Trong những năm tám mươi, một cây thuốc lá Song Hỷ và cặp rượu gạo hiệu Sao Đỏ cũng đủ để giúp chuyển công tác hoặc đổi được tem phiếu để mua một chiếc máy giặt. Nhưng đến năm 1992, khi nhà nước bắt đầu mở cửa việc phân bố đất đai và nhà máy cho tư nhân, cơn bùng nổ về tham nhũng bắt đầu. Trong năm đầu, trung bình giá trị tài sản thu hồi từ những vụ hối lộ đã tăng lên gấp ba, ở mức sáu nghìn đô la. Thuốc Song Hỷ nhường chỗ cho giỏ Hermès, xe thể thao, và học phí cho con cái du học nước ngoài. Thương vụ càng lớn, càng cần cán bộ cấp cao hơn phê chuẩn, và món tiền hối lộ tăng cao theo cấp bậc. Các quan chức và thương nhân bảo vệ lẫn nhau bằng cách câu kết nhau vào các “ô dù”, một bước đi mà các học giả Trung Quốc gọi là “mafia hoá” nhà nước.
Ban đầu ảnh hưởng từ tệ nạn này mang tính trừu tượng, nhưng chúng mau chóng trở nên rõ rệt. Hết vụ này đến vụ khác, các thảm hoạ khiến dân chúng Trung Quốc giận dữ đều bắt nguồn từ hối lộ, gian lận, tham nhũng và bao che: Những ngôi trường bị sập trong vụ động đất Tứ Xuyên đã bị bòn rút vì nạn lại quả, chuyến tàu tốc hành bị lật tại Ôn Châu được quản lý bởi một ban ngành tham nhũng nhất quốc gia. Trong trường hợp sữa hộp bị nhiễm độc làm chết trẻ em năm 2008, các nông gia nuôi bò và các đại lý trước tiên đã hối lộ các nhân viên kiểm tra của nhà nước để làm ngơ việc các chất hoá học hiện hữu trong sữa. Rồi sau khi các trẻ em bị mắc bệnh, công ty sữa lại hối lộ các hãng truyền thông để ém nhẹm câu chuyện.
Với óc sáng tạo, mọi thứ đều có thể trở thành món quà hối lộ. Các thương nhân sắp xếp các buổi đánh bạc trong đó các quan chức bảo đảm sẽ thắng. Rượu trở thành một lựa chọn đầy tin cậy đến nỗi truyền thông nhà nước phải thừa nhận rằng sản lượng bán của rượu Quý Châu Mao Đài, thương hiệu rượu nổi tiếng nhất nước, là “một chỉ số tham nhũng của Trung Quốc.” Năm 2011 rượu này bán chạy đến nỗi công ty này đã chia số lợi nhuận lớn nhất trong lịch sử thị trường chứng khoán Trung Quốc. Nhu cầu rượu quá cao khiến công ty phải giới hạn tiêu chuẩn cho mỗi cửa hàng.
Có lần tôi đến thăm Mao Vu Thức, một nhà kinh tế học cấp tiến. Ông sống gần trụ sở của cơ quan kế hoạch đầy quyền lực của Trung Quốc, Uỷ ban Phát triển và Cải cách Quốc gia. Ông chỉ ra rằng uỷ ban này bị bao vây bởi các cửa hàng bán rượu và đồ sứ. Người dân cần giúp đỡ biết phải mua những món quà này trước khi vào gặp. “Tất cả những người ngoài thành phố vào toà nhà này đều mang những túi xách lớn nhỏ, và khi ra thì tay không,” nhà kinh tế học nhận xét. “Khi các cán bộ ra về, họ mang theo tất cả các túi xách lớn nhỏ ấy, nhưng họ không thể nào xài hết mọi thứ, vì thế họ quay lại bán chúng cho các cửa hàng, các cửa hàng này lại bán lại cho những ai đang đến Bắc Kinh cần giúp đỡ. Con phố của chúng tôi đã trở nên như thế đó.”
Các công chức nhà nước – trên danh nghĩa có thu nhập từ hai đến ba mươi nghìn đô la một năm – trở thành những khách hàng thường xuyên của Gucci và Louis Vuitton, khiến các cửa hiệu cao cấp tại Bắc Kinh đã cháy hàng mỗi khi có kỳ họp Quốc hội. (Các chính trị gia rút kinh nghiệm và gọi đặt các món hàng mình yêu chuộng trước.) Trong một số trường hợp, một doanh nhân sẽ đi theo một quan chức nào đấy dạo quanh các quầy hàng, nhưng nếu việc này trở nên quá lộ liễu, anh ta sẽ gửi thẻ tín dụng của mình lại để cửa hàng thanh toán nếu cần. Đa phần thì khó mà biết được ai đang chi trả cho ai, nhưng đôi khi một vụ xét xử cũng hé lộ cho thấy đồng tiền được sang tay như thế nào. Khi công an Ma Cao bắt giữ Âu Vân Long, Bí thư Giao thông và Công vụ của đặc khu, ông có một tuyển tập các “sổ tay hữu nghị” trong đó ghi chép các vụ lại quả lên đến cả trăm nghìn đô la.
* * *Điều thứ hai mà Hồ Cương dạy tôi về việc hối lộ một thẩm phán là anh không thu lại bất cứ đìều gì trong ít nhất là sáu tháng. “Tình bạn là vô cùng to lớn,” anh nói. “Một tình bạn vô cùng thân thiết khiến cả hai không giấu nhau điều gì.” Anh vừa nói vừa vun một đống thịt lợn trong tô của mình. “Chỉ sau khi anh biểu lộ lòng trung thành của mình rồi thì anh mới có thể chứng tỏ khả năng của mình – rằng anh có thể làm điều mà anh nói, và anh sẽ luôn làm một cách xứng đáng với người ấy.” Anh ta nheo mắt lại và im lặng nhai trong khi suy nghĩ. “Với những bước này,” anh nói, “ai cũng có thể bị dính vào, và mối quan hệ trở nên chắc chắn không gì phá nỗi.”
Chiến lược của Hồ Cương không phải là không tốn kém. Trong năm đầu tiên hối lộ các thẩm phán, anh chi đến hai trăm rưỡi nghìn nhân dân tệ tiền quà cáp, gái và ăn uống. Nhưng sau năm năm, nó đã gây lãi rất lớn. Anh đã có được một công ty đấu giá lớn nhất trong thành phố và một dành dụm một món tiền khiêm tốn là 1,5 triệu đô la. Nó trở thành một nhịp điệu đối với anh. “Tôi ngủ cho đến trưa và bắt đầu lịch trình trong ngày, bao gồm cả việc chăm sóc các bồ nhí của các ông ấy,” anh nói.
Nhưng thậm chí cả bản thân anh cũng muốn đòi hỏi thêm. “Nếu tôi kiếm được ba hay năm triệu một năm, tôi lại luôn suy nghĩ bằng cách nào để kiếm được thêm vào năm tới. Nếu tôi đứng thứ ba trong thành phố, làm cách nào để tôi đứng nhất? Giống như anh chạy, một khi anh đã chạy rồi thì không thể dừng lại được. Anh cứ tiếp tục chạy và chạy. Anh không nghĩ đến những quan hệ một cách tỉnh táo. Về mặt tâm lý, anh đang sống trong thế giới của chính mình.”
Đối với người ngoài, thường khó mà thấu hiểu hết mức độ tham nhũng ở Trung Quốc, một phần vì nó cách biệt với đa số mọi người. Những du khách đến Trung Quốc, so với những quốc gia đang phát triển khác, không bị hải quan hay công an đòi hỏi những món hối lộ nhỏ nhặt; trừ khi dân ngoại quốc sử dụng trường học hoặc bệnh viện ở Trung Quốc, họ không cảm thấy được nạn tham nhũng trườn vào hầu như mọi ngõ ngách của xã hội Trung Quốc. Trên giấy tờ, ngành giáo dục công Trung Quốc bảo đảm miễn phí, nhưng phụ huynh hiểu rõ họ phải trả “phí bảo trợ” để con mình được vào học các trường tốt. Ở Bắc Kinh, lệ phí này lên đến 16 nghìn đô la – hơn gấp đôi mức lương trung bình hằng năm của một người. Trong cả nước, 46 phần trăm giới phụ huynh trả lời một thăm dò cho biết mối “quan hệ xã hội” mật thiết hoặc tiền lệ phí là phương cách duy nhất để con mình có được một nền giáo dục tốt. Đến năm 2011, theo một báo cáo của Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, chính quyền đã điều tra các vụ tham nhũng với mức độ mỗi ngày một vụ đối với các quan chức cấp bộ, tương đương với chức thị trưởng.
Mua quan bán chức cũng xảy ra thường xuyên đến nỗi vào năm 2012, Tự điển Hiện đại Trung Quốc, cơ quan quản lý ngôn ngữ quốc gia, đã buộc phải thêm vào từ Mãi Quan – “mua một chức vụ trong chính quyền”. Trong một số trường hợp, những lựa chọn trông giống như một thực đơn nhà hàng. Trong một thị trấn nhỏ ở Nội Mông, chiếc ghế trưởng phòng kế hoạch được bán với giá 103 nghìn đô la. Chức bí thư thị uỷ nằm ở giá 101 nghìn đô la. Nó đi theo một logic là: trong những nền dân chủ yếu kém, người ta kiếm chức bằng việc trả tiền để mua phiếu bầu; trong một quốc gia không có phiếu để mua thì anh trả tiền cho những ai có quyền cấp phát những chức vụ ấy. Ngay cả giới quân đội cũng lan tràn nạn bảo kê; các tư lệnh nhận đường dây chi trả từ cơ cấu kim tự tháp gồm những sĩ quan trung thành cấp dưới. Một vị tướng một sao được cho là có thể kiếm được hàng chục triệu đô la từ quà cáp và các thương vụ; một tư lệnh bốn sao có thể kiếm được ít nhất 50 triệu đô la.
Quốc gia nào cũng có nạn tham nhũng nhưng Trung Quốc đang bước đến mức thượng thừa. Đối với những người nắm chức vụ tối cao, độ cám dỗ đã đạt đến mức mà phương Tây chưa bao giờ gặp phải. Không dễ gì để biết được ai giả và ai thật sự làm giàu từ hai bàn tay trắng, nhưng những chức vụ trong chính quyền là con đường bảo đảm đi đến giàu sang với mức độ riêng của mình. Đến năm 2012 bảy mươi đại biểu giàu nhất trong quốc hội Trung Quốc có tổng tài sản trị giá gần 90 tỉ đô la – hơn gấp mười lần tổng số tài sản của toàn bộ thành viên lưỡng viện Hoa Kỳ.
* * *Việc có quá nhiều tiền và quá ít tính minh bạch đã gây ảnh hưởng đến những nghi thức nghiêm trang của Đảng. Năm 2012 được dành riêng để dọn dẹp cục diện chính trường – việc chuyển giao quyền lực từ một thế hệ lãnh đạo tối cao cho một thế hệ khác. Kế hoạch rất rõ ràng: trong một ngày của mùa thu năm ấy, giới lãnh đạo tương lai sẽ đi lên khán đài của Nhân dân Đại sảnh, lịch sự vỗ tay chúc tụng nhau trước bức tranh Vạn lý Tường thành 18 mét. Nhưng chỉ một tháng sau khi năm mới đến, kế hoạch này bắt đầu đổ vỡ.
Vương Lập Quân là cựu giám đốc sở công an Trùng Khánh; ông từng được báo chí Đảng ca ngợi vì tính cứng rắn và sáng tạo, bao gồm việc chu toàn quá trình di chuyển nội tạng của tử tù. Nhưng vào ngày 6 tháng Hai ông đã lái xe vào trốn trong lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành Đô và muốn được người Mỹ bảo vệ. Ông bảo họ rằng ông vừa khám phá ra một vụ giết người, và đổ tội cho xếp của mình là Bạc Hi Lai, bí thư Trùng Khánh, người lúc ấy đang là ứng cử viên hàng đầu cho vị trí trên khán đài của Nhân dân Đại sảnh. Nạn nhân là một doanh nhân người Anh tên Neil Heywood, một người đàn ông 41 tuổi thường mặc đồ nhạt với phong cách kín đáo, một “nhân vật trong tiểu thuyết của Graham Greene – luôn luôn lịch lãm, rất quí phái, rất uyên thâm,” theo lời của một người bạn của Heywood kể với truyền thông Anh. Heywood làm việc bán thời gian cho một công ty thu thập tin tức do các cựu thành viên tình báo MI6 thành lập, ông chuyên lái chiếc Jaguar vòng quanh Bắc Kinh với biển số 007. (Bạn bè xem ông giống Walter Mitty hơn là James Bond.) Khi thi thể ông được khám phá vào mùa đông ấy, trong một căn phòng xập xệ của một khách sạn trên núi có tên Lucky Holiday Hotel, công an kết luận ông chết vì rượu, nhưng viên giám đốc công an nói với người Mỹ rằng Heywood được gia đình Bạc Hi Lai thuê để chuyên giải quyết những khó khăn, và khi vợ Bạc không còn hợp với ông, bà đã đầu độc ông đến chết.
Bạc là một nhân vật lôi cuốn nhất trong giới lãnh đạo chính trường Trung Quốc, một nhà dân túy và thích cổ vũ. Khi sự việc xảy ra, trước đấy tôi đã gặp ông khi ông trên đường thăng tiến, lúc ông đang vận hành Bộ Thương mại, chờ đến phiên được bổ nhiệm vào Bộ Chính trị. Ông là một dạng quí tộc Brahmin của Bắc Kinh, một con người cao ráo, thích đứng trước ống kính, con trai của một lãnh đạo Đảng, với bàn tay mềm mại của một vị vương quan. Vợ ông, Cốc Khai Lai là một luật sư nổi tiếng, từng viết sách kể về những thành công tại toà của mình – một “Jackie Kennedy của Trung Quốc” như một đồng nghiệp của tôi nhận xét. Khi Bạc trở thành Bí thư Trùng Khánh, ông nhận thấy được cơ hội để vượt qua những đối thủ cấp tiến và tự cải biến mình trở thành một Huey Long (một chính trị gia dân tuý của Hoa Kỳ trong những năm đầu thập niên 1930 – ND) của Trung Quốc. Ông quấn cờ Mao và kêu gọi dân chúng ca những bài hát đỏ như “Đoàn kết là Sức mạnh” và “Người Cách mạng trẻ mãi.” Ông và ngành công an bắt giữ hàng nghìn trùm doanh nghiệp, đối thủ chính trị, và những người bị cho là tội phạm trong một chiến dịch giam giữ và tra tấn mà ông gọi là “Đánh đổ Xã hội Đen”.
Khi tôi gặp ông, tôi đang đi theo thị trưởng Chicago Richard M. Daley để xem một nhà vận động chính trị Mỹ phản ứng ra sao trong chính trường Trung Quốc. Chúng tôi đang ngồi đợi bên ngoài văn phòng của Bạc khi ông tung cửa bước ra, cười vang và chào tạm biệt với những người khách trong phiên gặp trước: một phái đoàn châu Phi cao gầy, trông rất thoả mãn vì đã được đón tiếp nồng hậu. Tôi hỏi một trong những cô gái đang châm trà những vị khách ấy là ai.
“Sudan”, cô trả lời.
Tại cửa chính, Bạc vẫy tay chào tạm biệt phái đoàn Sudan, xoay bước và giang tay ôm đón người khách kế tiếp. Trước khi tôi được mời vào văn phòng, Bạc buông lời đón chào chúng tôi bằng tiếng Anh, một đặc điểm hiếm có của một quan chức Trung Quốc. Lần cuối tôi thấy ông, ngồi bên cạnh Daley, một người gốc Nam Chicago cục mịch, Bạc Hi Lai trông giống như một ngôi sao màn ảnh.
Nếu giám đốc Công an Vương Lập Quân không chạy trốn, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết được điều gì về Bạc Hi Lai và cái thế giới mà ông tạo ra. Nhưng tiết lộ của Vương là một bất ngờ lớn. Cuối cùng, ông không được hưởng qui chế tị nạn từ người Mỹ; ông thất thểu bước ra khỏi lãnh sự quán và bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ, họ truy tố ông tội phản quốc và nhận hối lộ – một thông điệp rõ rệt cho những ai nghĩ đến việc đào tẩu. Nhưng người ta không thể che giấu được tiết lộ của ông, và khi nó rò rỉ ra công chúng, nó bắt đầu phá huỷ những huyền thoại ngay trong trọng tâm quyền lực của Trung Quốc.
Những tin đồn về Vương đã lan truyền khắp trên mạng cũng như tận các hẻm phố. Bộ máy kiểm duyệt của Đảng tìm cách ngăn chặn chúng, nhưng những thiệt hại chính trị đối với Bạc đã quá nặng nề, chỉ trong vòng hai tháng, ông đã bị cách chức, và chính quyền chuẩn bị đem ông ra xét xử về tội nhận hối lộ, lạm dụng quyền lực và những tội danh khác. Đảng đã tuyệt vọng tìm cách cân bằng giữa việc ra vẻ theo đuổi công lý và ngăn cản việc loan truyền những chi tiết nhạy cảm. Trong một phiên xử lấy lệ dài một ngày, người vợ Cốc Khai Lai bị kết án giết chết vị doanh nhân người Anh, dù việc này không làm giảm thiểu mối nghi ngờ của quần chúng; khi bà ra toà với thân hình đẫy đà hơn trong ảnh, người xem truyền hình ở Trung Quốc đồn đãi rằng bị cáo là một người khác được trả tiền để đóng thế vai. (Cho dù chính quyền bác bỏ bao nhiêu, huyền thoại này vẫn lơ lững; nhà bình luận cấp tiến Chương Di Hoà viết “Điều này nhắc ta nhớ đến câu chuyện đứa bé nói có chó sói, nó cứ tiếp tục nói dối cho đến khi chẳng ai tin lời nó và nó bị ăn thịt.”) Việc Bạc bị truất phế mang một ảnh hưởng sâu sắc. Một mặt, nó đánh đổ hư cấu về hình ảnh người cán bộ nhà nước khiêm tốn ở Trung Quốc. Trong khi mức lương chính thức của ông tương đương với 19 nghìn đô la mỗi năm, được biết rằng gia đình họ hàng của ông có những doanh nghiệp trị giá hơn trăm triệu đô.
Đối với giới doanh nhân nước ngoài, số phận của vị thương nhân người Anh làm họ bất an. Nó nhắc nhở họ rằng dù Trung Quốc đang phát triển và lớn mạnh, thói quen băng đảng vẫn tồn tại phía dưới bộ mặt thương mại và chính trị Trung Quốc, và đôi khi lại ngoi lên. Một thương gia mua bán sắt vụn người Anh tên Anil Srivastav kể cho tôi nghe một cuộc mặc cả căng thẳng về một kiện hàng sắt. “Những người này bước vào và kéo tôi ra. Tôi la lên ‘Cứu!’ nhưng chẳng ai đoái hoài,” ông nói. “Họ bỏ tôi lên một chiếc xe khách và chở tôi đi.” Sau đó ông được thả ra, lúc đó ông nghĩ “Tôi chỉ thấy những việc này trong phim ảnh mà thôi.”
Đối với công chúng Trung Quốc, sự sụp đổ của Bạc chứa đựng một thông điệp mạnh mẽ hơn về những thông tin đang bao vây họ: một tin đồn mà họ trao đổi trên mạng, bị giới kiểm duyệt bác bỏ và cấm đoán, qua đêm đã chuyển thành sự thật. Trên mạng Weibo, một người tên Jieyigogjiang viết “Những tấn công do ‘các thế lực phản động quốc tế’ loan truyền nay trở thành sự thật. Vậy chúng ta nên tin vào những “sự thật” nào khác được truyền thông nước ngoài lật tẩy?”
(Đọc tiếp Phần 2)
**************
Phần 2
Những vụ tai tiếng trở thành nhịp phách trong quá trình đi lên của Trung Quốc. Tổng hợp của kỹ thuật, giàu sang và những hớ hênh tày trời đã kéo mở bức màn từng bảo vệ giới lãnh đạo Đảng Cộng sản khỏi những soi mói bên ngoài. Chưa bao giờ người dân nhà nước Cộng hoà Nhân dân lại biết được quá nhiều những ưu tiên của những kẻ điều hành nó. Trong suốt hai năm, một cán bộ Đảng bình thường tên là Hàn Phong đã lưu lại hơn năm trăm trang nhật ký riêng trong đó liệt kê chi tiết cuộc sống của ông trong chức vụ cục trưởng Cục Độc quyền Thuốc lá tại thành phố Lai Tân ở miền nam. Khi nhật ký của Hàn Phong bị tung lên mạng – ông ta không biết được là bằng cách nào – nó thuật lại một cuộc sống tràn đầy tiệc tùng, ngoại tình, những chuyến đi công tác để hưởng thụ, xen kẽ với những công việc của Đảng. Sau một ngày làm việc bình thường, ông viết:
Thứ Ba, Ngày 6 tháng Mười một (Nhiệt độ 11-25 độ C, trời nắng): Mình hiệu đính một bài phát biểu về “Những Ứng xử Văn minh”. Vào giờ ăn trưa, Lý Đức Huy và những người khác từ Hạ Môn sang và cả bọn đi nhậu. Sau đó mình ngủ trưa tại nhà nghỉ công ty … Đi ăn tối, uống rất nhiều … Vào 10 giờ tối, cô Đàm Thiện Phương lái xe đến và kéo mình qua nhà cô ấy. Chúng tôi làm tình ba lần, và thêm lần nữa lúc tảng sáng.
Khi cuốn nhật ký bị tiết lộ, Hàn đã bị bắt vào tháng Ba 2010. Ông bị truy tố và kết án 13 năm tù vì tội nhận hối lộ trên một trăm nghìn đô la tiền mặt lẫn bất động sản. Trong cơ tầng chính trị, ông chỉ là một con cá bé, và Đảng không ngần ngại quẳng ông lên giàn hoả. Khi tôi đọc nhật ký của ông, tôi bị sốc vì vẻ bình thường của nó; ông không là một tên côn đồ cũng chẳng là một nhà lãnh đạo cấp quốc gia, ông chỉ là một người đàn ông làm trong khả năng có được của mình để nắm giữ những phẩm lộc mà hệ thống chính quyền treo trước mặt mình. (Ba kiểu lạm dụng ngân sách công bao gồm: đi lại, ăn uống và xe hơi – được gọi là “Tam Công”, và Bộ Tài chính từng ước đoán rằng nó đã làm thiệt hại cho nhà nước 14 tỉ nhân dân tệ – hơn phân nửa ngân sách quốc phòng.) Trong ngày cuối năm, Hàn thống kê cuộc sống của mình:
Công việc năm nay trôi chảy hơn mọi năm… Quyền lực của mình với nhân viên tăng lên … Con trai học hành tốt, nó được giới thiệu chuẩn bị tốt nghiệp mà không phải thi cử. Sau hai năm, nó sẽ không gặp khó khăn gì khi kiếm việc làm. Năng khiếu nhiếp ảnh của mình đã tăng thêm một bậc, mình sẽ cố gắng tiếp tục học mãi. Chuyện đàn bà cũng tiến triển tốt. Làm quen với cô Phan. Thường xuyên quan hệ với Đàm Thiện Phương, và mình cũng tận hưởng thời gian với Mạc Dao Đài. Năm nay tốt về mặt phụ nữ, nhưng với quá nhiều bạn tình, mình phải để ý đến sức khoẻ.
Thời gian sau, giới blogger Trung Quốc học cách xem xét các bức ảnh của quan chức để tìm ra những bằng chứng về thói quen không trùng hợp với tiền lương của họ. Họ đăng những bức ảnh của các cơ quan công an có những chiếc Maserati và Porsche sơn màu xanh trắng. Họ chỉ ra một quan chức nhà đất địa phương tên Chu Cửu Canh thường xuyên được chụp ảnh khi hút loại thuốc lá giá 24 đô la một gói, và sau những điều tra về tội nhận hối lộ ông bị kết án 11 năm tù. Một blogger khác đã trở thành chuyên gia khám phá những cán bộ chuyên đeo những đồng hồ đắt tiền một cách đáng ngờ, và anh ta được biết với bí danh “kẻ canh xét đồng hồ”.
Ngành kiểm duyệt cố gắng hạn chế những thông tin này trên mạng trong khả năng của mình, nhưng mỗi vụ án mới lại xé thêm một lỗ hổng trên hình ảnh của Đảng vốn luôn cam kết rằng mình là “người đầu tiên nếm mùi cay đắng, người cuối cùng tận hưởng phúc lợi.” Mỗi vụ án mới lại giảm đi cái vẻ nó là trường hợp hi hữu, và mỗi chi tiết mới lại nhấn mạnh thêm khoảng cách giữa bề ngoài nghiêm trang và sự thật trần trụi bên dưới của Đảng. Một phụ nữ lên mạng kể lại quan hệ của mình với xếp của bà là Y Tuấn Khanh, Cục trưởng Cục Biên dịch Trung ương Đảng – tức là người chuyên rao giảng giáo điều và giá trị Mác xít. Người tình nhân này kể lại việc cô đã trả tiền cho ông để mua chức và đăng tải những tin nhắn giữa hai người trong ba năm qua cũng như những tường thuật dài về sushi, rượu sake và những hẹn hò vào giờ trưa.
Một trường hợp khác đã phát hiện ra một tập ảnh – bị rò rỉ khi chữa máy tính – trong đó ghi lại quan hệ tình dục qua lại của năm người nam nữ trong một khách sạn. Người xem nhanh chóng nhận diện một số quan chức nhà nước. Vấn đề ở đây không phải là sự xấu hổ mà là thói đạo đức giả: không lâu trước đó, chính quyền đã truy tố một giáo sư công nghệ thông tin, một người sống với mẹ già và trong thời gian rỗi, ông tổ chức nhóm làm tình tập thể – một cộng đồng trong đó ông được biết đến với cái tên mạng là Ngọn lửa Hùng tráng. Ông bị bắt và tuyên án ba năm rưỡi với tội danh “Dâm loạn tập thể”, một tàn dư của thời kỳ trước khi chính quyền truy tố người dân tội “lưu manh” vì có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Trường hợp của Ngọn lửa Hùng tráng trở thành biểu tượng đấu tranh của những người ủng hộ quyền riêng tư, vì tin tức về các cán bộ làm tình tập thể trở thành một thách thức về quan hệ công chúng của Đảng. Một chính quyền huyện quyết định tuyên bố đấy là một trường hợp bị nhận diện nhầm, và tờ Nhân dân Nhật báo tóm tắt với tựa đề KẺ TRẦN TRUỒNG KHÔNG PHẢI LÀ BÍ THƯ CỦA CHÚNG TA. (Hoá ra chính là ông ấy.)
Có quá nhiều vụ khiến tôi gặp khó khăn trong việc cập nhật. Có một quan chức tại Sơn Tây bị phát giác với bốn vợ và mười con trong một xứ sở có luật một con. Và lại có một đoạn băng ghi hình khó quên của một bí thư Đảng tên Lôi Chính Phú hăng hái quan hệ với một phụ nữ chỉ một phần ba tuổi của ông. Và người này, hoá ra lại do một nhà xây dựng địa phương thuê để quyến rũ Lôi nhằm mục đích khống chế ông. (Ông là một con người to béo, phốp pháp, và dân mạng Trung Quốc đã so sánh ảnh ông với Jabba the Hutt, một nhân vật phì nộn ác độc trong phim Star Wars.)
Trường hợp cuối cùng mà tôi theo dõi trước khi bỏ cuộc không thèm đọc những tường thuật loại này là về một giám đốc công an huyện Ô Tô. Khi ông bị phát hiện có quan hệ tình cảm với những phụ nữ mà ông đã thăng chức họ trong lực lượng công an – trong khi nuôi họ trong những căn hộ cao cấp bằng tiền thuế của dân – cơ quan của ông đã đưa ra một minh định nghe có vẻ như là một tin vui trong hoàn cảnh ấy: hai tình nhân của giám đốc công an không phải là chị em sinh đôi, họ chỉ là chị em ruột. Khi tôi đọc đến chi tiết này, tôi ngừng nhai và ngẩng lên, chớp mắt để nhận thức được toàn bộ ý nghĩa của nó; lời biện hộ “chỉ là chị em ruột” dường như đã đóng thêm một dấu ấn vào hình ảnh của cán bộ nhà nước Trung Quốc.
* * *Tính chất hời hợt của nó trở nên quá lố bịch khiến ta dễ bỏ qua rằng nó đã đi ngược lại một trong những rưòng cột của luật lệ Đảng: trong mấy nghìn năm qua, giới cầm quyền Trung Quốc luôn dựa trên quan niệm Đức Trị. “Khi một vị vương có hành xử cá nhân đúng đắn,” Khổng Tử nói, “chính quyền của ông sẽ có hiệu quả mà không phải ra lệnh. Nếu tư cách cá nhân của ông sai lạc, ông có thể ra lệnh, nhưng nó sẽ không được tuân phục.” Tương tự, thẩm quyền của đảng Cộng Sản đặt trên quan điểm rằng ngay cả khi các quan chức địa phương tham ô, tấm gương về tính khôn khéo, công bằng, và trọng dụng nhân tài của giới lãnh đạo cao cấp vẫn quá nổi bật để có thể xem việc bất đồng chính kiến và bầu cử trực tiếp là không cần thiết và lạc hậu. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào từng nói rằng “việc bồi dưỡng uy tín đạo đức cá nhân được xem là phẩm chất cơ bản của một cán bộ chân thực.” Khi chính quyền bị xem là đã vi phạm nền tảng “đức trị”, phản ứng của quần chúng có thể rất căng thẳng: trong thập niên tám mươi, cuộc nổi dậy tại Quảng trường Thiên An Môn phần lớn được châm ngòi bởi nạn tham nhũng tràn lan.
Trong tình hình bùng nổ tham nhũng mới đây, vấn đề đạo đức của Đảng có lẽ được phản ánh một cách chính xác nhất qua một đoạn phim từng thu hút dân chúng Trung Quốc hơn cả những đoạn phim màu mè nhất: khi các phóng viên địa phương hỏi một nhóm các em bé sáu tuổi rằng các em muốn làm gì khi trưởng thành, các em đưa ra những nghề nghiệp phổ biến – lính cứu hoả, phi công, hoạ sĩ – cho đến khi một em bé trai trả lời “Em muốn trở thành cán bộ.”
“Cán bộ gì?” người phóng viên hỏi.
“Một cán bộ tham ô,” đứa bé đáp, “vì họ có rất nhiều thứ.”
Tin tức cho biết các quan chức cấp càng cao thì càng giàu sang tột độ. Vào tháng Sáu 2012, hãng tin Bloomberg sử dụng tài liệu của các tập đoàn và các cuộc phỏng vấn để tính ra rằng gia đình dòng họ của chủ tịch tương lai Trung Quốc Tập Cận Bình có tổng tài sản trị giá hàng trăm triệu đô la. Sự giàu có này khiến Đảng khó giải thích được, vì thế họ quyết định im lặng: chỉ trong vòng 24 giờ, chính quyền đã ngăn chặn trang Bloomberg – nó vẫn bị chặn tại Trung Quốc không biết đến khi nào – và họ đã cấm các ngân hàng và công ty Trung Quốc ký kết các hợp đồng mới sử dụng mạng lưới điện toán của Bloomberg. Việc này gây tổn thất hàng triệu đô la về buôn bán và quảng cáo của công ty.
Khi áp lực đối với giới lãnh đạo Trung Quốc gia tăng, một số những người ủng hộ họ đã nổi giận trước những tiết lộ này – cơn giận dữ này bùng nổ theo nhiều kiểu cách lạ lùng, làm ảnh hưởng đến cả đời sống của chúng tôi. Một hôm vợ tôi Sarabeth, đang làm việc cho một tổ chức giáo dục phi vụ lợi, nhận được một cú điện thoại từ một phụ nữ mà cô quen biết, đó là vợ của một giáo sư Trung Quốc có quan hệ gần gũi với Đảng. Họ là một cặp vợ chồng thời thượng – một con đang theo học một trường đại học thuộc Ivy League và có quan hệ sâu đậm với giới lãnh đạo cao cấp. Bà vợ mời Sarabeth ra nói chuyện tại một khu thương xá gần nhà. Tại tiệm Starbucks, bên cạnh cửa hàng Apple Store, người phụ nữ hỏi han về công việc nhà báo của tôi, rằng tôi có quen biết với Michael Forsythe hay không, anh ta là phóng viên Bloomberg, người đã đăng những chi tiết về tài sản của gia đình Tập Cận Bình. Bà nhắn Sarabeth gửi lời cảnh báo đến tôi, rồi từ tôi nhắn đến Mike. “Anh ta và gia đình không thể lưu lại Trung Quốc. Nơi đây không còn an toàn nữa,” bà nói. “Một chuyện gì đấy sẽ xảy ra. Nó sẽ trông giống như là một tai nạn. Không ai biết việc gì sẽ xảy ra. Người ta sẽ phát hiện ra anh ấy bị chết.”
Sarabeth, người không có mấy kinh nghiệm về những vấn đề như thế này, đâm ra hốt hoảng. Điều này có thật không? Tại sao bà này lại kể cho cô ấy chuyện này? Sarabeth cố gắng thấu hiểu câu chuyện và hỏi bà ta rằng ai là người đứng sau lời đe doạ này. “Không phải trực tiếp từ gia đình ông ấy,” người phụ nữ nói, ám chỉ chủ tịch Tập. “Đấy là từ những người chung quanh ông ta, họ muốn chứng tỏ lòng trung thành.”
Tôi gọi Mike khi anh ấy đang ở châu Âu nghỉ ngơi cùng vợ con. Anh nói với tôi rằng anh cũng nhận được lời đe doạ qua một nguồn trung gian khác. Trước đấy anh cũng từng gặp người vợ của vị giáo sư trên vì bà ta là cố vấn quan hệ công chúng cho cách thành viên của gia đình chủ tịch Tập. Giờ đây thì anh không biết nghĩ sao. Liệu có phải bà ta đang tìm cách giúp anh? Hay chính bà ta muốn đuổi anh ra khỏi Trung Quốc? Tin tức về tài sản gia đình họ đã là một thảm hoạ về quan hệ công chúng, và buộc anh ra khỏi nước có thể giúp ngăn chặn những tiết lộ khác. Đây là điểm giao thoa giữa truyền thông hiện đại và nền chính trị băng đảng.
Các chuyên gia an ninh của Bloomberg đã điều tra lời đe doạ trên – họ tiến hành phỏng vấn, giám định các quan hệ – và cuối cùng quyết định rằng Mike và gia đình có thể an toàn quay lại Bắc Kinh. Nhưng thật khó để quên đi sự kiện trên. Chỉ trong vòng một năm, anh ấy và gia đình đã rời khỏi lục địa và chuyển sang Hồng Kông. (Anh rời Bloomberg vào năm 2013.)
Nếu đe doạ và trả thù là nhằm để đàn áp quá trình tìm tòi những thông tin không muốn được biết thì họ đã không thành công. Vào tháng Mười tờ New York Times đã dựa trên tài liệu của các tập đoàn để tính toán được rằng trong những năm Thủ tướng Ôn Gia Bảo còn tại chức, gia đình ông đã thâu tóm một tài sản trị giá 2,7 tỉ đô la. Trước đây gia đình ông không được cho là giàu có; cha là một nông gia nuôi lợn, mẹ là giáo viên. Nhưng tài sản gia đình giờ đây quá lớn đến nỗi nó nằm trong bảng xếp hạng các gia đình giàu có nhất thế giới của tạp chí Forbes.
Tin này là một nhạo báng đối với câu thần chú của Đảng: trước khi có Đảng, họ thường nói, Trung Quốc bị cai trị bởi các gia đình quyền lực, và Đảng đã phân phát những tài sản ấy lại cho nhân dân. Giờ đây rõ ràng tại Trung Quốc, vào thời điểm kỷ niệm 100 năm chấm dứt vương triều cuối cùng, lại đang quay về tình trạng phong kiến ngày xưa. Tầm mức của những ân sủng và tự trục lợi đã đặc biệt gây một ảnh hưởng đầy khó chịu đến uy tín của Ôn Gia Bảo vì ông đã xây dựng cho mình hình ảnh của một con người cấp tiến chuyên giữ gìn kỷ cương của Đảng. Được đặt bí danh là Ông Ngoại Ôn vì chuyên quan tâm đến người nghèo, ông từng tuyên bố “Tôi thường nói rằng chúng ta không chỉ để người dân có được quyền tự do ngôn luận, điều quan trọng hơn nữa là chúng ta phải tạo điều kiện để họ chỉ trích cách làm việc của chính quyền.” Nhưng rồi, đến sáu giờ sáng sau khi thông tin tài sản gia đình ông được tiết lộ, chính quyền của ông đã ngăn chặn tờ Times – và cũng như tờ Bloomberg, nó vẫn đang bị chặn.
Nhìn qua những chính sách của họ, việc ngăn chặn những tờ báo có ảnh hưởng nhất thế giới là một biện pháp rõ rệt nhất cho thấy Đảng sẵn sàng cô lập người dân để bảo vệ uy tín của mình ra sao: hiện nay nó đang ngăn chặn người dân truy cập Facebook, Twitter, The New York Times, Bloomberg News, và nhiều trang mạng khác. Giới kiểm duyệt đua nhau bảo vệ hình ảnh Thủ tướng Ôn trên mạng bằng cách lọc những cụm từ ghép, bao gồm Thủ tướng + gia đình và Ôn + hàng trăm triệu.
Ở đây không chỉ riêng vấn đề tiền bạc bị xem xét. Người dân thu thập những chứng cứ cho thấy đời sống quan chức thì khoẻ mạnh hơn của dân thường. Một nhà máy sản xuất máy lọc không khí đã vô tình châm ngòi cho một cơn giận dữ khi nó đưa ra quảng cáo khuyến mãi trong đó hãnh diện nói rằng các quan chức Trung Quốc thở không khí trong lành hơn nhờ hai trăm máy lọc cao cấp của họ lắp đặt dọc hành lang của các cơ quan ở thủ đô. “Tạo ra bầu không khí trong sạch, vệ sinh cho các cán bộ lãnh đạo là niềm hạnh phúc của người dân,” công ty tuyên bố. Trong khi người dân còn đang tìm cách cảm nhận niềm hạnh phúc trên, họ lại biết được rằng có một mạng lưới “nông trại đặc biệt” chuyên dùng để cung cấp các loại thực phẩm an toàn cho lãnh đạo Đảng. (Một báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á dự tính trong năm 2007 có ba trăm triệu người ở Trung Quốc bị mắc bệnh liên quan đến thực phẩm mỗi năm.) Sau khi các nhà báo của tờ Phương Nam Tuần Báo viết bài về nông trại này, các tổng biên tập trên cả nước bị cảnh báo không được đăng tin này nữa.
Điều cuối cùng Hồ Cương dạy tôi về việc hối lộ một thẩm phán là nó thật đáng giá. Sau năm năm, anh bị bắt giữ sau một cuộc điều tra theo thông lệ về nạn tham ô trong toà án. Tổng cộng có đến 140 chánh án bị bắt, bao gồm cả viên chủ tịch toà án tối cao tỉnh. Hồ Cương bị truy tố và kết án một năm tù.
Sau khi ra tù, anh xuất bản một tiểu thuyết dưới bút danh Phú Sĩ, và sau đó lại thêm một cuốn nữa. Khi tôi gặp anh, anh đang viết một kịch bản truyền hình. Anh đã rút ra được kết luận qua những trải nghiệm của mình. “Mặc dù chúng tôi có một hệ thống pháp lý với vô số luật lệ và qui định, việc thực thi chúng là tuỳ ý,” anh bảo tôi, ngồi sâu vào ghế, mắt long lanh sau buổi cơm trưa. “Khi luật lệ có lợi cho những người làm luật, chúng được áp dụng; khi chúng không có lợi, chúng bị tảng lờ. Những người làm luật nói: ‘Ta mới chính là luật, và ta có quyền lực lớn nhất.’ Ai cũng biết điều này.” Anh cười. Trung Quốc, anh nói, vận hành bằng “luật lệ ngầm”. Anh nói tiếp: “Nó luôn như thế; chỉ là vấn đề ngày càng trở nên trầm trọng hơn trong vài năm qua.”
Trong đa số các quốc gia, ảnh hưởng lâu dài của chế độ nhà nước đạo tặc thật dễ để đoán trước: các nhà kinh tế tính ra rằng trong thang điểm tham nhũng từ một đến mười, cứ mỗi một điểm tham nhũng tăng thì tỉ lệ tăng trưởng của quốc gia ấy sẽ giảm 1 phần trăm. (Ví dụ như Haiti dưới thời Francois Duvalier hay Zaire dưới thời Mobutu.) Nhưng những ngoại lệ cũng rất quan trọng. Ở Nhật và Nam Hàn, nạn tham ô đi theo chiều tăng trưởng của quốc gia chứ không phải khi nó sụp đổ. Không có trường hợp nào đáng nghi ngờ hơn bằng Hoa Kỳ. Khi những người cổ xuý cho hệ thống đường sắt xuyên lục địa bị phát hiện là đã bí mật trả tiền cho chính họ để xây tuyến đường sắt này – vụ tai tiếng năm 1872, còn có tên là Crédit Mobilier – mức độ tham ô được giới truyền thông tường thuật là “Một bằng chứng tai hại nhất về các quan chức chính phủ và những kẻ côn đồ tư nhân cùng nạn tham nhũng được bày ra trước cái nhìn của cả thế giới.” Từ năm 1866 đến 1873, quốc gia này đã xây dựng ba mươi lăm nghìn dặm đường sắt, tạo dựng ra một nguồn tài sản khổng lồ nhưng, theo lời Mark Twain, cũng cho thấy được “nạn tham nhũng đầy nhục nhã”. Cơn bùng nổ quá độ của đường sắt dẫn đến sự kiện Khủng hoảng 1873 và sau đấy là những cơn khủng hoảng tài chính, trước khi áp lực chính trị nhằm ngăn chặn tham nhũng tạo được đà tiến trong thời kỳ Cấp tiến.
Có hai cái nhìn cơ bản về việc tham nhũng có thể ảnh hưởng đến tương lai Trung Quốc ra sao. Cái nhìn lạc quan là nó là một phần của quá trình chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang thị trường tự do, và dù sao nó cũng tạo ra được hệ thống đường cao tốc và đường sắt khiến cả những quốc gia phát triển cũng phải ngưỡng mộ. “Người Trung Quốc thành công hơn,” cựu Bộ trưởng Giao thông Hoa Kỳ Ray LaHood nói với các phóng viên, “vì ở nước họ chỉ có ba người ra quyết định.Ở nước ta, có đến ba nghìn người tham gia.” Học giả Bùi Mẫn Hân lại không lạc quan đến thế. Ông nói với tôi rằng Đảng chỉ truy tố có 3 đến 6 phần trăm đảng viên dính líu đến những vụ sai trái, và chỉ có một phần ba những người bị tuyên án thật sự bị đi tù. Khi Andrew Wedeman, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Georgia State chuyên nghiên cứu về Trung Quốc điều tra thói quen hối lộ và truy tố, ông nghĩ rằng bộ máy tham ô ở Trung Quốc cũng đi theo hệ thống bảo kê giai tầng như ở Nhật và Nam Hàn. Thay vì thế, ông phát hiện ra rằng “bằng chứng cho thấy nạn tham nhũng ở Trung Quốc hiện tại thật sự là vô tổ chức.” Ông viết rằng “tham nhũng ở Trung Quốc gần giống như tham nhũng ở Zaire hơn là tham nhũng ở Nhật.” Nhưng không như Zaire, Trung Quốc lại trừng phạt nhiều người mắc tội này; trong vòng năm năm, Trung Quốc đã xử phạt 688 nghìn Đảng viên vì tội nhận hối lộ, đút lót và biển thủ; họ đưa ra 350 bản án tử hình vì tội tham nhũng, và Wedemen kết luận rằng “Ở mức độ căn bản, có vẻ nó đã ngăn ngừa được nạn tham nhũng vượt khỏi vòng kiểm soát.”
Cái nhìn đen tối hơn lại cho rằng mối đe doạ từ tham nhũng ở Trung Quốc không phải là kinh tế mà là chính trị. Dưới quan điểm này, chất kết nối giữa người dân và giới lãnh đạo đang bị giảm dần, giai cấp cầm quyền đang hết sức hối hả vơ vét trong những năm cuối của thời kỳ tăng trưởng nhanh chóng, và khả năng tự cách tân của Đảng cũng chẳng khá gì hơn thời các nước Sô Viết trước đây. Sau vụ án Bạc Hi Lai, một số lãnh đạo cao cấp của Đảng bắt đầu đặt vấn đề về tình trạng sức khoẻ của Đảng. Bốn quan chức về hưu đã ký một bức thư mở yêu cầu “Đảng đang trong tình trạng nào khi thậm chí những cấp cao nhất cũng bị dính líu vào một câu chuyện còn tàn ác hơn cả những chuyện trong Nghìn Lẻ Một Đêm?” Những người lãnh đạo mới, họ viết, “phải công khai … tài sản của họ và gia đình.” Giới lãnh đạo Trung Quốc cho rằng cải cách chính trị sẽ dẫn đến bất ổn, nhưng liệu họ có nghĩ rằng không làm gì cả cũng sẽ dẫn đến kết quả tương tự? Khi một nền kinh tế đang tăng trưởng, người dân có thể nhân nhượng với nạn tham ô trắng trợn. Nhưng khi nó chững bước lại, cũng một mức độ tham nhũng ấy có thể trở nên không chịu đựng nỗi.
Tôi hỏi Hồ Cương rằng liệu anh có nghĩ Trung Quốc sẽ vượt khỏi cơn bùng nổ tham nhũng hay không, như Mỹ và Nam Hàn đã từng. Anh ngồi yên một lúc và nói “Tôi thấy xã hội này như một cái ao lớn. Nhiều năm qua, người ta dùng nó như một cái cầu tiêu vì chúng tôi có thể. Và chúng tôi có được quyền tự do làm thế, ngay cả khi cái ao ngày càng dơ bẩn. Giờ đây chúng tôi cần một người có thể đứng lên và bảo với tất cả rằng cái ao đã bị nhiễm bẩn và nếu mọi người cứ tiếp tục làm ô uế nó, sẽ chẳng ai sống sót cả.”
Thích bài này:
Thích Đang tải...