Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam

Kính Hòa – Phóng viên RFA

Nhật báo Người Việt sẽ xuất bản quyển sách tư liệu mang tựa đề Đèn Cù của nhà văn, nhà báo Trần Đĩnh vào cuối tháng 8 này

 Điều mong mỏi nhất của người đọc khi cầm lên quyển sách tư liệu dày 600 trang của Trần Đĩnh có lẽ sẽ là những tiết lộ về những toan tính, những âm mưu chính trị bên trong đảng cộng sản Việt nam trong gần 70 năm qua từ khi đảng này bước lên thống lĩnh đời sống chính trị Việt nam. Mong mỏi đó ở người đọc không phải là điều gây ngạc nhiên vì chính nhân thân của tác giả, người làm việc nhiều năm tại cơ quan tuyên truyền của đảng là báo Nhân dân, và hơn thế nữa ông là người có cơ hội tiếp cận những nhân vật lớn của đảng như Hồ Chí Minh, Trường Chinh,…

600 trang sách dẫn độc giả đi từ những âm mưu nhỏ giành giật quyền lực ở cơ quan cho đến âm mưu mang tính toàn cầu, mà trong đó tác giả cũng phải mất nhiều thời gian để nhận ra. Và điều đáng buồn hơn hết chính là những âm mưu đó đã đưa đến cuộc chiến Việt nam tương tàn hơn hai mươi năm mà hệ lụy cho đến ngày nay dường như chưa chấm dứt.

Đó là chuyện ông vua không ngai Lê Đức Thọ, người chỉ giữ chức vụ khiêm tốn trưởng ban tổ chức trung ương, nhưng nắm trong tay quyền sinh quyền sát trên không những sinh mạng chính trị mà cả sinh mạng vật lý của hàng triệu đảng viên ĐCSVN và những người dân Việt Nam

Những lời đồn đoán về nền chính trị bí ẩn của đảng cộng sản Việt nam được tác giả xác nhận một cách rõ ràng, hoặc bởi chính mắt mình trông thấy, hoặc bởi những người trong cuộc kể lại.

Giải Thánh

Đó là chuyện ông vua không ngai Lê Đức Thọ, người chỉ giữ chức vụ khiêm tốn trưởng ban tổ chức trung ương, nhưng nắm trong tay quyền sinh quyền sát trên không những sinh mạng chính trị mà cả sinh mạng vật lý của hàng triệu đảng viên đảng cộng sản Việt nam và những người dân Việt nam.

Lê Đức Thọ,tên thật là: Phan Đình Khải sinh ngày 10/10/1911,mất 13/10/1990

Đó là chuyện các anh hùng của cuộc chiến tranh cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, thực chất đã không còn quyền lực gì từ những năm 60 của thế kỷ trước, mặc dù họ đã được đảng phong thánh.

Tác giả Trần Đĩnh đã giải thánh những anh hùng đó, giải thánh bằng những sự thật về cuộc sống bình thường của họ, mà tác giả mô tả một cách trần trụi nhất.

Hồ Chí Minh hóa ra không phải là một nhà cách mạng khắc kỷ bỏ hết mọi thứ riêng tư để hiến thân cho cách mạng và cho dân tộc. Qua lời kể của họa sĩ Phan Kế An, ông cũng có những đòi hỏi xác thịt bình thường nhất.

Hữu Thọ người đôi khi được báo chí chính thống hiện nay mô tả như một nhà báo đầy đạo dức và trách nhiệm nghề nghiệp, hóa ra là một kẻ bon chen, nhỏ nhen, làm tất cả để tiến thân trên những tầng nấc quyền lực của đảng.

Lê Duẩn, Tổng bí thư có quyền lực tuyệt đối của đảng cho đến chết, lại có những ý nghĩ rất ngộ nghĩnh về kinh tế quốc gia khi tuyên bố rằng cứ in tiền thoải mái vì nền kinh tế cộng sản của ông không hề có lạm phát. Cũng chính vị Tổng bí thư có vẻ bề ngoài điềm đạm ấy lại dùng vũ lực xốc cổ áo nhà triết học Trần Đức Thảo khi ông này nói rằng ông không hiểu những điều Tổng bí thư nói.

Qua việc giải thánh các nhân vật cách mạng, cuộc cách mạng cộng sản đã được giải thiêng, nó đơn giản trở thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực của một nhóm người. Và cuộc đấu tranh quyền lực đó lại bị chi phối bởi một điều lạ lùng mang tên gọi Ý thức hệ.

Tác giả nói với chúng tôi về Ý thức hệ đó:

Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái ranh giới của ý thức hệ đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không?

Đó là chuyện các anh hùng của cuộc chiến tranh cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, thực chất đã không còn quyền lực gì từ những năm 60 của thế kỷ trước, mặc dù họ đã được đảng phong thánh.

Âm mưu lớn đằng sau cuộc chiến tranh Việt nam

Chính Ý thức hệ này đã tạo nên một âm mưu lớn hơn mang tầm vóc toàn cầu, của những đồng chí phương Bắc của đảng cộng sản Việt nam, đó là nước Trung hoa cộng sản. Đây dường như là lần đầu tiên, một người trong lòng hệ thống là Trần Đĩnh xác định rõ rằng chính Trung Quốc đã đứng đằng sau lưng đảng cộng sản Việt Nam để khuấy động cuộc chiến tranh Việt Nam, mà tác giả không ngần ngại gọi nó là một cuộc nội chiến. Theo tác giả thì Trung quốc đã khuấy động chiến tranh bằng máu người Việt nam để đưa Trung Quốc ra đấu trường tranh giành quyền lợi của thế giới.

Phân tích của tác giả cho thấy rằng đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập chưa bao giờ độc lập như họ thường tuyên bố. Trong cuộc chiến Việt nam huynh đệ tương tàn, đảng cộng sản Việt nam phụ thuộc vào Trung quốc. Chính vì lý do đó đã xảy ra vụ án Xét lại chống đảng mà những người được coi là thân Liên Xô như tác giả bị tống giam, thẩm tra bằng những bảng án miệng của Đảng. Rồi sau đó để làm vừa lòng Liên Xô, các nhân vật được xem là thân Trung quốc, đến phiên mình, lại bị tống giam không án.

Liên quan đến vụ án xét lại này, Trần Đĩnh cũng làm rõ rằng chính Lê Duẩn là người tôn vinh Mao Trạch Đông là lãnh tụ vô sản thế giới trong những năm 60, chứ không phải như dư luận từng xì xào trước đây rằng Trường Chinh là người thân Trung quốc vì ông chịu trách nhiệm những chết chóc đẫm máu của cuộc cải cách ruộng đất mà Trung quốc đứng đằng sau lưng.

Ông Võ Nguyên Giáp và lãnh tụ Hồ chí Minh năm 1945

Và đến phiên mình, khi Trường Chinh đã mất quyền lực thì ông cũng đánh đu theo dòng chính thống thân Trung quốc.

Trong những tư tưởng thân bên này thân bên nọ ấy đương nhiên quyền lợi dân tộc Việt nam bị quên đi, từ những năm cuối thập niên 50 những người cộng sản Việt nam đã tin rằng Trung quốc sẽ giữ giùm quần đảo Hoàng Sa!

Kinh hoàng cải cách ruộng đất

Và cuối cùng, trong những sự thật trần trụi mà tác giả mô tả, là sự thật chết chóc của cải cách ruộng đất dưới vỏ bọc mỹ miều đấu tranh giai cấp. Nếu trong Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức, những thảm cảnh trên đường vượt biển tìm tự do của người Việt sau năm 1975 được mô tả rõ ràng như chì đen trên giấy trắng không kèm theo lời bình luận, thì thảm sát cải cách ruộng đất lại được Trần Đĩnh cất lên đầy thê lương như những câu hờ tang tóc trên đồng bằng Bắc bộ.

Trong những tư tưởng thân bên này thân bên nọ ấy đương nhiên quyền lợi dân tộc Việt nam bị quên đi, từ những năm cuối thập niên 50 những người cộng sản Việt nam đã tin rằng Trung quốc sẽ giữ giùm quần đảo Hoàng Sa!

Và ai là người chịu trách nhiệm về cuộc giết chóc hoang tàn mà chính đảng cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng đó là sai lầm? Cái nhìn cận cảnh của tác giả về Hồ Chí Minh, lãnh tụ lớn nhất của đảng lúc ấy, sau những cái chết của những địa chủ có công với cách mạng như bà Nguyễn Thị Năm, Cụ Cử Cáp,… làm cho người đọc nghĩ rằng những giọt nước mắt của Hồ Chí Minh mà nhiều người thấy qua hình ảnh từ trước đến nay không hoàn toàn là những giọt nước mắt.

Một đặc trưng cơ bản của chế độ cộng sản là tính toàn trị của nó. Nó muốn kiểm soát hết mọi thứ, kể cả suy nghĩ của người dân. Đèn Cù của Trần Đĩnh miêu tả những náo loạn tinh thần mà chủ nghĩa cộng sản đem lại cho một xã hội bình thường vì sự mong muốn toàn trị của nó.

Trong sự mong muốn toàn trị ấy, chủ nghĩa cộng sản bỏ qua cá nhân con người. Trần Đĩnh viết rằng định nghĩa về con người dưới chế độ cộng sản là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, và vì thế chính bản thân con người là không quan trọng nữa.

Trong xã hội mà đảng lãnh đạo nổi lên như một tổ chức siêu quyền lực. Mọi quan hệ giữa người và người với nhau như tình bạn cũng không quan trọng cái mà Trần Đĩnh gọi là tình đảng, vì tình đảng ấy cho những người cảm tình của nó đủ thứ, bảo vệ và che chắn cho những người có tình đảng ấy.

Theo tác giả, chủ nghĩa cộng sản đã lợi dụng hai góc tối tăm nhất của con người là nỗi sợ và lòng tham để thống trị họ. Ông lấy bản thân làm ví dụ. Ông biết rằng ông viết theo chỉ thị của ai đó, của đảng là một việc không nên làm, và khi đã lờ mờ nhận thấy thì cũng khó lòng bứt khỏi nó.

Và tôi bắt đầu lờ mờ nhận thấy ngoài bồi bút, tôi mang hai bộ mặt lệch nhau: om xòm ở tư cách kẻ lên án và câm nín với vai tội phạm bị đàn áp man rợ của chính bản thân.

Mà không phải chỉ có ông, một nhà báo không có vai vế trong đảng. Một vị đại công thần là Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng sợ hãi những cố vấn Trung quốc, vị Đại tướng phải nhắn nhủ các người thân tín của mình là phải dè chừng sự sưu tra lý lịch của những viên cố vấn ấy. Guồng máy cộng sản nội địa và cộng sản quốc tế luôn đè nặng một nỗi sợ lên những thành viên của họ.

Một loại xã hội mới được mà đảng cộng sản xây dựng nên được Trần Đĩnh mô tả: Đảng tạo ra hẳn một xã hội mới toanh cho loài người bất cần loài người có bằng lòng hay không. Đọc đoạn này độc giả dễ dàng liên tưởng đến tác phẩm gây chấn động ý thức hệ cộng sản vào những năm 50 của thế kỷ trước của Milovan Djilas mang tên Giai cấp mới, trong đó nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam tư mô tả một giai cấp mới là gia cấp cộng sản lên ngôi nắm mọi quyền lực và quyền lợi. Nay Trần Đĩnh viết rằng trong sự bất cần loài người có đồng ý hay không ấy thì luật pháp chẳng có ý nghĩa gì cả.

Những nhân vật có thật trong Đèn Cù, từ những văn nghệ sĩ, trí giả như Đặng Thai Mai, Chế Lan Viên, đến những nhân vật chính trị đều hành xử trong một tình đảng và không pháp luật ấy. Mà ngay chính bản thân tác giả, ông cũng cho rằng có những lúc ông đã hành xử rất “cộng sản,” đó là khi ông đến gặp ông Trường Chinh, và được ông này khoe đứa cháu còn ẵm ngữa:

Bây giờ, ở trang giấy này, tôi thành thật xin lỗi người ông và người cháu đích tôn. Tôi đã phản ứng sặc mùi cộng sản: oán hận dai bền. Hôm ấy Trường Chinh có tình người hơn tôi. Nay tôi thật lòng xấu hổ. Nhất là khi đọc Cioran: “Hận thù có thể khiến con người dũng cảm nhưng chỉ bao dung mới làm cho con người có đạo đức.”

Mang những hận thù, oán hận ấy để đi giải phóng loài người như mục tiêu cao cả mà những nhà tư tưởng cộng sản đầu tiên đề ra thì quả là khó, Trần Đĩnh viết tiếp

Giải phóng con người là một thứ ngoa ngôn sặc mùi tâm thần. Giải phóng cho bản thân bình đẳng với dân còn làm không nổi, nói gì giải phóng loài người?

Và những mục đích cao đẹp đó chỉ đem vào cho chủ nghĩa cộng sản một đặc tính mà Trần Đĩnh dùng một danh từ của đầu thế kỷ 21 để miêu tả, đó là một loại thuốc lắc, ý thức hệ gây lắc, như những cơn điên lọan ở vũ trường.

Giải phóng con người là một thứ ngoa ngôn sặc mùi tâm thần. Giải phóng cho bản thân bình đẳng với dân còn làm không nổi, nói gì giải phóng loài người?

Trong cơn lắc say sưa đó, chế độ cộng sản trở nên, như Trần Đĩnh mô tả, là một chế độ hỗn hào, nó cho mình là đứng lên hết thảy mọi thứ. Điều này giải thích cho sự ngạc nhiên cách đây gần 40 năm khi những người dân miền Nam lần đầu tiên tiếp xúc với ngôn ngữ tuyên truyền từ những người cộng sản, khi họ gọi tất cả những nhân vật, những quốc gia không thuộc về phe của họ bằng những từ miệt thị, từ những viên tướng Mỹ, Pháp cho đến những nhà lãnh đạo chế độ Việt nam cộng hòa vừa sụp đổ.

Giữ mình và thoát cộng

Trong khung cảnh mờ mịch đầy kích động do đảng tạo ra ấy, vẫn còn có những con người bám víu được những mảnh lý lẽ, lương tri cuối cùng của mình.

Nguyễn Trung Thành, nhân vật đã giúp Lê Đức Thọ dựng nên vụ án xét lại chống đảng đã cố gắng đòi hỏi minh oan cho những nạn nhân. Vù là sự minh oan đó vẫn còn nằm dưới…công lý của Đảng.

Bản thân Trần Đĩnh cũng giải thích ông đã phải giữ mình như thế nào

Tôi đã giữ được y tứ với bản thân trước hết. May sao cái chất thú hoang nó đã giúp tôi giữ lấy nhân cách cho mình, cái nhân cách hết sức mong manh trong vòng vây của chủ nghĩa tập thể, cái chủ nghĩa nó không biết đến nhân cách. Cái gì dính đến nhân – con người – là nó ghét lắm.

Có lúc ông vẫn hy vọng là cứu giúp đảng cộng sản, mà ông đã tham gia vào thuở thanh niên hăng hái tưởng rằng đó là một lý tưởng sống. Cho đến sau khi cuộc chiến mà ông không ngần ngại gọi là cuộc nội chiến kết thúc. Khi bị khai trừ ra khỏi đảng cộng sản, ông trích lời bố ông rằng đó là một sự kiện vĩ đại của cuộc đời ông.

Cuốn sách được Trần Đĩnh hoàn thành vào năm 2014 của thế kỷ 21. Nhìn lại tư tưởng ủng hộ Liên Xô của ông và các đồng chí vào những năm chiến tranh lạnh, đối đầu với chủ nghĩa Mao, ông viết:

Có lẽ trong những người phản đối cộng sản, có một số rất ghét xét lại chúng tôi vì là “tay sai Liên Xô.” Họ nghe Ðảng nên không hiểu là do kiên trì phản đối nội chiến, chúng tôi đã bị khép tội chống Ðảng, phản động trong bóng tối bí mật bao la của Ðảng.

Lúc đó với chúng tôi, đào đâu ra Human Right Watch, ra Internet, ra Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết đòi Việt Nam tôn trọng nhân quyền, đào đâu ra các thứ blogs ngày ngày đòi thả chúng tôi v. v.?.

Điều này không khác những người cộng sản Đông Âu trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ cũng từng hy vọng rằng họ có thể làm cho chủ nghĩa cộng sản trở nên có một khuôn mặt mang tính người hơn.

Và trước khi hoàn tất quyển sách này, Trần Đĩnh vẫn còn đề đạt những gì ông cho là nên làm với chính quyền hiện tại, vẫn còn mang tên cộng sản, nhưng đã tiến hành một cuộc hôn nhân nhiều gai góc với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Vì sao Mỹ cần kế hoạch dỡ bỏ cấm bán vũ khí sát thương cho VN?

Vũ Hoàng – Phóng viên RFA

Tướng Mỹ Martin E. Dempsey sang thăm Việt Nam và họp với tướng Đỗ Bá Tỵ tại Bộ Quốc phòng Hà Nội hôm 14/8/2014.Hôm 7/8/2014, Trung tâm nghiên cứu quốc tế và chiến lược Hoa Kỳ (CSIS) tại Thủ đô Washington có phổ biến bài viết về việc Hoa Kỳ cần lên kế hoạch dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN. Vũ Hoàng phỏng vấn đồng tác giả Murray Hiebert, nghiên cứu chính trị Đông Nam Á của CSIS. Trước tiên, ông Hibert cho biết những điểm chính trong bài viết của mình:

Kế hoạch này bắt nguồn từ nhiều thứ nhưng cụ thể là sau chuyến thăm của chủ tịch nước VN Trương Tấn Sang hồi tháng 7 năm ngoái khi 2 nước quyết định thiết lập mối quan hệ đối tác toàn diện. Điều này có nghĩa rằng 2 quốc gia nhất trí cải thiện quan hệ trên tất cả mọi cấp độ kể cả những quyết định thảo luận các vấn đề khó khăn. Tôi cho rằng, cuối cùng khi 2 quốc gia muốn hoàn toàn bình thường hóa các mối quan hệ thì việc dỡ bỏ một số lệnh cấm trong những lĩnh vực như an ninh hàng hải, radar hay những lĩnh vực tương tự, có thể sẽ có lợi cho Việt Nam và cũng giúp Hoa Kỳ trước những quan ngại về sự lấn lướt của Trung Quốc ngày càng tăng trên Biển Đông.

Vũ Hoàng: Với việc ông Ted Osius vừa được đề cử trở thành tân đại sứ Hoa Kỳ đến Việt Nam, ông nghĩ rằng ông Osius sẽ trở thành một nhân tố thúc đẩy cho tiến trình dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương từ Mỹ?

Ông Hiebert: Khi ông Ted Osius được đề cử 2 tháng trước đây, tôi nghĩ rằng vấn đề này đã được nêu lên có lẽ là từ thượng nghị sĩ John McCain. Họ đã thảo luận và dường như là thượng sĩ McCain đã ủng hộ ý kiến đó. Và rồi tuần trước, phía Hoa Kỳ đã cử phái đoàn quốc hội tới Việt Nam trong đó có thương nghị sĩ McCain. Như tôi được biết, đã có những trao đổi cho thấy phía đại biểu quốc hội Hoa Kỳ quan tâm, đồng thời, phía chính quyền Hà Nội cũng tỏ ý muốn phía Mỹ bắt đầu giảm bớt những cấm vận về việc bán thiết bị quân sự cho họ.

Tôi cho rằng, nếu mục tiêu của chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ là cải thiện các mối quan hệ của mình, thì đây là thời điểm lý tưởng để thực hiện các bước tiến đó.

» Ông Hiebert

Vũ Hoàng: Ông đánh giá thế nào về bối cảnh hiện nay giữa 2 quốc gia khi gần đây Việt Nam và Hoa Kỳ đạt được thỏa thuận hạt nhân dân sự gọi tắt là Hiệp định 123 và có thể trong tương lai là bán vũ khí sát thương?

Ông Hiebert: Theo tôi thì có 2 bước trong tiến trình cải thiện các mối quan hệ. Dĩ nhiên là còn rất nhiều những vấn đề khác nữa. Về phía Hoa Kỳ, vấn đề lớn đối với chính quyền hiện tại là tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Như quý vị thấy là thông thường khi vấn đề cải thiện quan hệ với Việt Nam bao gồm việc Việt Nam nằm trong Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay các hiệp định thương mại gồm cả thiết bị quân sự thì vấn đề nhân quyền lại được nêu lên. Vấn đề nhân quyền này bao gồm việc bắt giữ các bloggers của Việt Nam cũng như các vấn đề khác liên quan đến dân chủ, các nhà vận động nhân quyền tại Việt Nam.

Do đó, tôi hoàn toàn nghĩ rằng đối với những vấn đề như quân sự, cấm bán thiết bị quân sự… sẽ được giải quyết bằng những đòi hỏi từ cả 2 phía, cần vạch ra cách thức giải quyết sự khác biệt về vấn đề nhân quyền. Tiến trình này cũng đòi hỏi phía Việt Nam cần dễ dãi hơn đối với những người nêu lên chính kiến của họ về vấn đề chính trị một cách bất bạo động.

Vũ Hoàng: Như ông có nhắc tới lúc đầu là Trung Quốc hung hăng trên Biển Đông, ông có nghĩ rằng đây là nhân tố khiến Hoa Kỳ có thể đẩy nhanh việc dỡ bỏ bán vũ khí sát thương cho Việt Nam để đối lại những sự việc trên?

Ông Hiebert: Điều này đúng là mang lại động lực để giải quyết vấn đề. Cả hai quốc gia đều lo ngại đến sự lấn lướt gần đây của Trung Quốc. Do đó, tôi có thể khẳng định rằng mặc dù cả phía Mỹ lẫn Việt Nam đều nói họ cải thiện quan hệ chỉ trên phương diện song phương nhưng thực chất Trung Quốc cũng là một nhân tố trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ.

Tiến trình này cũng đòi hỏi phía Việt Nam cần dễ dãi hơn đối với những người nêu lên chính kiến của họ về vấn đề chính trị một cách bất bạo động.

» Ông Hiebert

Tôi cho rằng, nếu mục tiêu của chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ là cải thiện các mối quan hệ của mình, thì đây là thời điểm lý tưởng để thực hiện các bước tiến đó. Tôi nghĩ rằng về phía Việt Nam điều này có thể khá khó khăn vì giữa năm tới, Đảng Cộng Sản sẽ bắt đầu cho kỳ đại hội Đảng diễn ra vào đầu năm 2016 trong khi đó, phía Hoa Kỳ cũng có các cuộc bầu cử quốc hội và Tổng thống diễn ra vào năm 2016. Vì lẽ đó, cả 2 phía nên đẩy nhanh tiến trình này càng sớm càng tốt vì khi mùa chính trị diễn ra thì những vấn đề cải thiện quan hệ sẽ không còn được chú trọng.

Vũ Hoàng: Như chúng ta biết là Hoa Kỳ và Nhật Bản là các quốc gia đồng minh, nếu trong trường hợp trở ngại về bán vũ khí sang Việt Nam, ông nghĩ có khả năng nào Hoa Kỳ sẽ thông qua liên minh quân sự là Nhật Bản để họ trở thành bên thứ ba bán vũ khí cho Việt Nam?

Ông Hiebert: Đây là một câu hỏi khá khó. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy Nhật Bản đang trợ giúp cho Việt Nam tàu chiến, một số tàu tuần duyên… Dĩ nhiên, Nhật Bản có thể hỗ trợ Việt Nam. Tuy nhiên, việc bán vũ khí cho Việt Nam thì lại có thể gặp phải những khó khăn bởi một số điều khoản trong hiến pháp của Nhật Bản không cho phép thực hiện điều này.

Tôi không biết liệu cách thức gián tiếp này có thực thi được hay không. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ không thể bán vũ khí trực tiếp sang Nhật Bản, rồi Nhật Bản lại tiếp tục bán vũ khí đó sang Việt Nam… điều này chắc chắn sẽ vấp phải những lệnh cấm bán vũ khí tương tự. Vì vậy, để việc bán vũ khí có thể thực hiện được đòi hỏi phải dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương. Tôi tin là Quốc hội Hoa Kỳ sẽ chẳng lấy gì làm vui vẻ khi sự việc lại phải thông qua một nước thứ 3 như vậy cả.

Vũ Hoàng: Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi thực hiện chương trình này.

James Zumwalt – Vụ thảm sát ‘thế giới chưa từng biết đến’

James Zumwalt
Nguyễn Văn Phước chuyển ngữ

Đây là một trong những tội ác trắng trợn nhất thời hiện đại.

Chẳng có gì ngạc nhiên khi thủ phạm đã không nói gì về nó, nhưng đáng ngạc nhiên là cả nạn nhân cũng im lặng. Người ta đã chọn cách làm như vậy, có lẽ là để sau này thiếu bằng chứng cho thế giới thấy, nó đã xảy ra.

Tháng 6 năm 2012, một đoạn video về vụ thảm sát đã được công bố. Thông thường, quốc gia phạm phải hành động tàn bạo như vậy sẽ giữ im lặng về nó. Tuy nhiên, video này đã được chính thủ phạm công bố, điều này làm dấy lên câu hỏi: “Tại sao?”

Vụ việc xảy ra vào tháng 3 năm 1988, giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Nó xảy ra ở vùng biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông – ND), nơi có tranh chấp giữa hai quốc gia về chủ quyền quần đảo Trường Sa, tranh chấp sau đó tiếp tục và hiện vẫn còn tồn tại.

Như kết quả sự im lặng của Việt Nam thời điểm đó, người dân Việt Nam không có cách nào để biết về vụ việc đã xảy ra cho đến khi Trung Quốc công bố đoạn video – sự giận dữ đã nổi lên vì vụ thảm sát và vì sự im lặng của chính phủ.

Quần đảo Trường Sa là một quần đảo gồm khoảng 750 đảo, đảo nhỏ, rạn san hô và đảo san hô.

Vụ việc liên quan đến ba rạn/đảo san hô rất gần nhau. Mỗi đảo san hô thấp đến mức nước biển đôi khi nhấn chìm một phần củachúng.

Dự đoán là phía Trung Quốc sẽ cố gắng chiếm các rạn san hô, hai tàu vận tải của Việt Nam, HQ-604 và HQ-605, chở 73 binh sĩ, đã được lệnh cho công binh đổ bộ để khởi công xây công sự.

Các quân nhân Việt Nam đã đổ bộ lên rạn san hô Gạc Ma, bản đồ phương Tây gọi là Johnson South Reef, vào tối ngày 13 tháng 3 năm 1988.

Hai tàu vận tải của Việt Nam được mô tả chỉ là có thể chống lại những đe dọa quân sự nhỏ. Chúng là những tàu thương mại được vũ trang để vận chuyển binh lính và vật liệu xây dựng, và như vậy, chúng là những tàu quân sự được trang bị rất nhẹ. Những tàu này phải tiếp cận mục tiêu trong phạm vi 500 m thì những khẩu súng của nó mới có hiệu lực.

Vụ việc đã diễn ra ở Gạc Ma.

Với lực lượng Việt Nam đã để lại đó, hai tàu vận tải đi về phía hai đảo san hô khác.

Sáng 14 tháng 3 năm 1988, tàu chiến Trung Quốc tiếp cận các rạn san hô. Họ không chỉ có lực lượng đổ bộ trên các tàu vận tải, họ còn có tàu khu trục đi kèm với hỏa lực mạnh để hỗ trợ lực lượng đổ bộ.

Rõ ràng, nếu cuộc đối đầu giữa các lực lượng hải quân Trung Quốc và Việt Nam xảy ra, lợi thế sẽ thuộc về phía Trung Quốc vì tầm bắn lớn hơn nhiều của các khẩu pháo.

Cờ Việt Nam đã được dựng lên trên đảo san hô Gạc Ma, và cùng lúc đó, trên một đảo san hô khác, Cô Lin.

Tại Gạc Ma, những người lính công binh, đội quân được trang bị nhẹ – có thể so sánh với một Seabee – một đơn vị thuộc Tiểu đoàn Xây dựng của Hải quân Hoa Kỳ – nằm dưới sự chỉ huy của phó chỉ huy trưởng, trung úy Trần Văn Phương. Mặc cho sự hiện diện của đội tàu Trung Quốc rình rập gần đó, những ngườilính Việt Nam vẫn tập trung vào các công trình xây dựng của mình.

Khoảng 6 giờ sáng, một số xuồng tấn công chở thủy quân lục chiến có vũ khí, đã xuất phát từ vận tải Trung Quốc và hướng đến Gạc Ma.

Phía Việt Nam ngay lập tức hình thành một vành đai phòng thủ 360 độ với cờ của họ ở trung tâm – họ tạo nên hình thể một”vòng tròn bất tử” – biểu thị quyết tâm bảo vệ rạn san hô bằng mọi giá.

Với số ít binh lính trên đảo san hô, những người lính công binhViệt Nam đã được lệnh cản trở để giữ vững đường vành đai. Các tàu tấn công đã đổ bộ, và trong trận chiến chủ yếu là cận chiến do phạm vi hạn hẹp, người Trung Quốc đã thất bại khi cố gắng xâm nhập vào vành đai.

Khi Trung úy Phương chụp lấy lá cờ Việt Nam, giành giật nó với kẻ thù, ông đã bị bắn vào đầu. Ngay lập tức lá cờ được giương lên bởi Nguyễn Văn Lanh – người ghì giữ nó cho đến khi ông liên tiếp bị đâm và bắn. Thật kỳ diệu, Lanh sống sót, và khi phía Trung Quốc rút lui, Lanh đã chứng kiến ông và những người sống sót khác phải chịu một cuộc oanh tạc dữ dội và hủy diệt bằng súng máy từ tàu Trung Quốc.

Cùng lúc đó, một cuộc oanh tạc khác nhắm vào tàu vận tải HQ-604 của Việt Nam – con tàu như dự kiến, đã cho thấy nó không có khả năng tấn công đáp trả tàu Trung Quốc nằm ngoài tầm bắn của mình. Bị nước xâm nhập, HQ-604 được khôn khéo làm mắc cạn trên Gạc Ma nhưng phát bắn trực tiếp vào phòng động cơ khiến nó nhanh chóng chìm xuống khi nhiều người vẫn còn trên tàu.

Tiếp đến phía Trung Quốc tấn công HQ-605. Nó nhanh chóng bốc cháy, buộc chỉ huy của nó phải ra lệnh bỏ tàu.

Điều đáng lo ngại nhất về video này là những gì đã xảy ra sau đó. Tại thời điểm đó, những người lính Việt Nam còn sống sót trên các rạn san hô hoàn toàn không phải là mối đe dọa cho quân Trung Quốc. Tuy nhiên, đoạn video cho thấy súng của hải quân Trung Quốc đang tập trung vào Gạc Ma nơi những người sống sót phía Việt Nam không có một chỗ trú ẩn. Những tiếng súng liên thanh cào rạn san hô khi đối phương không có vũ khí tự vệ, nhẫn nhịn đứng chịu trận, chờ đợi cuộc tấn công dữ dội cuối cùng – số phận của họ đã được định đoạt khi từng người một, họ ngã xuống để bảo vệ đất nước. Đối với những kẻ tấn công Trung Quốc, thách thức với họ chỉ là câu cách ngôn “bắt cá trong chậu”.

Video còn để lại một hoài nghi. Người Việt Nam dễ bị tấn công. Người ta chỉ có thể cảm nhận sự bất lực, họ cảm thấy điều đó khi người Trung Quốc bắt đầu nổ súng tàn sát không thương tiếc. Chín người Việt Nam sống sót sau đó bị giam giữ trong ba năm.

Hiện nay, Trung Quốc đang chiếm bãi đá ngầm, trên đó họ đã có căn cứ và đang xây dựng một sân bay. Việt Nam đã mất 64 chiến sĩ dũng cảm ngày hôm đó. Trong số những người sống sót, Lanh bị thương nặng.

Nhưng tại sao Trung Quốc, sau 24 năm im lặng, lại công bố video?

Câu trả lời nằm ở Haiyang Shiyou 981 của Trung Quốc, một giàn khoan nửa nổi nửa chìm được triển khai vào ngày 2 tháng 5 năm 2012 tại Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa, nơi quyền sở hữu vẫn đang là tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam. Động thái này của Trung Quốc gây ra một số cuộc đối đầu trên biển.

Một tháng sau đó, Trung Quốc không hề nao núng đã phát hành video như là lời đe dọa ngấm ngầm rằng những gì đã xảy ra vào năm 1988 có thể xảy ra một lần nữa.

Rõ ràng Trung Quốc dự định sử dụng các mối đe dọa quân sự có thể – không bị thách thức bởi bất kỳ nước láng giềng nào trong khu vực, hơn là ngoại giao để “đàm phán” giải quyết vấn đề chủ quyền.

Trong khi hành động tàn bạo năm 1988 của Trung Quốc tại Gạc Ma là vụ thảm sát “thế giới chưa từng biết đến”, thì việc Bắc Kinh công bố một cách trắng trợn video ghi lại vụ việc cung cấp cơ hội nữa để chắc chắn rằng lần này nó lại như vậy.

—-

Tác giả: Ông Zumwalt là Trung tá Thủy quân Lục chiến về hưu, đã từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, cuộc đổ bộ vào kênh đào Panama và cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất. Ông thường viết bài phê bình về những vấn đề chính sách đối ngoại và quốc phòng cho nhiều tờ báo. Ông cũng là tác giả của 3 cuốn sách: “Bare Feet, Iron Will—Stories from the Other Side of Vietnam’s Battlefields,” “Living the Juche Lie: North Korea’s Kim Dynasty” and “Doomsday: Iran—The Clock is Ticking”.

Nguồn: US Daily Review

70% nợ cho vay “biến mất”: Các ngân hàng sẽ “thăng hoa”?

Viết Lê Quân

201018ASP501Ảnh minh họa.

Tiếng thở dài não nuột

(VNTB) Trong một lần hiếm hoi không nén được tiếng thở dài, vào trung tuần tháng 8/2014, Ủy ban nhân dân TP.HCM phải công bố báo cáo về tình trạng nợ xấu trên địa bàn thành phố lớn thứ hai quốc gia này. Với hơn 46.000 tỷ đồng được quy cho nợ xấu, TP.HCM chiếm hết phân nửa nợ xấu toàn quốc. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa đặc trưng bằng một tỷ lệ khác:

Nợ có khả năng mất vốn thuộc nhóm 5 chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nợ xấu: 70%.

70% cũng chính là tỷ lệ nợ vay bất động sản nằm trong tổng dư nợ thuộc khối ngân hàng thương mại. Vào những năm trước, tỷ lệ này hầu như không được công bố, hoặc nói cách khác là đã bị Ngân hàng nhà nước cùng các ngân hàng thương mại cổ phần ém nhẹm. Tuy nhiên từ năm 2013, trước tình hình thị trường bất động sản suy sụp không thể cưỡng lại cùng đà tăng tiến như vũ bão của nợ xấu, đến lượt các ngân hàng phải “kêu thét” lên. Những con số nợ xấu của từng ngân hàng cũng từ đó mà tuôn dần ra.

Nhưng 70% vẫn chưa phải là tất cả. Một số trả lời phỏng vấn báo chí của giới lãnh đạo ngân hàng thương mại đã vô tình tiết lộ tỷ lệ thực tồn về nợ xấu bất động sản có thể lên đến 75-80%, nghĩa là các ngân hàng hiện đang “ôm” số tài sản bất động sản chưa thể tiêu thụ được cao một cách kỷ lục trong chu kỳ “tăng trưởng kinh tế” bắt đầu từ năm suy thoái đầu tiên vào 2008.

Một đối chiếu khác còn có thể bật lên ẩn ý về thực chất giá trị nợ xấu. Nếu số báo cáo về nợ xấu ở TP.HCM chỉ có hơn 46.000 tỷ đồng, còn số báo cáo của Ngân hàng nhà nước về nợ xấu ở Việt Nam chỉ khoảng 100.000 tỷ đồng, thì con số thực tế đang vượt lên trên ngưỡng 500.000 tỷ đồng. Con số này đã được một số chuyên gia phản biện độc lập xác nhận từ các cuộc hội thoại Diễn đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 4/2013, Diễn đàn kinh tế mùa thu vào tháng 11/2013 và được nhắc lại vào Diễn đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 5/2014. Tính toán của vài chuyên gia kinh tế cho thấy số nợ xấu thực tế lên đến 540.000 tỷ đồng, tức gấp hơn 5 lần con số báo cáo của Ngân hàng nhà nước.

Cần nhắc lại là trước cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Thái Lan vào năm 1997, tỷ lệ nợ xấu bất động sản tại quốc gia này đã chỉ được báo cáo có 5%. Nhưng sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra, tỷ lệ này được phơi bày ra ánh sáng đến 50%!

Ngân hàng nào sẽ “thăng hoa”?

Những vết nhám đã nhanh chóng trở thành vết thâm đen trên khuôn mặt đen bạc của Ngân hàng nhà nước, cùng những con số nhớp nhúa của nó.

Bất chấp các hãng tư vấn bất động sản quốc tế có mặt tại Việt Nam như CBRE, Savills đã từ hai năm qua cố thuyết dụ dư luận rằng “thị trường bất động sản đang có dấu hiệu hồi phục”, và cứ mỗi quý các hãng này lại tung ra một bản báo cáo đầy khả quan, tỷ trọng căn hộ cao cấp và cả trung cấp nằm phơi sương nắng với không thay đổi. Chỉ duy nhất phân khúc căn hộ bình dân là có “nhúc nhắc” bán được cho lớp khách hàng không có quá nhiều tiền.

Mọi sự đã vận hành theo một lối quanh “đầu tư ồ ạt cho tới lúc sụp đổ”. Thị trường bất động sản không hề khả quan, trong khi các ngân hàng chủ nợ đang phải “ôm bom” mà chưa biết giờ phút nào mới cáo chung. Nếu vào năm 2012, Vietinbank và ACB là những ngân hàng đầu tiên phải thừa nhận hiện trạng nợ xấu bất động sản tràn ngập, thì giờ này đa số ngân hàng đều phải lên tiếng, công khai hoặc thầm lén.

Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước đã có dấu hiệu “buông” câu chuyện giải quyết nợ xấu. Ngay vào đầu năm nay, một chương đặc biệt trong Luật Phá sản sửa đổi đã chính thức cho phép giải thể các tổ chức tín dụng không còn khả năng hoạt động.

“Nợ khó có khả năng thu hồi vốn” thuộc nhóm 5 lại thực chất là số vốn mà ngân hàng cho vay rất có thể mất hoặc cực kỳ khó thu hồi. Nếu tình trạng này xảy ra, sẽ có ít nhất 350.000 tỷ đồng của ngân hàng không cánh mà bay.

Agribank hiện thời cũng đang trở thành tiêu điểm ghê gớm nhất về tình trạng nợ xấu và đặc biệt là nợ xấu bất động sản. Con số cho vay của ngân hàng này đã vượt đến 10.000 tỷ đồng so với vốn điều lệ của nó. Nếu không được “truyền máu” kịp thời, gần như chắc chắn Agribank sẽ đổ bể. Và với tư cách liên đới với rất nhiều ngân hàng khác, Agribank hoàn toàn có thể khởi động cho một cuộc “cách mạng” theo dạng domino nơi chốn thâm cung bí sử của khối ngân hàng thương mại.

Tuy thế, lấy máu ở đâu để truyền lại là một nan giải quá sức đối với Ngân hàng nhà nước và cả với Chính phủ. Sau 2 năm hoạt động, Công ty quản lý tài sản quốc gia (VAMC) cũng chỉ mới mua lại được 10% nợ xấu của các ngân hàng. Nhưng bản thân VAMC vẫn chưa biết bán lại nợ xấu cho ai, bất chấp luồng PR về việc “ngân hàng nước ngoài xếp hàng mua nợ xấu của VAMC”.

Nhưng liệu Chính phủ có cho in tiền, và còn in tiền ồ ạt, để cứu nợ xấu và ngân hàng hay không? Câu hỏi này hãy dành cho Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và giới lãnh đạo đảng vẫn thường xuyên chỉ trích sai phạm của phía chính quyền.