Tình hình sức khỏe và số phận chính trị của đồng chí Nguyễn Bá Thanh tại Đại hội XII

nguyen-ba-thanh1@ Cầu Nhật Tân

Trước mỗi kỳ đại hội Đảng toàn quốc, Hội đồng bảo vệ sức khỏe Trung ương có nhiệm vụ làm việc với Tiểu ban Nhân sự, Ban Tổ chức Trung ương thậm chí cả Ban Kiểm tra Trung ương để hoàn tất và kết luận hồ sơ sức khỏe cho từng đồng chí ứng viên vào Trung ương và Bộ Chính trị. Các kỳ đại hội bấy lâu cho thấy đây là khâu phát sinh khá nhiều rắc rối, phức tạp.

Kết luận sức khỏe quan trọng không kém lý lịch trích ngang. Về lý lịch, có đồng chí sát Đại hội mới bị tố rằng thời Tiền khởi nghĩa, bố đẻ từng dắt lý trưởng đi truy bắt cán bộ. Năm ý năm nọ ở tù “nó” từng chào cờ địch. Lại có đồng chí khác, sát đại hội, bị một mụ đàn bà ngoa ngoắt tận đẩu đâu dắt díu 1 đứa trẻ diễu đi diễu lại khu Nguyễn Cảnh Chân lu loa lên rằng nó (chỉ đứa trẻ) là con ông ý ông nọ. Đảng cho thẩm tra, mụ còn biết rõ đồng chí này có nốt ruồi tận “chỗ đấy” trên cơ thể. Đương nhiên, mỗi màn diễn như vậy đều có đạo diễn rất to đứng sau. Chẳng biết đúng sai ra sao, chờ Ban Kiểm tra kết luận thì cũng làm xong nhân sự rồi.

Về sức khỏe, có đồng chí thậm chí ung thư giai đoạn cuối, biểu hiện mười mươi ra rồi nhưng vẫn không chịu cho khám chữa vì sợ “chúng nó” phát hiện ra thì mất cơ cấu như trường hợp đồng chí cán bộ cao cấp nọ được cơ cấu vào một chân tứ trụ trước Đại hội VIII. Đồng chí này chết ngay trước Đại hội vì cố giấu bệnh, giá đừng được cơ cấu thì có thể hưởng phú quý thêm vài năm. Đúng là phục vụ quên mình đến thế là cùng.

Tuy nhiên, cũng có đồng chí còn phương phi mập mạp lắm, đùng cái bị kết luận sức khỏe có vấn đề, thế là bao công phấn đấu chạy vạy bấy lâu đổ hết xuống sông biển. Trường hợp một tỉnh ngay sát Hà Nội trước đại hội X là ví dụ. Đồng chí chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, tham gia thường vụ mấy khóa. Kỳ đại hội X, đồng chí được cơ cấu vào Trung ương để lên ghế Bí thư tỉnh ủy. Sát đại hội, đồng chí bị kết luận là có u gan (không nói u lành hay u ác). Không tin kết luận, anh em bố trí cho đồng chí sang Singapore khám. Kết quả là cái vết đen chụp gan kia thực chất là mảnh đạn găm vào gan khi đồng chí bị thương ở chiến trường năm xưa, tuy nhiên hoàn toàn không ảnh hưởng sức khỏe. Về nước, đồng chí trình kết quả lên Trung ương, chờ được thẩm tra và kết luận thì đã làm xong nhân sự rồi. Không hiểu bằng cách nào mà một tay Phó Chủ tịch của tỉnh bên rất nhanh chóng đã được cơ cấu lấp ngay vào chỗ trống.

Thế nên, sau khi điều trị ở Hoa Kỳ về, dù đồng chí Nguyễn Bá Thanh có tráng kiện như Thánh Gióng thì cũng rất dễ bị xếp vào diện sức khỏe có vấn đề. Đối thủ của đồng chí không dễ gì bỏ qua cơ hội này. Như vậy, cơ ở lại Trung ương với đồng chí cũng còn khó chứ chưa nói tới việc vào được BCT.

Câu chuyện 5 năm

Mẹ Nấm

Vậy là đã 5 năm kể từ ngày tôi bị bắt khẩn cấp vì điều 258 BLHS. 5 năm không dài, số ngày tôi ở trong tù cũng không là gì so với nhiều người khác, nhưng khoảng thời gian này đủ giúp tôi nhận ra rằng nhiều thứ xung quanh tôi thay đổi rất nhiều.

Mẹ tôi vừa nhờ người đến làm lại cổng nhà. Chú thợ sắt thắc mắc “tại sao phải làm cổng trước cao khác thường như vậy?”. Hàng xóm nhà tôi trả lời: “Để công an khỏi ném mấy thứ dơ bẩn vô nhà!”

Những người ở gần nhà khu nhà tôi không phải ai cũng lên mạng, họ không biết tôi là blogger Mẹ Nấm. Vài người hàng xóm là đảng viên cũng vậy, họ không biết blogger là cái quái gì, họ chỉ biết tôi là phản động.

Năm 2009, lúc tôi bị bắt giữa đêm bằng xe cứu thương, rất ít người chứng kiến chuyện này. Lúc đó, qua cửa miệng của những người có tài rỉ tai, đối với những người hàng xóm cũ ở khu Vĩnh Thái, tôi là tội phạm buôn bán ma túy rất nguy hiểm, nên công an mới phải huy động cả đống người đến áp giải cả vợ chồng lẫn con gái bé xíu đi làm việc đêm hôm.

Hàng xóm nhà mẹ tôi thì rộ lên tin đồn tôi còn tàng trữ ma túy ở đâu đó nữa nên công an mới bắt lén lút để giữ bí mật công tác.

Vài người thương yêu quan tâm đến gia đình tôi bắt đầu lên mạng và đọc. Họ hỏi han mẹ tôi và những người thân cận thì cố gắng giữ cho con gái tôi khi đó chưa được 3 tuổi một không khí sống an lành.

Tôi vẫn còn nhớ, ngày 12/09/2009 sau khi hai người thuộc đội An ninh điều tra, CA Tỉnh Khánh Hòa đến trại tạm giam Sông Lô chở tôi về bằng xe máy và mẹ tôi đón tôi ở trụ sở của họ rất lặng lẽ. Cô hàng xóm nhà tôi ra đón tôi từ đầu ngõ và ôm tôi rất lâu. Mọi người mừng tôi về nhà bình an. Và quan trọng hơn hết tôi cảm thấy mình đã làm điều đúng đắn từ giây phút đó.

Năm 2009, tôi đã bị buộc phải lựa chọn, và tôi cũng đã chọn gia đình tôi. Tôi chọn cách im lặng để người thân được sống không bị phiền toái. Có một khoảng thời gian ngắn, mọi người dần quen với sự lựa chọn lúc ấy của tôi.

Nhưng mọi chuyện không dừng lại ở đó, một lần nữa tôi lại buộc phải lựa chọn giữa giả lơ mà nín thở qua ngày hay tiếp tục phải sống như một công dân biết mình có quyền được hưởng một cuộc đời bình thường mà không phải giả điếc, giả mù. Và tôi đã chọn con đường phải sống bằng tấm kính lương tâm của chính mình, bằng hình ảnh tôi ước mơ cho tương lai bé Nấm, bằng sự bình an trong tâm hồn trước giống tố rình rập.

Thông tin dần dần nhiều hơn. Bạn bè và những người xung quanh bắt đầu đặt dấu hỏi về việc tôi bị bắt khi phản đối dự án Bauxite, khi in áo Hoàng Sa – Trường Sa. Thêm vài lần tôi bị tạm giữ nữa, thêm quyết định xử phạt hành chính vì viết blog, thêm nhiều tin tức về cuộc chiến biên giới 1979, Gạc Ma 1988 khi báo chí được phép đưa tin thì hàng xóm bắt đầu đặt dấu hỏi tại sao phải tốn quá nhiều người canh gác nhà tôi như vậy?

Và quan trọng hơn là khái niệm phản động mà công an tặng cho tôi đã khiến nhiều người phải đặt câu hỏi và tự đi tìm hiểu về nó.

Nếu như cách đây 5 năm, người ta còn e dè sợ sệt khi thấy tôi đi trước, công an thường phục bám xe theo sau và không muốn dây dưa với tôi, thì bây giờ, công an chốt chỗ nào đã có người dặn phải cẩn thận khi đi ngang chỗ đó. Mọi người bắt đầu xem những việc tôi làm là bình thường.

5 năm, mẹ tôi từ một người im lặng chịu đựng những sách nhiễu, từ một người mẹ nước mắt lưng tròng ngồi viết đơn bảo lãnh xin công an hãy thả tôi ra (như họ gợi ý) đã trở thành người đến thẳng đồn công an Lộc Thọ để chất vấn: “Tại sao các ông lại bắt con tôi?

5 năm để những người trong gia đình tôi quen dần với việc ra ngõ gặp công an chốt chặn, quen dần với những lời đồn chung quanh xuất phát từ những rỉ tai vô căn cứ.

5 năm để cánh cửa cổng nhà tôi được làm lại bởi nhiều người thấy rõ rằng các trò xấu xa đê tiện vẫn được sử dụng khi cần.

5 năm trôi qua, vẫn còn nhiều người tiếp tục bị bắt giam vì điều 258 BLHS, tôi trở thành công dân lăng quăng vì giấy tờ tùy thân đều đã được công an giữ… giùm. Mọi thứ vẫn mơ hồ như cái ngày họ lặng lẽ chở tôi từ trại giam Sông Lô về, sự cẩu thả và tùy tiện vẫn còn tiếp diễn.

Chỉ khác một điều, tôi không còn là tôi của 5 năm về trước. Tôi biết rõ điều mình cần và cái mình phải làm hơn. Tôi không cô đơn như đã từng nữa. Và tôi đã chuẩn bị cho mình tâm thế để đón nhận bất kỳ sự trả giá nào để chạm tới thứ tự do thực sự mà tôi muốn thấy.

5 năm trước tôi bị bắt vì điều 258, 5 năm sau tôi đấu tranh với việc sử dụng điều luật này một cách tùy tiện để bỏ tù những người dám nói, dám viết không theo lề.

Năm năm đi qua, tôi cám ơn bố mẹ, gia đình và những người đồng hành đã đi cùng tôi trong suốt 5 năm qua.

Cám ơn cả những người đã từng là bạn tôi vì chính họ đã dạy tôi cách tỉnh táo để ứng xử phù hợp với xung quanh hơn.

Cám ơn những người đã và đang tạo ra áp lực và biến cố trong cuộc đời tôi vì họ chính là những người dạy tôi cách trưởng thành vững vàng nhất.

Tôi cám ơn những người sẽ đến và đồng hành cùng tôi trên con đường tìm kiếm tự do này.

M.N.

Nguồn: http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/cau-chuyen-5-nam.html

NHỚ LẠI VỀ MÌNH

Phạm Quế Dương

clip_image001

Sách “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH” vừa ấn hành ở Mỹ của Nguyễn Thanh Giang là một công trình đồ sộ. Sách viết về 60 nhân vật lịch sử đã có cống hiến lớn cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Trần Độ, Trần Dần … đến Trần Huỳnh Duy Thức, Vi Đức Hồi, Phạm Thanh Nghiên, Điếu Cày, Đỗ thị Minh Hạnh … Không chỉ kể về khối lượng, với 548 trang in khổ A4, tương đương hơn một nghìn trang in khổ thông thường, sách là một biên niên sử mang hơi hướng sử thi vì được viết không chỉ bằng trí tuệ thật uyên thâm và uyên bác mà còn bằng một tấm lòng ưu ái rất đáng trân trọng.

Về mặt trí tuệ, nhiều bài trong “Đêm Dày Lấp Lánh” có giá trị như một bản tóm tắt luận án tiến sỹ với ngồn ngộn tư liệu và những phát hiện mới làm người đọc ngạc nhiên.

Nghiên cứu về Nguyễn Trãi, tác giả đã phát hiện và chứng minh được rằng chính Nguyễn Trãi đã đưa ra một định nghĩa về “dân tộc” sớm hơn, đầy đủ hơn Stalin. Cho đến năm 1913, người ta mới đọc được một định nghĩa được xem là có giá trị đầu tiên trong lịch sử nhân loại của Stalin về dân tộc. Song định nghĩa dân tộc của Stalin chỉ nêu lên bốn yếu tố: kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý. Trước đó, Nguyễn Trãi còn nói đến yếu tố thứ năm: nhân dân.

Ông kết thúc bài viết bằng một nhận thức về tầm nhân loại của tư tưởng Nguyễn Trãi:

Các học giả thường nói tới bốn thế hệ nhân quyền :

– thế hệ của những quyền tự do chính trị;

– thế hệ của những quyền lợi kinh tế xã hội;

– thế hệ của các quyền lợi cộng đồng;

– thế hệ của những quyền lợi nhân lọai.

Từ “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” đến “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, từ “yêu nuôi muôn dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu” đến “Hòa bình là gốc của nhạc”, “Dập tắt chiến tranh cho muôn đời”, phải chăng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã xuyên suốt bốn thế hệ nhân quyền”.

Các học giả Việt Nam từ xưa đến nay khi nghiên cứu về xã hội Truyện Kiều hoặc chỉ nhìn qua lăng kính định mệnh, hoặc lên án đồng tiền… Nguyễn Thanh Giang, dưới con mắt của nhà dân chủ, đã nhìn ra nguyên nhân tàn hại đời Kiều là do pháp luật không được thượng tôn. Ông dẫn ra đến hơn 30 câu Kiều có chữ “oan” và chữ “oán”.

Bài viết này không dám đảm đương nhiệm vụ giới thiệu cuốn “Đêm dày lấp lánh”. Việc này phải dành cho các học giả xứng tầm. Chỉ xin được “tát nước theo mưa” để tâm sự đôi điều.

Trước hết phải cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã vì quá thương yêu mà đưa tôi vào danh sách những danh nhân trong lịch sử đấu tranh vì tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Phải chăng đây là một-cuốn-sách-bia.

Ngoại tám mươi, nhiều khi lẩn thẩn buồn nghĩ về cái tuổi già vô tích sự, đọc Nguyễn Thanh Giang tự nhiên thấy được an ủi rất nhiều. NTG không chỉ nhắc lại những ngày hào hùng đánh Pháp ở đồn Tu Vũ, đánh Tàu ở biên giới phía Bắc mà còn dẫn ra những câu mình đã từng nói, từng viết mà không còn nhớ: “Góp ý với đại hội IX đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài “Phải cải cách chính trị cùng với cải cách kinh tế” ông (tức là tôi) viết: “…Tình hình đất nước ta ngày càng tụt hậu xa so với thế giới về kinh tế, ngay cả những nước gần cận trong khu vực. Nạn tham nhũng tràn lan không bài thuốc chữa trị, từ người lái xe ôm đến bà bán nước vùng quê đều rõ, sao những người lãnh đạo đảng CSVN không thấy mà lúc nào cũng chỉ muốn người ta tung hô Đảng sáng suốt, Đảng quang vinh, đời đời nhớ ơn Đảng … Muốn cứu vãn tình thế không thể chỉ đổi mới bằng cải cách kinh tế mà phải nhanh chóng triệt để cải cách, đổi mới chính trị. Phải nói thẳng là cải cách-đổi mới chính trị, không thể nói là cải cách-đổi mới hành chính, một kiểu nói lừa dối lương tâm … Người đứng đầu Đảng và Nhà nước (Chủ tịch nước hay Tổng thống) phải là một. Đảng cử ra ba bốn người rồi để dân trực tiếp bỏ phiếu. Không thể như hiện nay, Đảng cử ra Tổng Bí thư thì tự nhiên dân phải nhận là Vua của mình rồi. Sự thật đó là Vua của ĐCSVN chứ có phải của dân đâu…. Phải thật sự bầu cử tự do. Người dân được tự do ứng cử, xoá bỏ việc mọi danh sách phải thông qua Mặt trận Tổ quốc. Đó là một việc làm lùa bịp, trấn áp trắng trợn người tài một cách bẩn thỉu, đáng khinh mà những người cầm đầu Mặt trận Tổ quốc đã có lúc tự nhận mình chỉ là “ cây cảnh” … Quân đội, công an là công cụ vũ trang của Nhà nước, không phải của riêng Đảng. Trả lại câu nói của Bác Hồ :” Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”. Tự sửa câu nói lịch sử của Bác Hồ là bất hiếu, bất trung … ĐCSVN phải xin lỗi vụ Nhân văn-Giai phẩm, vụ Xét lại, vụ Kim Ngọc, vụ án Trường Xuân. Các vụ này xử lý oan bao nhiêu hiền tài của đất nước…”.

Mấy bạn cựu chiến binh cổ lai hy đọc những đoạn ấy ngỏ lời khích lệ tôi: “Cách đây hơn chục năm mà đã dám viết được như thế thì NTG xếp ông vào hàng “Chiến sỹ dân chủ” không sai đâu”.

Thật ra, NTG không chỉ biểu dương mà đã từng thẳng thắn phê phán tôi. Thấy tôi bị bắt, bị đưa ra tòa xử tội và bị tống vào tù, như là vừa thương vừa giận NTG đã trách móc tôi ăn nói bỗ bã đốp chát quá với tổng bí thư Nông Đức Mạnh, chủ tịch nước Lê Đức Anh. Xin lỗi NTG, cho đến bây giờ tôi vẫn không ân hận, sám hối gì. Với cái tội đưa Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nói Nông Đếch Mạnh như tôi còn quá nhẹ. Bỏ vợ ốm chết để hú hý với người tình của con thì thật là Nông-Đức-nông-tài. Thời Mạnh làm Tổng bí thư đã dấy lên phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Hẳn là ông ta thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh sâu sắc lắm nên mới như thế.

Về ông Lê Đức Anh thì xin kể thêm câu cuyện sau:

Hồi làm Tổng biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự tôi thường tiếp xúc trực tiếp để lấy tài liệu viết về các vị tướng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà … Thấy vậy, cậu Ngọc – thư ký riêng của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh – bốn lần mời tôi đến gặp Đại tướng nhưng tôi đều tìm cớ đánh lảng. Lúc ấy Lê Đức Anh có tiếng xấu về vụ thảm sát tướng Nguyễn Bình và vụ Năm Châu Sáu Sứ, bây giờ lại lộ thêm vụ Thỏa ước Thành Đô 1990 thì tôi khẳng định rằng nặng lời như vậy vẫn còn quá nhẹ.

Sau khi Đại tướng Văn Tiến Dũng thôi chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1986), Tết tôi theo một số tướng lĩnh đến nhà riêng chúc Tết. Các tướng lĩnh chúc tết Đại tướng, nhưng tôi thì ngồi yên. Khi phu nhân Đại tướng bước vào tôi mới đứng dậy: “Cháu xin chúc Tết cô khỏe mạnh, bình an, mọi sự may mắn”. Phu nhân của Đại tướng là bà Tám Kỳ. Bà hỏi: “Anh là ai?”. “Cháu là Phạm Quế Dương là cháu của ông Sung” (Ông Sung là bác của bà Tám Kỳ). Bà cười rất vui: “Thế à”. Quay lại, tôi mới chúc tết Đại tướng Văn Tiến Dũng. Khi ra về, vài vị tướng hỏi tôi khi Đại tướng còn đương chức sao không đến thăm và chúc tết Đại tướng. Tôi trả lời: “Em không đến, vì sợ người ta cho là có ý đồ cậy cục”.

Không biết Nguyễn Thanh Giang lấy tài liệu từ đâu mà đã viết như sau:

Bà Đỗ thị Cư – nguyên phó giám đốc Lâm trường Yên Bái, đảng uỷ viên đảng bộ Bộ Lâm nghiệp– đã viết về chồng mình – đại tá Phạm Quế Dương – như sau: “ Gia đình tôi tự hào có người chồng chung thuỷ, người cha mẫu mực, người ông hiền hoà. Đối với họ tộc giữ được nếp gia phong, kính trên nhường dưới. Đối với bạn bè chân thành cởi mở. Đối với cấp dưới khoan dung độ lượng. Không ỷ quyền nạt nộ kẻ dưới. Biết thương yêu đồng đội lúc khó khăn. Không phân biệt kẻ sang người hèn. Đối với cấp trên, anh Dương có cá tính đặc biệt, không cơ hội, khom lưng, nịnh hót, cầu lợi cá nhân, chỉ phục tùng người thực sự có tài và rất tôn trọng người tài. Nếu như ai đó bất tài, thất đức thì dù ở cấp cao đến mấy cũng không thần phục được anh Dương. Chính vì thế mà anh luôn bị thiệt thòi và gặp rất nhiều gian truân trong suốt quá trình công tác của mình … Anh là người dám nói trước những điều nhiều người biết nhưng không dám nói, dám làm những việc nhiều người thấy cần phải làm nhưng không dám làm…”.

Rất cảm ơn Nguyễn Thanh Giang đã gợi lại cái quá khứ không đến nỗi đáng chê trách để tôi được an ủi phần nào trong những ngày cuối đời buồn tủi. Hy vọng rằng con cháu của 60 vị được tôn vinh trong cuốn “Đêm dày lấp lánh” cũng sẽ được tự hào về cha ông mình mà noi gương sáng dấn thân mạnh mẽ cho tiến trình dân chủ hóa nước nhà.

Hà Nội 30 tháng 8 năm 2014

P.Q.D.

Nhân tài mùa thu và nhà nước mùa thu

Đức Thành

Thời cách mạng tháng 8 năm 1945, ý thức hệ cộng sản ở đâu đó, xa lắc xa lơ. Toàn dân tộc chỉ biết đến duy nhất một mặt trận Việt Minh, một khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm cả các văn nhân, chí sĩ, cả quan lại trong triều đình nhà Nguyễn tham gia đông đảo trong cái mặt trận ấy và đã làm nên một cuộc cách mạng “ long trời lở đất” ầm ầm như thế nước vỡ bờ.

Khi thành lập nước Việt Nam độc lập chính thức đầu tiên, chẳng ai khác chính vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mời ra Hà Nội nhận chức “Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam”, và là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ông vua này từng bị chính quyền cộng sản bêu riếu là thối nát, ươn hèn, sa đọa, nhưng thử hỏi ở giai đoạn lịch sử ấy, liệu ông vua “sa đọa, ươn hèn” kia không đứng ra nhận chức “Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam” thì chính quyền cách mạng non trẻ có thu phục được lòng dân Việt lúc bấy giờ?

Thời điểm khó khăn ngặt nghèo nhất của cách mạng, khi kêu gọi kháng chiến, tại sao Hồ Chí Minh lại không lấy danh nghĩa chủ tịch đảng cộng sản Đông Dương để kêu gọi 5000 đảng viên của mình đứng lên kháng chiến kiến quốc mà lại kêu gọi toàn thể “đồng bào” cả nước “không phân biệt già trẻ gái trai…” miễn là đồng bào Việt Nam, không phân biệt địa vị sang hèn… đứng lên trường kỳ kháng chiến. Rồi tuần lễ vàng. Nếu không có tài sản của tầng lớp giàu có đóng góp nuôi quân, mua sắm vũ khí, mở công xưởng thì lấy đâu nguồn lực để kháng chiến kiến quốc đến thành công?

Ấy vậy mà sau khi thành công, Đảng lại đem những người giàu có này đi đấu tố, giết hại, tù đày, tịch thu tài sản mà gia đình họ chắt chiu dành dụm được qua bao thế hệ. Trong khi với tình yêu tổ quốc thiêng liêng, khi tổ quốc lâm nguy họ đã không hề tiếc xương máu, đem những bảo vật của mình dâng hiến cho cách mạng với một ý nghĩ duy nhất làm sao cho Việt Nam thực sự hòa bình giàu mạnh dân chủ văn minh!

Cái dễ nhận thấy nhất là tinh thần đoàn kết nhất trí cao của toàn dân đã đưa cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thành công. Chính nó đã làm lên những dòng thác cách mạng, và là nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc Việt nam, là sức mạnh vô song làm biết bao nhiêu kẻ thù phải khiếp sợ.

Những ngày này trong tinh thần tưởng nhớ, ôn lại tinh thần cách mạng tháng tám năm xưa sau một loạt biến cố xảy ra cho dân tộc mà thủ phạm là ông bạn vàng bốn tốt của đảng, luôn được đảng bợ đỡ đề cao quá mức, khiến cho toàn thể dân tộc chợt như bừng tỉnh về mối hiểm họa Hán hóa từ ngàn đời nay vẫn hiển hiện trước nhỡn tiền, cho dù nó được ngụy trang bằng bất cứ hình thức che đậy nào.

Cái bừng tỉnh của dân tộc mình dường như cũng đã đánh thức và làm bừng tỉnh mọi dân tộc khác về một nước lớn Trung Hoa đang trong trạng thái “mê sảng, lảm nhảm” trong cơn ngủ dài đầy mộng mị mà có một vài kẻ thần hồn nhát thần tính cứ tưởng “con rồng cộng sản Trung Hoa đã thức giấc”.

Nhân loại tiến bộ ngày nay đã không chỉ bừng tỉnh mà ngày càng nhân thức sâu sắc rằng ai còn dùng thứ bùa ngải có tên gọi “cộng sản” kẻ đó còn chìm trong trạng thái mộng mị thậm chí lú lẫn hôn mê sâu.

Hãy đem quá khứ cách mạng mùa thu tháng Tám năm xưa để chiêm nghiệm thực tại hiện nay để xem thế và thời của Việt Nam ở hai giai đoạn hơn kém như thế nào, từ đó mà đúc rút, định hình tương lai cho dân tộc mình.

Với vài phép so sánh giản đơn dưới đây sẽ thấy thế và lực của tổ quốc độc đảng toàn trị hiện nay:

1. Cách mạng mùa thu của ngót 70 năm về trước, đảng đã thu phục nhân tâm bằng “cướp lấy chính quyền về tay nhân dân” để hiện thực hóa ước mơ “người cày có ruộng”. Còn mùa thu năm nay Đảng đã thêm một lần khẳng định “Đất đai (ruộng đất) do nhà nước thống nhất quản lý” (không có chuyện đa sở hữu).

2. Công lao giành được chính quyền là công lao của toàn dân tộc mà nòng cốt là tập hợp đa nguyên đa đảng đại diện cho mọi tầng lớp giai cấp của xã hội Việt Nam trong mặt trận Việt Minh. Thì ngày nay Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, nhất nguyên, tập quyền, toàn trị, phi dân chủ. Đảng càng củng cố quyền lực đảng càng trở nên thất bại trong mọi trong mọi đường lối phát triển đất nước. Vì nhất nguyên, toàn trị nên tình hình tranh ăn độc quyền đã làm phát sinh tệ phe nhóm bè cánh trong đảng ngày càng phát triển và đang có bằng chứng người của đảng đã câu kết cùng với thế giới ngầm xã hội đen làm khuynh loát xã hội.

3. Một chính quyền non trẻ đã xây dựng một quân đội theo phương châm “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ” thời chính quyền còn trong trứng nước. Ngày nay quân đội được đảng xây dựng “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với đảng, do đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện”!

4. Nhà nước non trẻ thời cách mạng mùa Thu đã khéo léo xua đuổi được hàng vạn quân Tàu tưởng về nước, ngay khi chưa có một chính thể nào công nhận chính quyền nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Còn ngày nay đảng luôn tự hào rằng đã có quan hệ với hầu khắp các quốc gia trên thế giới, là đối tác chiến lược với tất cả các nước lớn. Nhưng chính bằng thói xu nịnh bợ đỡ của mình, sự yếu kém của mình, không chịu học hỏi đúc rút từ những bài học xương máu của dân tộc, Đảng đã mất cảnh giác để chính ông bạn Tàu cộng đồng minh ý thức hệ của mình ngang nhiên xâm lấn biển đảo quê hương mà không dám ho he nổi một câu rằng sẽ “nhờ tòa án quốc tế phân xử” để hòng lấy lại tài nguyên công thổ quốc gia mà cha ông đã dựng xây, giữ gìn và bảo vệ.

5. Bằng gậy tầm vông, giáo mác, bằng lòng yêu nước nồng nàn, bằng dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, tập hợp đa nguyên đa đảng trong toàn thể “quốc dân đồng bào”. Ở ngay cái thời kỳ cả mấy triệu đồng bào chết đói năm 1945, chẳng có Trung Cộng hay Liên xô giúp đỡ nhưng dân ta đã giành được chính quyền về tay nhân dân. Vậy mà tại sao khi có Liên Xô, khối XHCN giúp đỡ mà đảng ta chẳng lấy nổi Hoàng Sa, lại còn để giặc Tàu cộng cưỡng chiếm nốt cả một số đảo Trường sa?

6. Về giáo dục chỉ trong vài tháng bằng bình dân học vụ từ 95% dân mù chữ đã xóa mù cho 70% dân số nhưng sau bao nhiêu năm cải cách đổi mới giáo dục vẫn loay hoay không biết chọn thi cử kiểu nào để đánh giá đúng chất lượng giáo dục. Chẳng có trường đại học nào lọt tốp 500 trường trên thế giới.

7. Chính quyền non trẻ đã tập hợp được những trí thức lớn đứng ra phục vụ đất nước, phục vụ dân tộc. Những Hồ Đắc Di, Dương Quảng Hàm, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Tường, Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa… Còn ngày nay Đảng đã tập hợp được những ai nếu không phải là xung quanh mình ngoài những kẻ chỉ chăm lo cho bè cánh, lợi ích nhóm của mình, củng cố đặc quyền đặc lợi.

Phải làm gì khi “nhân tài như lá dụng mùa thu” hiện nay?

“Anh hùng hào kiệt đời nào cũng sẵn” nhưng sẽ không bao giờ họ chịu cùng đứng chung trong một ổ nhóm (hay một tổ chức) bất tài háo danh, hãnh tiến (dù trước đây họ nhất thời bị lường gạt lừa phỉnh thì họ cũng dần xa lánh, thoát ly). Do đó nếu chỉ chọn người tài trong cái ổ nhóm ấy sẽ chẳng bao giờ có được người tài .

Người tài của dân tộc chưa hẳn đã là người tài của đảng vì những người tài ấy chưa chắc đã là đảng viên cộng sản mà chưa phải là đảng viên thì chảng bao giờ được công nhận là người tài.

Bởi thế nhân tài vẫn cứ như “lá rụng mùa thu” còn nhà nước cộng sản thì được bắt đầu vào mùa thu tháng Tám!

Tác giả gửi BVN

@Bauxitvn