Thêm một bằng chứng về sự tự diễn biến của Đảng CSVN

 Kami / RFA

Từ năm 1986 đến nay, Đảng CSVN đã tiến hành việc cải cách Kinh tế mà họi gọi là công cuộc Đổi mới, để chuyển nền kinh tế Việt nam từ nền Kinh tế tập trung – quan liêu bao cấp sang nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều mà họ cho rằng là phương tiện cứu cánh, cần thiết để cứu nguy sự đỗ vỡ và đưa nền kinh tế Việt nam thoát khỏi sự khủng hoảng vốn đã rất trầm trọng.

Cho dù cho đến nay, chính Đảng CSVN vẫn thừa nhận rằng về lý luận vẫn chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì theo họ, hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và đây là sự sáng tạo mang tính đặc thù của Đảng CSVN.

Trước sự sụp đổ của phe XHCN, Việt nam đã phải thay đổi chính sách và trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam không có lựa chọn nào khác là buộc phải có quan hệ trên hầu hết các mặt với các nước Tư Bản Chủ Nghĩa như Mỹ, EU v.v… Và ban lãnh đạo nhà nước Việt nam, cụ thể là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không ít lần đề nghị Mỹ, EU và một số nước TBCN lớn khác chiếu cố để chấp nhận Việt nam là một quốc gia có nền Kinh tế thị trường hoàn chỉnh.

Không những thế, theo báo Thời báo Kinh tế Sài gòn, nói về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã cho rằng: “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”.

Trong gần 30 năm cải các kinh tế, tuy nền kinh tế Việt nam đã có dấu hiệu khởi sắc, tuy vậy những thành tựu đạt được còn quá khiêm tốn, bởi vì sự lỗ lã, thất thoát quá lớn của các doanh nghiệp nhà nước. Cũng bởi vì nhà nước đã quá chú trọng trong việc phát triển và coi kinh tế nhà nước nắm chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đây là điểm khiếm khuyết mà mọt nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh không cho phép như vậy.

Hình chụp bài viết trên Báo Công thương

Nếu hiểu Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Thì sẽ thấy điểm khác biệt giữa Kinh tế thị trường và Kinh tế thị trường Định hướng XHCN là sự can thiệp và tác động quá sâu của nhà nước đối với nền kinh tế, khi chú trọng và coi kinh tế nhà nước là chủ đạo. Thực tế kinh tế Việt nam trong suốt gần 30 năm qua đã chứng minh cho thấy sự thất bại của chủ trương này, đặc biệt là các khoản nợ khổng lồ do kinh doanh lỗ lã vì quản lý yếu kém của các doanh nghiệp chủ đạo, các Tập đoàn, Tổng Công ly lớn của nhà nước, như Vinashin, Vinalines… Điều đó cho thấy việc xóa bỏ vấn đề Kinh tế thị trường Định hướng XHCN để đưa kinh tế Việt nam chuyển sang Kinh tế thị trường hoàn chỉnh là điều hết sức cần thiết và cấp bách. Song đáng tiếc, Hiến pháp Sửa đổi năm 2013 phần nói về chế độ Kinh tế, Điều 51 Khoản 1. vẫn khẳng định và đã ghi rõ “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

Vậy mà theo Báo Công thương ngày 20.8.2014 cho biết, tại Hội nghị triển khai Chỉ thị số 22/CT-TTg và số 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho rằng “Hơn ai hết, Bộ Công Thương phải xây dựng kế hoạch theo kinh tế thị trường, phù hợp quy luật kinh tế thị trường”. Nếu đối chiếu với chế độ Kinh tế ghi trong Hiến pháp Sửa đổi năm 2013 thì phát biểu này của Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng là vi hiến – trái với Hiến pháp. Cho dù đây là việc làm phù hợp, thích ứng và cần thiết đối với nền kinh tế Việt nam, song nó cũng là bằng chứng của việc tự diễn biến để từ bỏ con đường Chủ nghĩa Xã hội của Đảng CSVN để xích gần CNTB thân phương Tây.

Tuy nhiên, cần phải hiểu một mình ông Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng thì không dám “cả gan” làm một việc tày trời trái với Hiến pháp như vậy. Mà chắc chắn việc này phải nhận được sự đồng thuận từ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói riêng và tập thể lãnh đạo Bộ Chính trị nói chung. Nói một cách khác đây là chủ trương chính thức của Đảng CSVN.

Từ đầu thế kỷ XX, Đảng CSVN từ ngày thành lập đã lựa chọn Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Mark-Lenin làm kim chỉ nam và nền tảng tư tưởng cho mình dẫu không phải là điều sai lầm, vì khi đó những học thuyết này chưa được trải nghiệm để chứng tỏ sự ảo tưởng và những sai lầm của nó. Do đó không thể chê trách họ.

Tuy vậy cho đến nay, đặc biệt là sau gần 30 năm đổi mới, lẽ ra Đảng CSVN phải nhận ra những sai lầm về chính sách Kinh tế Định hướng XHCN. Đồng thời phải công khai thừa nhận và để tiến tới xóa bỏ nền Kinh tế thị trường Định hướng XHCN khi nó đã bộc lộ quá nhiều những bất cập và đã  gây nhiều tác hại cho nền kinh tế Việt nam. Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, phù hợp với các giá trị phổ quát của nền kinh tế thế giới.

Biết sai để sửa là một trong những yếu tố quyết định để giúp cho sự thành công của một quốc gia, là điều mà ban lãnh đạo Việt nam đã nhận thức được trong vấn đề lựa chọn đường lối Kinh tế thị trười để thay thế cho nền Kinh tế thị trường Định hướng XHCN. Song điều này cần phải được minh bạch bằng cách công bố và đồng thời phải sửa đổi phần về chế độ Kinh tế trong Hiến pháp năm 2013 một cách công khai. Vì hơn ai hết, lãnh đạo chính quyền phải gương mẫu, tuyệt đối không được có các chủ trương đi ngược với quy định của Hiến pháp.

Từ trước đến nay, những người làm công tác tư tưởng của Đảng CSVN luôn coi Diễn biến hòa bình (DBHB) là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện để chống phá và đi đến xoá bỏ Chủ nghĩa Xã hội.  Và Đảng CSVN luôn lên án điều mà họ gọi là Diễn biến Hòa bình và coi đó là mối đe dọa hàng đầu đối với sự tồn tại của Đảng CSVN.

Tuy vậy, trên thực tế cho thấy, Đảng CSVN đã tự diễn biến một cách mạnh mẽ, với biểu hiện ngày càng xa rời CNXH để xích gần với chủ nghĩa tư bản phương Tây, mà đây là một bằng chứng không thể chối cãi về sự tự diễn biến của Đảng CSVN.

Ngày 24 tháng 8 năm 2014

© Kami

* Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA

TQ xử tử nhóm tấn công Thiên An Môn

Vụ tấn công ở Thiên An Môn

Vụ tấn công ở Thiên An Môn làm 2 khách du lịch và ba thành viên nhóm tấn công thiệt mạng.

Trung Quốc hành quyết tám người từ vùng Tân Cương vì những gì mà Bắc Kinh gọi là các cuộc tấn công “khủng bố”, theo Tân Hoa Xã.

Ba trong số những người bị xử tử đã bị kết án vì một cuộc tấn công ở Quảng trường Thiên An Môn tại thủ đổ Bắc Kinh hồi tháng Mười năm ngoái, trong đó năm người đã thiệt mạng, vẫn theo hãng thông tấn nhà nước.

Những người khác bị kết tội sản xuất bom định và đốt phá.

Chính phủ đã cáo buộc các chiến binh ly khai có trụ sở tại Tân Cương, khu vực nằm ở mạn tây bắc quốc gia, đã tiến hành một loạt các vụ tấn công gần đây.

Tân Cương là nơi sinh sống truyền thống của người Hồi giáo Uighur, người nói một ngôn ngữ khác biệt và có những tập tục khác với người Hán chiếm đa số ở những nơi khác tại Trung Quốc.’Chủ mưu’

Huseyin Guxur, Yusup Wherniyas và Yusup Ehmet bị tước quyền sống vì vai trò của họ trong vụ đâm xe hơi gây chết người ở Thiên An Môn vào tháng 10/2013. Họ đã chủ mưu vụ tấn công khủng bố

Tân Hoa Xã

Theo Tân Hoa Xã, các ‘đối tượng’ Huseyin Guxur, Yusup Wherniyas và Yusup Ehmet bị “tước quyền sống” vì vai trò của họ trong vụ đâm xe hơi gây chết người ở quảng trường Thiên An Môn vào tháng Mười năm 2013.

“Họ đã chủ mưu vụ tấn công khủng bố,” hãng tin này nói thêm.

Trong vụ việc này, một chiếc xe đã đâm vào người qua đường tại quảng trường trung tâm là biểu tượng quan trọng về mặt chính trị ở Bắc Kinh, trước khi bùng cháy.

Hai du khách chết, cùng với ba thành viên của nhóm tấn công.

Tân Hoa Xã cũng nêu tên một số người đàn khác bị hành quyết cùng với những người trong vụ tấn công quảng trường Thiên An Môn:

Trong đó, Rozi Eziz bị kết án về một cuộc tấn công vào cảnh sát vào năm 2013.

Phiên tòa xử nhóm người Uighur

Tám người Uighur bị hành quyết trong đó có một số thành viên vụ tấn công Thiên An Môn.

Abdusalam Elim, bị buộc tội cầm đầu một tổ chức khủng bố, Memet Tohtiyusup, bị buộc tội giết người và theo dõi các video về chủ nghĩa tôn giáo cực đoan.

Abdumomin Imin được mô tả như một “kẻ cầm đầu khủng bố.”

‘Mục đích chính trị’

Một phát ngôn nhân của nhóm lưu vong Đại hội Thế giới Uighur, Dilxat Raxit, gọi các vụ hành quyết là “một điển hình cho việc pháp luật phục vụ mục đích chính trị”.

Các quan chức Trung Quốc thường liên hệ các cuộc tấn công ở Tân Cương với các nhóm ly khai Uighur, cáo buộc họ tìm cách thiết lập một nhà nước độc lập gọi là Đông Turkestan.

Bắc Kinh gần đây đã đổ lỗi cho các nhóm này đứng sau hàng loạt các cuộc tấn công trong đó có vụ bạo lực hồi tháng Năm tại một khu chợ ở Urumqi, khiến ít nhất 31 người thiệt mạng.

Người Uighuir

Người Uighur quan ngại họ bị xói mòn bản sắc văn hóa do mật độ nhập cư của người Hán.

Chính quyền cũng cáo buộc người những phần tử khủng bố Uighur tiến hành một loạt các vụ tấn công bằng dao ở tỉnh Vân Nam hồi tháng Ba, làm 29 người thiệt mạng và hơn 130 người bị thương.

Tình trạng bất ổn

Các lãnh đạo Uighur bác bỏ các quy kết rằng họ tiến hành các chiến dịch khủng bố như các cáo buộc trên.

Họ nói rằng các chính sách đàn áp của chính quyền Bắc Kinh ở Tân Cương chính là nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn lâu nay.

Được biết người Uighur (còn được biết tới là người Duy Ngô Nhĩ) là chủng tộc người Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ.

Họ chiếm khoảng 45% dân số của vùng này, với 40% khác là người Hán từ phần còn lại của Trung Quốc tới.

Trung Quốc tái lập kiểm soát Tân Cương vào năm 1949 sau khi nghiền nát nhà nước Đông Turkestan vốn tồn tại ngắn ngủi.

Kể từ đó, theo giới quan sát có thêm nhiều đợt nhập cư với quy mô lớn của người Hán tới khu vực, điều làm cho nhiều người trong cộng đồng Uighur quan ngại dẫn tới ‘xói mòn’ văn hóa truyền thống của người bản địa.

Quan hệ đối tác toàn diện Mỹ-Việt đang ở đâu?

Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới.
Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới.

Sau 38 năm kết thúc cuộc chiến và 18 năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tầm nhìn của hai kẻ cựu thù Việt, Mỹ đôi khi không nhìn chung về một hướng. Mãi đến năm 2011, trong chiều hướng của chủ thuyết “Thế kỷ Châu Á Thái Bình Dương Của Mỹ” của Ngoại trưởng Hillary Clinton, Tổng thống Obama lần đầu tiên nhìn nhận Việt Nam là một đối tác đáng tin cậy của Mỹ tại Đông Nam Á trong chiến lược Mỹ trở lại Châu Á Thái Bình Dương, nhất là Đông Nam Á.

Sau những biến đổi tồi tệ về tình hình khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông do Trung Quốc tạo nên, đe dọa tác hại đến lợi ích quốc gia của Mỹ tại khu vực này, Tổng thống Obama chủ động mời Chủ tịch Nước Việt Nam Trương Tấn Sang qua Washington để thảo luận vào ngày 25/7/2013 về tình hình khu vực Biển Đông với hy vọng nâng cao quan hệ Việt-Mỹ lên tầm đối tác toàn diện.

Theo thông cáo chung sau cuộc gặp lịch sử này, ”Tổng thống Obama và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang quyết định xác lập đối tác toàn diện trong quan hệ Mỹ-Việt.” Mối quan hệ này được thiết lập trên một số cơ chế hợp tác trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đó có quan hệ chính trị-ngoại giao, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, du lịch và thể thao, kinh tế và mậu dịch, an ninh và quốc phòng, nhân quyền…

Phần nhiều những mối quan hệ này – kể cả quan hệ ngoại giao-chính trị – dễ dung hòa, vì cả hai bên Mỹ-Việt đều sẵn sàng quên đi những hệ lụy chiến tranh giữa 2 nước trong quá khứ để cùng nhau hướng đến lợi ích chung. Nhưng vì những khác biệt về điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa và kinh tế giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay, những mối quan hệ về nhân quyền, an ninh-quốc phòng, và kinh tế-thương mại, nhất là vòng đàm phán về vấn đề Việt Nam gia nhập TPP, vẫn còn nhiều trở ngại và thử thách.

Từ cuộc họp thượng đỉnh Washington hôm 25/7/2013 cho đến nay, hai bên thường xuyên trao đổi về những biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện cũng như tăng cường phối hợp các tiến trình đàm phán TPP. Các viên chức cao cấp của hai bên tiếp tục điện đàm, thường xuyên đi lại giữa Hà Nội và Washington để thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện.

Ngày 14-3-2014, theo đề nghị của phía Hoa Kỳ, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã điện đàm với Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc, đại diện Tổng thống Obama, ông Denis McDonough, nhằm thúc đẩy việc kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ. Nội dung của cuộc điện đàm này cũng không có gì mới lạ, không đạt được tính đột phá. Có chăng đó là câu nói có vẻ hứa hẹn một cái gì đó từ phía Hoa Kỳ: “Hiệp hội TPP sẽ dành sự linh hoạt thỏa đáng đối với các thành viên đang phát triển, như Việt Nam…” Nhưng Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc Denis McDonough không nêu rõ ý nghĩa cụ thể của cụm từ “linh hoạt thỏa đáng” là như thế nào? Gồm có những gì? Vòng đàm phán TPP vẫn còn nhiều gai góc, không thỏa mãn được Tòa Bạch Ốc đang thật sự mong muốn vòng đàm phán này sớm chấm dứt trước cuối năm 2014.

Ngày 14/7/2014, ông Evan Medeiros, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Obama, đến Hà Nội với mục đích thúc đẩy Việt Nam về các vấn đề liên quan đến đàm phán TPP và Biển Đông. Điều đáng chú ý là sứ mệnh của ông Medeiros rất bao quát và rộng lớn: kết hợp hai vấn đề to lớn là việc Việt Nam gia nhập TPP và an ninh Biển Đông.

Trước đây Mỹ chỉ đòi Việt Nam muốn được gia nhập TPP phải có tiến bộ về nhân quyền. Bây giờ thì lại kèm theo an ninh BIển Đông. Nghĩa là muốn gia nhập TPP, ngoài điều kiện phải có tiến bộ về nhân quyền, Việt Nam phải phối hợp quân sự với Mỹ để chống trả ý đồ xâm lăng của Trung Quốc tại Biển Đông. Mặc dầu không nói ra, ai cũng hiểu đó là liên minh quân sự với Mỹ. Vì vậy khi đến VN, mục đích chủ yếu của ông Medeiros là gặp Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tướng Vịnh lúc nào cũng “yểm” sẵn “Chính sách Quốc phòng 3 không”, nhất là điều thứ 3: “Việt Nam không liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào để chống lại một quốc gia khác”. Do đó ông Medeiros đã không đạt được sự hợp tác của Tướng Vịnh như Tòa Bạch Ốc mong muốn.

Tiếp theo đó là chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phạm Quang Nghị ngày 21/7/2014, chuyến đi đánh dấu một lần nữa tầm quan trọng trong việc thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Phạm Quang Nghị là Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, được xem như là người sẽ kế vị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong tương lai. Mục đích chủ yếu của chuyến công du của ông Nghị là thay đổi quan điểm của dân chúng và Quốc hội Mỹ xưa nay thường cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam thiên về Trung Quốc và chống lại Mỹ.

Đây là biểu hiện cho thấy quan hệ Việt-Mỹ đang đi vào một giai đoạn mới và tích cực. Tại Mỹ ông Nghị đã tiếp xúc với các Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman, Phó cố vấn An ninh Quốc gia Tony Blinken, Chủ tịch tạm quyền Thượng viện Patrick Leahy và Thượng Nghị sĩ John McCain. Trong các cuộc tiếp xúc này, ông Phạm Quang Nghị đã thông báo về tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam và khẳng định Đảng và Nhà Nước Việt Nam coi trọng và không ngừng thúc đẩy quan hệ hợp tác với Mỹ trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Hai bên cũng đề cập đến tình hình dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Hiệu quả của chuyến công du Mỹ của ông Nghị là phần nào làm cho nhân dân và chính phủ Mỹ thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang dần dần rời bỏ Bắc Kinh và hướng về Washington. Nhưng dường như sự xoay chiều này của Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ để thỏa mãn Quốc hội Mỹ.

Ngày 29/7/2014, Dân biểu Cộng hòa Frank Wolf gửi một bức thư với chữ ký của 32 Dân biểu khác cho Tổng thống Obama mạnh mẽ khuyến cáo Quốc hội Mỹ không cho Việt Nam gia nhập TPP nếu Hà Nội không thay đổi đáng kể về mặt nhân quyền, cải tổ luật pháp phù hợp với luật bảo vệ lao động, và Chính phủ Hà Nội phải theo đuổi thể chế dân chủ pháp quyền.

Cũng nên chú ý, trong tháng 7 vừa rồi Quốc hội Mỹ đã thông qua hai dự luật quan trọng có lẽ cũng nhằm thúc đẩy mối quan hệ Đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Đó là Dự luật cho phép Mỹ hợp tác và giúp đỡ Việt Nam xây nhà máy hạt nhân dân sự tại Việt Nam và Dự luật giải tỏa các lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN

Đầu tháng Tám này, cố vấn cấp cao của Tổng thống Obama, Thượng Nghị sĩ Bob Corker, đã đi thăm Hà Nội và tiếp xúc với các yếu nhân Việt Nam cũng không ngoài mục đích thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện và thúc đẩy tiến trình đàm phán TPP. Trao đổi với ông Bob Corker hôm 5-8, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã “kêu gọi Quốc Hội Mỹ thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế, đầu tư thương mại song phương, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập TPP và ủng hộ một giải pháp ôn hòa cho vấn đề Biển Đông…” Đúng là ông Sang chỉ lập lại những gì ông đã phát biểu trong cuộc gặp với Tổng thống Obama tại Tòa Bach Ốc hồi năm ngoái (ngày 25/7/2013).

Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới – nghĩa là thời khoản dành ưu tiên cho Việt Nam gia nhập TPP còn rất ngắn. Phải chăng ông Corker đang chuyển thông điệp của Tòa Bạch Ốc đòi Việt Nam phải gấp rút cải thiện nhân quyền nếu không muốn bỏ mất hoàn toàn cơ hội gia nhập TPP?

Tuy nhiên, một ánh sáng vừa le lói ở cuối đường hầm TPP: Trong chuyến công du Việt Nam mới đây, Thượng Nghị sĩ John McCain đã tuyên bố hôm 8/8/2014 tại Hà Nội rằng “đã đến lúc Washington nên nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, vì Hà Nội đã có tiến bộ về nhân quyền như việc thả một số nhà bất đồng chính kiến và cởi mở hơn trong vấn đề tôn giáo”. Về phần mình Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse cho rằng việc nới lỏng sẽ xảy ra từng giai đoạn, nhưng nó có thể tiến nhanh hơn.

Ông McCain cũng hứa hẹn “Mỹ sẽ có tư duy và hành động mới trong quan hệ với Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng kết thúc vòng đàm phán TPP và làm việc với Việt Nam nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường”. Thượng Nghị sĩ McCain nói thêm: ”Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chiến đến mức mà Việt Nam cho phép, không phải bằng cách thiết lập căn cứ, điều mà chúng tôi không có ý định, mà bằng các thỏa thuận giữa hai nước…Chúng tôi cũng sẵn sàng hỗ trợ an ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh hải và xây dựng năng lực bảo vệ chủ quyền…”(1)

Dĩ nhiên thật là lạc quan cho những ai được nghe những gì Thượng Nghị sĩ John McCain vừa nêu lên tại Hà Nội hôm 8-8-2014 về những ưu tiên mà chính phủ Mỹ dành cho VN trong tiến trình gia nhập TPP và trong việc kiện toàn và phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng đó mới chỉ là phát biểu của Thượng Nghị sĩ John McCain chưa được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và cũng chưa đem ra đàm phán với phía Việt Nam. Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay đã xoay chiều, hướng về Washington, điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẵn sàng quay nòng súng 180 độ để đánh trả Trung Quốc nhằm bảo vệ Biển Đông.

Cho nên vấn đề liên minh quân sự với Mỹ vẫn còn là một mục tiêu khó đạt tới đối với Việt Nam, nhất là khi họ đã quyết tâm bảo vệ “Chính sách Quốc phòng 3 không” của họ. Với chính sách này, Việt Nam đã thành công giải quyết trong hòa bình những xung đột trên Biển Đông. Cụ thể là việc Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển đặc quyền kinh tế của VN sớm hơn 1 tháng trước thời hạn do Trung Quốc ấn định.

Do vậy thật khó lượng định quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay đang ở đâu.

Nếu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương, VN mua gì?

Theo ông Dempsey, giới chức Mỹ cùng các tổ chức phi chính phủ nhận thấy rằng Việt Nam đã có những tiến bộ có thể dẫn tới việc dỡ bỏ lệnh cấm.
VOA
Theo ông Dempsey, giới chức Mỹ cùng các tổ chức phi chính phủ nhận thấy rằng Việt Nam đã có những tiến bộ có thể dẫn tới việc dỡ bỏ lệnh cấm.

Các tuyên bố của hai nhân vật nổi bật trong chính giới và quân đội Mỹ khi tới thăm Việt Nam đã mang lại hy vọng cho giới chức cũng như truyền thông do nhà nước kiểm soát ở trong nước về khả năng Hoa Kỳ sẽ sớm dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

“Mỹ sẽ sớm bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam” hay “Tháng 9, Mỹ có thể nới lỏng bán vũ khí cho Việt Nam” là hai trong số nhiều hàng tít được đăng tải sau chuyến thăm trong tháng này của Thượng nghị sĩ John McCain và Đại tướng Martin Dempsey.

Trước đó, ông McCain tuyên bố rằng đã đến lúc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam.

Còn theo ông Dempsey, giới chức Mỹ cùng các tổ chức phi chính phủ nhận thấy rằng Việt Nam đã có những tiến bộ có thể dẫn tới việc dỡ bỏ lệnh cấm.

Hiện chưa rõ Việt Nam sẽ mua gì nếu phía Mỹ đi tới quyết định dỡ bỏ lệnh cấm vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Bản thân ông Dempsey, khi trả lời báo chí, cũng cho biết là các giới chức quân sự Việt Nam chưa cho biết cụ thể là họ muốn mua loại vũ khí nào, nhưng hai quốc gia hiện đang bàn thảo về ‘các tàu tuần tra, các thiết bị trinh sát, tình báo’ và ‘có thể là cả một số vũ khí cho hạm đội mà họ [Việt Nam] chưa có’.

Nhưng trong khi vấn đề biển Đông đang dậy sóng, theo các nhà quan sát, Hà Nội có lẽ muốn tăng cường hải quân để bảo vệ lãnh hải trước sự lấn lướt của Trung Quốc.

Hiện nay chúng ta thấy là cái cần thiết của Việt Nam là họ cần phải tăng cường khả năng tuần duyên của họ, thì cái đó là loại vũ khí họ muốn có. Thứ hai là một loại khác mà tôi nghĩ họ cũng muốn có là hỏa tiễn địa đối hạm, có thể bắn xa ra ngoài biển. Thì đó là những cái tôi cho là họ muốn.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, giáo sư giảng dạy bộ môn quan hệ quốc tế tại Đại học George Mason, Mỹ, nhận định: “Hiện nay chúng ta thấy là cái cần thiết của Việt Nam là họ cần phải tăng cường khả năng tuần duyên của họ, thì cái đó là loại vũ khí họ muốn có. Thứ hai là một loại khác mà tôi nghĩ họ cũng muốn có là hỏa tiễn địa đối hạm, có thể bắn xa ra ngoài biển. Thì đó là những cái tôi cho là họ muốn”.

Ông Hùng nói thêm: “Nhưng còn có những loại khác nữa là phương tiện để tiến hành trinh sát và thăm dò, dụng cụ để thăm dò ở ngoài biển thì không có, họ có thể muốn mua. Nhưng mà mặt khác thì họ có thể điều đình để cho Mỹ chia sẻ những tin tức ở ngoài đó, bản đồ ngoài đó, như trường hợp mà Mỹ làm với Philippines. Đó là những điều mà theo tôi nghĩ có thể là họ muốn”.

Các giới chức quân sự cấp cao của chính quyền Hà Nội lâu nay bày tỏ mong muốn Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm này, nhưng phía Mỹ luôn đặt điều kiện về nhân quyền kèm theo.

Chuyến đi của ông McCain và Dempsey diễn ra trong bối cảnh Việt Nam vừa trải qua một cuộc đối đầu trên biển với Trung Quốc quanh giàn khoan dầu Bắc Kinh đưa vào vùng biển mà Hà Nội tuyên bố là thềm lục địa của mình.

Một số nhà quan sát nhận định rằng chính phủ Việt Nam dường như đang xích lại gần hơn nữa với Mỹ sau khi vụ giàn khoan dầu đã đẩy quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh xuống tới mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ.

Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng nhận định tiếp: “Kể từ năm 2008, vì sự lấn lướt của Trung Quốc ở trên biển, đã làm cho Hà Nội quyết định tiến gần hơn với các nước  Tây phương, và đặc biệt là với Mỹ. Nhưng mà tiến bộ vẫn còn chậm rãi và mang tính thăm dò là vì hai lý do. Thứ nhất, Hà Nội không muốn làm mất lòng Trung Quốc và thứ hai nữa là Hà Nội vẫn còn nghi ngờ Mỹ lật đổ chính quyền của mình”.

Sự nghi ngờ cũng bớt đi bởi vì sự lo lắng nhiều hơn là vấn đề về Trung Quốc vì việc đưa giàn khoan như là một gáo nước lạnh giội vào những người ở Hà Nội vẫn còn tin tưởng vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa với Trung Quốc. Vụ giàn khoan đẩy mạnh hơn cái tiến trình cộng tác quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Ông Hùng nói thêm: “Khi giàn khoan xảy ra, nó làm suy yếu hai điều này. Sự nghi ngờ cũng bớt đi bởi vì sự lo lắng nhiều hơn là vấn đề về Trung Quốc vì việc đưa giàn khoan như là một gáo nước lạnh giội vào những người ở Hà Nội vẫn còn tin tưởng vào ý thức hệ xã hội chủ nghĩa với Trung Quốc. Vụ giàn khoan đẩy mạnh hơn cái tiến trình cộng tác quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ”.

Hồi giữa tháng Sáu, phát biểu tại buổi điều trần nhằm chuẩn thuận chức vụ đại sứ Mỹ tại Việt Nam do Tổng thống Obama đề cử, ông Ted Osius cũng nói rằng đã đến lúc Washington cân nhắc dỡ bỏ lệnh cấm bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho Việt Nam.

Ông Osius nói rằng Hoa Kỳ đã nói rõ cho phía Việt Nam biết rằng lệnh cấm này không thể được gỡ bỏ nếu không có tiến bộ quan trọng nào về nhân quyền.

Nhà ngoại giao kỳ cựu này nói thêm rằng ông sẽ ‘thẳng thắn và trực tiếp nói với các lãnh đạo ở Hà Nội rằng việc chính phủ Việt Nam tôn trọng nhân quyền sẽ làm cho họ mạnh hơn, chứ không phải yếu đi, đồng thời tiềm năng của mối quan hệ đối tác cũng sẽ phát triển”.

Việc Hoa Kỳ cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nằm trong lệnh cấm vận vũ khí năm 1984 của Washington.