Đọc cuối tuần – Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên

Đỗ Lai Thúy
Chẳng quan mà quý, chẳng phú mà hào, giữa trời Nam gió thổi tung mây, gan óc dễ đâu vùi chín suối;

Có lưỡi như cồng, có bút như thép, trong làng báo mở cờ khua trống, văn chương âu cũng đủ nghìn thu.

(Câu đối viếng của TUẦN BÁO ĐÔNG TÂY)

Bạn tôi nói, làm một người Việt Nam mới bây giờ đã khó thì làm một người Nam mới (Tân Nam tử) như Nguyễn Văn Vĩnh hồi đầu thế kỷ XX hẳn khó hơn nhiều. Đúng vậy. Vào những năm đầu thế kỷ trước, Việt Nam chủ yếu vẫn là một xã hội quân chủ nông nghiệp Nho giáo. Người Việt Nam, kể cả tầng lớp có học bấy giờ, vẫn phải sống thân phận thần dân nhiều trói buộc. Đâu có được như ngày nay: đất nước thì đổi mới và mở cửa; thế giới thì ngày một trở nên phẳng; con người thì đang dần là công dân trái đất! (1). Nhưng, có lẽ, thời ấy bộ phận trí thức hình như có quyết tâm đổi mới xã hội cao lắm thì phải. Và, một điều nữa cũng quan trọng không kém: họ là những cá nhân có tài năng.

Nguyễn Văn Vĩnh

Nguyễn Văn Vĩnh (sinh 15-6-1882) là một con người có tài năng. Ông không xuất thân từ một gia đình thế gia vọng tộc nào cả. Bố mẹ chỉ là những nông dân nghèo ở làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín (nay là Phú Xuyên, Hà Tây), một vùng chiêm trũng nghèo đói phải bỏ quê ra Hà Nội kiếm ăn. Vì thế, từ nhỏ Nguyễn Văn Vĩnh đã phải làm nghề kéo quạt thuê ở trường Thông Ngôn (College des Interprètes). Vừa làm vừa học lỏm cũng đủ cho ông giỏi hơn cả học viên là những nho sinh nhất thế, quay sang học tiếng Tây. Ông hiệu trưởng thấy vậy cho Nguyễn Văn Vĩnh vào học đặc cách. Và ông đã đỗ đầu khóa thông ngôn 1893 – 1895 khi mới có 14 tuổi. Sau đó, ông lần lượt làm thư ký ở các tòa công sứ Lào Cai, Kiến An, Bắc Ninh và cuối cùng là ở tòa Đốc lý Hà Nội. Sau khi được tham gia Hội chợ Triển lãm Thuộc địa ở Marseille về, Nguyễn Văn Vĩnh xin thôi cuộc đời công chức đang rất hanh thông của mình để làm một nhà báo tự do. Năm ấy, 1906, ông mới có 24 tuổi.

Thời ấy, người ta coi Nguyễn Văn Vĩnh như một thần đồng. Thế giới có nhiều thần đồng toán học và âm nhạc. Như Mozart chẳng hạn. Việt Nam cũng có thần đồng, nhưng chủ yếu là thần đồng học, mà lại là cái học ký ức, chủ yếu dựa vào trí nhớ. Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên chỉ vừa hết tuổi mụ. Riêng trường hợp Nguyễn Văn Vĩnh, tôi thích coi ông là người trưởng thành sớm. Bởi lẽ thần đồng chỉ là thần trong mỗi cái lĩnh vực trời cho, còn lại hết thảy đều vẫn rất trẻ con (đồng). Người trưởng thành sớm thì không vậy. Anh ta chín trong mọi lĩnh vực đời sống. Văn hào Nga Solokhov, Phạm Quỳnh người cùng thời với Nguyễn Văn Vĩnh và Hà Văn Tấn, theo tôi, cũng là những người trưởng thành sớm. Có những thời bao cấp ta thành những đứa trẻ thì cũng có những thời thúc đẩy con người chín sớm (chứ không chín gượng, hoặc chín ép).

Bỏ cái nghề truyền thống của trí thức Việt Nam là làm quan hay viên chức để theo đuổi một nghề mới xuất hiện trong xã hội, nghề làm báo độc lập, là một quyết định chín. Hẳn trong chuyến Pháp du ấy, Nguyễn Văn Vĩnh đã nhận thức nhiều điều. Trước hết, sự phát triển kinh tế, sự rực rỡ của văn chương nghệ thuật, lòng ham mê bình đẳng, dân chủ và tinh thần duy lí, thực nghiệm. Trong đó, có nghề báo.

Xã hội Việt Nam cổ truyền là một xã hội nghèo thông tin. Một phần vì không có các phương tiện như báo chí, xuất bản, phần khác do sự phân cấp. Quyền được biết nhiều hay ít tùy thuộc vào việc người đó nắm giữ vị trí cao hay thấp trong thang bậc xã hội. Rồi việc người dân đa số mù chữ, rồi việc sử dụng chữ Hán (tử ngữ của nước ngoài) và sau này là chữ Pháp là ngôn ngữ chính thức lại càng tô đậm thêm bức tranh thông tin tối màu này. Bởi vậy, để canh tân xã hội phải phá vỡ sự tắc nghẽn thông tin nói trên thì mới khai thông được dân trí. Mà khai thông dân trí (kể cả quan trí nữa) thì không gì cấp thiết hơn là phổ biến chữ quốc ngữ. Và để phổ biến chữ quốc ngữ thì không gì hiệu quả hơn là làm báo. Làm báo với Nguyễn Văn Vĩnh, vừa để phát triển chữ quốc ngữ, quốc văn vừa thúc đẩy tư tưởng canh tân đất nước. Ba trong một là thế. Vì thế Nguyến Văn Vĩnh mới nói: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ”. Câu nói giản dị này không được người ta nhớ đến nhiều như một câu nói khác, ấn tượng hơn của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”. Hóa ra, những gì quá đúng, quá hiển nhiên thì dễ trượt khỏi đầu óc trơn tru của chúng ta.

Nhưng sự nghiệp báo chí của Nguyễn Văn Vĩnh thì không dễ trượt đi như vậy. Sau khi đã là một trong những viên chức đầu tiên trong bộ máy hành chính Pháp thì Nguyễn Văn Vĩnh lại là một trong số ít nhà báo đầu tiên của bộ máy hành chính này. Năm 1907, ông làm chủ bút tờ Đăng cổ tùng báo lấy biệt hiệu là Tân Nam tử, đứng hẳn về phe cái mới. Sau đó là các tờ Notre Journal, 1908; Notre Revue, 1909; rồi Lục tỉnh tân văn ở Nam kỳ, 1909; Đông Dương tạp chí, 1913- 1916. Năm 1915, ông làm thêm ở tờ Nam học niên khóa, sau đổi là Học báo. Năm 1931, Nguyễn Văn Vĩnh sáng lập tờ L`Annam Nuoveau, tờ báo định mệnh dẫn đến cái chết của ông.

Mặc dù vào làng báo rất sớm, Nguyễn Văn Vĩnh chỉ thực sự ra khỏi bóng tối của người giúp việc để trở thành một nhà báo đàn anh, một ngự sự văn đàn, khi ông làm Đông Dương tạp chí. Đây là một diễn đàn quy tụ được những cây bút tinh hoa của thời đại bấy giờ. Dù họ là cựu học như Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, hay tân học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn. Từ đây, quốc văn Việt Nam không còn chỉ dựa vào tư tưởng tam giáo, trình bày những đề tài đạo đức hay tình cảm mông lung giữa trời trên đất dưới. Những bài báo trên Đông Dương tạp chí đều xuất phát từ nhu cầu trình bày, phân tích giải đáp các vấn đề thời cuộc. Đó là sự phê phán các học thuyết giường mối xưa, các lâu đài văn hóa cũ và truyền bá các tư tưởng Ánh sáng của phương Tây hoặc trực tiếp từ Pháp hoặc qua bộ lọc Tân thư Trung Hoa. Có thể nói, Đông Dương tạp chí đã kế thừa và phát huy thái độ này của Phong trào Duy tân trước đó. Với việc áp dụng các lối viết có lý luận, cả tư duy lẫn cú pháp, các lối viết xưa đã bị đẩy lùi. Trên cở sở đó, nền văn xuôi nảy nở và dần trở nên phồn thịnh.

So với Nam phong tạp chí, tờ báo sau đó của Phạm Quỳnh, thì Đông Dương tạp chí vẫn cấp tiến hơn. Có lẽ, đây là sự quá khích cần thiết buổi đầu để phá bỏ sức ỳ quán tính. Còn Nam phong, do kế thừa được thuận lợi mở đường ấy, đã trầm tĩnh, cân bằng và có điều kiện đi vào chiều sâu hơn. Điều ấy cũng có thể còn do cá tính của hai người chủ bút, mà vai trò của họ trong những thời điểm bấp bênh, nhạy cảm, con ruồi đỗ nặng đồng cân, là rất quan trọng. Nhưng hẳn vì thế mà Đông Dương tạp chí có vinh dự là một cột mốc. Và, Nguyễn Văn Vĩnh với tư cách là linh hồn của nó đã làm thay đổi một cục diện văn hóa và thúc đẩy nền quốc văn đi vào con đường mới.


Tranh “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ – Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” của họa sĩ Nguyễn Đình Đăng (sơn dầu trên vải, 65 x 80 cm, 2001).Một con đường khác để xây đắp nền quốc văn là dịch thuật. Trước hết dịch là để hoàn thiện tiếng Việt. “Đem diễn dịch những trang tuyệt bút của nền văn chương Pháp ra tiếng Nam thực là công việc cải tử hoàn sinh cho tiếng nước mình! Nhờ thế mà tiếng Nam sẽ thay đổi biến hóa rồi trở nên thuần thục, bắt chước được ở câu văn Pháp sự súc tích, sự minh bạch hữu lý” (2). Sau đó dịch là để giới thiệu những thể văn mới như tiểu thuyết, tiểu luận, thơ và những tư tưởng tiến bộ của phương Tây. Vì chưa thể tự sáng tác ra nền văn chương mới được, nên lúc này dịch chính là một sự chuẩn bị, một xây nền đắp móng. Bởi thế, các dịch giả không tùy tiện làm việc theo thích thú cá nhân hay để kiếm sống, mà có hẳn một kế hoạch, một chương trình, một triết lý hành động chung. Dịch từ chữ Hán ra quốc ngữ để giới thiệu vốn cổ của cha ông như Vũ trung tùy bút, Đại Nam liệt truyện… Dịch sách kinh điển của Tàu như Kinh thi, Tam quốc diễn nghĩa, Trung dung, Mạnh tử quốc văn giải thích… Dịch từ văn chương Pháp như vở kịch của Corneille, của Molière, thơ và tiểu thuyết của Hugo, triết luận của Pascal… Với các nền văn hóa đi sau nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, tôi nghĩ, hẳn bao giờ cũng có những giai đoạn mà dịch đóng một vai trò quan trọng hàng đầu. Hiện nay, hình như ta cũng đang ở một giai đoạn gần như thế. Bởi vậy chúng ta có thể học được ở giai đoạn này kinh nghiệm về một chiến lược dịch, học ở các dịch giả một tinh thần làm việc không biết mệt mỏi vì sự nghiệp chung. Mà trong các dịch giả đó, nổi bật là Nguyễn Văn Vĩnh.

Sự nghiệp dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh rất nhiều về số lượng và đa dạng về thể loại. Xin được kể ra đây một số công trình tiêu biểu: Dịch từ Pháp văn ra Việt văn: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Tuyện trẻ con của Perrault, Mai – nương Lệ – cốt (Manon Lescaut) của Abbé Prévost, Ba người ngự lâm pháo thủ của A. Dumas, Những kẻ khốn nạn của V. Hugo, Miếng da lừa của Balzac, Trưởng giả học làm sang, Người bệnh tưởng, Người biển lận… kịch của Molière, Truyện các danh nhân Hy Lạp và La Mã của Plutarque. Dịch từ Việt sang Pháp: Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Dịch từ Hán sang Pháp: Tiền Xích Bích Phú, Hậu Xích Bích Phú của Tô Đông Pha. Nhưng điều đáng nói hơn là chất lượng bản dịch. Người ta đọc thấy trong bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh một ngôn ngữ sáng sủa, sinh động, vừa trung thành với tinh thần của nguyên tác vừa Việt hóa đến mức có thể. Nhưng, có lẽ, đóng góp lớn nhất của ông là ở lối kịch sáng tạo. Không ít những kịch bản của ông đã mở đường cho sáng tác. Ví như khi dịch bài thơ Con Ve và con Kiến của La Fontaine thì bản đầu tiên in trên Đăng cổ tùng báo năm 1907 theo thể thơ lục bát cổ truyền. Năm 1914 ông dịch lại để đăng trên Đông Dương tạp chí thì theo đường vần Tây điệu Tây. Chính nhờ dám vượt thoát sức mạnh của truyền thống thể loại, bám sát thể thơ phương Tây mà ông đã trình làng văn một lối thơ khác của một văn hóa khác. Thế là bài thơ Con ve và con Kiến đã khơi nguồn cho dòng Thơ Mới tuôn chảy sau này. Có thể nói, nếu chỉ xét về phương diện tổ chức ngôn ngữ, thì trước cả Tình già của Phan Khôi, Con Ve và con Kiến mới là bài Thơ Mới đầu tiên. Hoặc như những vở kịch của Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch cũng lần đầu tiên giới thiệu với khán/độc giả Việt Nam thể loại kịch nói khác hẳn với kịch truyền thống kịch hát (tuồng, chèo và sau đó là cải lương) của dân tộc. Rồi khi vở Trưởng giả học làm sang được trình diễn vào năm 1918 thì chính dịch giả đóng vai ông Juordain và con trai của ông thủ vai Cléonte. Như vậy, dịch và diễn kịch Tây, những việc làm này của Nguyễn Văn Vĩnh đã góp phần hình thành, thúc đẩy việc ra đời thể loại kịch nói vào những năm 30, 40 sau đó.

Làm báo, nhất là chủ báo, và dịch sách, để có thể sống được nhất thiết phải biết kinh doanh. Bởi thế Nguyễn Văn Vĩnh đã phải lập nhà in vừa in báo mình, sách mình vừa kiếm sống. Ông trở thành một nhà buôn. Đây cũng là một nhân vật phi truyền thống trong xã hội Việt Nam và cũng chỉ vừa được đánh giá một cách đúng đắn từ phong trào Duy tân. Buôn bán không chỉ làm giàu cho bản thân, cho đất nước, phá vỡ những quan niệm Nho giáo và tiểu nông cổ truyền chật hẹp, mà còn, nhất là với Nguyễn Văn Vĩnh, bảo vệ được sự độc lập của nghề báo, nhất là độc lập về chính trị. Và Nguyễn Văn Vĩnh là người kiên quyết làm điều đó. Vào đầu năm 1936, khi việc làm ăn bị thua lỗ, bọn “tài chính thuộc địa” ép Nguyễn Văn Vĩnh hoặc phải hợp tác với chúng hoặc phải từ bỏ tờ L`Annam Nuoveau, thì ông đã khước từ cả hai sự ép buộc đó. Để có tiền cứu lấy tờ báo và giữ được độc lập của mình, ông đã lặn lội sang Lào tìm vàng, một nghề chưa hề được chuẩn bị, nên sau khi chỉ gửi về được một vài bài phóng sự, ông đã nhiễm bệnh và chết trên một chiếc thuyền độc mộc bên dòng sông Sêpôn ngày 2–5–1936.

Nguyễn Văn Vĩnh còn là một nhà hoạt động xã hội. Một nhà báo, một ông chủ báo thi đương nhiên là một nhà hoạt động xã hội rồi, nhưng hoạt động của Nguyễn Văn Vĩnh thực ra còn rộng hơn. Ông đã sớm tham gia Đông Kinh nghĩa thục cùng với các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền với tư cách là thành viên sáng lập, người viết đơn mở trường và trực tiếp dạy Việt văn và chữ quốc ngữ. Ông cũng là thành viên sáng lập Hội Trí Tri, giữ chân diễn thuyết và cùng các ông Phạm Duy Tốn, Trần Văn Hùng mỗi người dạy một lớp. Ngoài ra Nguyễn Văn Vĩnh còn là người sáng lập Hội Dịch sách có đến 300 hội viên, rồi tham gia Hội Nhân Quyền Pháp, Hội giúp những du học sinh Việt Nam… Từ những hoạt động này, có thể nói lý thuyết “thực trị” (ngược với lý thuyết “bảo hộ” của Phạm Quỳnh) là sự đẩy lên một cách quá mức và có phần ngây thơ những tư tưởng duy tân, tư tưởng Phan Chu Trinh, của một nhà báo muốn cải cách xã hội, một dịch giả nhiệt thành muốn làm cầu nối cho hai nền văn chương Pháp – Nam, hai nền văn hóa Đông – Tây.

Không chỉ đi tiên phong trong tư tưởng, nghề nghiệp, hoạt động, Nguyễn Văn Vĩnh còn đi đầu trong cả lối sống, phong cách sống. Trong khi đa số những người có học vẫn khăn đóng áo dài, thậm chí vẫn còn để cả móng tay và búi tó…, trong khi Phạm Quỳnh, cũng một người Tây học, vẫn còn mặc “quốc phục”, ăn nói nhỏ nhẹ, thâm trầm, đi lại bằng xe kéo, thì Nguyễn Văn Vĩnh, ngược lại, luôn vận Âu phục, đội mũ cát, tóc húi cua, đi giày da, lái xe mô tô hiệu Terrot mang từ Pháp về, ăn to nói lớn. Không phải ngẫu nhiên mà thế hệ sau, như trên báo Phong hóa, khi chế diễu cặp bài trùng này (có lẽ vì uy tín của họ còn quá lớn) thì thường châm chích lối sống cổ hủ của ông chủ bút Nam phong. Viết đến đây, tôi bỗng nhớ lại có một lần ngồi với bác sỹ Nguyễn Khắc Viện, tổng biên tập tạp chí Etudes Vietnamienses, nghe ông than phiền rằng tác phong của các lãnh đạo bây giờ không phù hợp với tư tưởng cách mạng của họ. Ví như, bí thư đoàn Vũ Quang không nên đến gặp thanh niên bằng xe Von – ga mà nên sơ mi, quần soóc đi mô tô đến. Tôi cười bảo “thủ trưởng” quá lãng mạn nên không nhìn thấy hiện thực bấy giờ đang có phong trào chặn đường cắt những ai để tóc dài và mặc quần loe. Vả lại, theo thuyết chính danh của cụ Khổng nhà ta thì quan, dù là quan thanh liêm, vẫn phải ra dáng quan chứ!

Như vậy, với bút hiệu Tân Nam tử, Nguyễn Văn Vĩnh muốn xây dựng cho mình và sau đó cho xã hội một Người Nam mới trước hết với tư tưởng mới, nghề nghiệp mới, lối sống mới. Và, đóng góp của ông, quan trọng trong lĩnh vực này là hình ảnh một trí thức độc lập. Nếu Việt Nam cổ truyền chỉ có trí thức –quan lại, trí thức – công chức, thì xã hội hiện đại rất cần một tầng lớp tri thức độc lập. Và với nghĩa đó, thì đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh là rất quan trọng, bởi ông là một người Nam mới đầu tiên.

________________

[1] Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, những dị biệt, nhất là dị biệt kinh tế – xã hội, dần đã mất đi. Vì thế, thế giới trở nên phẳng. Trong hoàn cảnh đó thì đã dần dần hình thành khái niệm công dân hành tinh, công dân trái đất. Xin xem thêm: Thomas L.Friendman Chiếc Luxus và cây Ô liu, Nxb KHXH, 2005; và E. Morin, Trái đất tổ quốc chung, Tuyên ngôn cho thiên niên kỷ mới, Nxb KHXH, Hà Nội, 2002.

[2] Phạm Quỳnh, La Poésie Annamit, Hanoi, 1993, Avant – Propos

Đỗ Lai Thúy

Nguồn: Tạp chí Tia sáng

Sự khác biệt giữa gái Sài Gòn và Hà Nội

 

thuan0101148-32e62“Gái Sài Gòn thích trai dễ thương. Gái Hà Nội thích trai đẹp.”

1. Con gái Sài Gòn thích ăn me. Con gái Hà Nội thích ăn sấu. Tuy nhiên, gái Sài Gòn thích me chín, còn gái Hà Nội mê sấu xanh.

2. Gái Sài Gòn thích trai dễ thương. Gái Hà Nội thích trai đẹp.

3. Gái Sài Gòn chia tay bạn trai thì khóc. Gái Hà Nội chia tay bạn trai thì cười.

4. Gái Hà Nội thích đàn ông to. Gái Sài Gòn thích đàn ông cao.

5. Ai chửi gái Hà Nội sẽ bị chửi lại. Ai chửi gái Sài Gòn sẽ bị tránh xa.

6. Gái Sài Gòn lôi bạn đi ăn tiệm, gái Hà Nội lôi bạn về nhà nấu cơm.

7. Gái Hà Nội thích mua xe hơi. Gái Sài Gòn thích ngồi xe hơi.

8. Gái Hà Nội thích trai thông minh. Gái Sài Gòn thích trai hài hước.

9. Gái Hà Nội hay xem ti vi. Gái Sài Gòn hay đọc báo mạng.

10. Gái Sài Gòn ít đi chợ Bến Thành. Gái Hà Nội rất hay ra Hồ Gươm.

11. Lấy phải chồng xấu, gái Sài Gòn ly thân, gái Hà Nội ly dị.

12. Gái Sài Gòn ngồi trong tiệm gội đầu để tán chuyện. Gái Hà Nội ngồi trong đó để gội đầu.

13. Gái Hà Nội xài nước hoa theo nhãn hiệu. Gái Sài Gòn xài theo mùi thơm.

14. Gái Sài Gòn sợ nhất không có bạn trai. Gái Hà Nội sợ nhất thiên hạ biết mặt bạn trai của mình.

15. Khi đánh nhau, gái Sài Gòn dùng chân tay, gái Hà Nội dùng guốc dép.

16. Đi dự tiệc cưới, gái Sài Gòn nhìn bản thân mình, gái Hà Nội nhìn cô dâu chú rể.

17. Gái Hà Nội ăn quà chỗ nào đông. Gái Sài Gòn ăn quà chỗ nào ngon.

18. Gái Hà Nội ăn xong xỉa răng. Gái Sài Gòn ăn xong uống cà phê.

19. Gái Sài Gòn mặc đồ bộ ra đường. Gái Hà Nội mặc váy đầm trong nhà.

20. Gái Hà Nội thích chồng chức to. Gái Sài Gòn thích chồng lương to.

21. Gái Sài Gòn đi chùa vì vui. Gái Hà Nội đi chùa vì tin.

22. Gái Hà Nội thích Tuấn Hưng. Gái Sài Gòn thích Đàm Vĩnh Hưng.

23. Gái Hà Nội thích ăn kem que. Gái Sài Gòn thích ăn kem ly.

24. Gái Hà Nội thích bún ốc, gái Sài Gòn thích bún bò.

25. Gái Sài Gòn có thể yêu một lúc nhiều người. Gái Hà Nội có thể yêu nhiều người nhưng liên tiếp.

26. Gái Hà Nội có thể tự xưng là “bà”. Gái Sài Gòn không bao giờ như thế.

27. Gái Hà Nội hay làm thơ. Gái Sài Gòn hay chụp hình.

28. Gặp kẻ cướp, gái Sài Gòn la lớn, gái Hà Nội đuổi theo.

29. Ngày Tết gái Hà Nội nấu canh măng, gái Sài Gòn nấu cà ri.

30. Gái Hà Nội khi ăn phải có nước mắm. Gái Sài Gòn khi ăn phải có nước tương.

31. Gặp con trai, gái Hà Nội hỏi bằng cấp, gái Sài Gòn hỏi gia cảnh.

32. Gái Hà Nội hay khoe chồng con. Gái Sài Gòn hay khoe bè bạn.

33. Gái Sài Gòn chụp hình áo tắm trên bãi biển. Gái Hà Nội chụp hình áo tắm ở bể bơi.

34. Gái Hà Nội thích lúc già sẽ giàu. Gái Sài Gòn thích lúc già sẽ trẻ lại.

35. Khi chồng có bồ, gái Sài Gòn đánh bồ, còn gái Hà Nội đánh cả chồng lẫn bồ.

36. Khi chồng về khuya, gái Hà Nội quát “Sao anh không đi luôn đi?” còn gái Sài Gòn nói “Bây giờ mới về à?”.

37. Khi lấy chồng ngoại quốc, gái Hà Nội thích lấy chồng châu Âu, gái Sài Gòn thích lấy chồng châu Á.

38. Thấy người nổi tiếng, gái Hà Nội bĩu môi, còn gái Sài Gòn chạy tới chụp hình.

39. Gái Hà Nội bôi kem dưỡng da. Gái Sài Gòn bôi kem chống nắng.

40. Đọc bài này, gái Sài Gòn quên ngay. Còn gái Hà Nội sẽ nhớ đến già!

Dư luận xung quanh việc Bộ Thông Tin Truyền Thông phạt và đình bản báo Trí Thức Trẻ

Dân Luận tổng hợp

Dân Luận: Xoay quanh việc tờ báo Trí Thức Trẻ bị Bộ Thông Tin Truyền Thông phạt 207 triệu đồng và bắt đình bản 03 tháng sau khi đăng bài xúc phạm người phụ nữ miền Tây, dư luận đã tỏ ra đồng tình với việc xử phạt này.

Tuy nhiên, nhiều blogger, nhà báo và luật gia đặt câu hỏi về tính hợp lý và hợp pháp của quyết định xử phạt. Nếu trong một nền dân chủ pháp trị thì sự việc này sẽ được xử lý ra sao, Dân Luận xin tổng hợp một số ý kiến quan trọng để độc giả tham khảo:

Trương Nhân Tuấn: Tờ báo bị phạt 207 triệu đồng và đình bản ba tháng. Theo báo chí thì các yếu tố đưa đến việc xử phạt là: viết báo không ký tên (hoặc bút danh), đăng hình người khác mà chưa được sự đồng ý (của người này) và « đăng thông tin gây mất đoàn kết dân tộc ».

Các yếu tố đưa đến vệc xử phạt có thể bị xem là « vi phạm pháp luật » hay không thì còn bàn cãi. Cũng như việc xử phạt có thuộc về các cơ quan thông tin (của nhà nước) hay không cũng cần phải bàn cãi. Nhưng đây không hề là « một phán quyết thuần túy về đạo đức của nhà nước », như có người đã nói vậy.

Theo tôi có một số điều cần thảo luận.

Việc xử phạt trong trường hợp này có thuộc thẩm quyền của ông thứ trưởng bộ TT&TT?

Trên căn bản một nhà nước pháp quyền (thực ra phải gọi là nhà nước pháp trị), mọi hành vi vi phạm luật lệ phải do các cơ quan phụ trách về « tư pháp », (tức thuộc về tòa án, công tố viện…) đảm nhiệm.

Ở đây ông thứ trưởng có thể « khiển trách » nhân sự của tờ báo, nhất là chủ nhiệm của tờ báo, theo qui định của luật pháp dành cho bộ TT&TT hoặc theo « nội qui » của báo giới.

Nhưng không thể nói tác giả bài báo là « phạm tội ». Phạm tội hay không là do phán quyết của tòa án.

Các yếu tố đưa đến việc xử phạt có thể bị xem là « vi phạm pháp luật » hay không? Theo tôi, các hành vi ghi trên đều vi phạm với luật lệ VN (và pháp luật ở một số nước tiêu biểu khác).

Người ta không thể viết báo thế nào cũng được. Xã hội có những qui định về quyền tự do cá nhân, về an ninh v.v… Người ta không thể nhân danh « tự do ngôn luận » rồi bịt mặt nặc danh, xúi giục bạo loạn hay dựng chuyện xâm phạm đời tư cá nhân, phỉ báng danh dự cá nhân được… Xâm phạm đời tư cá nhân là phạm luật (cũng như việc xúi giục bạo loạn).

Bài báo ở đây đã xâm phạm đời tư của cá nhân, qua việc tác giả phỉ báng (phụ nữ miền Nam): « ngu ». Nạn nhân có thể đứng đơn kiện về điều phỉ báng này, cũng như việc sử dụng hình ảnh không xin phép. Nếu nạn nhân không đứng kiện, công tố viện có thể làm việc này để pháp lý được thực thi và trật tự xã hội được bảo vệ.

Qui ước làm báo từ xưa đến nay, người chủ nhiệm tờ báo phải biết cá nhân người viết là ai, cũng như người chủ nhiệm phải chia sẻ trách nhiệm của tác giả bài viết. (Cũng thật phiền khi một số các web site trên internet, một vài trường hợp đã mở diễn đàn lập lại hình thức « toà án nhân dân » để phỉ báng cá nhân người khác (vắng mặt). Đây là một hình thức vi phạm pháp luật (ở bất kỳ nước dân chủ nào), người chủ diễn đàn có thể chịu trách nhiệm liên đới).

Ở các xứ Tâu Âu, hình luật qui định một số phạm trù tội phạm về « kỳ thị », có thể đến 5 năm tù giam và phạt đến 25.000 đô la, cho những người có hành vi kích thích (xúi giục) kỳ thị hay có hành động kỳ thị.

Bài báo rõ ràng đã xúc phạm (nặng nề đến phẩm giá) phụ nữ miền Nam. Đây là hành vi « kỳ thị », nếu không nói là « miệt thị ».

Riêng hình luật VN có qui định tội « gây chia rẽ dân tộc ». Điều luật này « bao la » quá, không xác định được tội phạm là thế nào.

Những tranh đấu của dân Khmer về lãnh thổ, dân Hmong, Thuợng… về tôn giáo, dân Chăm về văn hóa… đều có thể đưa đến việc « chia rẻ dân tộc » mà nguyên nhân của nó lại do chính trị hà khắc của nhà cầm quyền VN. Tất cả các phạm trù « văn hóa », « tôn giáo »… đều thuộc về phạm vi « nhân quyền ». Trong chừng mực, chính nhà nước VN, vì đã không tôn trọng các công ước quốc tế đã ký kết, do đó đưa đến việc « đối đầu » giữa nhà nước và các dân tộc này. Tác nhân việc gây « chia rẻ dân tộc » là nhà nước VN.

Tính chính danh của nhà nước VN vì vậy cũng bị ảnh hưởng.

* * *Luật gia Trịnh Hữu Long: Quyết định đình bản và xử phạt 207 triệu đồng với báo Tri Thức Trẻ vì đăng bài “3N” làm hài lòng nhiều người vì có vẻ đa số đều lên án bài báo. Nhưng suy cho cùng thì nó vẫn là một hành vi kiểm duyệt và là biểu hiện sinh động cho một nền báo chí bị nhà nước thao túng.

Về cơ bản, tòa soạn này có quyền đăng bất cứ cái gì nó muốn, kể cả đăng bài chửi một lãnh đạo nào đó là “3N”. Vấn đề phán xét bài báo có đạo đức hay không là việc của xã hội chứ không phải của nhà nước. Nếu muốn, người ta có nhiều cách để trừng phạt và ngăn chặn những hành vi tương tự thông qua việc tẩy chay tờ báo với tư cách là người tiêu dùng hoặc thông qua việc khởi kiện dân sự, trong đó người khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh sự liên quan giữa bài báo và thiệt hại của bản thân.

Việc nhà nước đưa ra một phán quyết thuần túy về đạo đức vô hình chung áp đặt cho toàn xã hội một tiêu chuẩn đạo đức duy nhất và phá vỡ tính đa nguyên của xã hội, chẳng khác nào các quốc gia hồi giáo xử tử hình phụ nữ ngoại tình.

Nếu như xã hội hài lòng với quyết định xử phạt của Thanh tra Bộ Thông tin – Truyền thông thì điều đó cho thấy tâm lý xã hội chưa sẵn sàng cho một xã hội dân sự và xã hội vẫn muốn phó thác cho nhà nước những công việc đúng ra là của mình. Đó là mảnh đất tương đối màu mỡ cho các nhà độc tài.

* * *Nhà báo Trương Huy San (Osin): Nhiều người hoan nghênh Bộ Thông tin Truyền thông khi Bộ đình bản và xử phạt tờ Trí Thức Trẻ rất nặng. Sự thô bỉ của bài viết “Gái Miền Tây và 3 Chữ N” rõ ràng cần được xử lý. Đấy không phải là một sai phạm báo chí mà là sự xúc phạm danh dự và nhân phẩm hàng loạt phụ nữ. Tuy nhiên, số phận của một tờ báo mà được định đoạt đơn giản chỉ bằng một quyết định hành chánh thì rõ ràng quy trình đi tìm công lý của chúng ta đang có vấn đề.

Hôm qua, một nhà báo có mẹ, vợ là phụ nữ miền Tây – anh Binh Nguyên – tuyên bố nếu không gỡ bài báo thì anh sẽ kiện. Tôi thì cho rằng trong trường hợp “hành vi phạm tội đã hoàn thành” như bài báo “3 N”, ngay cả sau khi gỡ bỏ, tờ báo này cũng cần bị kiện.

Không chỉ có những phụ nữ thông minh, quả cảm của miền Tây mà những người như anh Binh Nguyên và chúng ta đều cảm thấy có “nghĩa vụ và quyền lợi liên quan” để khởi động một vụ kiện, có thể với tội danh “xúc phạm danh dự và nhân phẩm của người khác”, với “tình tiết tăng nặng” là có nạn nhân hàng loạt. Bên khởi kiện còn có thể là Hội phụ nữ các tỉnh miền Tây nếu Hội cho rằng mình cũng là tổ chức của các phụ nữ.

Quy trình tố tụng, với sự quan tâm của các phương tiện truyền thông, không chỉ tiến tới một hình phạt mà còn có ý nghĩa giáo dục. Công luận cũng qua đó mà phân biệt được giữa báo chí và lá cải; giữa những người làm báo có trách nhiệm xã hội và những kẻ làm tiền bất chấp phẩm giá.

Đây không chỉ là sự trừng phạt mà còn là công lý, cho cả những người làm công ăn lương trong tờ báo này. Nếu cứ nhân danh sự phản ứng của “công luận” để chấm dứt số phận của một tờ báo bằng một quyết định hành chánh thì rủi ro sẽ rất cao cho báo chí tử tế chứ không phải là cho “lá cải”.

Năm 2009 tờ Du Lịch cũng đã bị đình bản 3 tháng sau khi đăng cụm bài viết về chủ quyền biển đảo của nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, về phong trào biểu tình yêu nước và bài thơ về Ải Nam Quan của Nguyễn Trãi. Liệu chúng ta có thể cảm nhận được công lý khi Bộ Thông tin và Truyền thông đã đặt những bài báo nói về lòng yêu nước “ngang hàng” với một bài viết thô bỉ xúc phạm phụ nữ miền Tây.

* * *Nhà báo Đỗ Hùng (Mít Tờ Đỗ): Bài viết “Gái miền Tây và 3 chữ ‘N’ nổi danh thiên hạ” trên báo Trí Thức Trẻ đã gây nên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng trên mạng (nơi mà tôi có thể kiểm chứng được). Bài viết đại ý nói rằng gái miền Tây Nam Bộ “Ngon”, “Ngoan” và “Ngu” với đầy đủ ý nghĩa bỡn cợt, kỳ thị và tào lao của nó.

Bài viết khiến nhiều người giận dữ là điều dễ hiểu, tương tự như việc tờ báo Mỹ New York Post đăng tranh biếm ví ông Obama với con khỉ đột khiến nhiều người giận dữ, hay vụ báo chí vẻ tranh biếm đấng tiên tri Muhammad của đạo Hồi khiến dân trùm khăn vùng lên.

Đối với bài báo ở Việt Nam, bằng nhiều cách, cả những cú điện thoại thông qua quan hệ cá nhân lẫn những cú tag trên thế giới ảo, người ta đã kêu gọi chính quyền và công an vào cuộc xử lý tờ báo.

Rất nhanh, một quyết định hành chính được đưa ra: tờ báo bị đóng cửa kèm theo khoản phạt hơn 200 triệu đồng.

Nhiều người coi đây là một thắng lợi trong cuộc chiến dẹp báo lá cải, đặc biệt là tờ-báo-ba-trợn đăng bài miệt thị phụ nữ, kì thị vùng miền.

Tờ báo kia chết thì mình thấy cũng đáng nhưng cái cách mà người ta khiến nó chết làm mình băn khoăn, băn khoăn, băn khoăn.

Nhớ lại ngày 30.9.2005, báo Jyllands-Posten đăng tải tranh biếm họa đấng tiên tri Muhammad của đạo Hồi. Hành động này đã khiến dân Hồi giáo nổi giận, thậm chí bạo động nổ ra ở nhiều nơi.

Các quốc gia Hồi giáo thì gia tăng sức ép ngoại giao để chính phủ Đan Mạch xử lý tờ báo nọ. Đại sứ quán 11 nước Hồi giáo gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia, Iran, Pakistan, Ai Cập, Indonesia, Algeria, Bosnia & Herzegovina, Libya và Ma Rốc, sau khi nhận được thỉnh nguyện thư của các giáo sĩ đạo Hồi, đã gửi công thư tới chính phủ Đan Mạch, trong đó viết: “Chúng tôi phản đối những phát biểu và những bài báo đó, và chúng tôi kêu gọi chính phủ của quý ngài đưa tất cả những người chịu trách nhiệm ra trước pháp luật của quý quốc, vì lợi ích của một xã hội hài hòa và sự hội nhập bên trong cũng như các mối quan hệ toàn diện của Đan Mạch với thế giới Hồi giáo”.

Đại sứ 11 nước cũng đề nghị gặp Thủ tướng Anders Fogh Rasmussen.

Chính phủ Đan Mạch sau đó đã trả lời bằng một công thư, trong đó không đề cập tới vấn đề gặp mặt.

Công thư có đoạn: “Quyền tự do ngôn luận có một phạm vi rộng lớn và chính phủ Đan Mạch không thể gây tác động lên báo chí. Tuy nhiên, luật pháp Đan Mạch cấm hành động hoặc phát ngôn mang tính phỉ báng hoặc kì thị. Bên bị ảnh hưởng có thể đưa những hành vi hoặc phát ngôn đó ra trước tòa, và tòa có thẩm quyền để đưa ra phán quyết theo từng vụ việc”.